Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

TIỂU LUẬN CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ: PHÂN TÍCH LỢI THẾ CẠNH TRANH XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.38 KB, 20 trang )

Trờng đại học ngoại thơng
KHOA kinh tế và kinh doanh quốc tế
***
TIểU LUậN
MÔN: CHíNH SáCH THƯƠNG MạI QuốC Tế
Đề TàI:
PHN TCH LI TH CNH TRANH
XUT KHU GO CA VIT NAM
Giỏo viờn hng dn: V Hong Vit
Sinh viờn thc hin: nhúm 24
Thỏi Mai Tho MSV: 0951020186
Nguyn Th Phng Thy MSV: 0951020169
Hong Thựy An MSV: 0951020105
Vừ Th Thng MSV: 0952030062
Nguyn Th Thu Hng MSV: 0951020123
Trn Th Lờ M MSV: 0952040021

Hà Nội, 11 -2011
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, Việt Nam đang trong tiến trình đẩy mạnh sản xuất các ngành
công nghiệp nhưng về cơ bản, nước ta vẫn là một nước nông nghiệp. Tỷ trọng
của ngành nông nghiệp trong nền kinh tế tuy gần đây bị sụt giảm nhưng vẫn
chiếm vị trí rất quan trọng. Từ một nước nông nghiệp lạc hậu phải nhập khẩu
hàng triệu tấn lương thực, hiện nay với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và
công nghiệp, lương thực đã không chỉ được đảm bảo cung cấp cho thị trường
trong nước mà còn đem lại giá trị xuất khẩu lớn. Việc tự do hóa sản xuất nông
nghiệp, đặc biệt là sản xuất lúa gạo đã giúp Việt Nam trở thành nước đứng thứ
hai thế giới về xuất khẩu gạo trong năm 2010 chỉ sau Thái Lan.
Quá trình tự do hóa thương mại ngày càng được mở rộng và diễn ra rất
mạnh mẽ khiến cho việc cạnh tranh xuất khẩu gạo của Việt Nam cũng gặp nhiều
khó khăn. Chính vì thế, việc đưa ra được những chiến lược phù hợp cũng về sản


xuất cũng như xuất khẩu lúa gạo là vô cùng cần thiết. Xuất phát từ những thực tế
đó, bài tiểu luận “ Phân tích lợi thế cạnh tranh xuất khẩu gạo của Việt Nam”
nhằm mục đích đánh giá khả năng cạnh tranh mặt hàng lúa gạo của Việt Nam
vào thị trường các nước trên thế giới.
Bài viết sử dụng phương pháp nghiên cứu: Phân tích, tổng hợp, khảo sát.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu là những lợi thế trong sản xuất và xuất
khẩu gạo của Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi thời gian: kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO tới nay.
+ Phạm vi không gian: những khu vực sản xuất lúa gạo trên nước Việt
Nam.
Bài viết được triển khai theo bố cục: mở đầu nêu lên tính cấp thiết của đề
tài. Tiếp theo đi vào phần nội dung chính là sản lượng và thị trường tiêu thụ của
gạo Việt Nam và vận dụng mô hình kim cương để phân tích lợi thé cạnh tranh
xuất khẩu gạo trong nước. Cuối cùng phần kết luận tổng kết lại nội dung chính
của đề tài.
2
THỰC TRẠNG VỀ SẢN LƯỢNG VÀ THỊ TRƯỜNG
TIÊU THỤ GẠO CỦA VIỆT NAM
Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam, lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam
trong năm 2010 đã tăng lên đến mức cao nhất từ trước đến nay, đạt 6,75 triệu tấn
với tổng trị giá 3,23 tỷ đô la. Thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam cũng được
mở rộng rất nhiều.
Riêng tại Philipines, hiện nay Việt Nam chiếm khoảng 78% thị phần thị
trường nước này, sau đó mới đến Thái Lan là 17%, Pakistan 5% và Mĩ chỉ chiếm
dưới 1%. Tuy nhiên, Pakistan và Mĩ với khối lượng gạo dồi dào cũng như giá cả
cạnh tranh có thể sẽ cạnh tranh quyết liệt hơn với Việt Nam. Cho đến nay,
Philipines vẫn giữ vị trí nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam.
Ngoài Philipines, một số thị trường khác như Malaysia, Indonesia,
Cuba, châu Phi … cũng là những thị trường lớn nhập khẩu gạo của Việt Nam.
Nhu cầu về gạo Việt Nam trên thị trường thế giới rất lớn và ngày càng tăng, đặc

