CHƯƠNG TRÌNH HỖ TRỢ KỸ THUẬT HẬU GIA NHẬP WTO
DỰ ÁN
TÌNH HÌNH DI CHUYỂN LAO ĐỘNG TỪ NÔNG THÔN RA THÀNH THỊ VÀ CÁC
KHU CÔNG NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH VIỆT NAM GIA NHẬP WTO
BÁO CÁO
THỰC TRẠNG VIỆC LÀM, ĐỜI SỐNG CỦA LAO ĐỘNG DI CƯ TỪ
NÔNG THÔN RA THÀNH THỊ VÀ KHU CÔNG NGHIỆP
CƠ QUAN THỰC HIỆN
CỤC VIỆC LÀM – BỘ LAO ĐỘNG – THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI
HÀ NỘI, 2013
LỜI CẢM ƠN
Được sự tài trợ của Chương trình Hỗ trợ kỹ thuật hậu gia nhập WTO và Văn phòng Ban
chỉ đạo Chương trình Hỗ trợ kỹ thuật hậu gia nhập WTO, Cục Việc làm- Bộ Lao động-
Thương binh và Xã hội thực hiện Dự án “Tình hình di chuyển lao động từ nông thôn ra
thành thị và các khu công nghiệp trong bối cảnh Việt Nam gia nhập WTO” (Dự án), với
mục tiêu dài hạn là góp phần cải thiện đời sống của người lao động di cư từ nông thôn ra
thành thị và khu công nghiệp tại Việt Nam. Đề xuất nội dung chính sách hỗ trợ lao động
di chuyển trong Luật Việc làm thông qua việc ban hành các chính sách, cơ chế hỗ trợ,
quản lý nhóm đối tượng lao động nêu trên; mục tiêu ngắn hạn là góp phần vào quá trình
xây dựng, hoàn thiện khung pháp lý và đề xuất các giải pháp về hỗ trợ, quản lý lao động
di cư từ nông thôn ra thành thị và khu công nghiệp tại Việt Nam.
Dự án được thực hiện trong thời hạn 18 tháng, khảo sát thực địa tại 15 tỉnh, thành phố
gồm: Thái Nguyên, Phú Thọ, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng,
Nghệ An, Đà Nẵng, Quảng Nam, Đắk Lắk, Lâm Đồng, Bình Dương, TP. Hồ Chí Minh và
Cần Thơ với tổng số 7.800 đơn vị mẫu định lượng và phỏng vấn sâu 181 người. Bên cạnh
đó, ngoài việc nghiên cứu tài liệu nhằm tổng quan toàn bộ các chính sách và kết quả
nghiên cứu liên quan, Dự án cũng đã tổ chức hai đoàn khảo sát, nghiên cứu kinh nghiệm
về chính sách hỗ trợ và quản lý nhóm đối tượng này tại Indonesia và Ấn Độ.
Bản báo cáo được xây dựng trên cơ sở kết quả nghiên cứu của Trung tâm Phát triển Xã
hội và Môi trường Vùng (nay là Viện Nghiên cứu và Tư vấn Phát triển – RCD) và kết quả
khảo sát kinh nghiệm quản lý, hỗ trợ lao động di cư và kinh nghiệm hỗ trợ việc làm và đời
sống đối với nhóm nông dân bị thu hồi đất của Cục Việc làm tại Ấn Độ và Indonesia.
Để có được báo cáo này, trước hết chúng tôi xin gửi lời cảm ơn trân trọng nhất đến
Chương trình Hỗ trợ kỹ thuật hậu gia nhập WTO và Văn phòng Ban chỉ đạo Chương trình
đã trợ giúp đắc lực cả về ngân sách và kỹ thuật trong suốt quá trình chúng tôi thực hiện
Dự án; Chúng tôi cũng chân thành cảm ơn Viện Nghiên cứu và Tư vấn Phát triển – RCD
đã phối hợp chặt chẽ trong quá trình thực hiện Dự án; Xin cảm ơn các cấp chính quyền,
các cơ quan thuộc ngành lao động – thương binh và xã hội, các doanh nghiệp và người lao
động ở 15 tỉnh, thành phố thuộc địa bàn của Dự án đã hỗ trợ để chúng tôi thực hiện dự án.
Cám ơn các chuyên gia trong và ngoài nước đã có những ý kiến đóng góp xác đáng cho
kết quả nghiên cứu. Trong đó có những ý kiến chân thành, thẳng thắn hết sức có giá trị mà
chúng tôi nhận được từ TS Jonathan Pincus, GS Kristen Nordhaug, GS.TSKH Đặng Hùng
Võ, PGS.TS Đặng Nguyên Anh, PGS.TS Ngô Văn Thứ, TS Nguyễn Thanh Liêm.
Chúng tôi xin gửi lời cảm ơn đến tập thể các tác giả của bản báo cáo gồm: ông Lê Quang
Trung, ông Phạm Bích San, ông Đặng Đình Long, ông Nguyễn Văn Thục, ông Phạm Văn
Hanh, ông Đỗ Tuấn Sơn, ông Trần Tuấn Tú, ông Vũ Phạm Dũng Hà, ông Phùng Quốc
Vương, ông Lê Văn Dụy, bà Bùi Thu Anh, bà Nguyễn Việt Nga, bà Lê Phương Hòa, bà
ii
Nguyễn Thị Thanh Huyền, bà Phạm Thị Thanh Huyền, ông Nguyễn Thanh Bình, bà
Nguyễn Thị Hiền, ông Phạm Hồng Trung, bà Đỗ Thị Vân Anh, ông Phí Hải Nam, ông
Nguyễn Văn Thắng, ông Phạm Hải Bình, bà Nguyễn Thị Ái, ông Đào Duy Nam, bà Trần
Thị Thanh Bình, bà Lương Thu Hà và bà Phạm Thị Thùy Linh.
Trong quá trình thực hiện xây dựng bản báo cáo, những khiếm khuyết chắc chắn là điều
không thể tránh khỏi, chúng tôi rất mong muốn tiếp tục nhận được ý kiến đóng góp từ các
tổ chức và cá nhân quan tâm.
Trân trọng cảm ơn!
Cục trưởng Cục Việc làm
Trưởng Ban Quản lý Dự án
Nguyễn Đại Đồng
iii
MỤC LỤC
PHẦN THỨ NHẤT: THỰC TRẠNG VIỆC LÀM, ĐỜI SỐNG CỦA LAO ĐỘNG DI
CƯ TỪ NÔNG THÔN RA THÀNH THỊ VÀ KHU CÔNG NGHIỆP 1
NHỮNG KẾT QUẢ CHÍNH 2
I. BỐI CẢNH NGHIÊN CỨU 13
II. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 14
1. Thực trạng và xu hướng di cư – thách thức và hành động 15
2. Tác động của di cư – những khía cạnh đa chiều 16
3. Các khía cạnh khác nhau của vấn đề di cư - từ nhu cầu cá nhân tới vấn đề chính sách 18
III. TỔNG QUAN CHÍNH SÁCH 22
1. Di cư lao động từ nông thôn ra thành thị và các khu công nghiệp trở thành xu hướng chủ
đạo 22
2. Xu hướng di cư mới đặt ra những đòi hỏi về sự cần thiết phải thay đổi chính sách 23
3. Từ sự phân tán, thiếu hụt đến định hình khung chính sách cơ bản về lao động di cư 23
4. Sự thay đổi trong quan điểm của Nhà nước về di cư 27
5. Chính sách về di cư lao động – cơ chế thực thi chưa rõ 27
6. Chính sách về di cư lao động – những vấn đề còn tồn tại 28
IV. ĐẶC ĐIỂM CỦA LAO ĐỘNG DI CƯ RA THÀNH THỊ VÀ KHU CÔNG
NGHIỆP 29
1. Đặc điểm nhân khẩu học của lao động di cư từ nông thôn ra thành thị và các khu công
nghiệp 29
2. Những nét chính của hoạt động di cư từ nông thôn ra thành thị và các khu công nghiệp
34
2.1. Lý do dẫn đến di cư 34
2.2. Những khó khăn mà lao động di cư ra thành thị và các khu công nghiệp phải đối mặt
35
2.3. Lựa chọn hình thức cư trú 40
2.4. Dự định về công việc và cuộc sống 42
V. VẤN ĐỀ VIỆC LÀM CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG DI CƯ RA THÀNH THỊ VÀ CÁC
KHU CÔNG NGHIỆP 43
1. Tình trạng việc làm của người lao động trước khi di cư 43
2. Quá trình chuyển đổi công việc 44
3. Đặc điểm công việc hiện tại 52
3.1. Số giờ làm việc trung bình mỗi tuần 52
3.2. Yêu cầu chuyên môn kỹ thuật của công việc 54
3.3. Tính chất công việc 55
3.4. Thu nhập và sử dụng thu nhập 56
3.5. Vấn đề hợp đồng lao động 60
3.6. Tham gia các loại bảo hiểm 61
3.7. Dự định của người lao động đối với công việc hiện tại 63
4. Việc làm thêm ngoài công việc chính 64
5. Khác biệt trong sử dụng lao động thường trú và lao động di cư 65
iv
VI. THỰC TRẠNG ĐỜI SỐNG CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG DI CƯ RA THÀNH THỊ
VÀ CÁC KHU CÔNG NGHIỆP 66
1. Điều kiện nhà ở và chi phí sinh hoạt 66
2. Chi tiêu và tích lũy 69
3. Vấn đề chăm sóc sức khỏe 71
4. Tiếp cận giáo dục của con em người lao động di cư 72
5. Tình hình an ninh trật tự tại địa phương 73
6. Vấn đề ô nhiễm môi trường 74
7. Thực trạng tham gia các hoạt động cộng đồng 74
VII. CHÍNH SÁCH VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG DI CƯ RA THÀNH THỊ VÀ CÁC KHU
CÔNG NGHIỆP – NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 76
1. Hỗ trợ từ chính quyền địa phương và sự kỳ vọng của lao động di cư 76
2. Chính sách đào tạo nghề và tạo việc làm 78
3. Chính sách về nhà ở 80
4. Các chính sách hỗ trợ ổn định cuộc sống 82
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 86
KẾT LUẬN 86
KHUYẾN NGHỊ 92
PHẦN THỨ HAI: KINH NGHIỆM CỦA QUỐC TẾ ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ LAO ĐỘNG
DI CHUYỂN TỪ NÔNG THÔN RA THÀNH THỊ VÀ KHU CÔNG NGHIỆP 98
1. KINH NGHIỆM CỦA INDONESIA 99
2. KINH NGHIỆM CỦA ẤN ĐỘ 101
TÀI LIỆU THAM KHẢO CỦA PHẦN THỨ NHẤT 106
v
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1. Lao động di cư ra thành thị và các khu công nghiệp chia theo nhóm tuổi (%) 29
Bảng 2. Cơ cấu nhóm tuổi của lao động di cư từ nông thôn ra thành thị và các khu công
nghiệp chia địa bàn khảo sát (%) 29
Bảng 3. Đặc điểm giới tính (%) 30
