Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

307 Một số giải pháp phát triển khu công nghiệp tại Đồng Nai đến năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (424.01 KB, 73 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài :

Tỉnh Đồng Nai nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có nhiều
thuận lợi để phát triển công nghiệp. Các khu công nghiệp Đồng Nai đã và đang
khẳng đònh vai trò quan trọng của mình trong sự nghiệp phát triển kinh tế – xã
hội của tỉnh Đồng Nai nói riêng và cả nước nói chung, góp phần đẩy mạnh quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Hiệu quả hoạt động của các khu công nghiệp tại tỉnh Đồng Nai nhìn chung
qua từng năm đều có sự gia tăng và ổn đònh, góp phần quan trọng vào tăng
trưởng kinh tế cao của tỉnh. Trong giai đoạn 1991 - 2000, Đồng Nai vẫn liên tục
giữ được tốc độ phát triển kinh tế bình quân 12,9%/năm. Đến giai đoạn 2001 –
2004, tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn đạt và vượt mục tiêu Nghò quyết Đại hội
tỉnh Đảng bộ đề ra : năm 2001 tăng 11,2%, năm 2002 tăng 12,2%, năm 2003
tăng 12,9%, năm 2004 tăng 13,56% (mục tiêu bình quân 5 năm 2001 – 2005 tăng
từ 10 – 12%), GDP bình quân đầu người đến năm 2004 đạt 699 USD/người/năm.
Phát triển khu công nghiệp được xác đònh là nhiệm vụ trọng điểm của kinh
tế đòa phương, là chiến lược mũi nhọn để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại
hoá của tỉnh. Nếu so sánh với hệ thống khu công nghiệp cả nước (năm 2004) thì
số lượng khu công nghiệp của tỉnh Đồng Nai chiếm 15%, diện tích chiếm 24%,
số dự án chiếm 21%, vốn đầu tư chiếm đến 31% và lao động chiếm khoảng
30%. So với các tỉnh, thành có khu công nghiệp, Đồng Nai có số lượng, diện
tích khu công nghiệp nhiều nhất, tốc độ phát triển nhanh nhất, thu hút vốn đầu
tư, số dự án và số lao động lớn nhất.
- 1 -

Bên cạnh những kết quả đạt được là khá tốt, vẫn còn nhiều hạn chế tồn tại
nảy sinh trong công tác quy hoạch, đầu tư xây dựng, quản lý và khai thác các
khu công nghiệp, còn tiềm ẩn nguy cơ mất ổn đònh vì phát triển nhanh sẽ kèm
theo những hậu quả về môi trường, về xã hội không chỉ cho tỉnh Đồng Nai mà


còn ảnh hưởng đến các đòa phương lân cận trong vùng kinh tế và cả nước. Do đó
cần cải tiến, khắc phục để thu hút đầu tư và phát triển ổn đònh, tận dụng được lợi
thế sẵn có một cách triệt để hơn.
Từ nhận xét tầm quan trọng của vấn đề phát triển các khu công nghiệp tỉnh
Đồng Nai, tôi chọn đề tài “Một số giải pháp phát triển các khu công nghiệp tại
tỉnh Đồng Nai đến năm 2010” để nghiên cứu.

2.
Mục tiêu nghiên cứu :
Vấn đề cơ bản mà luận văn muốn giải quyết là trên cơ sở những lý luận,
phân tích đánh giá hiện trạng hoạt động của các khu công nghiệp tỉnh Đồng Nai
trong những năm gần đây, rút ra những thành tựu và các tồn tại, hạn chế trong
quá trình phát triển, tìm ra các nguyên nhân để đưa ra các giải pháp khả thi
nhằm phát triển các khu công nghiệp tại tỉnh Đồng Nai đến năm 2010.

3.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu :
- Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng xây dựng và phát triển các khu
công nghiệp tại tỉnh Đồng Nai từ 1991 đến nay, trong đó chủ yếu tập trung vào
những năm gần đây.
- Luận văn nghiên cứu giới hạn trong phạm vi 23 khu công nghiệp ở tỉnh
Đồng Nai được quy hoạch đến năm 2010 và có xem xét so sánh với cả
nước.

- 2 -

4. Điểm mới của đề tài :
- Xem xét một cách tổng hợp những vấn đề trong và ngoài khu công nghiệp
tỉnh Đồng Nai trong mối tương quan với các khu công nghiệp cả nước.
- Xây dựng được những giải pháp cụ thể đáp ứng yêu cầu phát triển các

khu công nghiệp Đồng Nai trong thời kỳ từ nay đến năm 2010.
5.
Phương pháp nghiên cứu đề tài :
Luận văn dựa trên cơ sở những phương pháp luận của chủ nghóa duy vật
biện chứng, duy vật lòch sử và sử dụng các phương pháp nghiên cứu như mô tả,
thống kê, sử dụng lý thuyết hệ thống, phân tích, so sánh và tổng hợp.
6.
Kết cấu của Luận văn :
Ngoài phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo, các phụ lục, nội dung
của Luận văn được trình bày trong 03 chương:

Chương 1 : Cơ sở lý luận về khu công nghiệp
Chương 2 : Thực trạng phát triển các khu công nghiệp tỉnh Đồng Nai
Chương 3 : Một số giải pháp phát triển các khu công nghiệp tại tỉnh Đồng
Nai đến năm 2010
Vấn đề phát triển khu công nghiệp ở nước ta nói chung và tại tỉnh Đồng
Nai nói riêng còn mới mẻ, do vậy luận văn không thể tránh khỏi những thiếu
sót. Kính mong nhận được sự cảm thông và đóng góp ý kiến của qúy Thầy, Cô
trong hội đồng đánh giá, của các chuyên gia, bạn bè và đồng nghiệp để luận văn
được hoàn thiện hơn.







- 3 -

Chương 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHU CÔNG NGHIỆP



1.1. Những lý luận chung về khu công nghiệp
1.1.1. Khái niệm về khu công nghiệp
Nghò đònh 36/CP của Chính phủ ban hành ngày 24 tháng 04 năm 1997 về
Quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao đã nêu lên một số
khái niệm sau:
Khu công nghiệp (KCN): Khu công nghiệp là khu tập trung các doanh
nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dòch vụ sản xuất
công nghiệp, có ranh giới đòa lý xác đònh, không có dân cư sinh sống, do Chính
phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết đònh thành lập. Trong KCN có thể có
doanh nghiệp chế xuất.
Khu chế xuất (KCX): Khu chế xuất là khu tập trung các doanh nghiệp chế
xuất, chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dòch vụ cho sản xuất hàng
xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới đòa lý xác đònh, không có dân cư
sinh sống, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết đònh thành lập.
Khu công nghệ cao (KCNC): Là khu tập trung các doanh nghiệp công
nghiệp kỹ thuật cao và các đơn vò hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ
cao gồm nghiên cứu triển khai khoa học công nghệ, đào tạo và các dòch vụ liên
quan, có ranh giới đòa lý xác đònh, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt thành lập. Trong khu công nghệ cao có thể có khu chế xuất, kho ngoại
quan, khu bảo thuế và khu nhà ở.
1.1.2. Những nguyên tắc của việc quy hoạch, đầu tư xây dựng, quản lý và khai
thác các khu công nghiệp
1.1.2.1. Nguyên tắc về quy hoạch
- Việc quy hoạch KCN phải mang tính tổng thể, thống nhất trong phạm vi
cả nước, tránh tình trạng giữa hai tỉnh giáp ranh nhau có những KCN tập trung
gần kề nhau, lại bố trí những doanh nghiệp không tương thích nhau.
Ví dụ : bên
này là khu công nghệ cao, công nghiệp sạch thì bên kia là những doanh nghiệp

