Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

tiểu luận chính sách phá giá tiền tệ ( giai đoạn 2008 – 2011)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.88 KB, 14 trang )

LỜI MỞ ĐẦU

Tháng 11 năm 2006, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức
kinh tế thế giới WTO. Có thể nói đây vừa là thời cơ, vừa là thách thức đối với một nền
kinh tế vừa mới chuyển mình chưa được bao lâu như nước ta. Việc gia nhập WTO mở
ra cơ hội thuận lợi để Việt Nam thu hút các luồng vốn đầu tư cả từ trong lẫn ngoài
nước dưới nhiều hình thức khác nhau. Nhờ lợi thế về nguồn nhân công, đất đai, tài
nguyên còn rẻ và trong bối cảnh thị trường Việt Nam đầy tiềm năng, khá mở, môi
trường đầu tư kinh doanh ngày càng được cải thiện thông qua những chính sách và
biện pháp hấp dẫn, Việt Nam trở thành một điểm sáng đối với các nhà đầu tư. Những
nguồn vốn đầu tư quan trọng như vậy đổ vào Việt Nam đã giúp duy trì tăng trưởng
cao khá ổn định của nền kinh tế Việt Nam trong nhiều năm qua, đồng thời góp phần
thúc đẩy tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam.Tuy nhiên, bên cạnh những phát triển tích
cực cơ bản nói trên, nền kinh tế Việt Nam cũng có những mặt hạn chế, yếu kém và
những thách thức cần phải khắc phục.
Trong bối cảnh hiện nay, để phát triển nhanh và bền vững, Chính phủ Việt
Nam đã và đang áp dụng nhiều chính sách nhằm thúc đẩy và ổn định nền kinh tế. Một
trong những chính sách mà chúng em muốn đề cập đến trong bài tiểu luận này là
chính sách phá giá tiền tệ ( giai đoạn 2008 – 2011).
Trong tiểu luận này, chúng em đã nghiên cứu, tập hợp phần lớn những thông
tin, kiền thức liên quan đến phá giá tiền tệ, từ cơ sở lý luận của phá giá tiền tệ đến ảnh
hưởng của nó đến tài khoản vãng lai, quá trình sản xuất, lạm phát và ngân sách. Tài
liệu được xây dựng phù hợp với nội dung của học phần nhập môn tài chính tiền tệ,
góp phần bổ sung kiến thức và thông tin về phá giá tiền Việt Nam một cách có hệ
thống.
Trong bài tiểu luận này chúng em có thể còn nhiều những sai sót chưa phát
hiện, rất mong nhận được sự tư vấn, chỉnh sửa của giảng viên để bài tiểu luận được
đầy đủ, chính xác và hơn nữa, trở thành một tài liệu hữu ích trong việc học chuyên
ngành của chúng em.
Tập thể nhóm sinh viên viết bài
1


1. Khái niệm:
Phá giá tiền tệ là việc giảm giá trị của đồng nội tệ so với các loại ngoại tệ so
với mức mà chính phủ đã cam kết duy trì trong chế độ tỷ giá hối đoái cố định. Việc
phá giá Việt Nam đồng nghĩa là giảm giá trị của nó so với các ngoại tệ khác
như USD, EUR
2. Tại sao chính phủ phá giá tiền tệ:
 Chính phủ sử dụng biện pháp phá giá tiền tệ để có thể nâng cao năng lực
cạnh tranh một cách nhanh chóng và hiệu quả hơn so với cơ chế để nền kinh tế tự
điều chỉnh theo hướng suy thoái (vì khả năng cạnh tranh kém nên cầu xuất khẩu ròng
giảm dẫn đến tổng cầu giảm) đi kèm với mức lạm phát thấp kéo dài cho đến khi năng
lực cạnh tranh tăng lên (do tiền lương, giá cả giảm xuống đến mức có khả năng cạnh
tranh). Chính phủ các nước thường sử dụng chính sách phá giá tiền tệ khi có một cú
sốc mạnh và kéo dài đối với cán cân thương mại.
 Trong trường hợp cầu về nội tệ giảm thì chính phủ sẽ phải dùng ngoại tệ
dữ trữ để mua nội tệ vào nhằm duy trì tỷ giá hối đoái và đến khi ngoại tệ dự trữ cạn
kiệt thì không còn cách nào khác, chính phủ phải phá giá tiền tệ.
Một chính sách phá giá đồng Việt Nam có tác dụng như một liệu pháp gây hiệu
ứng tích cực đến nền kinh tế hay không còn phụ thuộc vào tình hình ban đầu và vào
qui mô cũng như thời gian của các hiệu ứng giảm cầu và khuyến khích sản lượng.
Điều này cũng tùy thuộc vào qui mô tương đối của khu vực sản xuất hàng mậu dịch
và phi mậu dịch, vào phản ứng của các khu vực này trước biến động của quan hệ tỷ
giá, vào hệ số co giãn của nhu cầu nhập khẩu và các hàng hóa thay thế trong nước và
một số yếu tố khác và đặc biệt là năng lực quản lý của nhà nước.
3. Cơ sở lý luận của phá giá tiền tệ:
Xét về mặt lý thuyết, biện pháp phá giá tiền tệ thường được thực hiện để tăng
sức cạnh tranh của hàng hóa nội địa nhằm cải thiện cán cân thanh toán vãng lai. Tuy
nhiên, điểm yếu của phá giá là sẽ làm tăng giá hàng hóa trong nước, ảnh hưởng lên
lạm phát. Do đó, để hạn chế lạm phát, các biện pháp thường được sử dụng là đồng
thời phải giảm thâm hụt ngân sách và thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt.
4. Tác động của việc phá giá tiền tệ:

Trong ngắn hạn
Khi giá cả và tiền lương tương đối cứng nhắc thì ngay lập tức việc phá giá tiền
tệ sẽ làm cho tỷ giá hối đoái thực tế thay đổi theo, nâng cao sức cạnh tranh của quốc
gia và có xu hướng làm tăng xuất khẩu ròng vì hàng xuất khẩu rẻ đi một cách tương
đối trên thị trường quốc tế còn hàng nhập khẩu đắt lên tương đối tại thị trường nội địa.
Tuy vậy có những yếu tố làm cho xu hướng này không phát huy tức thì: các hợp đồng
đã thoả thuận trên cơ sở tỷ giá cũ, người mua cần có thời gian để điều chỉnh hành vi
trước mức giá mới và quan trọng hơn là việc dồn các nguồn lực vào và tổ chức sản
2
xuất không thể tiến hành nhanh chóng được. Như vậy trong ngắn hạn thì số lượng
hàng xuất khẩu không tăng mạnh và số lượng hàng nhập khẩu không giảm mạnh. Nếu
giá hàng xuất khẩu ở trong nước cứng nhắc thì kim ngạch xuất khẩu chỉ tăng không
nhiều đồng thời giá hàng nhập khẩu tính theo nội tệ sẽ tăng lên do tỷ giá đã thay đổi
dẫn đến cán cân thanh toán vãng lai có thể xấu đi.
Trong trung hạn
GDP hay chính là tổng cầu gồm các thành tố chi cho tiêu dùng của dân cư, chi
cho đầu tư, chi cho mua hàng của chính phủ và xuất khẩu ròng. Việc phá giá làm tăng
cầu về xuất khẩu ròng và tổng cung sẽ điều chỉnh như sau:
 Nếu nền kinh tế đang ở dưới mức sản lượng tiềm năng thì các nguồn lực
nhàn rỗi sẽ được huy động và làm tăng tổng cung.
 Nếu nền kinh tế đã ở mức sản lượng tiềm năng thì các nguồn lực không
thể huy động thêm nhiều và do đó tổng cung cũng chỉ tăng lên rất ít dẫn đến việc tăng
tổng cầu kéo theo giá cả, tiền lương tăng theo và triệt tiêu lợi thế cạnh tranh của việc
phá giá. Vì thế trong trường hợp này, muốn duy trì lợi thế cạnh tranh và đạt mục tiêu
tăng xuất ròng thì chính phủ phải sử dụng chính sách tài chính thắt chặt (tăng thuế
hoặc giảm mua hàng của chính phủ) để tổng cầu không tăng nhằm ngăn chặn sự tăng
lên của giá cả trong nước.
Trong dài hạn
Nếu như trong trung hạn, phá giá tiền tệ kèm theo chính sách tài chính thắt chặt
có thể triệt tiêu được áp lực tăng giá trong nước thì trong dài hạn các yếu tố từ phía

cung sẽ tạo ra áp lực tăng giá. Hàng nhập khẩu trở nên đắt tương đối và các doanh
nghiệp sử dụng đầu vào nhập khẩu sẽ có chi phí sản xuất tăng lên dẫn đến phải tăng
giá; người dân tiêu dùng hàng nhập khẩu với giá cao hơn sẽ yêu cầu tăng lương và gây
áp lực làm cho tiền lương tăng. Cuối cùng việc tăng giá cả và tiền lương trong nước
vẫn triệt tiêu lợi thế cạnh tranh do phá giá. Các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy lợi
thế cạnh tranh do phá giá bị triệt tiêu trong vòng từ 4 đến 5 năm.
5. Những ảnh hưởng của việc phá giá tiền tệ:
Ảnh hưởng của phá giá tiền tệ đối với tài khoản vãng lai:
Mục tiêu của phá giá tiền tệ là làm tăng sức cạnh tranh của hàng hóa nội địa và
từ đó cải thiện cán cân thanh toán vãng lai. Khi đồng nội tệ giảm giá sẽ làm tăng tỷ giá
danh nghĩa, kéo theo tỷ giá thực tăng sẽ kích thích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu,
cải thiện cán cân thương mại. Theo lý thuyết, khi nội tệ giảm giá sẽ làm tăng giá hàng
nhập tính theo giá trị nội tệ và giảm giá hàng xuất tính theo ngoại tệ, do đó dẫn đến
phản ứng là khuyến khích người trong nước giảm tiêu thụ hàng nhập và gia tăng sản
xuất hàng cho xuất khẩu. Theo lý thuyết của Keynes, điều này sẽ kích cầu hàng trong
nước và do đó thu nhập quốc gia sẽ gia tăng theo cấp số nhân. Khi tỷ giá tăng (phá
giá), giá xuất khẩu rẻ đi khi tính bằng ngoại tệ, giá nhập khẩu tính theo đồng nội tệ
tăng được gọi là hiệu ứng giá cả. Khi tỷ giá giảm làm giá hàng xuất khẩu rẻ hơn đã
làm tăng khối lượng xuất khẩu trong khi hạn chế khối lượng nhập khẩu. Hiện tượng
này gọi là hiệu ứng khối lượng.
3
Tuy nhiên, việc cán cân thương mại xấu đi hay được cải thiện tùy thuộc vào
hiệu ứng giá cả và hiệu ứng số lượng cái nào trội hơn.
- Trong ngắn hạn, khi tỷ giá tăng trong lúc giá cả và tiền lương trong nước
tương đối cứng nhắc sẽ làm giá hàng hóa xuất khẩu rẻ hơn, nhập khẩu trở nên đắt hơn:
các hợp đồng xuất khẩu đã được ký kết với tỷ giá cũ, các doanh nghiệp trong nước
chưa huy động đủ nguồn lực để sẵn sàng tiến hành sản xuất nhiều hơn trước nhằm đáp
ứng nhu cầu xuất khẩu tăng lên, cũng như nhu cầu trong nước tăng lên. Ngoài ra,
trong ngắn hạn, cầu hàng nhập khẩu không nhanh chóng giảm còn do tâm lý người
tiêu dùng. Khi phá giá, giá hàng nhập khẩu tăng lên, tuy nhiên, người tiêu dùng có thể