Bảng 4. Trình độ học vấn của lao động di cư từ nông thôn ra thành thị và các khu công
nghiệp (%) 30
Bảng 5. Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động di cư từ nông thôn ra thành thị và các
khu công nghiệp theo địa bàn khảo sát (%) 33
Bảng 6. Những khó khăn người lao động di cư ra thành thị và khu công nghiệp gặp (%) 36
Bảng 7. Những khó khăn người di cư gặp phải sau khi chuyển đến nơi cư trú hiện tại (%) 37
Bảng 8. Những khó khăn lao động di cư gặp phải chia theo địa bàn khảo sát (%) 39
Bảng 9. Cách thức khắc phục khó khăn trong quá trình di cư của người lao động (%) 40
Bảng 10. Những khó khăn lao động di cư gặp phải khi chưa/không đăng ký thường trú (%) 41
Bảng 11. Tình trạng việc làm trước khi di cư (%) 44
Bảng 12. Loại hình công việc ở lần di cư đầu so với hiện tại (%) 47
Bảng 13. Loại hình công việc hiện tại của lao động di cư chia theo địa bàn (%) 47
Bảng 14. Loại hình cơ quan/tổ chức đã làm việc của lao động di cư ở lần di cư đầu so với
hiện tại (%) 49
Bảng 15. Cơ cấu số giờ làm việc trung bình/tuần (%) 53
Bảng 16. Số giờ làm việc trung bình theo tuần của lao động di cư theo địa bàn (giờ/tuần) 53
Bảng 17. Cách thức sử dụng các khoản thu nhập theo giới (%) 59
Bảng 18. Thực trạng tham gia các loại bảo hiểm của lao động di cư từ nông thôn ra thành thị
và các khu công nghiệp (%) 62
Bảng 19. Ý định gắn bó với công việc hiện tại của người lao động (%) 63
Bảng 20. Đánh giá sự phân biệt giữa lao động thường trú và lao động di cư (%) 66
Bảng 21. Loại hình nhà ở của lao động di cư ra thành thị và các khu công nghiệp (%) 67
Bảng 22. Người ở cùng nhà của lao động di cư ra thành thị và các khu công nghiệp (%) 68
Bảng 23. Một số khoản chi của lao động di cư từ nông thôn ra thành thị và các khu công
nghiệp (nghìn đồng/tháng) 69
Bảng 24. Lựa chọn nơi khám, chữa bệnh (%) 71
Bảng 25. Lý do không đến các cơ sở khám chữa bệnh công lập (%) 72
Bảng 26. Tình trạng đi học của con em lao động di cư (%) 72
Bảng 27. Mong muốn được hỗ trợ từ chính quyền địa phương (%) 77
Bảng 28. Các hỗ trợ người lao động mong muốn khi tham gia học nghề (%) 78
vi
DANH MỤC HÌNH
Hình 1. Trình độ học vấn của nhóm lao động di cư ra thành thị so với nhóm lao động di cư tới
các khu công nghiệp (%) 31
Hình 2. Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động di cư (%) 32
Hình 3. So sánh trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động di cư ra thành thị với lao động di
cư tại các khu công nghiệp (%) 32
Hình 4. Tình trạng hôn nhân của lao động di cư từ nông thôn ra thành thị và các khu công
nghiệp (%) 33
Hình 5. Lý do di cư của lao động di cư ra thành thị và các khu công nghiệp (%) 34
Hình 6. Những khó khăn trong quá trình di cư ra thành thị so với với di cư tới các khu công
nghiệp (%) 39
Hình 7. Lý do lao động tại các khu công nghiệp không/chưa đăng ký thường trú (%) 41
Hình 8. Dự định sinh sống quận/huyện nơi người di cư đang làm việc (%) 42
Hình 9. Tiêu chí tìm việc làm của lao động tại thời điểm di cư lần đầu (%) 45
Hình 10. Loại hình cơ quan/tổ chức nơi làm việc hiện tại (%) 48
Hình 11. Người hỗ trợ tìm việc làm tại thời điểm di cư lần đầu và hiện tại (%) 49
Hình 12. So sánh công việc ở lần di cư đầu tiên với công việc ở quê trước đó (%) 51
Hình 13. Số giờ làm việc trung bình mỗi tuần của lao động di cư chung và nhóm lao động di
cư làm công việc tự do (giờ/tuần) 52
Hình 14. Việc học thêm kỹ năng, nghiệp vụ để làm quen với công việc hiện tại (%) 55
Hình 15. Nhóm lao động di cư có mức thu nhập bình quân dưới 1,5 triệu đồng/tháng chia theo
loại hình công việc (%) 57
Hình 16. Thu nhập bình quân theo tháng của lao động di cư từ nông thôn ra thành thị và các
khu công nghiệp chia theo địa phương (triệu đồng/người/tháng) 58
Hình 17. Những nguồn thu nhập thông thường hàng tháng người lao động di cư nhận
được (%) 58
Hình 18. Nguồn vay tiền của lao động di cư ra thành thị và khu công nghiệp (%) 60
Hình 19. Lý do lao động di cư không có hợp đồng lao động (%) 61
Hình 20. Lý do muốn/không muốn gắn bó với công việc hiện tại (%) 64
Hình 21. Việc làm thêm ngoài công việc chính (%) 65
Hình 22. Tình trạng sở hữu nhà của lao động di cư từ nông thôn ra thành thị và các khu công
nghiệp (%) 68
Hình 23. Cách thức ứng xử của người lao động khi bị đau ốm (%) 71
Hình 24. Những khó khăn lao động di cư gặp phải khi có con trong độ tuổi đi học (%) 73
Hình 25. Nguyên nhân người lao động di cư không tham gia sinh hoạt cộng đồng (%) 75
Hình 26. Các hỗ trợ tìm việc làm được người lao động mong muốn (%) 78
vii
PHẦN THỨ NHẤT: THỰC TRẠNG VIỆC LÀM, ĐỜI SỐNG CỦA LAO ĐỘNG DI CƯ
TỪ NÔNG THÔN RA THÀNH THỊ VÀ KHU CÔNG NGHIỆP
1
NHỮNG KẾT QUẢ CHÍNH
Sự thay đổi tất yếu trong xu hướng di cư
Di cư nói chung và di cư lao động nói riêng là xu hướng tất yếu của tiến trình phát triển kinh tế -
xã hội của mọi quốc gia. Tại Việt Nam, di cư cũng bắt đầu từ rất sớm và mang những sắc thái
riêng biệt ở mỗi giai đoạn phát triển. Cho đến trước những năm 1990, chủ yếu là di cư có tổ chức
đến các vùng kinh tế mới. Giai đoạn sau này, hình thức di cư có tổ chức của Nhà nước chuyển
dần sang di cư theo kế hoạch bố trí, sắp xếp lại dân cư. Trong toàn bộ tiến trình đó, di cư tự do
vẫn song hành nhưng quan điểm của Nhà nước trong các chính sách là hạn chế tiến tới chấm dứt.
Di cư giai đoạn này chủ yếu là di cư nông thôn – nông thôn, sinh kế tại thời điểm trước và sau di
cư không mấy khác biệt do gắn chặt với nông nghiệp. Người di cư thường mang theo cả gia
đình.
Trong khoảng hơn 20 năm sau Đổi Mới, Việt Nam đã có những thay đổi mạnh mẽ trong phát
triển kinh tế - xã hội, thu hút đầu tư nước ngoài. Quá trình đô thị hóa và sự phát triển nhanh
chóng của các khu công nghiệp, khu chế xuất một mặt giảm bớt một lượng đáng kể diện tích đất
đai sản xuất, mặt khác đồng thời tạo ra một lượng lớn việc làm phi nông nghiệp, thúc đẩy quá
trình chuyển dịch lao động từ khu vực nông nghiệp. Điều này đã tạo ra xu hướng di cư mới từ
nông thôn ra thành thị và các khu công nghiệp. Đây cũng là một xu hướng di cư tất yếu nhằm
đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động, góp phần đáng kể vào sự phát triển kinh tế - xã hội của
mỗi địa phương, mỗi vùng và quốc gia.
Đặc điểm của lao động di cư từ nông thôn ra thành thị và các khu công nghiệp
Việc xác định đối tượng lao động di cư và những đặc trưng của họ có ý nghĩa quan trọng hướng
tới các gợi ý về mặt chính sách. Lao động di cư ra thành thị và các khu công nghiệp phần lớn còn
rất trẻ, độ tuổi trung bình khoảng 25 tuổi. Thậm chí nhóm lao động di từ nông thôn tới các khu
công nghiệp còn có độ tuổi trung bình thấp hơn, chỉ khoảng 23 tuổi. Hơn ½ số lao động di cư
chưa lập gia đình, họ di cư một mình và do vậy, cũng thường không xác định lâu dài bởi phụ
thuộc vào công việc và thu nhập của họ sẽ nhận được tại nơi di cư đến. Đặc điểm này rất khác
biệt so với di cư nông thôn – nông thôn trước đây.
Lý do liên quan đến kinh tế giải thích cho hầu hết các quyết định di cư của người lao động.
Không có việc làm và việc làm thu nhập thấp ở khu vực nông thôn là những lý do chính thúc đẩy
lao động di cư từ nông thôn ra thành thị và các khu công nghiệp. Họ di cư để tìm kiếm cơ hội
thay đổi công việc với mức thu nhập cao hơn.
Xu hướng nữ hóa di cư hiện nay khá phổ biến, tỷ lệ lao động nữ di cư từ nông thôn ra thành thị
và các khu công nghiệp chiếm 55,9%. Đặc biệt ở nhóm lao động di cư tới các khu công nghiệp,
tỷ lệ lao động nữ chiếm tới 68,3%. Bài toán lao động nữ di cư đặt ra những thách thức cho việc
giải quyết các vấn đề bình đẳng giới, chăm sóc sức khỏe sinh sản, chống buôn bán phụ nữ và các
nguy cơ thường gặp khác đối với họ.