gây ô nhiễm.
- 4 -

- Quy hoạch KCN phải đồng thời quy hoạch cả bên trong và bên ngoài
KCN, phải gắn với việc đô thò hoá nông thôn và phù hợp với tiến trình chuyển
dòch cơ cấu kinh tế chung của mỗi đòa phương và cả nước.
- Tiết kiệm tối đa đất nông nghiệp, đặc biệt là đất trồng trọt màu mỡ để
xây dựng khu công nghiệp.
1.1.2.2. Nguyên tắc bình đẳng trong thu hút vốn đầu tư
Việc thu hút vốn đầu tư để phát triển các KCN cần phải bình đẳng giữa các
thành phần kinh tế, đảm bảo tính đa dạng của các thành phần tham gia đầu tư,
có như vậy mới phát huy được nội lực và tranh thủ được ngoại lực.
1.1.2.3. Nguyên tắc về công tác quản lý khu công nghiệp
Cần phân đònh rõ chức năng, nhiệm vụ trong công tác quản lý nhà nước:
- Nhà nước chòu trách nhiệm về mặt pháp lý, xây dựng hành lang pháp lý,
cấp phép, duyệt quy hoạch bên trong, bên ngoài KCN; chòu trách nhiệm đầu tư
bên ngoài KCN về cơ sở hạ tầng xã hội như cung cấp điện, nước, đường giao
thông, hệ thống thông tin liên lạc, các công trình phúc lợi xã hội, văn hoá, an
ninh quốc phòng, quản lý môi trường, đền bù giải tỏa.
- Doanh nghiệp đầu tư hạ tầng KCN chòu trách nhiệm về quy hoạch tổng
thể bên trong các KCN, tổ chức việc kinh doanh cơ sở hạ tầng trong KCN, thu
hút đầu tư và đảm bảo môi trường bên trong KCN.
- Doanh nghiệp KCN : Đầu tư vào việc sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản
phẩm, đảm bảo môi trường hoạt động của doanh nghiệp trong KCN, thực hiện
nghiêm túc pháp luật của Nhà nước và các chính sách xã hội khác.
1.1.2.4. Nguyên tắc tính tương thích trong bố trí các doanh nghiệp
Việc bố trí các doanh nghiệp trong KCN phải đảm bảo tính tương thích, tạo
nên sự hài hòa để tránh gây khó khăn cho việc xử lý môi trường, liên doanh,
liên kết, dẫn đến kém hiệu quả về mặt kinh tế – xã hội. Quy mô KCN và quy
mô doanh nghiệp đầu tư vào KCN phải phù hợp với đặc điểm công nghệ và phải

phù hợp với kết cấu hạ tầng chung của KCN.
- 5 -

1.1.2.5. Nguyên tắc đảm bảo các tiện ích công cộng
Bao gồm các tiện ích bên trong KCN như cung cấp cơ sở hạ tầng KCN
đúng tiến độ, đáp ứng được các yêu cầu của nhà đầu tư và các tiện ích bên ngoài
KCN như hệ thống thông tin liên lạc, đường giao thông, nhà ở cho công nhân,
vấn đề giáo dục y tế, văn hoá xã hội, thể thao, các tiện ích bảo đảm đời sống,
sinh hoạt cho người nước ngoài làm việc trong các doanh nghiệp KCN.
1.1.2.6. Nguyên tắc hiệu quả kinh tế xã hội
Hiệu quả là tiêu chuẩn cao nhất, đó là hiệu quả của toàn bộ xã hội mà nó
thể hiện ở hiệu quả kinh tế, hiệu quả trong việc phát triển xã hội và hiệu quả
của môi trường sinh thái. Để đảm bảo tính hiệu quả kinh tế, ở mỗi đòa phương
cần xem xét đến diện tích đất cho thuê trong các KCN, khả năng cung cấp
nguyên liệu trong nước hoặc nhập khẩu nguyên liệu sao cho tương đối thuận lợi,
có cự ly vận tải thích hợp cả về nguyên liệu và sản phẩm, đồng thời có thò
trường tiêu thụ sản phẩm trong và ngoài nước.
1.1.2.7. Nguyên tắc kết hợp chuyên môn hoá và hợp tác hoá
Coi trọng yêu cầu chuyên môn hoá, hợp tác hoá nhằm tránh được sự lãng
phí về thiết bò, đất xây dựng, tạo điều kiện để các doanh nghiệp tận dụng tối đa
cơ sở hạ tầng, khai thác triệt để nguồn lao động, công trình phúc lợi công cộng.
Trong quá trình sản xuất các doanh nghiệp có thể hỗ trợ lẫn nhau, tận dụng được
sản phẩm phụ của nhau.
Ví dụ : rỉ đường của nhà máy đường có thể làm nguyên
liệu cho nhà máy rượu, bã mía có thể làm nguyên liệu giấy.
1.1.2.8. Nguyên tắc tạo thêm việc làm cho xã hội
Khi xây dựng các KCN, cần xem xét khả năng thu hút lao động, điều đó
phản ảnh hiệu quả về mặt xã hội. Vì khi giải quyết việc làm cho người lao động
sẽ góp phần giải quyết các tệ nạn và tiêu cực xã hội, tăng thu nhập cho dân cư
và từ đó làm tăng hiệu quả kinh tế xã hội. Trong điều kiện nền kinh tế còn kém

phát triển như ở nước ta, việc quy hoạch và xây dựng các KCN có khả năng giải
quyết được nhiều việc làm cho người lao động càng có ý nghóa to lớn.
- 6 -

1.1.2.9. Nguyên tắc bảo vệ môi trường và cân bằng sinh thái
Khi bố trí các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp phải tính đến việc xử lý
chất thải, vệ sinh công nghiệp để hạn chế gây ô nhiễm môi trường xung quanh.
Các vấn đề về môi trường cần quan tâm như chất thải khí, nước thải, chất thải
rắn phải được kiểm soát chặt chẽ.
1.1.2.10. Nguyên tắc đảm bảo an ninh quốc phòng và trật tự xã hội của quốc gia
và từng đòa phương
Một KCN phát triển sẽ tập trung vốn, thiết bò, công nghệ, lao động… hình
thành một trung tâm sản xuất, đô thò nên tác động của nó là rất lớn đối với vấn
đề an ninh quốc phòng, an ninh trật tự. Phải giải quyết tốt hai vấn đề này thì mới
đảm bảo những điều kiện thuận lợi cho KCN phát triển ổn đònh.
1.1.3. Những căn cứ để lựa chọn khu công nghiệp
1.1.3.1. Những căn cứ để lựa chọn khu công nghiệp trên thế giới
Thông thường vùng lãnh thổ dùng để xây dựng KCN có ưu điểm về điều
kiện tự nhiên, đòa chất công trình, thuận tiện về cấp thoát nước, có khả năng
cung cấp công nhân lành nghề,… các nhà kinh doanh thuê đất trong khu vực này
để hình thành các doanh nghiệp trên cơ sở đã xem xét các điều kiện thuận lợi
cho quá trình sản xuất công nghiệp và tiêu thụ sản phẩm.
1.1.3.2. Những căn cứ để lựa chọn khu công nghiệp ở Việt Nam
Vò trí đòa lý : Nước ta đang hình thành các loại hình KCN có vò trí như sau:
- KCN xây dựng hoàn toàn mới: Vò trí thường tập trung tại các thành phố,
các khu vực đang phát triển, thuận lợi về giao thông, điện nước, thông tin liên
lạc, nguồn nhân công…
- KCN được xây dựng trên khuôn viên sẵn có một số doanh nghiệp đang
hoạt động: Do nhu cầu mở rộng mặt bằng, đổi mới công nghệ, … những doanh
nghiệp này chấp nhận thực trạng hiện có để cải tạo, nâng cấp.