lo ngại về chất lượng hàng nội chưa có hàng thay thế xứng đáng hàng nhập làm cho
cầu hàng nhập khẩu chưa thể giảm ngay. Do đó, số lượng hàng xuất khẩu trong ngắn
hạn không tăng lên nhanh chóng và số lượng hàng nhập cũng không giảm mạnh. Vì
vậy, trong ngắn hạn hiệu ứng giá cả thường có tính trội hơn hiệu ứng số lượng làm
cho cán cân thương mại xấu đi.
- Trong dài hạn, giá hàng nội địa giảm đã kích thích sản xuất trong nước và
người tiêu dùng trong nước cũng đủ thời gian tiếp cận và so sánh chất lượng hàng
trong nước với hàng nhập. Mặt khác, trong dài hạn, doanh nghiệp có thời gian tập hợp
đủ các nguồn lực để tăng khối lượng sản xuất. Lúc này sản lượng bắt đầu co giãn, hiệu
ứng số lượng có tính trội hơn hiệu ứng giá cả làm cán cân thương mại được cải thiện.
Về mặt lý thuyết, phá giá tiền tệ sẽ làm cho cán cân thương mại diễn biến theo
"hiệu ứng tuyến J".
Hiệu ứng tuyến J:
Khái niệm hiệu ứng tuyến J: Khi phá giá tiền tệ, thời gian đầu sẽ làm cán cân
thương mại thâm hụt thêm, sau đó sẽ được cải thiện dần.
Nguyên nhân: Cầu về nhập khẩu và cung về nhập khẩu trong ngắn hạn có độ
co giãn thấp hơn so với trong dài hạn.
Cơ chế:
- Khi giảm giá nội tệ, tuy giá hàng hóa nhập khẩu tăng, nhưng người tiêu
dùng trong nước vẫn tiếp tục mua hàng nhập khẩu, do:
+ Người tiêu dùng vẫn chưa điều chỉnh ngay việc ưu tiên mua hàng nội thay
thế (đường cầu không giãn).
+ Các nhà sản xuất trong nước cần một khoảng thời gian nhất định mới sản
xuất được hàng thay thế nhập khẩu.
- Ngược lại, xuất khẩu cũng chưa được cải thiện do người tiêu dùng nước
ngoài chưa thay đổi được thói quen tiêu dùng trong ngắn hạn, đồng thời nhà sản xuất
chưa thể ngay lập tức nâng cao được năng lực sản xuất hàng xuất khẩu.
 Thời gian đầu phá giá tiền tệ làm cán cân thương mại bị thâm hụt thêm do mức
tăng xuất khẩu không đủ bù đắp nhập khẩu.
+ Giá trị nhập khẩu ngay lập tức tăng ( khối lượng nhập khẩu giữ nguyên,

tỷ giá thay đổi).
+ Giá trị xuất khẩu tăng nhẹ (chưa thể cải thiện ngay khối lượng xuất
khẩu).
Một thời gian sau, khi nhập khẩu và xuất khẩu đều co giãn (giá trị nhập khẩu
giảm dần và giá trị xuất khẩu tăng dần), cán cân thương mại sẽ dần được cải thiện và
tăng lên.
4
Nếu vẽ đồ thị với trục tung là thể hiện cán cân thương mại, trục hoành thể hiện
thời gian, sẽ thấy ngay hình chữ J.
Đồ thị hiệu ứng tuyến J
Một số nhân tố ảnh hưởng đến thời gian tác động lên cán cân thương mại sau
khi phá giá bao gồm:
- Năng lực sản xuất hàng hóa thay thế nhập khẩu: Đối với các nền kinh tế đang
phát triển (Việt Nam thuộc nhóm nước này), có một số hàng hóa các nền kinh tế này
không thể sản xuất được hay có sản xuất được đi nữa thì chất lượng không tốt bằng
hoặc giá cả có thể cao hơn. Vì vậy, mặc dù giá nhập khẩu có đắt hơn, người tiêu dùng
cũng không thể lựa chọn hàng trong nước. Điều này làm kéo dài thời gian của hiệu
ứng giá cả.
- Tỷ trọng hàng hóa đủ tiêu chuẩn xuất khẩu: Đối với các nước đang phát triển,
yêu cầu về chuẩn hàng hóa tham gia thương mại quốc tế cao, cho nên một sự phá giá
tiền tệ làm cho khối lượng xuất khẩu tăng chậm hơn. Điều này làm cho hiệu ứng khối
lượng ít có tác động đến cán cân thương mại hơn ở các nước đang phát triển. Vì vậy,
tác động cải thiện cán cân thương mại của phá giá ở các nước phát triển thường mạnh
hơn ở các nước đang phát triển.
- Tỷ trọng hàng nhập khẩu trong giá thành hàng sản xuất trong nước: Nếu tỷ
trọng này cao, giá thành sản xuất của hàng hóa trong nước sẽ tăng lên khi hàng nhập
khẩu tăng giá. Điều này làm triệt tiêu lợi thế giá rẻ của hàng xuất khẩu khi phá giá.
Cho nên, phá giá tiền tệ chưa hẳn đã làm tăng khối lượng hàng xuất khẩu.
- Mức độ linh hoạt của tiền lương: Động thái phá giá tiền tệ thường làm chỉ số
giá hàng tiêu dùng tăng lên. Nếu tiền lương linh hoạt, nó sẽ tăng theo chỉ số giá. Điều

này làm tăng chi phí sản xuất, từ đó làm cho giá hàng trong nước giảm bớt lợi thế có
được từ phá giá tiền tệ.
- Tâm lý người tiêu dùng và thương hiệu quốc gia của hàng hóa trong nước:
Nếu người tiêu dùng trong nước có tâm lý sùng hàng ngoại, thì một sự đắt lên của
hàng nhập và sự rẻ đi của hàng trong nước có tác động đến hành vi tiêu dùng của họ,
5
họ sẽ tiếp tục sử dụng hàng nhập mặc dù giá có đắt hơn. Tiếp theo, mức độ gia tăng số
lượng hàng xuất khẩu phụ thuộc vào sự tin tưởng và ưa chuộng hàng hóa xuất khẩu
của người tiêu dùng nước ngoài.
Việc phá giá đồng nội tệ sẽ giúp cho hàng hoá nước đó có sức cạnh tranh tốt
hơn hàng của nước ngoài, điều này sẽ hỗ trợ kích thích xuất khẩu và hạn chế nhập
khẩu bằng việc sử dụng hàng nội địa có giá thấp hơn. Mặc dù vậy, đối với lợi thế có
được từ sự can thiệp của Nhà nước này cần hết sức lưu ý đến Luật chống bán phá giá
tại các nước sở tại.
Thời gian gần đây, các vụ kiện chống bán phá giá hàng Việt Nam trên một số
thị trường xuất khẩu chủ yếu đang rộ lên và việc điều chỉnh tỷ giá (chỉ nâng mà không
giảm) liên tục sẽ có khả năng tạo "cớ" cho các đối thủ cạnh tranh vận động hành lang
cho các vụ kiện, nhất là trong bối cảnh các quốc gia đang có xu hướng bảo vệ kinh tế
và việc làm nội địa bằng các chính sách bảo hộ phi thuế quan khác nhau.
Ảnh hưởng của phá giá tiền tệ đối với lạm phát
Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm sức
mua của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá giá tiền
tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác. Thông thường theo nghĩa đầu tiên
thì người ta hiểu là lạm phát của đơn vị tiền tệ trong phạm vi nền kinh tế của một quốc
gia, còn theo nghĩa thứ hai thì người ta hiểu là lạm phát của một loại tiền tệ trong
phạm vi thị trường toàn cầu.
Do giá cả nhập khẩu tăng, nên giá cả nội địa cũng thường tăng lên sau khi thực
hiện phá giá tiền tệ. Ảnh hưởng này sẽ càng lớn nếu nhập khẩu chiếm một tỉ trọng lớn
trong tiêu dùng nội địa và nếu nhà xuất khẩu đặt giá nội địa cao bằng với giá xuất
khẩu sang nước ngoài. Việc tăng giá hàng nội địa sẽ làm ảnh hưởng đến mối quan hệ