biệt là ở châu Á.
3
VẬN DỤNG MÔ HÌNH KIM CƯƠNG PHÂN TÍCH LỢI THẾ CẠNH
TRANH XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM
Yếu tố thâm dụng
Yếu tố cơ bản:
Việt Nam là một quốc gia nằm trên bán đảo Đông Dương, ven biển Thái
Bình Dương, có đường biên giới tiếp giáp với Trung Quốc ở phía Bắc, với Lào
và Campuchia ở phía Nam, và giáp biển Đông ở phía Đông.
Việt Nam có diện tích 330,363km2, thuộc loại trung bình trên thế giới;
đất đai màu mỡ rất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp; bờ biển dài thuận lợi
cho giao thông và hoạt động xuất nhập khẩu thong qua đường biển. Việt Nam
nằm ở trung tâm Đông Nam Á, thuộc Bắc bán cầu, có khí hậu nhiệt đới gió mùa
rất thuận lợi cho việc phát triển nghề trồng lúa. Do vậy, cây lúa là cây lương
thực truyền thống. Người Việt Nam từ xưa đến nay đã tích lũy được nhiều kinh
nghiệm canh tác lúa, làm nền tảng cho việc trồng lúa hướng đến xuất khẩu. Việt
Nam cũng là một trong những nước tham gia xuất khẩu gạo tương đối sớm so
với nhiều nước xuất khẩu khác trên thế giới (300 nghìn tấn gạo sang các nước
thuộc địa của Pháp vào năm 1880).
Việt Nam có điều kiện đất đai tốt, đất rất đa dạng, có độ phì cao, thuận lợi
cho phát triển nông, lâm nghiệp. Đất đai là cơ sở đầu tiên và quan trọng nhất để
tiến hành trồng trọt, chăn nuôi. Quý đất, tính chất đất và độ phig của đất có ảnh
hưởng đến quy mô, cơ cấu, năng suất và sự phân bố cây trồng, vật nuôi. “Đất
nào, cây ấy”, kinh nghiệm dân gian đã chỉ rõ vai trò của đất đối với sự phát triển
và phân bố nông nghiệp; và theo đó, cây lúa rất thích hợp với điều kiện đất đai
Việt Nam, tạo nền tảng thuận lợi trong việc xuất khẩu lúa, gạo của nước ta.
Việt Nam có một mạng lưới sông ngòi dày đặc, chảy theo hai hướng
chính là tây bắc – đông nam và vòng cung. Hai sông lớn nhất là sông Hồng và
sông Mê Kông tạo nên hai vùng đồng bằng rộng lớn và phì nhiêu. Hệ thống
sông suối hàng năm được bổ sung khoảng 310 tỷ mét khối nước.