2
Thiếu việc làm, thất nghiệp và thu nhập thấp là tình trạng phổ biến của người lao động
trước khi di cư
Xuất phát điểm nghề nghiệp của nhóm lao động di cư ra thành thị và các khu công nghiệp là từ
khu vực nông thôn với hoạt động nông nghiệp là chủ đạo. Trong rất nhiều các nghiên cứu trước
đây chỉ ra rằng, lao động nông nghiệp thường thiếu việc làm hoặc việc làm không ổn định, thời
gian nông nhàn nhiều và công việc mang lại thu nhập thấp. Nói cách khác, tình trạng thiếu việc
làm và năng suất lao động thấp là những thách thức lớn đối với vấn đề việc làm ở khu vực nông
thôn hiện nay. Tại nhiều địa phương, đất sản xuất nông nghiệp cũng bị thu hẹp nhường chỗ cho
các khu đô thị, trung tâm thương mại, các khu công nghiệp, khu chế xuất, càng làm gia tăng
tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp. Có khoảng 50% lao động đang có việc vẫn quyết định di
cư, trong đó tỷ lệ lao động làm nông nghiệp chiếm tới 38,0%. Có thể nói, nguyên nhân di cư
không chỉ liên quan đến tình trạng thất nghiệp hoặc thiếu việc làm mà còn bởi tính chất thiếu ổn
định, thu nhập thấp của công việc ở khu vực nông thôn.
Quá trình chuyển đổi công việc của lao động di cư
Người lao động di cư nhằm cải thiện tình trạng việc làm hiện tại của họ. Điều này giải thích tại
sao những tiêu chí lựa chọn công việc của họ thường xoay quanh các vấn đề như thu nhập cao,
tính ổn định và công việc không đòi hỏi chuyên môn kỹ thuật. Thực tế cho thấy, thật khó để cho
người lao động có thể thỏa mãn các tiêu chí mâu thuẫn nhau như vậy. Không dễ gì tìm được một
công việc có thu nhập cao nếu họ không chấp nhận dành thời gian cho việc học và nâng cao kỹ
năng nghề hoặc phải chấp nhận bỏ sức lao động nhiều hơn so với người khác. Và ở thời điểm
hiện tại, phần lớn lao động di cư phải chấp nhận đánh đổi sức lao động bởi không có chuyên
môn kỹ thuật.
Những người lao động di cư không quá khó khăn để có được công việc tại nơi di cư. Nhiều
doanh nghiệp cho rằng, hiện nay và ngay cả trong một vài năm tới họ vẫn phải làm quen, chấp
nhận với việc tuyển dụng lao động phổ thông và tự đào tạo. Để giải quyết tình trạng này, một số
trường nghề và doanh nghiệp đã liên kết với nhau để đào tạo theo đơn đặt hàng, hoặc các trường
nghề gửi học viên tới làm việc tại các doanh nghiệp. Rõ ràng việc kết hợp như vậy giúp nâng cao
hiệu quả hoạt động của các bên và bản thân người lao động cũng được hưởng lợi nhiều từ hình
thức hợp tác đó. Có 59,7% người lao động di cư tìm được việc làm ngay trong lần di cư đầu tiên
mặc dù có 40,3% những người lao động di cư ra thành thị và khu công nghiệp gặp khó khăn
trong quá trình tìm việc. Nhóm còn lại phải mất trung bình 2,7 tháng để tìm được công việc đầu
tiên tại nơi di cư. Nhiều địa phương đã có những chính sách hỗ trợ tìm việc kịp thời và hiệu quả
như Bình Dương với chính sách liên kết lao động. Chính sách đã chủ động đáp ứng một cách tốt
nhất nhu cầu về lao động của các doanh nghiệp, giải quyết việc làm, sớm ổn định đời sống cho
người lao động.
So với lần di cư đầu tiên, sự thay đổi về loại hình công việc hiện tại là không nhiều, lao động di
cư ra thành thị và các khu công nghiệp vẫn chủ yếu làm công nhân hoặc lao động làm thuê tự do.
Điều này cho thấy, rõ ràng hạn chế về học vấn và chuyên môn là một trong những rào cản khiến
3
cho vị thế của lao động di cư chưa được cải thiện nhiều. Trong khoảng thời gian 5 năm, nhất là
sau thời điểm Việt Nam gia nhập WTO và ban hành nhiều cơ chế ưu đãi thu hút vốn đầu tư của
các doanh nghiệp nước ngoài. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đã thúc đẩy một phần sự thay
đổi trong cơ cấu việc làm của người lao động nói chung và lao động di cư ra thành thị và các khu
công nghiệp nói riêng. Lao động di cư làm việc trong các doanh nghiệp có vốn FDI tăng mạnh,
trong khi lao động cá nhân, hộ gia đình giảm. Tỷ lệ lao động di cư làm việc theo hình thức cá
nhân và/hoặc hộ gia đình giảm mạnh tới 5,6 điểm %, từ 21,9% xuống còn 16,3%. Ngược với xu
hướng đó, tỷ lệ lao động di cư làm việc tại các công ty/doanh nghiệp nước ngoài tăng mạnh tới
6,7 điểm % (từ 15,2% lên 21,9%). Đối với nhóm lao động di cư ra thành thị và khu công nghiệp
làm công/viên chức, nhân viên văn phòng cũng có sự cải thiện nhưng mức độ không đáng kể.
Nếu như tại thời điểm di cư lần đầu tiên, nhóm này chỉ chiếm 3,7% thì hiện nay cũng chỉ chiếm
4,9%. Phần lớn trong số họ thuộc nhóm di cư để đi học cao đẳng, đại học sau khi ra trường có
được cơ hội việc làm tốt và ở lại thành phố. Việc gia tăng tỷ lệ của nhóm lao động làm công/viên
chức, nhân viên văn phòng là một trong những thước đo hiệu quả của các chương trình giáo dục
đào tạo.
Phần lớn lao động di cư tự tìm kiếm việc làm hoặc thông qua các hỗ trợ từ bạn bè, người thân.
Cũng giống như cách thức mà phần lớn lao động di cư đã tự giải quyết những khó khăn của họ,
có tới 47,1% người lao động di cư “tự thân vận động” tìm kiếm việc làm ở lần di cư đầu tiên. Tỷ
lệ này ở lần di cư hiện tại đã tăng thêm 7,6 điểm % với 54,7% những người lao động di cư ra
thành thị và các khu công nghiệp được hỏi tự tìm kiếm việc làm cho mình. Mạng xã hội với
những quan hệ họ hàng, bạn bè, đồng hương có vai trò quan trọng trong quá trình di cư và tìm
kiếm công việc. Có 8,4% lao động di cư từ nông thôn ra thành thị và khu công nghiệp mất phí
tìm việc ở lần di cư đầu tiên, 6,3% mất phí tìm việc ở lần di cư hiện tại. Để có thể có được việc
làm trong các doanh nghiệp này đôi khi người lao động phải chấp nhận bỏ ra một khoản chi phí
nhất định khi xin việc. Đây là các khoản phí vô hình phải trả cho những người môi giới với cán
bộ phụ trách nhân sự trong các doanh nghiệp. Đa số lao động tại địa phương sở tại và một số lao
động di cư sẵn sàng chấp nhận bỏ ra khoản chi phí này để có được một công việc tốt hơn.
Đặc điểm công việc hiện tại của lao động di cư
Đặc điểm, tính chất công việc
Liên quan đến đặc điểm công việc hiện tại của lao động di cư, nghiên cứu này làm rõ các khía
cạnh về tính chất công việc, số giờ làm việc, thu nhập, vấn đề hợp đồng lao động và các phúc lợi
xã hội. Một bộ phận không nhỏ những người di cư khi rời bỏ công việc đồng áng thường chuyển
sang làm công nhân trong các khu công nghiệp hoặc làm thuê các công việc không cố định tại
đô thị. Do không có chuyên môn kỹ thuật nên người lao động di cư thường phải đảm nhận các
công việc nặng nhọc, có tính chất ô nhiễm (30,5%), độc hại (14,1%) và nguy hiểm (10,4%).
Ở thời điểm di cư lần đầu có 49,8% lao động di cư được hỏi khẳng định thu nhập từ công việc
mà họ có được tốt hơn, 8,5% khẳng định thu nhập vẫn như cũ và chỉ có 2,0% cho rằng mức thu
nhập của công việc mới sau di cư kém hơn so với công việc trước đây của họ. Tính ổn định của
công việc nhìn chung cũng đáp ứng được sự kỳ vọng của người lao động khi di cư, ít nhất là so
4
với tình trạng bấp bênh của công việc đồng áng trước đó. Có 40,3% những người được hỏi
khẳng định công việc di cư có tính ổn định hơn, 10,0% cho rằng mức độ ổn định là như nhau và
chỉ có 6,5% cho rằng công việc kém ổn định hơn so với trước.
Số giờ làm việc trung bình
Trình trạng làm việc nhiều, ăn uống kham khổ, không ít công nhân đang đánh cược sức khỏe và
tính mạng của mình. Các số liệu khảo sát cho thấy, nhóm lao động di cư ra thành thị và các khu
công nghiệp có số giờ làm việc trung bình/tuần là 57,8 giờ. Nhóm lao động di cư ra thành thị có
số giờ làm việc trung bình/tuần cao hơn 3,8 giờ so với lao động di cư đang làm việc tại các khu
công nghiệp (58,4 giờ so với 54,6 giờ). Trình độ chuyên môn kỹ thuật dẫn tới sự khác biệt cơ
bản về loại hình công việc và số giờ làm việc. Nhóm lao động di cư ra thành thị phải làm thêm
giờ hoặc có số giờ làm việc cao thường rơi vào nhóm lao động tự do. Đối với nhóm này, số giờ
làm việc bình quân lên tới 62,1 giờ/tuần.
Vẫn có sự khác biệt về số giờ làm việc trung bình/tuần giữa lao động di cư là nam giới và nữ giới
nhưng không đáng kể. Cụ thể số giờ làm việc trung bình/tuần của nam giới là 57,6 giờ/tuần,
trong khi đó số giờ làm việc trung bình/tuần của nữ giới là 57,9 giờ. Kết quả điều tra của Tổng
cục Thống kê năm 2009 cũng cho thấy xu hướng này khi mà số giờ làm việc trung bình của lao
động nam di cư là 66,8 giờ/tuần trong khi ở lao động nữ là 67,2 giờ/tuần. Lao động nữ di cư nói
chung, lao động nữ di cư ra thành thị và các khu công nghiệp nói riêng đang phải làm việc nhiều
thời gian hơn so với nam giới. Sự khác biệt về số giờ làm việc theo giới vẫn còn nhưng về thời
gian làm việc cơ bản đã được giảm đáng kể so với năm 2009.