giá cả - lương. Nếu lương được điều chỉnh theo mức độ lạm phát thì trong trường hợp
này lương sẽ tăng. Như vậy, sẽ dẫn tới hiện tượng lạm phát leo thang gây ảnh xấu đến
tiết kiệm, đầu tư, phát triển kinh tế, phân bổ thu nhập cũng như ổn định chính trị. Phá
giá tiền tệ có thể châm ngòi cho cuộc suy thoái đi kèm lạm phát. Tăng giá trong giai
đoạn đầu sẽ làm giảm bớt sức mua, trong khi làm tăng chi phí trong nước. Khối lượng
nhu cầu về tiền tệ đã có từ trước giờ đây có thể duy trì khối lượng sản xuất nhỏ hơn. Ở
đây có sự đánh đổi giữa tác động gây lạm phát và tác động gây suy thoái, nhưng kết
quả cuối cùng tình trạng lạm phát nhiều hơn và hoạt động kinh tế thực tế suy giảm.
Tuy nhiên, tác động giảm bớt nhu cầu của biện pháp phá giá có thể tăng lên, nếu như
nó dẫn tới hậu quả chuyển thu nhập thực tế từ người sản xuất hàng hóa phi mậu dịch
có khuynh hướng tiết kiệm biên thấp sang người sản xuất hàng mậu dịch có khuynh
hướng tiết kiệm biên cao hơn.
Khi đồng tiền bị phá giá mạnh, thông thường người sản xuất lệ thuộc vào các
nguồn nguyên liệu nhập khẩu sẽ gặp khó khăn về vốn lưu động, bởi vì giờ đây họ phải
trả một lượng nội tệ nhiều hơn để có thể bảo đảm duy trì kinh doanh ổn định trước khi
họ có thể chuyển phần chi phí tăng thêm cho người tiêu dùng. Hiệu ứng này sẽ bị
khuếch đại lên nếu các doanh nghiệp trong nước có phần nợ chủ yếu bằng ngoại tệ.
Những khó khăn trong phương tiện thanh toán như vậy rất phổ biến và có thể làm tăng
6
hiệu ứng lạm phát lên đáng kể như đã nói ở trên, nhất là khi những hạn chế về tín
dụng không cho phép hệ thống ngân hàng đáp ứng các nhu cầu tăng lên về vốn lưu
động của các doanh nghiệp. Hiệu ứng suy thoái tiềm tàng này có thể được dùng để
luận chứng chống lại việc phá giá tiền tệ theo hai cách. Thứ nhất, suy thoái có thể dẫn
đến giảm đầu tư, vì nhu cầu trở nên nhỏ hơn và lòng tin cũng bị suy giảm, điều này có
thể làm chậm những thay đổi cơ cấu cần thiết để có thể tái phân phối các nguồn lực
cho các ngành sản xuất hàng mậu dịch. Thứ hai, cái giá phải trả khi sử dụng công cụ
này thường quá cao, nếu nó dẫn tới sự suy giảm to lớn trong sản xuất, công ăn việc
làm và thu nhập. Như vậy, cần phải tìm ra các chính sách thay thế với cái giá phải trả
thấp hơn, cho phép đạt được sự điều chỉnh với mức sản lượng cao hơn.
Ảnh hưởng của phá giá tiền tệ đối với sản xuất

Trong ngắn hạn, việc tăng giá sẽ làm giảm tiền lương thực tế (trước khi lương
danh nghĩa được điều chỉnh), đồng thời giảm tài sản của người dân đang được cất giữ
dưới dạng đồng tiền nội địa, tài khoản ngân hàng và trái phiếu nội địa. Tài sản của
người dân sẽ không bị ảnh hưởng nhiều nếu họ cất giữ dưới phương thức tài sản nước
ngoài. Giảm thu nhập thực tế sẽ hạn chế người dân tiêu dùng dẫn tới giảm mức chi
tiêu của quốc gia. Do vậy, thông thường sẽ có sự tái phân bổ thu nhập và tài sản sau
khi phá giá tiền tệ. Tuy nhiên, nếu việc tái phân bổ này được thực hiện ở nhóm dân số
có mức tiêu dùng thấp thì vẫn dẫn tới việc giảm chi tiêu của quốc gia. Việc giảm chi
tiêu có thể cải thiện tài khoản vãng lai, nhưng đồng thời cũng làm giảm cầu đối với
hàng hóa nội địa, từ đó gây ra thất nghiệp trong một số ngành kinh tế. Qui mô sản
xuất sẽ tăng hoặc giảm phụ thuộc vào mức độ chi tiêu chính phủ và tốc độ ảnh hưởng
của phá giá tiền tệ đến việc sản xuất hàng xuất khẩu và hàng thay thế hàng nhập khẩu.
Ví dụ: Giá bình thường 19500VND=1$, phá giá 21000VND=1$ khi đó, bạn
xuất khẩu hàng hóa đi nước ngoài thì nhận được tiền $ và và sẽ có lợi nhuận lớn hơn
( vì chi phí sản xuất của bạn 15000VND khi xuất khẩu thì được 1$, bình thường thì
bạn được 19500VND nhưng sau khi phá giá thì bạn được đến 21000VND ) qua đó,
nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước so với các
doanh nghiệp khác của các nước vì cùng 1 chi phí nhưng nước khác thu được lợi
nhuận thấp hơn. Mặt trái của nó là đối với các nước nhập khẩu nhiều như VN, hầu hết
các mặt hàng thiết yếu cho cuộc sống và sản xuất đều phải nhập khẩu, thì nó có tác
động to lớn. 1 mặt hàng bình thường bạn phải mua chỉ với giá 19500VND thì sau khi
phá giá bạn phải mua nó với giá 21000VND, lúc đó sức mua sẽ giảm bởi người dân sẽ
hạn chế chi tiêu để bù đắp trượt giá ( lạm phát ). Sức mua giảm kéo theo sản xuất bị
đình trệ, nền kinh tế lao đao vì hàng hóa sản xuất ra ko được tiêu thụ, doanh nghiệp
phá sản, công nhân thất nghiệp, v.v
Ảnh hưởng của phá giá tiền tệ đến ngân sách
Phá giá tiền tệ có thể có những ảnh hưởng gián tiếp đến ngân sách, có thể cải
thiện hay làm thâm hụt ngân sách. Điều này phụ thuộc vào tầm quan trọng của các
khoản thu và chi chịu ảnh hưởng trực tiếp của tỷ giá hối đoái.
- Xét về nguồn thu ngân sách bao gồm các khoản như thuế xuất nhập khẩu và