4
Việt Nam là một nước có tỷ lệ lao động trong nông nghiệp chiếm tỷ lệ
cao, trên 70% lực lượng lao động cả nước. Thu nhập bình quân đầu người thấp,
giá nhân công rẻ, điều này làm cho sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam có giá
thành thấp, tăng thêm sức cạnh tranh trên thị trường gạo thế giới.
Việt Nam có thể tận dụng những ưu thế về điều kiện địa lý, đất đai, khí
hậu và lao động để sản xuất những sản phẩm xuất khẩu chứa hàm lượn tài
nguyên cà lao động cao, vốn và kỹ thuật thấp. Do vậy, Việt Nam chọn sản xuất
lúa gạo là ngành chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân là hoàn toàn đúng đắn cả về
lý thuyết lẫn thực tiễn. Sản xuất lúa gạo thể hiện rõ những đặc tính của sản xuất
nông nghiệp. Thứ nhất, thực hiện sản xuất trên diện rộng và phụ thuộc vào điều
kiện tự nhiên như đất đai, khí hậu, nguồn nước Thứ hai, tiến hành sản xuất cần
nhiều lao động do tính chất phân bố rộng của sản xuất và đòi hỏi bắt buộc khi
thực hiện công việc. Sản xuất lúa cho phép tận dụng tốt ưu thế về lao động và tài
nguyên thiên nhiên, đồng thời hạn chế những khó khăn về vốn, kỹ thuật công
nghệ
Yếu tố tăng cường
Hiện nay Việt Nam có khoảng 14 viện nghiên cứu rải đều trong cả nước,
ngoài ra còn có một số trường đại học nghiên cứu và phát triển giống lúa và các
loại thuốc trừ sâu bệnh cho cây lúa. Các viện nghiên cứu đều được trang bị các
thiết bị hiện đại nhằm phục vụ tối đa công việc nghiên cứu.
Khi nói đến cơ sở hạ tầng nông nghiệp, chúng ta thường nhắc đến các
hạng mục công trình như: đường giao thông (trong thôn, trong xã, liên thôn, liên
huyện ), hệ thống thủy lợi (các công trình thủy nông tưới tiêu nước phục vụ sản
xuất nông nghiệp), hệ thống cấp nước sinh hoạt, hệ thống điện, công trình văn
hóa thể thao, trạm y tế, trường học, các phương tiện thông tin liên lạc
Trong thời gian qua, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách
đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn. Nhờ sự tập trung đầu tư
của nhà nước cùng với sự đóng góp của nhân dân, cơ sở hạ tầng ở nông thôn đã
5

được cải thiện đáng kể, điều kiện sống, ăn ở, đi lại, hay là bộ mặt kinh tế - xã hội
nông thôn đã và đang có những thay đổi tích cực rõ rệt.
Ngoài ra, người nông dân cũng có những sáng tạo tạo điều kiện thuận lợi
cho nghề trồng lúa. Ví dụ, ở một số vùng bị nhiễm phèn, ngoài việc dùng vôi
hay phân bón giảm lượng phèn, người nông dân còn dùng thêm bột thuốc lá để
tăng độ xốp của đất, nhiều dinh dưỡng, hạn chế tác hại của phèn, sâu đục thân và
các loại rầy Hay có người nông dân đã phát minh ra những máy móc, dụng cụ
phục vụ tốt cho nghề trồng lúa như máy gặt năng suất cao, hiệu quả tốt hay
những phương pháp chọn lọc, cấy cây giống
Những yếu tố cơ bản và tăng cường nói trên đã tạo nên nền tảng vững
chắc, từ đó thúc đẩy phát triển sản xuất lúa, gạo hướng xuất khẩu ở Việt Nam.
Các ngành công nghiệp liên quan và hỗ trợ
Công nghiệp sản xuất phân bón và thuốc bảo vệ thực vật
Thắng lợi của lĩnh vực nông
n
g
h
i

p
là sự tổng hợp của nhiều yếu tố
nhưng
trong đó phải
k

đến vai trò khá quan trọng của
ngành
phân bón.
Sản lượng cần tăng lên trong khi diện tích
đ


t
nông
n
g
h
i

p
lại khó có khả
năng mở rộng, người nông dân đã cần đến sự hỗ trợ của phân
b
ó
n
để tăng
năng suất cho cây
t
r

n
g
.
Phân bón là một
ngành
hỗ trợ nông
n
g
h
i


p
nên có
mối liên hệ mật thiết đến tính mùa vụ v
à
sự phân bố diện tích đất nông
n
g
h
i

p
.