- KCN ở những vùng sản xuất nguyên liệu : Những KCN này có vò trí ở các
vùng nông thôn, miền núi với mục đích chủ yếu là sử dụng nguyên liệu tại chỗ
và phát triển kinh tế đòa phương.
- 7 -

Diện tích : Diện tích một KCN lớn hay nhỏ cũng ảnh hưởng đến việc thu
hút đầu tư, nếu nhỏ thì chi phí đầu tư cơ sở hạ tầng và quản lý tốn kém, còn diện
tích quá lớn thì sẽ khó quản lý, thời gian lấp đầy KCN kéo dài, ảnh hưởng tới chi
phí phát triển cơ sở hạ tầng. Hiện nay các KCN ở nước ta thường có diện tích
trung bình từ 50 – 500 ha.
Đất xây dựng : Phải có quỹ đất dùng cho phát triển công nghiệp, đất phải
có khả năng xây dựng kết cấu hạ tầng thuận lợi, đảm bảo hiệu quả, phát triển
bền vững lâu dài, có đủ đất mở rộng và liên kết thành tổ hợp công nghiệp lớn,
hạn chế tối đa việc sử dụng đất nông nghiệp phì nhiêu để phát triển các KCN.
Khả năng cung cấp điện, nước : Việc cung cấp điện nước phải đáp ứng
được yêu cầu cho hoạt động công nghiệp. Chi phí cho việc xây dựng hệ thống
điện, nước không quá cao, nếu không sẽ đẩy giá thành cho thuê cơ sở hạ tầng
lên cao, khó cạnh tranh với các nước trong cùng khu vực.
Giao thông vận tải : Các khu công nghiệp phải xây dựng tại những khu vực
có thể phát triển hệ thống giao thông đến tận KCN, không nhất thiết hệ thống
giao thông phải có sẵn và không quá xa các trục lộ giao thông chính để đảm bảo
cho việc vận chuyển nguyên liệu và sản phẩm khi tiêu thụ…
Khả năng cung cấp lao động : Khi quy hoạch các KCN phải chú ý đến việc
đáp ứng nguồn nhân lực cho các KCN, lao động phải đảm bảo cả về chất lượng
lẫn số lượng với chi phí tiền lương thích hợp.
1.1.4. Các tổ chức liên quan đến hoạt động của khu công nghiệp
1.1.4.1. Vụ quản lý khu công nghiệp và khu chế xuất
Theo Nghò đònh 36/CP của Chính phủ, ban hành ngày 24/4/1997, quy đònh
rõ các KCN – KCX Việt Nam do Ban quản lý các KCN Việt Nam chòu trách
nhiệm điều hành, là cơ quan đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng Chính

phủ để giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo việc quy hoạch, đầu tư xây dựng, phát
triển và quản lý các KCN đã được quy hoạch và phê duyệt. Sau một thời gian
hoạt động do xuất hiện nhiều nhược điểm của cơ quan này như : có sự lầm lẫn
hoặc đồng nhất giữa chức năng, thẩm quyền của các cơ quan do Quốc hội và
Chính phủ thành lập với Ban quản lý các KCN Việt Nam.
- 8 -

Do những nhược điểm nêu trên, từ năm 2000, Ban quản lý các KCN Việt
Nam đã được chuyển giao về Bộ Kế hoạch và Đầu tư, sắp xếp đầu mối này vào
Vụ quản lý KCN và KCX.
Ngoài việc chuyển giao trên, nhiệm vụ của các Bộ, ngành Trung ương vẫn
thực hiện như Nghò đònh 36/CP của Chính phủ.
1.1.4.2. Ban quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh, thành phố
Theo Nghò đònh 36/CP, Ban quản lý KCN cấp tỉnh, thành phố là cơ quan
trực tiếp quản lý các KCN, là đơn vò dự toán ngân sách nhà nước, có các nhiệm
vụ, quyền hạn sau :
- Xây dựng điều lệ quản lý KCN trình Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt, quy
hoạch phát triển công trình kết cấu hạ tầng, quy hoạch bố trí ngành nghề, tham
gia phát triển công trình kết cấu hạ tầng ngoài KCN có liên quan và khu dân cư
phục vụ cho công nhân lao động tại KCN, hỗ trợ vận động đầu tư vào KCN, tổ
chức thẩm đònh và cấp giấy phép đầu tư cho các dự án đầu tư nước ngoài theo
thẩm quyền, thỏa thuận với các doanh nghiệp phát triển hạ tầng KCN trong việc
thẩm đònh giá cho thuê đất gắn liền với công trình kết cấu hạ tầng đã xây dựng,
phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền để kiểm tra, thanh tra việc thực hiện
các quy đònh của pháp luật về lao động.
- Các bộ, ngành ủy quyền cho Ban quản lý KCN cấp tỉnh thực hiện một số
nhiệm vụ quản lý nhà nước như : Bộ Kế hoạch và Đầu tư ủy quyền cấp, điều
chỉnh, thu hồi giấy phép đầu tư đối với các dự án đến 40 triệu USD. Bộ Thương
mại ủy quyền phê duyệt kế hoạch xuất nhập khẩu và quản lý hoạt động thương
mại, Bộ Lao động Thương binh Xã hội ủy quyền cấp phép cho người lao động

nước ngoài, Bộ Tài chính ủy quyền hướng dẫn thực hiện chế độ kế toán, Bộ Xây
dựng ủy quyền thẩm đònh thiết kế kỹ thuật, phòng Thương mại và Công nghiệp
Việt Nam ủy quyền cấp chứng chỉ xuất xứ hàng hóa, UBND cấp tỉnh ủy quyền
phê duyệt các dự án đầu tư trong nước.
1.1.4.3. Doanh nghiệp kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp
Là doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong nước hoặc các công ty
liên doanh với nước ngoài, có chức năng đầu tư, xây dựng và kinh doanh cơ sở
- 9 -

hạ tầng KCN. Tùy theo quy mô, một KCN có thể có một hay nhiều công ty phát
triển hạ tầng KCN tham gia, các doanh nghiệp này quản lý khai thác hạ tầng
bên trong KCN trong suốt thời gian các doanh nghiệp đầu tư vào KCN thuê đất.
1.1.4.4. Các doanh nghiệp trong khu công nghiệp
a) Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thông thường
Là doanh nghiệp được thành lập và hoạt động trong KCN, bao gồm doanh
nghiệp sản xuất và doanh nghiệp dòch vụ, với các thành phần như sau :
- Doanh nghiệp Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế;
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài;
- Các bên tham gia hợp đồng, hợp tác kinh doanh theo luật đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam.
b) Doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu (doanh nghiệp chế xuất)
Doanh nghiệp chế xuất là doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu,
thực hiện các dòch vụ chuyên cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất
khẩu.
1.2. Vai trò của khu công nghiệp
1.2.1 Công cụ thu hút vốn đầu tư cho phát triển kinh tế
Công tác thu hút đầu tư đều giới thiệu KCN đã quy hoạch với những thuận
lợi và điều kiện ưu đãi đối với các nhà đầu tư vào KCN, như : Hạ tầng sẵn có,
được cấp quyền sử dụng đất lâu dài, có sẵn nhà máy xử lý nước thải, cơ chế
quản lý một cửa một đầu mối, đất đai đã được đền bù giải tỏa, ưu đãi về thuế…

Điều này đã thực sự hấp dẫn và thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vốn dó rất lo
ngại về cơ sở hạ tầng không đầy đủ, đồng bộ và các thủ tục hành chính của nước
chủ nhà.
Cùng với chính sách khuyến khích đầu tư vào KCN, hiện nay nhà nước
cũng đang tiến hành di dời hàng loạt các doanh nghiệp trong nội thành gây ô
nhiễm môi trường vào các KCN, do đó KCN không chỉ là đòa chỉ hấp dẫn các
nhà đầu tư nước ngoài mà cả các nhà đầu tư trong nước, thúc đẩy quá trình huy
động vốn đầu tư cho công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.