viện trợ nước ngoài. Phá giá có thể làm tăng nguồn thu của chính phủ, hiện tượng này
rõ nét nhất trong trường hợp thuế đánh vào ngoại thương. Mức độ ảnh hưởng của
chính sách này phụ thuộc vào tương quan so sánh giữa thuế thu từ xuất nhập khẩu và
7
tổng thuế thu được, độ co giãn về thuế, độ co giãn theo giá của xuất nhập khẩu. Khi
phá giá tiền, giá trị của hàng nhập khẩu và xuất khẩu tính bằng đơn vị nội tệ sẽ tăng.
Trong bối cảnh hệ số co giãn theo giá của cầu về hàng nhập khẩu không lớn, nó có
khả năng tác động tích cực đối với nguồn thu từ thuế nhập khẩu, trừ khi thuế được ấn
định cố định theo khối lượng và chính phủ bù một phần cho việc phá giá bằng cách hạ
thấp mức thuế. Mặt khác, khi các mặt hàng nhập khẩu và các hàng hóa sản xuất trong
nước dùng vật tư nhập khẩu phải chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, nguồn thu từ thuế tiêu thụ
đặc biệt cũng có thể tăng. Bên cạnh đó, nếu biện pháp phá giá làm tăng được mức sản
lượng hàng mậu dịch nhiều hơn mức giảm của hàng phi mậu dịch, thì cũng có thể
nguồn thu từ thuế thu nhập của công ty và thuế thu nhập của cá nhân cũng gia tăng.
Và tất nhiên, nguồn thu tính bằng nội tệ từ các khoản viện trợ không hoàn lại của
chính phủ cũng gia tăng. Như vậy nói chung biện pháp phá giá có thể làm tăng nguồn
thu cho ngân sách.
- Xét về nguồn chi ngân sách gồm những khoản bù trừ nguồn thu. Chi ngân
sách phụ thuộc ít nhất vào ba yếu tố: mức độ mua hàng nhập khẩu của chính phủ, qui
mô nợ nước ngoài của chính phủ; và mức độ tăng lương mà chính phủ phải thực hiện
cho khu vực công vì đồng tiền bị phá giá. Trước hết, nếu đất nước đang có một khoản
nợ nước ngoài lớn, thì việc phá giá tiền tệ sẽ làm cho họ phải trả khoản lãi suất lớn.
Thứ hai, khoản chi của chính phủ cho mua xăng dầu, máy tính, thiết bị quân sự từ
nước ngoài sẽ tăng lên.
Phá giá tiền tệ: những điểm bổ sung
Phá giá tiền tệ phải được kết hợp với các biện pháp hỗ trợ. Thực hiện các biện
pháp đồng bộ như vậy là một việc khó khăn, chính sách tài khóa, tiền tệ và điều tiết
phải phù hợp với chính sách tỷ giá. Ở mức độ nào đó các chính sách này có thể thay
thế cho nhau. Kỷ luật tài chính, tiền tệ nghiêm khắc có thể bảo đảm một tỷ giá cố định
và tỷ giá linh hoạt có thể thích hợp với tình hình tài khóa, tiền tệ mở rộng hơn. Sự cần

thiết phải phối hợp các chính sách kinh tế vĩ mô cũng được đề cập ở giác độ biện pháp
phá giá tiền tệ gây ra hiệu ứng lạm phát tiềm tàng, một hiện tượng có thể làm triệt tiêu
tác động của việc phá giá. Do đó chính phủ phải quản lý tổng cầu để tránh quá trình
lạm phát trong khi đồng thời phải tránh nguy cơ ngược lại là nhu cầu được đáp ứng
quá mức và đầu tư bị bóp nghẹt. Hơn nữa biện pháp phá giá thường không mang lại
đầy đủ lợi ích của nó, trừ khi được kết hợp với các biện pháp hỗ trợ có bản chất kinh
tế vi mô và thiên về cung hơn để củng cố kết cấu hạ tầng, cung cấp các dịch vụ tiếp
thị. Các nhà hoạch định chính sách cần cân nhắc cẩn trọng các yếu tố có ảnh hưởng
đến hiệu quả của phá giá tiền tệ:
- Xuất khẩu sản phẩm có nhiều nguồn gốc nhập khẩu: Một số lĩnh vực sản xuất
tại một quốc gia, cần thiết phải nhập nguyên liệu thô hoặc sản phẩm sơ chế làm đầu
vào cho sản xuất xuất khẩu. Trong trường hợp này, phá giá tiền tệ làm tăng giá thành
sản xuất hàng xuất khẩu, và làm hạn chế cơ hội có giá cả cạnh tranh hơn so với những
hàng xuất khẩu mà đầu vào chỉ bao gồm hàng hóa trong nước. Do đó phá giá tiền tệ
đặc biệt thuận lợi cho các ngành sản xuất mà nguyên liệu đầu vào là các hàng hóa nội
địa - ví dụ khoáng sản và nông nghiệp.
- Chi phí sản phẩm thiết yếu: Các nước đang phát triển đặc biệt phụ thuộc vào
một số sản phẩm nhập khẩu, đầu tư, năng lượng và sản phẩm y tế. Phá giá tiền tệ làm
8
giá thành các sản phẩm này tương đối đắt đỏ và có thể có tác động tiêu cực đến tăng
trưởng và đời sống nhân dân.
- Nợ nước ngoài: Một số nước nghèo luôn ở trong tình trạng vay nợ nước ngoài
nhiều. Việc phá giá danh nghĩa đồng tiền nội địa làm tăng nợ nước ngoài tính bằng
đồng nội địa. Điều này đặt ra nhiều vấn đề cho ngân sách nhà nước, do phải trả lãi, và
các khoản trả góp nước ngoài cao do đồng ngoại tệ tăng giá. Trong những trường hợp
này, cần thay đổi thuế và chi tiêu chính phủ. Các công ty tư nhân có nợ nước ngoài
cũng có thể bị ảnh hưởng lớn đặc biệt nếu sản phẩm của các công ty này hướng vào
thị trường nội địa.
- Vấn đề cơ cấu chính sách: Khi có tác động của những chính sách như trợ giá,
kiểm soát giá hoặc hạn ngạch xuất khẩu, sẽ làm cản trở sự cân bằng các nhân tố bên