Trong vài năm qua, tiêu thụ phân bón của
V
i

t
Nam gia tăng mạnh.
Ngành sản xuất phân
b
ó
n
trong nước vẫn chưa đáp ứng được đủ nhu cầu
nhưng
cũng đã dần
thoát
khỏi sự bảo hộ
c


a
nhà nước tự tạo cho mình vị
trí nhất định trên thị
t
r
ư

n
g
.
So với các nước
sử
dụng
nhiều phân bón trên
thế giới,
V
i

t
Nam mới sử
dụng
phân bón ở mức 2% trong chi
p
h
í
đầu vào
của sản xuất nông
n
g
h

i

p
,
tuy nhiên đây cũng là một khoản chi phí
tương đối
l

n
.
Nhu cầu phân bón hằng năm của
V
i

t
Nam
khoảng
7,5 – 8
6
triệu tấn phân bón các loại trong
đó
loại phân
NPK
có nhu cầu cao nhất
khoảng
2,5 triệu
t

n
/

n
ă
m
,
kế đến là phân Urê 2 triệu
t

n
năm, phân lân 1,3
triệu
t

n
/
n
ă
m
.
Hằng năm,
V
i

t
Nam cần nhập khẩu đến 50% nhu cầu, trong
đó phân
DAP,
kali,
SA
phải
nh


p
khẩu 100%. Sản xuất trong nước chỉ có
khả năng cung cấp 3 loại
p
h
â
n
:
- Phân
đ

m
:

H
i

n
cả hai nhà máy Đạm Hà Bắc v à Đạm Phú Mỹ có
khả
n
ă
n
g
đáp ứng được một nửa nhu cầu đạm trong
n
ư

c.

- Phân
L
â
n
:
supe lân do 2 đơn vị
CTCP
Supe
Phosphat
và hóa chất
L
â
m
Thao công
s
u

t
880.000
tấn/năm
và nhà máy Supe
Phosphat
L
o
n
g
Thành công suất 180.000
t

n

/
n
ă
m
.
Năng lực sản xuất phân
l
â
n
trong nước
đã đáp ứng được phần lớn nhu
c

u
.
-
NPK
phối
t
r

n
:
số lượng các nhà máy có cung cấp phân
NPK
trong
nước
k
h
á

nhiều có khả năng cung cấp 4,2 triệu tấn
NPK.
Về
cơ bản, lượng
cung trong nước
đủ
khả năng đáp ứng nhu cầu phân
NPK.
.
Thuốc bảo vệ thực vật vẫn là mặt hàng không thể thiếu được trong ngành
trồng trọt của Việt Nam, mức chi tiêu cho thuốc bảo vệ thực vật của Việt Nam
hiện đã ngang bằng với các nước trong khu vực.Quy mô thị trường thuốc bảo vệ
thực vật hiện đạt khoảng 50.000 tấn. Nhu cầu về thuốc bảo vệ thực vật của cả
nước hiện khoảng 50.000 tấn/năm, tương đương với giá trị khoảng 500 triệu
USD, trong đó bao gồm 3 loại chính là thuốc trừ sâu và côn trùng; thuốc diệt
nấm; thuốc diệt cỏ. Cơ cấu nhu cầu tiêu dùng thuốc bảo vệ thực vật trong các
năm qua được duy trì khá ổn định, trong đó tỷ lệ thuốc trừ sâu và côn trùng
chiếm khoảng 60% về giá trị.
Nguồn cung chính cho thị trường thuốc bảo vệ thực vật trong nước hiện
nay chủ yếu là từ nhập khẩu. Do ngành sản xuất các loại hóa chất tổng hợp dùng
cho bảo vệ thực vật trong nước chưa phát triển nên các doanh nghiệp trong
ngành sản xuất thuốc bảo vệ thực vật ở Việt Nam vẫn phải nhập khẩu khá nhiều
nguyên liệu.
7
Thực tế sản xuất ngành thuốc bảo vệ thực vật trong nước hiện nay cho
thấy phần lớn các doanh nghiệp sản xuất thuốc bảo vệ thực vật trong nước
thường không sản xuất mà nhập khẩu trực tiếp nguyên liệu về, sau đó chế biến
gia công đóng gói hoặc đóng chai rồi bán ra thị trường.
Công nghiệp cơ khí sản xuất máy nông nghiệp.
Dân số sống bằng nghề nông chiếm 70% dân số cả nước, 57% lực lượng