- 10 -

1.2.2 Nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực
Đối với các nhà đầu tư, mục tiêu cao nhất là thu được lợi nhuận tối đa, chi
phí đầu tư thấp, do đó với hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật sẵn có của KCN nhà
đầu tư có thể xây dựng ngay nhà máy, tiết kiệm thời gian và tiền bạc, không bỏ
lỡ cơ hội đầu tư.
Sự thuận lợi về nguồn lao động, điện, nước, giao thông, thông tin liên lạc
và bố trí các cơ sở vật chất đồng bộ, hợp lý, giúp cho quá trình hoạt động sản
xuất kinh doanh được nhanh chóng, hạn chế thấp nhất sự gián đoạn trong sản
xuất do những điều kiện khách quan gây ra. Công suất thiết bò được sử dụng cao
nhất, hàng hoá sản xuất ra cũng nhanh chóng được đưa vào lưu thông, giảm
thiểu chi phí vận chuyển và bảo quản.
Các KCN được quy hoạch phát triển theo từng ngành, nghề nên việc khai
thác tài nguyên trở nên có khoa học và có hiệu quả, tránh được sự lạm dụng,
khai thác triệt để, dẫn đến làm kiệt quệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
1.2.3 Đầu mối tạo việc làm, hình thành các thò trấn và khu dân cư để thực hiện
đô thò hoá nông thôn
Các KCN sử dụng một lực lượng lao động khá lớn. Trên cơ sở cạnh tranh
để thu hút lao động, người lao động có cơ hội được cải thiện chế độ tiền lương,
điều kiện làm việc, chính sách thỏa đáng hơn trong tuyển dụng, sử dụng và đào

tạo.
Các KCN ra đời làm phong phú thêm hoạt động dòch vụ giao thông vận tải,
thương mại, giáo dục… tạo nhiều loại nhu cầu cho xã hội và những nhu cầu này
đã kích thích hoạt động của các ngành khác. Theo kết quả nghiên cứu của các
chuyên gia lao động, cứ một lao động trực tiếp sẽ cần khoảng 2 lao động gián
tiếp [17]. Do đó, chỉ với một KCN khá lớn sẽ hình thành các khu dân cư, khu thò
trấn, góp phần làm cho toàn bộ hoạt động đời sống văn hoá của dân cư ở các
vùng này phát triển.
- 11 -

1.2.4 Tạo điều kiện cho việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ
cao và kinh nghiệm quản lý
KCN được xem như là yếu tố thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ từ
các nước phát triển sang các nước đang phát triển. Thực vậy, để đảm bảo hiệu
quả hoạt động, nhà đầu tư thường trang bò công nghệ tương đối hiện đại, đồng
bộ, bằng hoặc cao hơn so với các thiết bò tiên tiến đã có trong nước chủ nhà và
thuộc loại phổ biến ở các nước công nghiệp trong khu vực, làm cho mặt bằng
chung về công nghệ của nền sản xuất trong nước được nâng lên.
Hoạt động chuyển giao công nghệ đã giúp người lao động nắm bắt được
những tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến trên thế giới và học tập được kinh
nghiệm quản lý kinh tế của các công ty nước ngoài.
1.2.5 Góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường
Việc tập trung phần lớn doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp gây ô
nhiễm vào các KCN có nhà máy xử lý nước thải tập trung, có hệ thống thu gom
và xử lý chất thải đã góp phần làm giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Nhà nước
chỉ cần kiểm soát môi trường qua hệ thống cống thoát chung của KCN.
1.2.6 Góp phần chuyển dòch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá
Trong xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra như hiện nay, các quốc gia, đặc
biệt là các quốc gia đang phát triển phải chấp nhận một cuộc cạnh tranh gay gắt

mà trước hết là tại thò trường trong nước với các công ty nước ngoài. Trong bối
cảnh đó, KCN đã đóng góp to lớn vào việc tăng trưởng kinh tế của đất nước, làm
chuyển dòch cơ cấu ngành công nghiệp và cơ cấu kinh tế, góp phần thực hiện
chiến lược sản xuất thay thế nhập khẩu và hướng về xuất khẩu mà một số nước
đã thực hiện. Việc phát triển thành công các KCN sẽ góp phần đẩy mạnh xuất
khẩu, tạo tích lũy để trang bò kỹ thuật hiện đại cho nền kinh tế.
- 12 -

1.3. Kinh nghiệm phát triển khu công nghiệp trên thế giới và bài học đối
với Việt Nam
1.3.1. Kinh nghiệm phát triển khu công nghiệp của thế giới
1.3.1.1. Trung Quốc [12]
Nhà nước thành lập các “Đặc khu kinh tế” với quy chế hoạt động tự do,
linh hoạt, được kinh doanh tổng hợp các loại hình sản xuất – dòch vụ, được tiêu
thụ một phần sản phẩm trong nội đòa, được khuyến khích sử dụng nguyên vật
liệu trong nước. Ban lãnh đạo đặc khu được cấp quyền hành rộng rãi, độc lập,
quyền hành không chỉ liên quan đến sản xuất mà còn liên quan đến hải quan,
cấp visa đi lại, lưu trú của nhà đầu tư nước ngoài. Điểm nổi bật tại các “Đặc khu
kinh tế” là sử dụng chính sách ưu đãi hơn so với chính sách đầu tư nước ngoài và
được áp dụng trong toàn quốc. Các chính sách này bao gồm những ưu đãi về
thuế, đất đai, quản lý ngoại hối, quản lý xuất nhập khẩu, lao động tiền lương,
các chính sách tiêu thụ sản phẩm…
Trong những năm gần đây, để đẩy nhanh tốc độ phát triển cao và bền
vững, Trung Quốc liên tục ban hành nhiều chính sách, biện pháp quan trọng
nhằm cải thiện môi trường đầu tư, có thể kể ra như:
- Coi trọng đầu tư của các công ty xuyên quốc gia trong các dự án sử dụng
công nghệ kỹ thuật cao thông qua việc nới lỏng kiểm soát việc thành lập các xí
nghiệp 100% vốn nước ngoài và các xí nghiệp do người nước ngoài điều phối.
- Cải cách hành chính và hệ thống ngoại thương, khuyến khích nhà đầu tư
nước ngoài đầu tư vào khu vực miền Trung và miền Tây. Cho phép các tỉnh

trong các vùng sâu, vùng xa, các khu tự trò được phê chuẩn các dự án dùng vốn
nước ngoài với tổng vốn đầu tư lên đến 30 triệu USD (mức cũ là 10 triệu USD).
Có thể tóm lược các nguyên nhân dẫn đến thành công như sau:
- Môi trường đầu tư tốt ở cả cấp độ vi mô và vó mô;
- Cơ sở hạ tầng thuận lợi cả về kỹ thuật lẫn đòa thế;
- Hệ thống các thủ tục hành chính thông thoáng;
- Tổ chức khá chặt chẽ mối liên kết giữa các doanh nghiệp bên trong và
ngoài đặc khu;
- 13 -