Theo quy định của Bộ luật Lao động về thời giờ làm việc bình thường là 08 giờ một ngày và 48
giờ trong 01 tuần. Bảo đảm số giờ làm thêm của người lao động không quá 50% số giờ làm việc
bình thường trong 01 ngày, trường hợp áp dụng quy định làm việc theo tuần thì tổng số giờ làm
việc bình thường và số giờ làm thêm không quá 12 giờ trong 01 ngày; không quá 30 giờ trong 01
tháng. Trong bối cảnh khó khăn về kinh tế, với đồng lương ít ỏi buộc người lao động phải “tự
nguyện” tăng ca, tăng số giờ làm việc để có thêm được thu nhập. Số giờ làm việc nhiều, điều
kiện ăn uống sinh hoạt kham khổ khiến cho sức khỏe của người lao động bị giảm sút nghiêm
trọng. Nhiều doanh nghiệp cũng tiết giảm chi phí, trong đó có cả việc cắt giảm mức chi cho suất
ăn công nhân. Trong khi đó, hiện nay chúng ta cũng chưa có những quy định cụ thể đối với suất
ăn công nhân. Lao động di cư nói chung, nhất là nhóm lao động tự do và công nhân đang làm
việc tại các khu công nghiệp sẽ phải đối mặt thường xuyên với những rủi ro về sức khỏe và điều
kiện làm việc. Nhiều chuyên gia y tế cho rằng, cần thiết phải có những giải pháp để tăng cường
suất ăn và cải thiện môi trường làm việc cho người lao động.
Thu nhập và tiền gửi về
Mức thu nhập bình quân của lao động di cư từ nông thôn ra thành thị và các khu công nghiệp đạt
khoảng 3,17 triệu đồng/tháng. Sự chênh lệch về thu nhập giữa hai nhóm lao động di cư ra thành
thị và khu công nghiệp là không đáng kể với mức thu nhập trung bình tháng lần lượt là 3,1 triệu
5
đồng/tháng với 3,3 triệu đồng/tháng. Lao động di cư có mức thu nhập thấp chủ yếu là lao động
tự do như người chờ bán sức lao động, làm nghề đồng nát, xe ôm,… nhóm này chiếm đa số với
khoảng 62,2%. Khía cạnh giới cũng được thể hiện khá rõ trong vấn đề thu nhập của lao động di
cư từ nông thôn ra thành thị và các khu công nghiệp. Lao động di cư là nam giới có mức thu
nhập bình quân 3,4 triệu đồng/tháng, trong khi đó lao động di cư là nữ giới đạt 3,0 triệu
đồng/tháng, chỉ bằng 87,9% mức thu nhập bình quân theo tháng của nam giới. Lao động nữ di cư
ra thành thị và khu công nghiệp phải làm việc nhiều thời gian hơn nhưng lại nhận được mức
lương thấp hơn so với nam giới. Với mức thu nhập hiện tại và trách nhiệm tài chính đối với nơi
di cư đi, không nhiều người lao động để dành được tiền để gửi tiết kiệm hoặc tái đầu tư. Có
40,3% những người lao động được hỏi có gửi tiền về gia đình. Có sự khác biệt giữa lao động di
cư nam và nữ trong việc sử dụng các khoản thu nhập hàng tháng mà họ kiếm được. Ngoài khoản
chi tiêu hàng ngày là bắt buộc, tỷ lệ nữ giới gửi tiền về gia đình cao hơn, họ cũng ít gửi tiết kiệm
cá nhân hơn so với nam giới. Chỉ có 37,7% lao động di cư nam gửi tiền về gia đình, trong đó ở
nữ giới là 42,7%. Điều này đồng nghĩa với việc nữ giới chịu sức ép lớn hơn nam giới trong việc
gửi tiền về gia đình.
Vấn đề hợp đồng lao động
Hợp đồng lao động ràng buộc trách nhiệm của các bên đối với việc thực hiện các phúc lợi xã hội
theo quy định cho người lao động. Tuy vậy, tình hình thực hiện ký kết hợp đồng lao động đối với
nhóm di cư từ nông thôn ra thành thị và các khu công nghiệp còn nhiều điều đáng bàn. Các số
liệu khảo sát từ nghiên cứu này cho thấy chỉ có 46,7% lao động di cư có ký kết hợp đồng lao
động. Có sự chênh lệch rất lớn giữa hai nhóm lao động di cư được khảo sát khi mà có 83,2% lao
động di cư tại các khu công nghiệp được hỏi có ký hợp đồng lao động, nhóm lao động di cư ra
thành thị có hợp đồng lao động rất thấp chỉ chiếm 39,5%. Nữ giới quan tâm nhiều hơn đối với
vấn đề hợp đồng lao động, tỷ lệ lao động nữ có hợp đồng chiếm 51,7% trong khi đó ở nam giới
chiếm 40,6%. Bộ luật Lao động quy định trước khi nhận người lao động vào làm việc, người sử
dụng lao động và người lao động phải trực tiếp giao kết hợp đồng lao động, ngoại trừ đối với
công việc tạm thời có thời hạn dưới 03 tháng. Nội dung quy định này lý giải tại sao lao động tự
do thường không được ký hợp đồng. Đặc biệt đối với nhóm lao động di cư ra thành thị, có tới
56,5% những người không có hợp đồng lao động là lao động tự do. Đối với nhóm lao động đang
làm việc tại khu công nghiệp, có 29,4% người lao động không ký hợp đồng vì họ là lao động tự
do, 19,3% đang trong giai đoạn thử việc. Tỷ lệ người lao động không được ký hợp đồng lao
động có nguyên nhân do người sử dụng lao động không ký chiếm 11,8%, sự chênh lệch giữa hai
nhóm lao động di cư ra thành thị và khu công nghiệp trong trường hợp này không đáng kể.
Tham gia các loại bảo hiểm
Hiện có 46,7% lao động được hỏi có ký kết hợp đồng, tương ứng với 41,4% người được hỏi
tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, 50,3% tham gia bảo hiểm y tế và 35,0% tham gia bảo hiểm
thất nghiệp. Nữ lao động di cư ra thành thị và các khu công nghiệp tham gia nhiều hơn nam giới
ở hầu hết các loại hình bảo hiểm. Đối với bảo hiểm xã hội, tỷ lệ tham gia của nữ giới là 85,0%,
nam giới là 79,0% trong tổng số người có ký kết hợp đồng lao động. Với bảo hiểm y tế và bảo
hiểm thất nghiệp, xu hướng này cũng tương tự. Cũng như vấn đề hợp đồng lao động, việc tham
6
gia bảo hiểm có sự khác biệt khá lớn giữa nhóm lao động di cư ra thành thị và khu công nghiệp.
Lao động di cư tại khu vực đô thị phần lớn là lao động tự do, tỷ lệ ký kết hợp đồng lao động thấp
nên tỷ lệ tham gia các loại bảo hiểm cũng rất thấp. Có tới 52,1% lao động di cư tại thành thị
được hỏi không tham gia bất kỳ loại bảo hiểm nào, tỷ lệ này ở lao động di cư tại các khu công
nghiệp chỉ chiếm 16,4% (83,2% lao động ở khu công nghiệp có ký kết hợp đồng) và chủ yếu rơi
vào nhóm lao động tự do.
Việc phát triển bảo hiểm tự nguyện cần được khuyến khích và có sự hỗ trợ từ các chính sách của
Nhà nước để họ có thể tiếp cận được. Người lao động gần như không được giải thích một cách rõ
ràng về lợi ích của các loại bảo hiểm mà họ có quyền được tham gia. Vấn đề tuyên truyền cho
người lao động về chính sách bảo hiểm bắt buộc, bảo hiểm tự nguyện cũng như các loại hình bảo
hiểm còn nhiều bất cập. Cần có những nghiên cứu, đánh giá rõ hơn về nhận thức của người lao
động cũng như hoạt động tuyên truyền các chính sách bảo hiểm.
Lao động di cư không có dự định lâu dài với công việc hiện tại
Phần lớn lao động di cư ra thành thị và các khu công nghiệp chưa xác định rõ mục tiêu công việc
của mình. Có tới 55,1% lao động di cư chưa biết có ý định gắn bó với công việc hiện tại hay
không, 18,8% đã có quyết định không tiếp tục gắn bó với công việc và chỉ có 26,1% lao động di
cư có ý định gắn bó với công việc hiện tại. Thu nhập (69,4%) và tính ổn định (61,3%) chính là
hai tiêu chí/lý do quan trọng nhất quyết định ý muốn gắn bó của người lao động với công việc
hiện tại hay không. Ngoài ra, các lý do liên quan đến mức độ phù hợp về chuyên môn và môi
trường làm việc cũng có ảnh hưởng nhất định tới một bộ phận người lao động.
Việc làm thêm ngoài công việc chính
Nghiên cứu này muốn làm rõ có hay không việc lao động di cư phải cải thiện thu nhập của mình
thông qua công việc làm thêm ngoài công việc chính? Có rất ít lao động di cư ra thành thị và các
khu công nghiệp có công việc làm thêm ngoài công việc chính, chỉ chiếm tỷ lệ khoảng 2,2%.
Thực tế phần đông lao động di cư ra thành thị và các khu công nghiệp tập trung vào hai nhóm
việc chính là làm công nhân hoặc lao động tự do. Với thời gian làm việc trung bình khoảng 58-
60 giờ/tuần hiện nay rất khó cho người lao động có thể nhận làm thêm một công việc khác. Một
số ít người lao động di cư có công việc làm thêm thường là làm tạp vụ, bảo vệ, giúp việc gia đình
(44,1%) hoặc làm lao động tự do (32,2%).
Sự khác biệt trong tuyển và sử dụng lao động di cư và lao động địa phương
Kết quả khảo sát cho thấy mức lương, cường độ công việc, chế độ xã hội và thời gian làm việc là
những yếu tố được đánh giá không có sự phân biệt giữa lao động di cư và lao động tại địa
phương. Vấn đề tuyển dụng, cơ hội thăng tiến và đào tạo là những yếu tố được đánh giá có sự
phân biệt rõ ràng hơn. Có 9,6% lao động di cư khẳng định việc tuyển dụng lao động trong các
doanh nghiệp có ưu tiên lao động địa phương, 4,3% cho rằng có ưu tiên đối với cơ hội thăng tiến
và 3,3% khẳng định có sự ưu tiên đối với cơ hội đào tạo.
7
Lao động địa phương có tính chất ổn định, gắn bó với các doanh nghiệp hơn bởi ít bị chi phối
bởi các yếu tố phát sinh từ nơi di cư đi, nhà cửa, lập gia đình,… có thể dẫn đến quyết định rời bỏ
công việc của lao động di cư. Những yếu tố này tạo nên lợi thế khách quan của lao động sở tại so
với lao động di cư trong quá trình tuyển dụng, cơ hội đào tạo và thăng tiến, nhưng rõ ràng những
lợi thế này là không đáng kể.