lao động xã hội làm việc trong ngành nông nghiệp, nhưng chỉ tạo ra chưa đầy
20% GDP, dẫn đến chênh lệch thu nhập giữa nông dân và thị dân ngày càng cao.
Do vậy, trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa và hội nhập kinh tế quốc tế,
sản phẩm cơ khí phục vụ nông nghiệp tại Việt Nam đã được quan tâm hơn, với
đa dạng các chủng loại sản phẩm gồm: động cơ đốt trong đến 30 mã lực, máy
làm đất (máy cày 4 và 2 bánh), máy thu hoạch (gặt đập liên hợp, gặt lúa xếp dãy,
máy tuốt lúa), máy bơm nước, máy phun thuốc sâu, máy bảo quản và chế biến
(xay xát lúa gạo, máy sấy). Duy trì và đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh và đầu tư
là nỗ lực không ngừng của các doanh nghiệp sản xuất máy nông nghiệp hiện
nay. Tuy nhiên, các doanh nghiệp đã vấp phải không ít khó khăn, thách thức, đó
là chính sách hỗ trợ nông dân mua máy nông nghiệp trong nước sản xuất chưa
phát huy được như mong muốn, và các biến động về thị trường tiêu thụ sản
phẩm, thị trường vốn, về giá cả các yếu tố đầu vào cho sản xuất
Xét về vị trí cạnh tranh giữa các đơn vị sản xuất máy động lực và máy
nông nghiệp trong nước có tính chất công nghiệp (tức là có chi tiết nội địa hoá
trên 60%) thì VEAM là đơn vị đứng đầu về máy động lực và máy nông nghiệp
sản xuất trong nước. Tuy nhiên, về thị phần thì hiện nay, các doanh nghiệp trong
nước mới chiếm khoảng 30% (trong đó VEAM chiếm 25%).
Những năm gần đây, các hệ thống thiết bị chế biến nông sản được chế tạo
trong nước ngày càng nhiều hơn với công suất và chất lượng ngày càng cao hơn.
Ngành công nghiệp chế biến.
8
Trong những năm qua ở nước ta đã hình thành những vùng sản xuất nông
nghiệp hàng hóa tập trung, với quy mô lớn, đã và đang phát huy thế mạnh, tiềm
năng của các địa phương. Ðó là các vùng sản xuất lúa gạo ở đồng bằng sông
Hồng và đặc biệt là ở đồng bằng sông Cửu Long. Công nghiệp chế biến lương
thực thực phẩm là một trong những ngành công nghiệp trọng điểm với cơ cấu
ngành đa dạng nhờ nguồn nguyên liệu tại chỗ phong phú và thị trường tiêu thụ
rộng lớn ở trong và ngoài nước… Hằng năm đồng bằng sông Cửu Long có
khoảng 11 triệu tấn gạo nhưng công nghệ xay xát đến nay vẫn chưa có gì đổi