- Khai thác tốt các nguồn vốn trong công chúng để thu hút đầu tư;
- Giá cho thuê đất hợp lý.
1.3.1.2. Đài Loan [13]
Cách thức quy hoạch xây dựng và phát triển KCN được tổ chức khá chặt
chẽ. Chính quyền Trung ương căn cứ vào điều kiện tài nguyên, đặc điểm kinh tế
xã hội của từng vùng kết hợp với việc dự đoán, đánh giá xu hướng phát triển
khoa học kỹ thuật, triển vọng thò trường quốc tế trong khoảng thời gian dài từ 10
đến 20 năm để xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển ngành nghề. Trên cơ sở
quy hoạch tổng thể đònh hướng phát triển vùng, các nhà đầu tư sẽ xác đònh khả
năng xây dựng KCN với quy mô thích hợp trong từng vùng và quy hoạch chi tiết
trình cơ quan có thẩm quyền xin phép đầu tư xây dựng KCN.
Nhà nước khuyến khích đầu tư vào KCN bằng cách cho nhà đầu tư vay vốn
dài hạn với lãi suất cố đònh khoảng 6,2%/năm; miễn giảm thuế lợi tức các ngành
nghề khuyến khích, miễn thuế lợi tức 5 năm cho tất cả các doanh nghiệp đầu tư
mới; doanh nghiệp từ bên ngoài chuyển vào KCN được Chính phủ cho vay ưu
đãi và khi đi vào hoạt động được giảm 20% mức thuế phải nộp trong một vài
năm.
Cơ chế một cửa được áp dụng đối với việc cấp phép đầu tư, hải quan. Các
doanh nghiệp đăng ký hoạt động xuất khẩu tại Cục mậu dòch trực thuộc Bộ Kinh
tế. Quản lý Nhà nước đối với KCN được giao cho Cục Công nghiệp trực thuộc

Bộ Công nghiệp, trong đó chính quyền Trung ương trực tiếp quản lý 12 KCN
trọng điểm, các KCN còn lại do chính quyền đòa phương hoặc tư nhân quản lý
thông qua ban điều hành KCN do các doanh nghiệp KCN cử đại diện tham gia.
Nhà nước không thành lập cơ quan quản lý riêng cho từng KCN. Đồng thời Đài
Loan còn tách cơ quan hoạch đònh chiến lược phát triển, chính sách phát triển,
quy hoạch ra khỏi cơ quan quản lý điều hành nhằm đảm bảo tính khách quan
trong điều hành kinh tế. Trong quá trình triển khai, các cơ quan này có thể kiểm
tra công việc của nhau để kòp trình Chính phủ những giải pháp thích hợp khắc
phục những khiếm khuyết hoặc sai lầm trong quy hoạch, kế hoạch, chính sách,
hay trong công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện.
- 14 -

Có thể tóm tắt những nguyên nhân dẫn đến thành công của các KCN Đài
Loan như sau:
- Việc quy hoạch các KCN theo một tổng thể thống nhất;
- Phương thức quản lý các KCN của Chính phủ linh hoạt và có hiệu quả;
- Tổ chức các dòch vụ tốt để tạo thuận lợi cho nhà đầu tư;
- Vò trí đòa lý thuận lợi, giá cho thuê đất thấp.
1.3.1.3. Thái Lan [13]
Các khu quy hoạch xây dựng KCN đều được Nhà nước bảo trợ. Nhà nước
đứng ra bảo lãnh cho các công ty nhà nước vay mà không thế chấp, đồng thời
khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân, kể cả các công ty nước ngoài tham gia
xây dựng các KCN. Năm 1996 trong số 56 KCN tại Thái Lan, có 11 KCN do
Chính phủ lập và 45 KCN do các xí nghiệp tư nhân đầu tư.
Đối với công tác thu hút đầu tư, ngoài giá đất cho thuê thấp, dòch vụ hành
chính một cửa, nhà nước phân ba vùng phát triển KCN với những ưu đãi khác
nhau để khuyến khích đầu tư vào những vùng khó khăn, cụ thể :
- Thuế thu nhập công ty : 11 KCN ở vùng 1 (bao gồm Băng cốc và 5 tỉnh
phụ cận) được miễn trong vòng ba năm, 19 KCN ở vùng 2 (bao gồm 9 tỉnh xung
quanh khu vực 1) được miễn bảy năm và 54 KCN ở vùng 3 (gồm 62 tỉnh còn lại)

được miễn trong tám năm và giảm 50% trong năm năm tiếp theo.
- Thuế nhập khẩu nguyên liệu cho sản xuất : Trường hợp cả ba vùng xuất
khẩu ít nhất 30% thì vùng 1 và 2 được miễn trong một năm, vùng 3 được miễn
trong năm năm. Thuế nhập khẩu máy móc thiết bò : vùng 1 và 2 giảm 50%, vùng
3 miễn hoàn toàn.
Việc quản lý các KCN do Cục quản lý KCN Thái Lan (IEAT) đảm nhiệm,
mọi nhà đầu tư khi đầu tư vào KCN chỉ cần đến IEAT là có đủ thông tin về
mạng lưới các KCN và các yêu cầu thủ tục liên quan về ngành nghề đầu tư.
Để đảm bảo môi trường trong sạch, nhà nước ban hành luật KCN và các
quy chế bắt buộc để bảo vệ môi trường. Khi thành lập KCN phải có dự án thiết
kế xây dựng hệ thống xử lý nước thải và được cơ quan có thẩm quyền về môi
- 15 -

trường phê duyệt. Nước thải qua hệ thống xử lý liên hoàn và được sử dụng làm
lạnh nhà máy điện và tưới cây trong KCN. Đònh kỳ lấy mẫu chất thải kiểm tra
để xử lý kòp thời các vi phạm.
Tóm lại, điểm nổi bật của các KCN tại Thái Lan là giá cho thuê đất thấp,
quản lý một cửa, chú ý quy hoạch các mạng lưới đô thò ngoại vi thành phố và
quan tâm việc bảo vệ môi trường.
1.3.2. Bài học kinh nghiệm phát triển khu công nghiệp:
- Nhà nước phải bảo đảm tình hình chính trò, xã hội và kinh tế vó mô ổn
đònh, chế độ thương mại thích hợp.
- KCN được tổ chức theo không gian lãnh thổ một cách hợp lý trên cơ sở
quy hoạch của khu vực và của cả nước. Việc phát triển không chỉ tính trong
phạm vi từng đòa phương mà còn tính đến việc liên kết giữa các tỉnh, thành lân
cận với nhau nhằm phát huy tiềm năng của mỗi vùng.
- Quy hoạch, xây dựng đồng bộ KCN giữa kết cấu hạ tầng kỹ thuật, xã hội
bên trong và bên ngoài KCN, chú ý phát triển các khu vệ tinh bên ngoài KCN
như khu dân cư, khu đô thò, vùng nguyên liệu… để đảm bảo cho sự phát triển
ngày càng bền vững.