8
Đời sống của lao động di cư ra thành thị và các khu công nghiệp
Vấn đề nhà ở
Nhà ở là vấn đề bức thiết nhất đối với lao động di cư hiện nay khi nhu cầu nhà ở rất lớn nhưng
khả năng đáp ứng hạn chế. Cả nước hiện có khoảng 1,76 triệu lao động đang làm việc tại các khu
công nghiệp, trong đó, 70% là người ngoại tỉnh và có nhu cầu thuê nhà ở. Có 86,3% lao động di
cư ở nhà thuê, diện tích nhỏ hẹp, điều kiện sinh hoạt chật chội. Tỷ lệ lao động di cư hiện đang sở
hữu nhà rất thấp, chỉ chiếm 2,9%. Diện tích phòng trọ bình quân của lao động di cư ra thành thị
khoảng 15 m
2
, của lao động làm việc tại các khu công nghiệp khoảng 12 m
2
. Để tiết kiệm chi phí
thuê nhà, hầu hết lao động di cư chọn thuê chung phòng với với người khác, chỉ có 16,5% đang
sống một mình. Điều này cũng có nghĩa rằng, có 2-3 lao động di cư cùng chia sẻ 12-15 m
2
diện
tích nhà ở. Mặc dù tỷ lệ sử dụng bếp riêng biệt khá cao nhưng trên thực tế, người thuê trọ thường
nấu nướng luôn ngay trong phòng. Điều này dẫn đến tiềm ẩn các nguy cơ cháy, nổ cao. Điều
kiện nhà vệ sinh tại các khu trọ khá tốt, các khu trọ được xây mới thường có nhà vệ sinh khép
kín bên trong. Với những người lao động di cư chưa lập gia đình, điều kiện nhà ở như vậy cũng
đã khá chật chội. Đối với những người lao động di cư đã lập gia đình, có con cái nhỏ thì việc
sinh hoạt lại càng khó khăn nhiều hơn. Nhu cầu đối với nhà ở là một trong những nhu cầu bức
thiết nhất của người lao động di cư. Tuy nhiên, với mức thu nhập hiện tại, thật khó để cho người
lao động di cư có thể mua nhà, ổn định công việc và định hướng cho một tương lai lâu dài.
Chi phí sinh hoạt
Chi phí sinh hoạt cao đè nặng lên thu nhập ít ỏi của người lao động khi có tới hơn 85% lao động
di cư phải trả giá điện nước sinh cao gấp 2-3 lần giá theo quy định. Chỉ tính riêng các khoản chi
phí cố định như tiền thuê nhà, tiền điện nước và tiền phí vệ sinh, hàng tháng người lao động di
cư phải chi hết khoảng 23,8% thu nhập trung bình họ kiếm được trong tháng. Mức chi phí trung
bình đối với công nhân dao động trong khoảng từ 1,5 triệu - 2,0 triệu đồng/tháng. Đối với nam
giới, mức chi tiêu thậm chí lên tới 2,5 triệu – 3,0 triệu đồng/tháng. Thu nhập bình quân hiện nay
là 3,17 triệu đồng/tháng, nếu khéo chi tiêu mỗi tháng họ có thể dành dụm được từ 1,0 triệu - 1,5
triệu đồng/tháng. Với mức thu nhập và chi tiêu như hiện nay, người lao động rất khó có thể tích
lũy và gửi về gia đình. Những phân tích trước đó cho thấy, phần lớn thu nhập của người lao động
được sử dụng cho chi tiêu hàng ngày và các mục đích cá nhân, chỉ có 40,3% người lao động gửi
tiền về gia đình.
Chăm sóc sức khỏe
Lao động di cư là nhóm có nguy cơ cao đối với các vấn đề sức khỏe do các điều kiện làm việc và
chăm sóc sức khỏe rất hạn chế. Đối với một số loại bệnh thông thường, phần lớn người lao động
di cư chọn cách tự đến các hiệu/cửa hàng thuốc để mua thuốc uống mà không cần đi khám,
chiếm 31,4%. Trong trường hợp bệnh nặng, cần phải khám chữa họ mới buộc phải đến các cơ sở
y tế. Khoảng 25,0% người lao động thường khám chữa bệnh tại các bệnh viện, phòng khám tư
nhân hoặc khám tại nhà bác sĩ. Họ không lựa chọn đến các cơ sở y tế công lập bởi bệnh nhẹ,
khám tại các cơ sở y tế công lập mất nhiều thời gian và thủ tục rườm rà, phức tạp.
9
Tiếp cận giáo dục của con em lao động di cư
Vấn đề đặt ra là quá trình di cư làm thay đổi như thế nào vấn đề giáo dục của các thành viên đi
kèm? Tại thời điểm khảo sát, có khoảng 44,7% lao động di cư từ nông thôn đã lập gia đình. Đối
với những lao động di cư đã lập gia đình được hỏi, chỉ có 9,1% có con cái trong độ tuổi từ 5-18
đang sống chung. Nhóm tuổi từ 5-18 tuổi là nhóm tuổi đang theo học các bậc học mầm non và
phổ thông. Tỷ lệ con em lao động di cư trong độ tuổi từ 5-18 đang theo học chiếm 88,1%. Tỷ lệ
hộ có con từ 5-18 tuổi không đi học của nhóm lao động di cư ra thành thị chiếm tới 12,8%, của
nhóm lao động tại các khu công nghiệp là 5,0%.
Những khó khăn chính mà các hộ gia đình lao động di cư đang gặp phải khi có con đi học cũng
chủ yếu liên quan đến vấn đề tài chính. Bên cạnh đó, việc tiếp cận với hệ thống giáo dục công
lập vẫn có những khó khăn nhất định do quy định hộ khẩu và khả năng đáp ứng có giới hạn của
hệ thống này. Nhóm lao động di cư ra thành thị gặp khó khăn nhiều hơn nhóm lao động di cư tại
các khu công nghiệp trong việc cho con cái theo học các trường công lập. Hệ thống giáo dục tại
một số địa phương nơi có khu công nghiệp vẫn còn khả năng đáp ứng nhu cầu học của con em
công nhân do vậy họ vẫn nhận mặc dù không có hộ khẩu. Do vậy, chỉ có 6,5% người lao động di
cư có con trong độ tuổi từ 5-18 sinh sống cùng gặp khó khăn trong việc xin học ở trường công
nơi di cư đến. Chính quyền địa phương một số nơi có lao động di cư đến cũng tạo điều kiện cho
con em công nhân được đến trường. Ở khu vực thành thị, hệ thống giáo dục công lập chịu sức ép
lớn hơn bởi quá trình di cư đã thúc đẩy tăng nhu cầu học đối với các bậc học tiểu học, mẫu giáo.
Tình trạng xếp hàng đăng ký cho con theo học bậc học mầm non, tiểu học vẫn lặp lại hàng năm.
Phải rất khó khăn mới có thể xin được cho con mình theo học hệ thống giáo dục công lập cho dù
có hộ khẩu thường trú bởi nhu cầu theo học quá cao trong khi khả năng đáp ứng của hệ thống
giáo dục công lập có những giới hạn nhất định. Có tới 13,5% những người lao động di cư ra
thành thị có con trong độ tuổi từ 5-18 gặp khó khăn khi cho con học tại các trường công lập, cao
hơn 7 điểm % so với lao động di cư tới các khu công nghiệp gặp phải.
Tình hình an ninh trật tự tại địa phương
Vấn đề về an ninh trật tự đối với người di cư cũng cần phải được quan tâm nhiều hơn. Số liệu
khảo sát cho thấy, có 8,8% lao động di cư được hỏi đánh giá tình hình an ninh trật tự tại địa
phương không được tốt. Tại các địa phương có lao động di cư làm việc tại các khu công nghiệp
thuê trọ, tình hình an ninh trật tự có vẻ phức tạp hơn. Tại Bình Dương đã xuất hiện tình trạng
nhiều băng nhóm bảo kê công nhân, xúi giục đình công, ăn chặn tiền của công nhân. Các băng
nhóm này thường ở các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Rất nhiều doanh nghiệp tại Bình
Dương đã tẩy chay lao động di cư đến từ các tỉnh thành này. Các tệ nạn xã hội như cờ bạc, lô đề,
nghiện hút và mại dâm có chiều hướng gia tăng trong nhóm lao động di cư đến thuê trọ, nhất là
tại các khu công nghiệp.
Vấn đề ô nhiễm môi trường
10
Môi trường sống xung quanh nơi người lao động di cư nhìn chung được đánh giá ở mức bình
thường (51,8%) và tốt (38,1%). Chỉ có 10,1% người lao động đánh giá môi trường xung quanh
khu vực họ thuê trọ bị ô nhiễm.
Thực trạng tham gia các hoạt động cộng đồng
Việc chăm lo đời sống cho người lao động di cư ra thành thị và các khu công nghiệp còn nhiều
hạn chế. Các hoạt động sinh hoạt cộng đồng như văn hóa nghệ thuật, thể dục thể thao, họp
thôn/tổ dân phố vắng bóng sự tham gia của lực lượng này. Số liệu khảo sát cho thấy, chỉ có
10,2% lao động di cư tham gia các hoạt động sinh hoạt cộng đồng tại địa phương. Trong khi,
một số doanh nghiệp chưa thực sự quan tâm chăm lo đời sống văn hóa tinh thần cho công nhân.
Chính sách cho người lao động di cư từ nông thôn ra thành thị và các khu công nghiệp –
những vấn đề đặt ra
Lao động di cư từ nông thôn ra thành thị và các khu công nghiệp là xu hướng tất yếu thay thế
dần các hình thức di cư trước đó. Tuy vậy, hệ thống chính sách hiện hành về lao động di cư còn
thiếu hụt lớn khi có rất ít các chính sách trực tiếp dành cho nhóm đối tượng này. Bên cạnh đó, hệ
thống chính sách hiện hành cũng bộc lộ những hạn chế và bất cập trong quá trình thực hiện, triển
khai.
Hiện trạng chính sách
Chính quyền địa phương không có vai trò rõ nét trong những ảnh hưởng tới người di cư. Có
92,9% người lao động di cư được hỏi cho rằng địa phương sở tại không có bất kỳ hỗ trợ gì cho
họ. Vai trò nổi bật nhất của các địa phương chính là hỗ trợ đảm bảo an ninh trật tự tại nơi người
lao động di cư thuê trọ (2,7%).
Có tới 44,7% người lao động không cần học thêm kỹ năng mới nào vẫn có thể được nhận để làm
công việc hiện tại. Phần lớn lao động di cư có trình độ học vấn thấp, không có chuyên môn kỹ
thuật và hệ quả là làm các công việc nặng nhọc, thiếu ổn định, số giờ làm việc cao, không có hợp
đồng lao động và mức thu nhập thấp. Có khoảng 10,9% người lao động di cư mong muốn nhận
được những hỗ trợ học nghề, 24,0% mong muốn được hỗ trợ tìm việc làm. Mặc dù lao động di
cư từ nông thôn ra thành thị và các khu công nghiệp có trình độ học vấn thấp, phần lớn không có
chuyên môn kỹ thuật song hầu hết các chính sách đào tạo nghề và hỗ trợ việc làm hiện nay đều
dành cho nhóm lao động nông thôn, lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất mà không
có những chính sách hỗ trợ đối với nhóm lao động di cư. Lao động di cư từ nông thôn ra thành
thị và các khu công nghiệp đang trở thành xu hướng phổ biến, lực lượng này có những đóng góp
ngày càng quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Việc nâng cao
trình độ chuyên môn kỹ thuật là cần thiết nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động, góp
phần nâng cao vị thế của người lao động.