mới, công suất nhà máy từ nhỏ đến trung bình là chủ yếu, bình quân chưa đến
50 tấn lúa/ca. Thủ tục cấp phép xây dựng nhà máy mới vẫn có nhiều điều thay
đổi: một nhà máy chà gạo muốn ra đời phải qua 7 – 8 giấy phép con, từ thuế đến
môi trường, công an, phòng cháy chữa cháy… nhiều nơi còn phải có ý kiến
ngành giao thông vận tải.Khu nhà máy đánh bóng gạo tập trung lớn nhất tại Bà
Đắc – Cái Bè thì vi phạm lộ giới đường bộ và đường sông, thường xuyên gây
ách tắc giao thông. Có thể thấy rằng: gắn công nghiệp với nông nghiệp là đường
lối phát triển xuyên suốt của nước ta từ nhiều thập kỷ nay, được xem là “nhiệm
vụ hàng đầu” trong chiến lược phát triển kinh tế, xã hội nhiều thời kỳ. Thế
nhưng, sự phát triển của hai lĩnh vực kinh tế này trên thực tế lại ở hai thái cực
đối lập rất rõ nét: hoặc là công nghiệp chế biến nông sản đã thụt lùi quá xa so
với nông nghiệp, hoặc là nông nghiệp không theo kịp công nghiệp. Nói riêng về
thái cực thứ nhất, cho dù vẫn còn rất xa mới được như mong muốn, nhưng nền
nông nghiệp hàng hóa lớn phù hợp với nhu cầu thị trường và điều kiện sinh thái
của nước ta đã và ðang hình thành, còn công nghiệp chế biến nông sản tuy cũng
phát triển, nhưng cái mà chúng ta làm được hầu hết mới chỉ ở khâu sơ chế.
Yếu tố nhu cầu
Việt Nam bắt đầu mở cửa thị trường kinh doanh xuất khẩu gạo từ năm
2011 theo cam kết với WTO, chúng ta đang dần thích ứng bằng nghị định 109
để “sắp xếp sân chơi” trước sự “đổ bộ” của doanh nhân nước ngoài. Nghị định
9
109 về kinh doanh xuất khẩu gạo được cho là để loại bỏ bớt các doanh nghiệp
không có thực lực. Những điều kiện chặt chẽ được đặt ra bao gồm việc doanh
nghiệp phải có nguồn vốn lớn, kho chứa ít nhất 5.000 tấn và cơ sở xay sát công
suất 10 tấn lúa/giờ.
Như chúng ta đã biết, gạo đóng vai trò quan trọng nhất trong số các mặt
hàng nông nghiệp ở Việt Nam về mặt an ninh lương thực, thu nhập và tạo công
ăn việc làm cho khu vực nông thôn, và doanh thu xuất khẩu. Gạo là nhóm mặt
hàng phục vụ chủ yếu cho thị trường nội địa. Nhưng với các chiến lược của
Chính phủ hiện nay, chúng ta có hy vọng về sự mở rộng thị trường xuất khẩu