- Nguồn vốn đầu tư trên cơ sở phát huy nội lực bên trong đất nước, không
quá chú trọng nguồn vốn từ bên ngoài. Có chính sách nhất quán trong việc thu
hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nhà nước huy động mọi nguồn vốn trong xã
hội và khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển KCN.
- Giá cho thuê đất và nhà xưỡng hợp lý, hạ tầng kỹ thuật KCN tốt.
- Chủ trương phát triển các KCN phải được sự quan tâm của tất cả các ban
ngành trong cả nước từ trung ương đến đòa phương chứ không phải chỉ riêng
ngành công nghiệp.
- 16 -

- Nhà nước có chính sách đầu tư nhất quán trên cơ sở khuyến khích ưu đãi
cao, nhất là thuế. Bên cạnh những can thiệp bằng cơ chế, chính sách, Chính phủ
còn hỗ trợ về kinh tế cho các KCN ở đòa bàn khó khăn nhằm thúc đẩy phát triển
cả hệ thống KCN trong cả nước.
- Cơ chế quản lý linh hoạt, có hiệu quả cao, mô hình quản lý KCN phải thật
sự thông thoáng, thực hiện tốt cơ chế một cửa, đơn giản thủ tục hành chính, bộ
máy hành chính gọn nhẹ, tránh mức độ thấp nhất tệ quan liêu, hành chính gây
phiền hà cho các nhà đầu tư. Ban quản lý KCN được chủ động về tài chính nhằm
tạo điều kiện thực hiện tốt các chức năng được giao.
- Việc phát triển các KCN theo hai giai đoạn: Giai đoạn đầu thu hút các
doanh nghiệp, các ngành có hàm lượng lao động cao, ưu tiên những dự án xuất
khẩu, những dự án đầu tư vào những khu vực xa đô thò, chọn những ngành có lợi
thế so sánh và tạo mọi điều kiện cho ngành đó phát triển làm tiền đề cho các
ngành khác. Kết hợp xây dựng những nhà máy lớn – hiện đại, vừa và nhỏ. Giai
đoạn sau chú ý đến những dự án có công nghệ cao.
- Nguồn nhân lực : Lao động dồi dào, có kỹ năng, có những chính sách phát
triển nguồn nhân lực để đảm bảo cung cấp đủ nguồn nhân lực ngay từ khi có
đònh hướng phát triển các KCN.
- Các KCN thường được xây dựng ở những đòa điểm có lợi thế về kinh tế, xã
hội, tự nhiên như gần sân bay, bến cảng, đầu mối giao thông; cơ sở hạ tầng,

điện, nước đầy đủ; các tiện ích công cộng tốt, nguồn lao động dồi dào và có kỹ
thuật; có khả năng cung cấp nguồn nguyên liệu nội đòa.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1:

- 17 -


Để xây dựng một quốc gia trở thành một nước công nghiệp phát triển, nhiều
nước đã bắt đầu bằng việc hình thành và phát triển các khu công nghiệp – khu
chế xuất. Quá trình hình thành, xây dựng và phát triển các KCN là một quá trình
phức tạp, đa dạng và phong phú. Mỗi nước có phương hướng và cách thức khác
nhau, song đều có điểm chung là làm sao phát huy được lợi thế so sánh, mạnh
dạn đi vào các ngành kinh tế mũi nhọn, các vùng kinh tế trọng điểm, thực hiện
sự mở cửa rộng rãi theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu đồng thời quan tâm đến thò
trường trong nước.
Ở nước ta từ năm 1991 đến nay, Đảng và Nhà nước ta bắt đầu sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước bằng việc quy hoạch, xây dựng và phát
triển các khu công nghiệp.
Luận văn đã hệ thống hoá những vấn đề mang tính cơ sở lý luận chung về
khu công nghiệp như:
- Khái niệm về khu công nghiệp
- Những nguyên tắc của việc quy hoạch, đầu tư xây dựng và quản lý các
khu công nghiệp.
- Vai trò của các khu công nghiệp.
- Những căn cứ để lựa chọn khu công nghiệp.
- Các tổ chức liên quan đến hoạt động của các khu công nghiệp
Bên cạnh đó luận văn cũng trình bày những kinh nghiệm phát triển khu
công nghiệp của một số quốc gia Châu Á như Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan.
Từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm để xây dựng và phát triển các khu công

nghiệp tỉnh Đồng Nai nói riêng và cả nước nói chung.



- 18 -

Chương 2 : THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN
CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TỈNH ĐỒNG NAI

2.1. Những nét chung về tình hình phát triển các khu công nghiệp Việt Nam
trong thời gian qua
Quá trình hình thành và phát triển các KCN tỉnh Đồng Nai nằm trong bối
cảnh phát triển KCN ở Việt Nam, vì vậy thông qua phân tích khái quát thực
ftrạng phát triển các KCN cả nước, có thể nhận diện được thực trạng và vò trí
phát triển của các KCN tỉnh Đồng Nai một cách toàn diện.
2.1.1. Tình hình quy hoạch và phát triển các KCN ở Việt Nam
Sau 14 năm phát triển, đến tháng 12/2004, Thủ tướng Chính phủ đã duyệt
quy hoạch 152 KCN (không tính đến khu kinh tế Dung Quất 14.000 ha và khu
kinh tế mở Chu Lai 4.000 ha), với diện tích 25.400ha. Thành lập 112 KCN (trong
đó có 107 KCN và 5 KCX) với tổng diện tích 21.829ha, trong đó có 68 KCN đã
đi vào hoạt động với tổng diện tích tự nhiên là 14.012ha và 44 khu (tổng diện
tích tự nhiên là 7.817ha) đang trong giai đoạn đền bù giải phóng mặt bằng và
xây dựng kết cấu hạ tầng KCN.
Bảng 2.1 : Quy hoạch các khu công nghiệp Việt Nam đến 2010
Số KCN quy hoạch đã duyệt đến 2010
Stt Vùng
Số lượng Quy mô (ha)
1 Trung du miền núi phía bắc 5 553
2 Tây Nguyên 5 681
3 Đồng bằng sông Cửu Long 23 4.573

4 Đồng bằng sông Hồng 35 5.645
5 Duyên hải miền Trung 29 3.206
6 Đông Nam Bộ 55 13.271
Tổng cộng 152 25.400
Nguồn : Vụ quản lý KCN và KCX, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Riêng trong năm 2004, Thủ tướng Chính phủ đã cho phép thành lập mới 13
KCN ở 11 tỉnh và thành phố với tổng diện tích tự nhiên là 3.433ha (tăng 7% so
với năm 2003)
- 19 -

Trước tình hình thu hút đầu tư trong và ngoài nước tăng cao và mục tiêu
chuyển dòch cơ cấu kinh tế đòa phương, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Kế
hoạch và đầu tư phối hợp với các Bộ, ngành và đòa phương xây dựng đề án
“Điều chỉnh Quy hoạch phát triển KCN thời kỳ 2005 – 2020”. Hiện đề án này
đã được trình Thủ tướng Chính phủ xem xét phê duyệt với nhu cầu tiếp tục đầu
tư đồng bộ, mở rộng các KCN đã được thành lập và thành lập mới có chọn lọc
thêm khoảng 20.000ha đất dành cho KCN với 130 KCN (có 25 khu được mở
rộng diện tích).
Tuy nhiên quy hoạch phân bố không đều theo lãnh thổ, các KCN tập trung
chủ yếu tại 03 vùng : đồng bằng Sông Hồng, duyên hải miền Trung và Đông
Nam Bộ cả về số lượng 119/152 (chiếm 78%) và diện tích 19.593/25.400 ha
(chiếm 77% đất KCN).
Có 3 hình thức hình thành KCN : (1) thành lập mới hoàn toàn; (2) đã có
một số doanh nghiệp; (3) để di dời doanh nghiệp theo quy hoạch.
2.1.2. Vấn đề xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật các khu công nghiệp
2.1.2.1. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật trong khu công nghiệp
Trong 107 KCN đã triển khai đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, có 19 dự án hạ
tầng KCN là có vốn đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đăng ký 969 triệu USD
và 88 dự án hạ tầng KCN có vốn đầu tư trong nước đăng ký 22,6 ngàn tỷ đồng.
Vốn thực hiện đầu tư hạ tầng đến tháng12/2004 đạt trên 600 triệu USD và 5.376