Nhà ở là vấn đề bức thiết nhất đối với lao động di cư hiện nay khi nhu cầu nhà ở rất lớn nhưng
khả năng đáp ứng hạn chế. Hiện có 71,1% lao động di cư cho biết phải đối mặt với những khó
khăn về nhà ở tại thời điểm di cư lần đầu tiên. Và theo thời gian, vấn đề nhà ở cho người lao
11
động di cư cũng không được cải thiện là mấy. Vẫn có tới 72,8% những người lao động di cư ra
thành thị và các khu công nghiệp đang phải hàng ngày đối mặt với vấn đề nhà ở. Hiện nay, nhiều
địa phương đang triển khai thực hiện Quyết định số 66/2009/QĐ-TTg và Quyết định số
67/2009/QĐ-TTg, ngày 24/4/2009 ban hành một số cơ chế, chính sách dành cho công nhân lao
động tại các khu công nghiệp và người có thu nhập thấp tại khu vực đô thị nhằm tạo điều kiện
thuận lợi về nhà ở và đảm bảo các nhu cầu sinh hoạt cần thiết cho người lao động. Các chính
sách về phát triển nhà ở cho người có thu nhập thấp, công nhân lao động tại các khu công nghiệp
được kỳ vọng sẽ mang lại nhiều lợi ích cho người lao động nhập cư nhưng trên thực tế việc thực
thi chính sách gặp rất nhiều bất cập. Những khó khăn lớn nhất liên quan đến việc giải ngân vốn
và các điều kiện hỗ trợ cho các chủ đầu tư thực hiện; cơ chế, chính sách chưa đủ mạnh, nguồn
vốn tín dụng ưu đãi còn hạn hẹp. Hiện nay, việc xây nhà ở cho người lao động tại các khu công
nghiệp, khu chế xuất không đồng bộ với việc xây dựng hạ tầng xã hội (như nhà trẻ, trường học,
trạm y tế, nhà văn hoá, bưu điện, chợ, siêu thị, ). Mặt khác, các mô hình nhà ở cho công nhân
cũng còn nhiều điểm bất cập cần cân nhắc chuyển sang mô hình nhà ở xã hội cho thuê, bán.
Bên cạnh các chính sách lớn về đào tạo nghề và tạo việc làm, một số tỉnh/thành cũng đã có
những chính sách đặc thù để hỗ trợ người lao động di cư ổn định cuộc sống. Tại các tỉnh thành
phố lớn như TP. Hồ Chí Minh hay Bình Dương, địa phương cũng có những chính sách hỗ trợ về
đời sống cho công nhân như vận động chủ nhà trọ cam kết không tăng giá, đồng thời chính
quyền địa phương cũng đưa hệ thống dịch vụ, hàng bình ổn giá vào các khu vực đông công nhân.
Thực hiện quy định của Bộ Công thương trong việc áp dụng tính giá điện bậc thang giống như
các hộ gia đình đối với công nhân, học sinh thuê trọ. Hiện nay, tại Bình Dương và TP. Hồ Chí
Minh đang thực hiện mô hình “tam giác” giữa doanh nghiệp, Trung tâm Giới thiệu Việc làm tỉnh
và tỉnh bạn liên kết chặt chẽ với nhau góp phần cân đối thị trường, đáp ứng nhu cầu lao động tại
các khu công nghiệp, khu chế xuất của các địa phương này.
Một số gợi ý, đề xuất chính sách
Việt Nam cần tiến tới xây dựng các chính sách toàn diện, nhất quán và trực tiếp về di cư nội địa
nói chung và lao động di cư nói riêng trên cơ sở nhận thức đầy đủ về những tác động của nó đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Các giải pháp về chính sách chỉ
là một trong số nhiều nhóm giải pháp khác đối với vấn đề lao động di cư và đòi hỏi cần sự thực
hiện đồng bộ, phối kết hợp với nhau nhất là khả năng đánh giá, dự báo sự phát triển của các dòng
lao động di cư để có các cơ chế, chính sách cho phù hợp. Do vậy, cần kiện toàn hệ thống chính
sách về di cư nội địa nói chung và di cư lao động nói riêng. Việc ban hành một chính sách mới
hỗ trợ riêng cho nhóm lao động di cư từ nông thôn là cần thiết. Bên cạnh đó, cần đánh giá lại
hiệu quả, những hạn chế, bất cập của chính sách phát triển nhà cũng như các quy định cho vay
vốn từ Quĩ phát triển nhà ở, Đồng thời, cần tiếp tục điều chỉnh, bổ sung các chính sách hỗ trợ
tính giá điện, nước sinh hoạt phù hợp cho nhóm lao động di cư.
Ngoài ra, trong dự thảo Luật Việc làm cũng cần xem xét, bổ sung các qui định liên quan đến lao
động di cư như:
− Cung cấp, hỗ trợ thông tin cho lao động di cư
12
− Các chính sách cho lao động di cư
− Tổ chức và quản lý lao động di cư
− Quỹ hỗ trợ lao động di cư
− Quy định trách nhiệm của các cơ quan có liên quan đến lao động di cư
I. BỐI CẢNH NGHIÊN CỨU
Gần 30 năm sau Đổi Mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trên hầu hết mọi lĩnh vực và
đang tiếp tục hướng đến mục tiêu trở thành một nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020. Sự
biến đổi đã diễn ra với tốc độ mạnh mẽ kể từ nửa sau thập niên 90 của thế kỷ trước cho tới nửa
đầu thập niên thứ nhất của thế kỷ này. Có thể nhận thấy một cách rất dễ dàng sự biến đổi này nếu
nhìn từ cơ cấu kinh tế. Thay vì một nước với nông nghiệp chiếm tuyệt đại đa số trong cơ cấu
GDP, Việt Nam đã nhanh chóng cải thiện các điều kiện về thu hút đầu tư, đẩy mạnh chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, phát triển công nghiệp và dịch vụ. Sự phát triển nhanh chóng của khu vực phi
nông nghiệp không chỉ mang lại giá trị gia tăng cao hơn cho nền kinh tế mà còn góp phần làm
biến đổi mạnh mẽ cơ cấu nhân lực theo ngành và theo địa phương. Đã và đang có một lực lượng
lớn lao động từ khu vực nông nghiệp chuyển sang khu vực phi nông nghiệp trong bối cảnh khả
năng tạo việc làm mới và năng suất lao động trong nông nghiệp còn nhiều hạn chế. Đồng thời, sự
di chuyển lao động giữa các địa phương, vùng miền cũng diễn ra khá mạnh mẽ không chỉ giúp
phát triển việc làm mà còn giải quyết đáng kể những vấn đề liên quan tới việc điều tiết lao động
từ các khu vực, địa phương thừa lao động sang các khu vực, địa phương thiếu lao động. Tuy
nhiên, bên cạnh những đóng góp to lớn do quá trình chuyển dịch lao động mang đến, sự dịch
chuyển lao động từ khu vực nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ, từ nông thôn ra thành thị
đồng thời cũng làm bộc lộ nhiều nguy cơ, thách thức đối với quá trình phát triển bền vững của
Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh sau khi Việt Nam đã gia nhập WTO năm 2007. Giai đoạn này
chứng kiến sự bùng nổ về hoạt động thu hút FDI cùng với đó là sự phát triển chóng mặt của hệ
thống các khu công nghiệp, khu đô thị, khu kinh tế ở Việt Nam. Những thay đổi nhanh chóng về
chính sách thu hút đầu tư, quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế cùng với sự phát triển của các yếu
tố phụ trợ khác như giao thông vận tải, thông tin liên lạc đã tác động mạnh mẽ tới quá trình
dịch chuyển lao động và các dòng di cư nông thôn-đô thị cũng như quá trình chuyển đổi mục
đích sử dụng đất từ nông nghiệp sang phát triển các khu công nghiệp. Quá trình chuyển đổi và
chuyển dịch này về cơ bản là “yêu cầu bắt buộc” sau khi Việt Nam hội nhập sâu vào quá trình
toàn cầu hóa. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực không thể phủ nhận, quá trình
chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp và chuyển dịch lao động từ nông thôn ra thành thị
cũng như các khu công nghiệp tại Việt Nam trong khoảng 5 năm trở lại đây cũng bộc lộ rất nhiều
vấn đề xã hội và chính sách đáng quan tâm. Việc phát triển sinh kế bền vững, ổn định cho lao
động nông nghiệp sau chuyển đổi đất vẫn đang là bài toán chưa có lời giải thỏa đáng, đòi hỏi cần
phải có những chính sách mạnh mẽ từ Nhà nước để tương xứng với những chuẩn mực mới về an
sinh xã hội của một quốc gia đã đạt ngưỡng thu nhập trung bình. Cũng cần phải nói thêm rằng
khoảng thời gian từ cuối năm 2007 đến nay cũng là giai đoạn nền kinh tế thế giới lâm vào tình
trạng khủng hoảng nặng nề, điều đó tất yếu tác động đến nền kinh tế Việt Nam - vốn còn nhỏ bé
và có sức đề kháng yếu trong khi quá trình hội nhập lại ngày càng sâu rộng hơn.
13
Trong bối cảnh đó, di cư lao động trong nước ngày càng phổ biến nhằm đáp ứng nhu cầu phát
triển kinh tế - xã hội tại Việt Nam. Các dòng dịch chuyển lao động đến các đô thị và các khu
công nghiệp này đang dần đóng vai trò thay thế các chương trình di cư có tổ chức của Chính
phủ. Phần lớn lý do di cư liên quan đến mục đích kinh tế và đối tượng di cư có liên quan đến
nhóm người trong độ tuổi lao động. Hoạt động di cư này là một xu thế tất yếu, được vận hành
theo qui luật cung – cầu của thị trường lao động, các luồng di cư đã khỏa lấp đáng kể nhu cầu lao
động tại khu vực đô thị và các khu công nghiệp. Trong rất nhiều những tài liệu nghiên cứu gần
đây chỉ ra rằng, những vấn đề chính mà lao động di cư đang phải đối mặt như khó khăn về nhà ở,
tìm kiếm việc làm, ổn định cuộc sống và những rào cản đối với việc tiếp cận các dịch vụ y tế,
giáo dục, khả năng hòa nhập cộng đồng, sức khỏe sinh sản,…
Để có cơ sở cho việc ban hành chính sách rất cần phải có những nghiên cứu chuyên sâu đủ độ tin
cậy liên quan tới vấn đề này. Báo cáo tổng thể “Thực trạng việc làm, đời sống của lao động di cư
từ nông thôn ra thành thị và các khu công nghiệp” được thực hiện nằm trong khuôn khổ dự án
“Tình hình di chuyển lao động từ nông thôn ra thành thị và các khu công nghiệp trong bối cảnh
Việt Nam gia nhập WTO” do Chính phủ Việt Nam đồng tài trợ với Chính phủ Liên hiệp Vương
quốc Anh và Bắc Ai len, Chính phủ Australia.
II. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Mỗi năm thế giới chứng kiến sự di cư của hàng trăm triệu người (phần lớn đều ở trong độ tuổi
lao động) với nhiều nguyên nhân khác nhau: các lý do về kinh tế, những nguyên nhân về an toàn
xã hội, nhiều mưu cầu về hạnh phúc Quá trình di chuyển của cộng đồng người từ nơi này đến
nơi khác do đó cũng trở thành hiện tượng bất biến của lịch sử. Sự khác biệt chỉ nằm ở những
thay đổi về quy mô, phương thức hay mục đích của quá trình di chuyển.
Tại Việt Nam, lịch sử của quá trình di cư cũng đã tồn tại qua hàng chục thế kỷ xuất phát từ nhiều
nguyên nhân khác nhau. Trong thế kỷ XXI, những chuyển động di cư trong nước và quốc tế
đang ngày càng sôi động hơn khi gần như có sự đồng thuận giữa dòng chuyển cư với những dịch
chuyển trong cơ cấu kinh tế - xã hội của đất nước. Cùng với sự phát triển và mở rộng nhanh
chóng của các khu đô thị và khu công nghiệp cũng như những biến đổi xã hội nội tại của khu vực
nông thôn, làn sóng di cư từ nông thôn ra đô thị và các khu công nghiệp vẫn tiếp tục có xu hướng
gia tăng, đồng thời có nhiều thay đổi về phương thức di cư. Quá trình này cũng đã và đang nảy
sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp không chỉ đối với người di cư mà còn đối với cả nơi đi và nơi
đến của họ. Cũng chính bởi lý do này, di cư đã trở thành chủ đề chính của nhiều nghiên cứu ở rất
nhiều quy mô, góc độ khác nhau, từ các báo cáo quốc tế, quốc gia đến các báo cáo của các tỉnh
thành, khu vực; từ các vấn đề di cư tổng quát đến các đánh giá nhận định về các nguyên nhân,
tác động, xu hướng hay các khía cạnh cụ thể của vấn đề di cư. Phần tổng quan dưới đây sẽ điểm
qua những nét cơ bản nhất trong các báo cáo nghiên cứu về di cư tại Việt Nam trong những năm
gần đây. Trong đó, cơ bản phần phân tích sẽ đi theo 3 hướng chính:
(i) Tổng quan báo cáo về thực trạng – xu hướng di cư tại Việt Nam
(ii) Tổng quan báo cáo về các tác động của di cư
14
(iii) Tổng quan các báo cáo về các khía cạnh khác nhau của vấn đề di cư: giới, việc làm, chất
lượng cuộc sống, khả năng tiếp cận dịch vụ
1. Thực trạng và xu hướng di cư – thách thức và hành động
Nhóm báo cáo đồ sộ và dày dặn nhất trong hệ báo cáo về di cư tại Việt Nam có lẽ là các báo cáo
phân tích về thực trạng và xu hướng của di cư trong nước. Điển hình là Báo cáo Di cư trong
nước – cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam (2010) do Tổ
chức Liên hợp quốc tại Việt Nam biên soạn – đây có thể coi là một trong những báo cáo tổng
quát nhất về tình hình di cư ở Việt Nam hiện nay với các khái quát chung nhất về tiến trình di cư
từ trong lịch sử đến thời điểm hiện tại, về số lượng và các đặc điểm nhân khẩu học của dòng di
cư hiện tại, về các động cơ di cư; thời gian di cư cũng như các loại hình và phạm vi di cư. Bên
cạnh đó, các khó khăn/thách thức, những hệ lụy và cả những lợi ích mà quá trình di cư đem lại
cũng được báo cáo chỉ ra một cách cặn kẽ. Với cách phân tích đa chiều dựa trên cơ sở của nguồn
dữ liệu phong phú cả ở trong nước và quốc tế, báo cáo đã cung cấp những minh chứng đầy
thuyết phục cho những cơ hội và thách thức của hoạt động di cư trong nước đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội của Việt Nam. Quan trọng hơn, báo cáo đã chỉ ra yếu tố quyết định chiều hướng
của sự tác động - là cơ hội hay thách thức còn liên quan và phụ thuộc mật thiết vào chính môi
trường chính trị, kinh tế, xã hội cùng với hành vi và nguồn lực cá nhân người di cư cũng như gia
đình của họ. Đây cũng là đặc điểm cần xem xét đến trong các chính sách đối với lao động di cư
để đảm bảo phát huy những lợi thế mà quá trình di cư mang lại cho xã hội và bản thân người lao
động.
Chỉ ra thực trạng cũng là cách thức tốt để đưa ra các dự đoán về xu hướng, và mặt khác các nhận
định về xu hướng hay chiều hướng của di cư cũng sẽ là căn cứ quan trọng để xây dựng các chính
sách về di cư hợp lý. Báo cáo Xu hướng lao động và xã hội Việt Nam 2009-2010 do Viện Khoa
học Lao động và Xã hội soạn thảo với sự hỗ trợ tài chính và kỹ thuật của ILO đã đáp ứng một
phần nhu cầu này. Trên cơ sở trình bày tổng quan kinh tế - xã hội trong và ngoài nước cũng như
chỉ ra xu hướng lao động Việt Nam 2009-2010, báo cáo đã đưa ra nhiều phát hiện liên quan đến
hoạt động di cư, đặc biệt là xu hướng của di cư trong những năm tới đây. Theo đó, tác động của
cuộc khủng hoảng kinh tế đã ảnh hưởng đến chiều hướng của dòng di cư tại Việt Nam, trong đó,
hướng đi của dòng di cư trong nước lại đổi ngược dòng, đó là xu hướng gia tăng số dân di cư
quay trở về quê nhà sau khi mất việc làm ở các khu công nghiệp và đô thị. Thực tế này khiến cho
khu vực nông thôn phải đối diện với sức ép về lao động và việc làm. Tuy nhiên, nhìn về tương
lai, xu hướng về dịch chuyển lao động vẫn được khẳng định là sự gia tăng tiếp tục của làn sóng
di cư từ nông thôn ra đô thị, tiếp tục gây ra áp lực về việc làm và cơ sở hạ tầng đối với khu vực
này. Hơn nữa quá trình hội nhập sâu về kinh tế quốc tế và chuyển đổi cơ cấu kinh tế cũng đặt ra
vấn đề cần có giải pháp phòng ngừa rủi ro cho các nhóm có nguy cơ nghèo, trong đó có người
lao động di cư trước các biến động về kinh tế xã hội. Báo cáo cũng đồng thời chỉ ra xu hướng di
cư lao động của Việt Nam và cũng chính là những định hướng cơ bản cho việc hoạch định chính
sách đối với lao động di cư trong thời gian tới.
Trong dòng di chuyển lao động trong nước, di cư từ nông thôn ra đô thị và khu công nghiệp
chiếm một phần chủ yếu, cũng chính bởi vậy, những nghiên cứu xoay quanh vấn đề này cũng
15
chiếm một tỷ lệ khá cao trong lượng báo cáo về di cư của Việt Nam. Điển hình cho báo cáo ở
nhóm này là Báo cáo Di cư và đô thị hóa ở Việt Nam: thực trạng, xu hướng và khác biệt năm
2011 do Tổng cục Thống kê thực hiện dựa trên kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009.
Điểm đáng chú ý trong báo cáo này đó là bên cạnh việc mô tả, phân tích về thực trạng di cư, báo
cáo cũng đã chỉ ra xu hướng di cư tại Việt Nam trong vòng 20 năm (từ năm 1989) – đây cũng là
điểm nhấn quan trọng không chỉ giúp nhìn nhận về quá trình di cư trong tác động đa chiều của
bối cảnh kinh tế - xã hội từng thời kỳ mà thông qua đó cũng giúp đưa ra các dự báo về triển vọng
di cư trong thời gian tới. Những phát hiện quan trọng mà báo cáo đã chỉ ra cho thấy: dân số di
cư, đặc biệt là di cư giữa các tỉnh qua 3 thập kỷ gần đây luôn phát triển theo chiều hướng gia
tăng mạnh mẽ, xu hướng nữ hóa và trẻ hóa di cư ngày càng rõ rệt, các tác động của di cư đối với
mức sống, giáo dục và vốn xã hội của con người cũng đã được dẫn chứng một cách cụ thể. Bên
cạnh đó, những khác biệt di cư giữa các khu vực kinh tế, giữa các tỉnh/thành phố và giữa đô thị
với nông thôn cũng được phân tích một cách sâu sắc trong báo cáo này. Chẳng hạn như sự khác
biệt trong mô hình di cư và sự biến đổi của mô hình này giữa các vùng kinh tế và các tỉnh khác
nhau, những mối liên hệ thuận chiều giữa di cư và đô thị hóa… Với những phân tích nói trên,
báo cáo không chỉ đơn thuần cung cấp những số liệu thống kê đáng tin cậy mà còn gợi mở nhiều
gợi ý chính sách và hướng nghiên cứu chuyên sâu về di cư.
Mảng báo cáo về thực trạng và xu hướng di cư tại các khu công nghiệp cũng ghi nhận nhiều báo
cáo có phân tích khá sâu sắc. Báo cáo “Thực trạng tuyển dụng và việc làm của lao động nữ di
cư tới các khu công nghiệp, khu chế xuất tại Việt Nam” do ILO và Viện Khoa học lao động xã
hội thuộc Bộ Lao động Thương binh và Xã hội thực hiện năm 2009 đã chỉ ra các tồn tại căn bản
nhất trong quá trình tuyển dụng và sử dụng lao động di cư nữ tại các khu công nghiệp , khu chế
xuất ở Việt Nam. Những khó khăn, vướng mắc thậm chí là những rủi ro liên quan đến hoạt động
tuyển dụng và việc làm của lao động nữ di cư. Qua kết quả nghiên cứu, báo cáo cũng đưa ra một
số phát hiện, trong đó khẳng định di cư tìm việc làm là xu thế tất yếu trong thị trường lao động,
song khả năng tiếp cận và sử dụng của lao động nữ các kênh giới thiệu việc làm chính thức vẫn
còn hạn chế, điều đó khiến cho quá trình tuyển dụng và việc làm của lao động nữ gặp nhiều rủi
ro.