ngoài theo qui luật kinh tế. Những vấn đề này cần được xử lý ngay nếu không phá giá
tiền tệ sẽ không có ý nghĩa.
Phá giá tiền tệ không chỉ tác động đến những vấn đề kinh tế mà còn ảnh hưởng
đến những vấn đề mang tính chính trị, xã hội. Vì thế, để thực hiện chính sách phá giá
đồng nội tệ, các nước đều phải xem xét và cân nhắc một cách kỹ lưỡng các mặt lợi và
hại của biện pháp này dựa trên tất cả các khía cạnh của nền kinh tế.
Điều kiện để phá giá tiền tệ:
- Điều kiện Marshall-Lerner, cần thiết phải có độ co giãn đường cầu hàng xuất
khẩu cộng với độ co giãn của đường cầu hàng nhập khẩu phải lớn hơn 1- nghĩa là
người dân trong nước sẵn sàng chuyển từ sử dụng hàng hóa nhập khẩu giá cao sang sử
dụng hàng nội địa giá thấp hơn, đồng thời người nước ngoài cũng sẵn sàng chuyển
sang sử dụng hàng nhập khẩu từ nước phá giá tiền tệ do giá cả trở nên rẻ đi. Hiệu quả
ròng của phá giá đối với cán cân thanh toán tùy thuộc vào các độ co dãn theo giá. Nếu
hàng xuất khẩu co dãn theo giá, thì tỷ lệ tăng lượng cầu về hàng hóa sẽ lớn hơn tỷ lệ
giảm giá; do đó, kim ngạch xuất khẩu sẽ tăng. Tương tự, nếu hàng nhập khẩu co dãn
theo giá, thì chi cho nhập khẩu hàng hóa sẽ giảm. Cả hai điều này đều góp phần cải
thiện cán cân thanh toán.
- Thời điểm phá giá tiền tệ cũng là một vấn đề. Nếu giá hàng nhập khẩu đang
thấp và có xu hướng hạ thì việc phá giá mới có tác dụng vì sau khi phá giá, giá hang
nhập khẩu sẽ không bị tăng đột ngột, qua đó hạn chế sự tăng giá của hàng nội địa do
giảm thiểu ảnh hưởng giá cả của nguyên liệu đầu vào nhập khẩu, cuối cung hạn chế
mặt trái của phá giá là lạm phát tăng.
- Một điều kiện nữa để phá giá là một quỹ dự trữ ngoại tệ phải đủ lớn. Khi tiến
hành phá, thị có xu hướng tích trữ ngoại tệ nhiều hơn nhằm đảm bảo an toàn tài sản,
do đó phải có một quỹ dự trữ đủ lớn nhằm can thiệp kịp thời, đảm bảo duy trì tỷ giá
đúng kế hoạch, tránh bị phá giá quá mức sẽ gây bất ổn kinh tế.
Phá giá tiền tệ có thể mang tới những rủi ro nếu không được tính toán cụ thể, như
tình trạng lạm phát, nợ nước ngoài (gồm cả nợ của khu vực công và tư) tăng, thu nhập
quốc dân tính theo ngoại tệ giảm, tài sản trong nước bị giảm giá dẫn đến bị nước
9

ngoài thâu tóm, uy tín trên trường quốc tế bị ảnh hưởng,… Vì vậy có thể nói phá giá
tiền tệ là con dao 2 lưỡi nếu không được tính toán chính xác.
6. Phá giá tiền tệ trong điều kiện kinh tế Việt Nam hiện nay:
Tháng 11 năm 2009, Chính phủ Việt Nam quyết định phá giá 5% đồng tiền
Việt Nam, đồng thời tăng lãi suất lên 8%. Việc này được xem như là hành động làm
căng thẳng thị trường tài chính Châu Á, vì các nền kinh tế trong vùng đang tranh nhau
tạo ưu thế với thị trường Âu Mỹ.
Ngày 11 tháng 2 năm 2010, Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam định lại mức tỷ
giá bình quân liên ngân hàng giữa tiền đồng Việt Nam và đôla Mỹ, theo đó, một đôla
Mỹ ăn 18.544 đồng.
Ngày 10 tháng 2 năm 2010, mức tỷ giá này 17.941 đồng. Như vậy, đồng tiền
Việt Nam bị giảm giá 3,25% so với đôla Mỹ.
Đến ngày 28 tháng 2 năm 2010, mức tỷ giá ở thị trường chợ đen là 19.500
đồng.
Ngày 18/08/2010 Ngân hàng Nhà nước nâng tỷ giá từ mức 18.544 đồng/USD
lên mức 18.932 đồng/USD (tương đương tăng 388 đồng)
Ngày 11/02/2011 Ngân hàng Nhà nước công bố quyết định tăng tỷ giá bình
quân liên ngân hàng giữa USD với VND, từ 18.932 VND lên 20.693 VND (tăng
9,3%), cùng với đó là thu hẹp biên độ áp dụng cho tỷ giá của các ngân hàng thương
mại từ +/-3% xuống còn +/-1%. Tuy nhiên đến ngày 19/02/2011 tỷ giá USD ở thị
trường chợ đen là 22.300 đồng. Tính từ tháng 6 năm 2008 đến năm 2011, đồng bạc
Việt Nam đã bị phá giá hơn 20% và dự trữ ngoại tệ của Việt Nam đã sụt giảm mạnh,
chỉ còn khoảng hơn 10 tỷ đôla tính đến cuối năm 2010, theo lời Bộ trưởng Kế hoạch
và Đầu tư Võ Hồng Phúc, so với mức 24 tỷ đôla cuối năm 2008.
Ảnh hưởng của phá giá đến cán cân vãng lai
Mục tiêu của phá giá là để cải thiện cán cân vãng lai, có nghĩa là góp phần vào
làm giảm sự mất cân bằng giữa tiết kiệm vào đầu tư. Nhưng đối với Việt Nam, liệu
biện pháp phá giá có cải thiện được cán cân thương mại hay không khi hầu hết các
mặt hàng sản xuất trong nước đều phụ thuộc vào nguyên vật liệu nhập khẩu (90%
tổng giá trị hàng nhập là nhập nguyên vật liệu sản xuất), ngay cả hàng xuất khẩu cũng