tỷ đồng, chiếm trên 40% vốn đăng ký.
Một số KCN đã xây dựng hạ tầng hoàn chỉnh như khu chế xuất Tân Thuận,
khu chế xuất Linh Trung (TP. Hồ Chí Minh); KCN Việt Nam – Singapore (Bình
Dương); KCN Amata, Biên Hòa II (Đồng Nai)… Các KCN còn lại hầu hết đang
tiến hành đền bù giải toả, giải phóng mặt bằng, tiếp tục hoàn thiện cơ sở hạ
tầng.
Tình hình xây dựng cơ sở hạ tầng phụ thuộc phần lớn vào tiềm lực tài chính
của các công ty kinh doanh phát triển KCN. Một số KCN do chủ đầu tư hạ tầng
mạnh về tài chính nên tiến độ xây dựng nhanh và đảm bảo đầy đủ cơ sở hạ tầng
- 20 -

cho KCN. Còn nhiều KCN thiếu cơ sở hạ tầng do đơn vò đầu tư thiếu vốn, thiếu
năng lực.
2.1.2.2. Cơ sở hạ tầng ngoài khu công nghiệp
Hạ tầng ngoài KCN do Nhà nước đầu tư, tuy nhiên trong thời gian qua công
tác thu hút vốn đầu tư vào lónh vực này còn yếu và chưa đảm bảo. Một phần do
thiếu vốn từ ngân sách, thiếu sự phân công trách nhiệm rõ ràng, quá trình quy
hoạch và triển khai chưa đồng bộ, chưa có chính sách ưu đãi trong việc huy động
vốn, tốc độ phát triển KCN một số vùng khá cao đã vượt khả năng đối ứng của
hạ tầng chung của đòa phương, nhất là đường vào các KCN, trạm tiếp nhận nước
thải KCN, nhà ở công nhân, các dòch vụ khác phục vụ KCN và người lao động…
2.1.3. Tình hình thu hút đầu tư
Đến tháng 12/2004 các KCN cả nước thu hút được 232 dự án đầu tư mới
(tăng 10% so với năm 2003) có vốn đầu tư nước ngoài vào KCN với vốn đầu tư
đăng ký 1.016 triệu USD (tăng 33% so với năm 2002). Các KCN ở các đòa
phương Đồng Nai, Bình Dương, Tp. Hồ Chí Minh thu hút được nhiều dự án đầu
tư nước ngoài vào KCN, KCX nhất trong cả nước, chiếm khoảng 75% về số dự
án và vốn đầu tư nước ngoài mới vào các KCN của cả nước.
Bên cạnh các dự án đầu tư cấp mới trong năm 2004 có 358 dự án đầu tư
nước ngoài với tổng vốn đầu tư tăng thêm 789 triệu USD, nâng tổng vốn đầu tư

mới và đầu tư tăng vốn vào các KCN đến giữa tháng 12/2004 là 1,8 tỷ USD
(tăng 36% so với năm 2003). Như vậy, việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài cấp
mới và tăng vốn vào các KCN, KCX trong năm 2004 đạt gần 50% của cả nước.
Trong năm 2004 khu vực đầu tư của doanh nghiệp trong nước các KCN đã
thu hút được 213 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư đăng ký là 15,8
ngàn tỷ đồng (tăng 159% so với năm 2003). Tính đến hết năm 2004, các KCN cả
nước đã thu hút được 1.564 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với tổng vốn đăng ký
là 78,5 ngàn tỷ đồng, nếu tính cả 969 triệu USD và 22,6 ngàn tỷ đồng đầu tư
phát triển hạ tầng các KCN, và quy đổi thì tổng vốn đầu tư vào các KCN, KCX
của cả nước đạt trên 20 tỷ USD, trong đó có 1.700 dự án đi vào sản xuất kinh
doanh và 500 dự án đang triển khai xây dựng nhà xưỡng.
- 21 -

Tuy nhiên quy mô vốn đầu tư và hiệu quả sử dụng đất ngày càng thấp, năm
1999 bình quân là 1,61ha/dự án và 3,86 triệu USD/ha; năm 2000 là 0,92 ha/dự
án và 3,31 triệu USD/ha; năm 2001 là 1,86 ha/dự án và 1,13 triệu USD/ha; năm
2003 là 1,34 ha/dự án và 2,37 triệu USD/ha; năm 2004 là 2,97ha/dự án và 1,84
triệu USD/ha.
Các KCN đã thu hút được một nguồn vốn tương đối khá, đặc biệt là nguồn
vốn đầu tư nước ngoài thông qua việc đầu tư của các doanh nghiệp liên doanh
hoặc 100% vốn nước ngoài. Đối tượng các doanh nghiệp đầu tư vào KCN chủ
yếu thuộc nhóm nước công nghiệp mới NICs, Nhật Bản, ít các nhà đầu tư từ Mỹ,
EU (đối với đầu tư nước ngoài) và các doanh nghiệp vừa và nhỏ (đối với đầu tư
trong nước), lónh vực đầu tư chủ yếu là công nghiệp nhẹ (chế biến nông lâm sản,
dệt da, may mặc…), ít dự án công nghệ kỹ thuật cao. Đòa bàn đầu tư tập trung
chủ yếu ở các đòa bàn thuận lợi về đầu tư như ở các thành phố lớn, gần cảng
biển và sân bay quốc tế.
2.1.4. Tình hình cho thuê đất trong các khu công nghiệp
Các đơn vò kinh doanh hạ tầng KCN thuê đất của Nhà nước để đầu tư rồi
cho thuê lại đất và thu phí hạ tầng. Đến 12/2004 đã cho thuê được 5.772 ha đất,

chiếm gần 42% diện tích đất dành cho thuê (13.809 ha). Nếu không tính 38 KCN
thành lập mới năm 2003, năm 2004 và một số KCN đã thành lập từ năm 1997
nhưng chưa triển khai thì tỷ lệ lấp đầy của các KCN trong cả nước đạt 59,8%
diện tích đất công nghiệp.
Có 50 KCN đã cho thuê từ 50% diện tích đất trở lên (chiếm 47%). Một số
KCN đã được lấp đầy như KCN Biên Hòa II, KCN Linh Trung (giai đoạn 1),
KCN Tân Tạo (giai đoạn 1). Các KCN mới thành lập hoặc chưa phát huy thu hút
đầu tư cao nên tỷ lệ cho thuê đất còn tương đối thấp, nhất là những khu vực có
điều kiện khó khăn, hạ tầng yếu kém. Giá thuê đất trong KCN khá cao, giá thuê
đất ở TP. Hồ Chí Minh dao động ở mức 30 -108 USD/m
2
trong khi khung giá
- 22 -

chào của Bắc Kinh là 54 -73 USD/m
2
, Bangkok là 57 USD/m
2
. Giá đất cao cũng
là một trong những nguyên nhân khiến các KCN ở nước ta mất hấp dẫn thu hút
đầu tư.
Bảng 2.2 : Tình hình thuê đất tại các KCN Việt Nam đến 2004
Stt Tỷ lệ đất cho thuê/ đất công nghiệp (%) Số KCN Tỷ lệ (%)
1 Đã cho thuê trên 80% 25 23,4
2 Đã cho thuê từ 50% đến 80% 25 23,4
3 Đã cho thuê từ 30 đến 50% 17 15,9
4 Đã cho thuê đến 30% 18 16,8
5 Chưa cho thuê 22 20,5
Tổng cộng 107 100
Nguồn : Vụ quản lý KCN và KCX, Bộ Kế hoạch và Đầu tư