1
Từ đó, cũng là cơ sở đề xuất các giải pháp để hoàn thiện hệ thống chính sách về tuyển dụng
và quản lý lao động di cư hiệu quả, an toàn.
2. Tác động của di cư – những khía cạnh đa chiều
Cũng như rất nhiều vấn đề khác của đời sống kinh tế - xã hội, những tác động nhiều mặt, đa
diện, đa chiều của hiện tượng di cư là điều không thể phủ nhận, có tiêu cực, có tích cực, có
khách quan, có chủ quan… Tất cả những vấn đề đó đều ảnh hưởng và có ý nghĩa quan trọng
trong quá trình hình thành chính sách về di cư tại Việt Nam hiện nay. Cũng bởi lẽ đó, một trong
những trọng tâm của các báo cáo về di cư cũng chính là tìm hiểu, nghiên cứu và đánh giá về tính
đa diện, đa chiều trong các tác động của vấn đề di cư hiện nay.
Báo cáo Từ nông thôn ra thành phố: Tác động kinh tế - xã hội của di cư ở Việt Nam của Viện
Nghiên cứu Phát triển xã hội (ISDS) công bố năm 2011 là kết quả nghiên cứu về những ảnh
1
/>lao-dong-nu-di-cu-den-cac-khu-cong-nghiep-khu-che-xuat-o-Viet-Nam/language/vi-VN/Default.aspx
16
hưởng của di cư nông thôn – đô thị do Viện thực hiện năm 2008 tại 4 tỉnh/thành phố: Thái Bình,
Tiền Giang, Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Báo cáo này hướng tới mục tiêu chính là cung cấp
những bằng chứng thực nghiệm về vai trò hay các tác động tích cực của hoạt động di cư đối với
quá trình xóa đói giảm nghèo ở các địa phương hiện nay thông qua đó hướng đến việc tìm kiếm
sự đồng thuận của chính quyền tại các địa phương cũng như xã hội đối với hoạt động di cư. Báo
cáo đã chỉ ra những tác động tích cực của di cư đối với cả khu vực nông thôn (nơi đi) và khu vực
thành thị (nơi đến), cả ở khía cạnh kinh tế lẫn khía cạnh xã hội. Báo cáo khẳng định mặc dù
mang lại nhiều lợi ích cho quá trình phát triển ở cả khu vực nông thôn và đô thị, song bản thân
người di cư lại chưa được nhìn nhận đúng với vai trò này, quyền lợi của những người di cư chưa
được đảm bảo bởi chính những “khoảng trống” trong chính sách, đặc biệt là các chính sách về
bảo trợ xã hội cho người di cư cũng như các chính sách về hộ khẩu và hỗ trợ quản lý các đối
tượng người di cư. Đáng tiếc khi các phân tích chủ yếu thiên về mặt tích cực của quá trình di cư
nông thôn – đô thị mà không nhìn nhận vấn đề này toàn diện hơn để thấy được cả những hạn chế
của hoạt động di cư từ đó đảm bảo cho việc đề xuất chính sách phù hợp. Việc phân tích chủ yếu
dựa trên số liệu định lượng và các kết quả, đánh giá trích dẫn từ các nghiên cứu khác mà thiếu đi
các nghiên cứu định tính bổ trợ cũng là một điểm đáng tiếc khác của báo cáo. Di cư vốn là một
quá trình đa diện nhất là khi xem xét ở góc độ chính sách, do đó luôn cần phải có những cách
tiếp cận đa chiều đối với vấn đề này để giúp cho hành trình từ nông thôn ra thành thị của những
người di cư bớt gian nan và thực sự mang lại nhiều lợi ích về kinh tế - xã hội.
Báo cáo:“Nghiên cứu tác động phát triển của di cư quốc tế tại Việt Nam” của tác giả Đặng
Nguyên Anh và nhóm nghiên cứu Trung tâm VAPEC Hà Nội – Viện Khoa học xã hội Việt Nam
năm 2011 lại đề cập một cách trực diện nhất đến các tác động đa diện của quá trình di cư của
người Việt Nam ra nước ngoài. Với phạm vi khảo sát trên 1500 hộ gia đình (cả di cư và không di
cư) tại 6 tỉnh/thành phố lớn của cả nước, đã có nhiều phân tích sâu sắc về tác động của di cư
quốc tế được chỉ ra từ báo cáo như: tác động tới thu nhập và mức sống hộ gia đình; tác động tăng
trưởng kinh tế, tác động tham gia thị trường lao động; tác động tới học vấn, giáo dục; tác động
giới và một số khía cạnh xã hội khác. Dựa trên kết quả khảo sát và phương pháp so sánh giữa hai
nhóm hộ gia đình có người di cư và không có người di cư, nghiên cứu đã chỉ ra nhiều tác động
tích cực của hoạt động di cư đối với sự phát triển của hộ về nhiều mặt: tăng thu nhập, cải thiện
mức sống, tăng khả năng tiết kiệm, đầu tư cho kinh tế gia đình, tác động tốt đến cơ hội học tập,
giáo dục qua các hỗ trợ về tài chính từ người di cư; cải thiện địa vị và nâng cao sự bình đẳng giới
trong gia đình, tạo nhiều cơ hội học tập cho người phụ nữ, nâng cao lòng tự tôn dân tộc và bảo
vệ văn hóa truyền thống. Tuy nhiên, như hai mặt của một vấn đề, bên cạnh những lợi ích này, di
cư quốc tế cũng đặt ra hàng loạt thách thức như sự gia tăng xu hướng ly hôn/ly thân của những
người di cư; những băn khoăn về tình trạng lười lao động và sống phụ thuộc của người ở nhà vào
nhóm người di cư Mặc dù là một trong không nhiều những báo cáo nghiên cứu về di cư quốc
tế với nhiều kết quả đáng chú ý, tuy nhiên bản thân các tác giả cũng nhận thấy tác động của di cư
quốc tế khá phức tạp do đó đòi hỏi nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này trong các nghiên cứu tiếp
theo.
Những phân tích, đánh giá từ các báo cáo kể trên đã cho thấy rất cần phải có cái nhìn đa chiều về
các tác động của quá trình di cư đối với sự phát triển kinh tế - xã hội tại Việt Nam. Di cư không
thể chỉ nhìn riêng ở một góc độ nào khi nó luôn mang trong mình cả những vấn đề tích cực và
17
tiêu cực. Hơn nữa để giải quyết các vấn đề về di cư không thể không gắn với các nghiên cứu về
chính sách có liên quan. Tuy nhiên dễ thấy rằng những khía cạnh chính sách ít được quan tâm
đúng mức trong nhiều nghiên cứu, do vậy các đề xuất chính sách từ nhiều nghiên cứu thường
chưa có tính thuyết phục cao. Thực tế này đòi hỏi cần tiếp tục thực hiện những nghiên cứu tổng
quát, toàn diện với những phân tích sâu sắc hơn về xu thế cũng như các cơ chế tác động của di
cư đối với xã hội cũng như gia đình và bản thân những người di cư, và tất nhiên phải được đi
kèm với những đánh giá chính sách tương ứng.
3. Các khía cạnh khác nhau của vấn đề di cư - từ nhu cầu cá nhân tới vấn đề chính sách
Cũng như các hiện tượng khác trong đời sống xã hội, hoạt động di cư cũng kéo theo hàng loạt
các vấn đề nảy sinh. Trong đó mỗi vấn đề, mỗi khía cạnh của hoạt động di cư đều chứa đựng
nhiều ý nghĩa và những đánh giá, phân tích về các khía cạnh này sẽ giúp nhìn nhận sâu sắc hơn
về câu chuyện di cư. Một số khía cạnh thường được đề cập nhiều hơn cả như: giới, việc làm, chất
lượng sống, khả năng tiếp cận với các dịch vụ xã hội, các nguy cơ/rủi ro, nhu cầu và chính sách
liên quan đến di dân.
• Nữ hóa di cư
Khi mà phụ nữ ngày càng chứng tỏ thế mạnh của mình bằng việc tích cực gia nhập thị trường lao
động, xu hướng nữ hóa di cư đã và đang trở thành xu hướng ngày càng được khẳng định. Phụ nữ
không còn bị trói buộc vào ngôi nhà, và mảnh đất tại các làng quê, mà sự định hướng nghề
nghiệp, mưu sinh đã dần chuyển hướng sang các khu công nghiệp và đô thị hiện đại. Không thể
phủ nhận những đóng góp của xu hướng này tới đời sống kinh tế - xã hội cũng như với cá nhân
người phụ nữ (nhất là ở khía cạnh bình đẳng giới), song những nguy cơ, rủi ro dành cho họ khi
chấp nhận cuộc sống di cư luôn thường nặng nề hơn so với lao động di cư nam giới. Cũng vì thế
nên dễ hiểu khi có nhiều nghiên cứu về di cư “xoáy sâu” vào khía cạnh giới.
Có thể điểm qua một số báo cáo nổi bật như: Báo cáo về Lao động nữ di cư giúp việc nhà từ
đồng bằng sông Cửu Long (Nghiên cứu tại phường 9 thị xã Trà Vinh) của tác giả Nguyễn Thị
Hòa – Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ; Báo cáo phụ nữ và lao động di cư của TS. Lê Thị
Kim Lan, Báo cáo di cư lao động từ nông thôn ra thành phố: Những khía cạnh tâm lý xã hội của
người phụ nữ bán hàng rong của PGS.TS. Trần Thị Minh Đức dựa trên kết quả số liệu thống kê
của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Tổng cục Thống kê về di cư lao động nữ và kết quả
phỏng vấn bán cấu trúc với một số lao động nữ di cư theo mùa (năm 2000 và 2004), Báo cáo
Tóm tắt một số chỉ số phân tích theo giới tính từ số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam
năm 2009, UNFPA, (5/2011), Báo cáo Giới và tiền chuyển về của lao động di cư (2012) của
Tổng cục Thống kê và Tổ chức Di cư quốc tế (IOM)
Báo cáo “Tóm tắt một số chỉ số phân tích theo giới tính từ số liệu của tổng điều tra dân số và
nhà ở Việt Nam năm 2009”, UNFPA, (5/2011) đưa ra nhiều nhận định quan trọng về hiện tượng
nữ giới hóa di cư. Bên cạnh các phân tích, tóm lược về các khác biệt về giới tính trong các vấn
đề: tình trạng hôn nhân, học vấn, giáo dục báo cáo cũng đã đi vào phân tích xu hướng nữ hóa
di cư và khẳng định sự gia tăng của dòng di cư nữ ngày càng có xu hướng rõ rệt hơn. Nữ di cư
18