đến 70% là giá trị hàng nhập. Bên cạnh đó, năng lực sản xuất hàng hóa thay thế nhập
khẩu và hàng hóa đủ tiêu chuẩn xuất khẩu ở Việt Nam đều còn hạn chế.
• Thâm hụt cán cân thương mại đã trở thành một hiện tượng thường nhật
trong cán cân thanh toán tổng thể của Việt Nam trong nhiều năm gần đây. Thực trạng
này bắt nguồn sâu xa từ chính sự mất cân đối trong cơ cấu xuất nhập khẩu
- Xuất khẩu: danh mục hàng xuất khẩu còn chậm đa dạng hóa, tỷ trọng
kim ngạch 8 mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn trong xuất khẩu, tuy giảm từ 71,3% năm
2008 xuống 54,8% trong 9 tháng đầu năm 2010, nhưng phần lớn là do xuất khẩu dầu
thô giảm mạnh. Cùng lúc đó, một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như
10
gỗ và sản phẩm gỗ, dệt may và giày dép vẫn phụ thuộc nguồn nguyên liệu nhập khẩu
nên giá trị gia tăng thấp.
- Nhập khẩu: Tỷ trọng 10 mặt hàng nhập khẩu (xăng dầu,vải, chất dẻo,
nguyên phụ liệu dệt may, giày dép, sắt thép, điện tử máy tính, linh kiện, ô tô, máy
móc, thiết bị, dụng cụ, các phương tiện khác,…) chủ yếu vẫn không thay đổi nhiều từ
năm 2005 (64,5%) đến nay (58%). Nhóm hàng tư liệu sản xuất vẫn chiếm tỷ trọng
lớn. Cơ cấu này cho thấy nhập khẩu của ta chủ yếu là để phục vụ sản xuất nên những
biện pháp kiềm chế nhập khẩu hiện nay tập trung vào các nhóm hàng hóa tiêu dùng
đặc biệt như ô tô, xa xỉ phẩm sẽ chỉ có thể có những tác động nhỏ đến tình trạng
nhập siêu hiện nay. Hơn thế nữa, tỷ lệ nhập khẩu trong sản phẩm xuất khẩu của nước
ta ở mức cao (theo một số tính toán là khoảng 70%) dẫn tới thực tế là muốn tăng xuất
khẩu thì nhất thiết phải tăng nhập khẩu, làm hạn chế khả năng gia tăng xuất khẩu
nhanh hơn so với nhập khẩu.
• Năng lực sản xuất hàng hóa thay thế nhập khẩu
Việt Nam là một nền kinh tế đang phát triển, mà đối với một nền kinh tế đang
phát triển, có một số hàng hóa mà các nền kinh tế này không thể sản xuất được hay có
sản xuất được đi nữa thì chất lượng không tốt bằng hoặc giá cả có thể cao hơn. Vì vậy,
mặc dù giá nhập khẩu có đắt hơn, người tiêu dùng cũng không chắc sẽ lựa chọn hàng
trong nước. Như vậy, nếu thực hiện phá giá, nền kinh tế Việt Nam với năng lực sản
xuất hàng thay thế cho hàng nhập khẩu còn hạn chế, có thực sự hạn chế được nhập

khẩu để cải thiện cán cân thương mại hay không?
Năng lực sản xuất hàng hóa đủ tiêu chuẩn xuất khẩu
Đa phần các doanh nghiệp Việt Nam vẫn là sản xuất nhỏ lẻ và có năng suất
thấp. Chất lượng hàng hóa, kể cả những mặt hàng chiến lược là gạo, cà phê, hạt tiêu,
thủy, hải sản chế biến là những mặt hàng Việt Nam chiếm vị trí nhất nhì trên thế giới
thì chất lượng sản phẩm của chúng ta còn kém so với các nước có cùng mặt hàng
trong châu lục vì thế tỷ lệ hàng xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ và châu Âu còn nhỏ.
Thêm vào đó, cơ sở hạ tầng cho sản xuất các mặt hàng xuất khẩu và xuất khẩu lớn còn
rất manh mún và chưa đủ sức để thúc đẩy sản xuất đại trà. Nếu các doanh nghiệp
trong nước không có năng lực sản xuất hàng xuất khẩu (cung cấp không đủ lượng,
chất theo nhu cầu của đối tác) hoặc không tìm được thị trường xuất khẩu cho mình thì
khi Chính phủ thực hiện phá giá, những cơ hội kinh doanh tốt mà Chính phủ hướng
tới thông qua phá giá sẽ bị bỏ lỡ, hoạt động xuất khẩu và cán cân thương mại không
chắc chắn có thể được cải thiện.
Ảnh hưởng của phá giá đến lạm phát
Diễn biến chỉ số giá tiêu dùng CPI cho thấy nhìn chung, CPI từ năm 2001 đến
2008 tăng khá mạnh, đặc biệt là hai năm 2007 và 2008 (12,6% và 19,89%). Lạm phát
tuy đã được kiềm chế ở mức thấp trong năm 2009 và hiện đang trong tầm kiểm soát,
nhưng diễn biến của lạm phát trong 20 năm qua ở Việt Nam, cho thấy tính ổn định
nhìn chung là không cao. Do đó, ổn định lạm phát luôn luôn là mục tiêu điều hành
của Ngân hàng Nhà nước (NHNN).
11

Khi thực hiện phá giá, do giá cả nhập khẩu tăng nên giá cả nội địa cũng thường
tăng lên, gây áp lực lên lạm phát. Điều này đã từng xảy ra ở Trung Quốc, khi Trung
Quốc phá giá CNY 50% năm 1994, Trung Quốc đã phải đối mặt với lạm phát tăng
cao, năm 1994 là 24,24%, tăng hơn 66,25% so với mức lạm phát năm 1993. Xét trên
khía cạnh này thì trong điều kiện của Việt Nam hiện nay, khi mà phá giá có cải thiện
cán cân thương mại hay không còn chưa chắc chắn (như đã phân tích ở trên) thì lạm
phát đã tăng. Trong khi đó, Việt Nam với thực trạng kinh tế như hiện nay khó có thể