2.1.5. Tình hình sản xuất kinh doanh
Giá trò sản xuất hàng hoá và xuất khẩu của các doanh nghiệp trong KCN
ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong tổng sản lượng và kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam. Đến 12/2004 các doanh nghiệp trong KCN đã tạo ra giá trò sản xuất
công nghiệp trên 10.200 triệu USD (tăng 40% so với 2003), trong đó xuất khẩu
đạt trên 4.600 triệu USD (tăng 43% so với cùng kỳ 2003).
Bảng 2.3 : Tình hình sản xuất kinh doanh của các KCN Việt Nam đến 2004
KCN Đầu tư nước ngoài của cả nước
Sản xuất Xuất khẩu Sản xuất Xuất khẩu
Stt Năm
Sản
lượng
Tăng
(%)
Sản
lượng
Tăng
(%)
Sản
lượng
Tăng
(%)
Sản
Lượng
Tăng
(%)
1 1999 1.950 100 1.500 100 4.800 100 2.590 100
2 2000 3.555 182 2.170 145 6.500 135 3.320 128
3 2001 4.500 128 3.000 138 7.400 114 3.600 108
4 2002 5.000 111 3.200 107 9.000 121 4.500 125

5 2003 7.300 146 3.210 100 11.470 131 6.225 138
6 2004
10.200

140 4.600 143 15.000 130 7.780 125
Nguồn : Vụ quản lý KCN và KCX, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Nộp ngân sách nhà nước tăng nhanh, nếu trong năm 2003 các KCN đã nộp
ngân sách 421 triệu USD (tăng gấp 2,3 lần so với năm 2001 và 1,8 lần so với
- 23 -

năm 2002) thì trong năm 2004 các KCN đã nộp ngân sách khoảng 437 triệu USD
(tăng 12% so với cùng kỳ năm 2003).
2.1.6. Tình hình phát triển nguồn nhân lực
Như đã đề cập ở trên, hầu hết các lónh vực sản xuất trong các KCN đều là
công nghiệp nhẹ, sử dụng nhiều lao động như : dệt, may mặc, giày da, lắp ráp
điện tử,… Tính đến 12/2004, các KCN trong cả nước đã thu hút khoảng 600.000
người lao động trực tiếp (có đến 62% là lao động nữ), và khoảng hơn 1 triệu lao
động gián tiếp. Trong đó lực lượng chủ yếu là từ các vùng nông thôn đổ về, hầu
hết có trình độ văn hoá thấp và không có tay nghề, chỉ mới qua một số lớp dạy
nghề ngắn ngày tại các trung tâm đào tạo nghề. Một số doanh nghiệp nước
ngoài (đặc biệt là Nhật Bản) khi tuyển dụng thường có chế độ đào tạo nâng cao
tay nghề cho một số lao động tại các khâu quan trọng trong dây chuyền sản
xuất.
Nhìn chung, lực lượng lao động sau một thời gian sản xuất cũng đã thích
nghi dần với tác phong công nghiệp, tuy nhiên đa số lao động có thu nhập thấp,
nhà ở và các dòch vụ phục vụ thiếu thốn, ảnh hưởng đến đời sống vật chất và
tinh thần của người lao động.
Bảng 2.4 : Tình hình lao động trong các KCN Việt Nam đến 2004
Stt Đòa phương Lao động Tỷ lệ (%)
1 Đồng Nai 180.000 30,0

2 Thành phố Hồ Chí Minh 130.000 21,67
3 Bình Dương 100.000 16,67
4 Quảng Nam 20.000 3,33
5 Đà Nẵng 14.000 2,33
6 Hà Nội 13.000 2,17
7 Cần Thơ 13.000 2,17
8 Bình Đònh 12.000 2,0
9 Khác 118.000 19,67
Tổng cộng 600.000 100
Nguồn : Vụ quản lý KCN và KCX, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Tóm lại : Quá trình phát triển các KCN Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu to
lớn cả về giá trò sản lượng và giá trò xuất khẩu, các KCN không ngừng lớn mạnh.
- 24 -

Không chỉ đóng góp vào giá trò sản lượng công nghiệp chung của cả nước, các
KCN còn mang lại sắc thái mới cho hoạt động kinh tế công nghiệp, góp phần
vào việc đô thò hóa, hình thành nhiều khu dân cư mới, tạo nhiều việc làm cho
người lao động… Bên cạnh những thành tựu còn có những hạn chế về công tác
quy hoạch, về cơ chế chính sách, sự phát triển không đồng đều giữa các vùng,
bức tranh KCN Việt Nam chưa hoàn chỉnh về chi tiết cũng như tổng thể, chỉ tập
trung ở một số vùng có điều kiện thuận lợi. Chưa có sự hỗ trợ, hợp tác giữa các
đòa phương, vai trò điều tiết của trung ương chưa cao, ô nhiễm môi trường trong
KCN ngày càng gia tăng và nghiêm trọng. Vì vậy cần được rút kinh nghiệm để
phát triển các KCN theo hướng bền vững ngay từ khi hình thành KCN.
2.2. Tình hình phát triển các khu công nghiệp tỉnh Đồng Nai
Tỉnh Đồng Nai nằm ở vùng Đông Nam Bộ, phía đông và đông bắc giáp các
tỉnh Bình Thuận và Lâm Đồng, phía tây bắc giáp Thành phố Hồ Chí Minh và
tỉnh Bình Dương, phía nam giáp tỉnh Bà Ròa – Vũng Tàu. Thuận lợi về giao
thông cả đường hàng không, đường bộ và đường thủy, gần các nút giao thông
quan trọng như cảng thành phố Hồ Chí Minh, sân bay Tân Sơn Nhất, quốc lộ 1

và quốc lộ 51, hệ thống cảng Bà Ròa – Vũng Tàu, đường cao tốc Tp. Hồ Chí
Minh – Long Thành, Long Thành – Dầu Giây, hệ thống đường sắt Dầu Giây –
Vũng Tàu, hệ thống cảng trên sông Lòng Tàu, Thò Vải. Đất đai tương đối bằng
phẳng và nền đất cứng, khí hậu thuận lợi. Đến nay, Đồng Nai trở thành một
trong những đòa phương phát triển KCN lớn nhất và nhanh nhất trong cả nước.
Có thể nói đóng góp của KCN vào sự phát triển của đòa phương và quốc gia là
rất lớn, song hiện nay việc phát triển KCN vẫn còn nhiều khó khăn, tồn tại.
2.2.1. Công tác quy hoạch các khu công nghiệp
Tính đến 31/12/2004, tỉnh đã quy hoạch 23 KCN (chiếm 15,1% so với cả
nước) với tổng diện tích quy hoạch ban đầu là 8.119ha, chủ yếu dọc theo hành
lang quốc lộ 1A và quốc lộ 51 nối tỉnh Đồng Nai với các tỉnh thành phố nằm
trong khu vực kinh tế trọng điểm phía nam, thuận lợi trong việc xây dựng hệ
thống cung cấp điện, nước, thông tin liên lạc, giao thông vận tải, cung ứng nhân
công,… Ngoài ra tỉnh cũng đã quy hoạch bổ sung 09 KCN khác (đến 2010) với
- 25 -

×