chấp nhận trước tình trạng tái lạm phát trở lại.
Một điểm khác hết sức quan trọng là hiện nay Chính phủ đang kêu gọi hạ lãi
suất. Trong khi đó, thông thường, nếu NHNN phá giá nội tệ, để có thể kiềm chế lạm
phát, biện pháp thường được sử dụng theo lý thuyết là thắt chặt tiền tệ, nghĩa là phải
tăng lãi suất. Như vậy, việc phá giá nội tệ sẽ có thể trở thành mâu thuẫn với chủ
trương giảm lãi suất của Chính phủ.
Tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế Việt Nam
Việt Nam là nền kinh tế đô la hóa, trong suốt thời kỳ cải cách, mức độ đôla hóa
tính theo tiêu chí của IMF có giảm dần, song so với các nước trên thế giới Việt Nam
vẫn là nước bị đôla hóa. Tâm lý đầu cơ và găm giữ ngoại tệ rất phổ biến trong nền
kinh tế. Nhận biết được điều này, Chính phủ và đặc biệt là NHNN Việt Nam đã và
đang hết sức nỗ lực để hạn chế tình trạng đô la hóa. Nếu phá giá VND vào lúc này mà
không có biện pháp đi cùng để ngăn chặn tâm lý kỳ vọng vốn đang tồn tại khá mạnh
trên thị trường tiền tệ Việt Nam, khi hệ quả của dư âm về lạm phát năm 2008 vẫn còn,
sẽ khiến người dân và doanh nghiệp tích cực dự trữ ngoại tệ, làm cho cung ngoại tệ
không những không được cải thiện mà còn đẩy cầu ngoại tệ lên cao; ảnh hưởng không
tốt tới nỗ lực hạn chế đô la hóa của các nhà điều hành. Thậm chí, trong trường hợp các
giải pháp không tạo được lòng tin, thì mục đích ngăn chặn những bất ổn trong nền
kinh tế trong việc phá giá VND không những không giải quyết được, mà có thể còn
đẩy nền kinh tế tới chỗ bất ổn hơn.
Ảnh hưởng của phá giá đến ngân sách
12
Phá giá tiền tệ có thể cải thiện hoặc làm thâm hụt ngân sách còn phụ thuộc rất
nhiều vào việc các nguồn thu, chi ngân sách có chịu ảnh hướng trực tiếp bởi tỷ giá hay
không.
- Xem xét cơ cấu thu ngân sách của Việt Nam thì tỷ lệ thu ngân sách từ dầu thô
và xuất nhập khẩu chiếm tỷ trọng khá cao, khoảng gần 40% trong tổng nguồn thu của
ngân sách, hơn nữa, nguồn viện trợ cũng khá lớn. Vì vậy, phá giá sẽ tăng đáng kể
nguồn thu của Chính phủ nếu tính bằng VND. Tuy nhiên, phá giá làm ảnh hưởng đến
hoạt động doanh nghiệp, làm kinh tế suy giảm thì sẽ ảnh hưởng đáng kể đến nguồn

thu của Chính phủ.
- Xét về cơ cấu chi, thì khoản chi lớn nhất mà chịu tác động lớn của tỷ giá là
các khoản vay để bù đắp thâm hụt ngân sách bằng ngoại tệ.
- Xem xét vấn đề nợ nước ngoài (Xem bảng )

Bảng
Tổng số dư nợ nước ngoài so với GDP (%)
20
05
2006 2007 2008 2009
31.
2
31.4 32.5 29.8 39.0
Nguồn: Bộ Tài chính

Xem xét tình trạng nợ nước ngoài của Việt Nam, nợ nước ngoài của quốc gia
so với GDP bằng 39%, thuộc diện quốc gia có nợ nước ngoài vừa phải, nếu xét theo
khuyến nghị của Ngân hàng Thế giới. Hiện nay, nợ nước ngoài của Chính phủ Việt
Nam tập trung chủ yếu vào các loại tiền JPY, USD, EUR, SDR. Cụ thể, lớn nhất là
các khoản vay bằng đồng Yên, chiếm 41,96%; SDR chiếm 27,39%; vay theo đồng
USD chiếm 16,61%; vay bằng đồng Euro chiếm 10,68%; còn lại là các đồng tiền khác
chiếm 3,37% tổng dư nợ nước ngoài Chính phủ. Mặc dù cơ cấu đồng tiền vay trong
tổng dư nợ nước ngoài Chính phủ cũng khá đa dạng, được cho là có thể hạn chế rủi ro
về tỷ giá, giảm áp lực lên nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của Chính phủ nhưng không thể
phủ nhận thực tế những dao động của tỷ giá sẽ có ảnh hưởng nhất định đến giá trị của
các khoản nợ khi quy đổi ra nội tệ. Như vậy điều bất lợi của việc phá giá là nó làm
cho giá trị bằng đồng nội tệ để thanh toán nợ tăng lên đúng bằng tỷ lệ phá giá. Khoản
chi có thể vượt quá khoản thu, cho nên tình hình ngân sách có khả năng xấu đi. Theo
tính toán của cơ quan chức năng, nếu như đồng Việt Nam mất giá 5% thôi thì mỗi
năm Ngân sách Nhà nước sẽ chi thêm 26.000 tỷ đồng để trả nợ nước ngoài, các doanh

nghiệp cũng phải trả nợ thêm 13.000 tỷ đồng. Một tính toán khác đã được công bố cho
hay, chỉ tính riêng Nhà máy Nhiệt điện Phả Lại số nợ nước ngoài phải trả tính ra nội tệ
đã tăng thêm tới 800 tỷ đồng. Nói cách khác, phá giá đồng Việt Nam, hay để ngoại tệ
13
tăng giá so với VND thì sẽ làm tăng gánh nặng nợ nước ngoài của Chính phủ và
doanh nghiệp.
Từ những nội dung trên, có thể kết luận rằng, để thực hiện một chính sách phá
giá tiền Việt Nam đồng, Chính phủ cần xem xét và cân nhắc một cách kĩ lưỡng các
mặt lợi hại của chính sách này dựa trên tất cả các đặc điểm của nền kinh tế, phải
đảm bảo nền kinh tế đãcó đủ các điều kiện để có thể phát huy tốt mặt tích cực và
hạn chế được những mặt tiêu cực của việc phá giá. Thêm vào đó, mức độ phá
giá là bao nhiêu cũng phải được cân nhắc cẩn thận, dựa trên tình hình cụ thể. Nếu
có quyết định phá giá, cũng phải phá giá có lộ trình. Để tránhviệc phá giá sẽ
dẫn đến lạm phát tăng cao và từ đó dẫn đến bất ổn định vĩ mô, đi kèm với phá giá
cần phải có một sự phối hợp chặt chẽ giữacác chính sách kinh tế vĩ mô mà
trong đó quan trọng nhất là sự phốihợp giữa chính sách tiền tệ thắt chặt và chính
sách tài khóa với hiệu quảđầu tư cao. Thêm nữa, có lẽ cần có một quỹ dự trữ ngoại
hối đủ mạnh để can thiệp trong thời gian đầu sau khi tiến hành phá giá.
14

×