gạo của Việt Nam. Theo ông Trương Thanh Phong – chủ tịch VFA (Hiệp hội
lương thực Việt Nam) thì xuất khẩu gạo Việt Nam năm 2010 về giá và lượng
đều tăng đáng kể, đạt mức cao nhất trong hơn chục năm qua. Cả năm đạt 6,754
triệu tấn gạo xuất với trị giá gần 3 tỷ USD, giá xuất khẩu bình quân trên
431USD/tấn và gần bằng với mức giá gạo Thái Lan.
Châu Á vẫn là thị trường truyền thống của Việt Nam khi lượng gạo Việt
Nam xuất vào thị trường này chiếm đến 59,4%, tiếp đến là thị trường Châu Phi
23,55%. Gần đây, nhu cầu của thị trường nước ngoài với lúa gạo của Việt Nam
tăng cao, thị trường lúa gạo đang có những diễn biến bất ngờ, như Indonesia liên
tiếp trong 2 năm (2008, 2009) không nhập khẩu gạo nhưng đến năm 2010 lại
nhập đến 1,5 triệu tấn gạo của Việt Nam. Tương tự là Bangladesh trong năm
2010 nhập tổng cộng 400.000 tấn gạo, vượt ngoài tính toán từ đầu năm. Trong
năm 2011, hai thị trường này dự tính có thể sẽ nhập 700.000 tấn gạo của Việt
Nam. Bên cạnh đó, một số thị trường truyền thống như Philippines cũng có
những thay đổi về chính sách lương thực nên nhu cầu của thị trường này cũng
thay đổi. Đáng lưu ý, theo VFA, trong 9 tháng vừa qua, giá xuất khẩu bình quân
FOB đạt trên 520USD/tấn, tăng 133USD/tấn so với cùng kỳ. Bởi hiện nay thị
trường xuất khẩu biến đổi theo chiều hướng có lợi cho Việt Nam. Cụ thể, thị
trường giờ đã hình thành 2 cấp, một là nhu cầu gạo cấp thấp, giá rẻ với nguồn
cung từ Ấn Độ; hai là, nhu cầu gạo cao cấp, giá cao từ Thái Lan, Việt Nam. Với
10
việc Thái Lan áp dụng chính sách hỗ trợ nâng giá lúa sẽ khiến giá gạo tăng cao,
điều này chưa hẳn đã được các nước nhập khẩu gạo chấp nhận vì các nước này
đang chịu lạm phát. Khả năng các nước đổ sang tìm nguồn cung ở Việt Nam là
điều dễ thấy. Trong khi đó, Việt Nam ngoài việc có thể cạnh tranh thị phần gạo
cấp cao với Thái Lan trong lúc họ biến động, thì có thể giành được thị trường
gạo cấp thấp và cấp trung bình ở gần địa giới, bởi cước vận chuyển thấp, chất
lượng và nguồn hàng ổn định hơn Ấn Độ. Với thị trường toàn cầu, gạo Việt Nam
ngày càng khẳng định được vị trí, giữ được giá xuất khẩu và có khả năng cạnh
tranh cao ở loại gạo cấp trung bình. Việc duy trì các thị trường truyền thống và

liên tục mở rộng các thị trường mới đóng vai trò nền tảng giúp ngành lúa gạo
Việt Nam khắc phục khiếm khuyết về giống lúa, chất lượng gạo, tập quán canh
tác, sức chứa kho dự trữ, công nghệ sau thu hoạch và công nghệ chế biến.
Chiến lược, cơ cấu và yếu tố cạnh tranh
Nhằm nâng cao lợi thế cạnh tranh xuất khẩu gạo trong thời kỳ mới,
phương hướng chính không phải là phấn đấu tăng diện tích, quy mô và doanh số
gạo xuất khẩu. mà cần tập trung đầu tư thâm canh và áp dụng các tiến bộ khoa
học công nghệ, cải tiến chất lượng và phẩm cấp, tổ chức tốt và khép kín các
khâu thu mua, chế biến, marketing bán hàng, đảm bảo nâng cao sức cạnh tranh
và hiệu quả cũng nhưng ổn định thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam.
Hình thành các vùng chuyên canh lúa xuất khẩu.
Trọng điểm là Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long vốn
có những điều kiện về thổ nhưỡng, hệ thống kênh mương tưới tiêu nội đồng khá
phát triển cũng như tập quán, kinh nghiệm canh tác lúa nước.
Xây dựng các vùng chuyên canh lúa xuất khẩu ở Đồng bằng sông Cửu
Long chủ yếu ở các tỉnh Vĩnh Long, Tiền Giang, Hậu Giang, An Giang, Đồng
Tháp, Kiên Giang, Sóc Trăng. Tổng diện tích và sản lượng lúa của các tỉnh này
chiếm hơn 50% so với cả nước. Bình quân lương thực đầu người gấp 2.3 lần so
11
với lương thực bình quân cả nước. Vì thế Đồng bằng sông Cửu Long là nơi sản
xuất gạo xuất khẩu chủ lực của nước ta.
Đồng bằng sông Hồng có diện tích gieo trồng lúa chiếm khoảng 13% diện
tích trồng lúa của cả nước. Tập trung chủ yếu ở các tỉnh Thái Bình, Nam Định,
Hải Dương, Hưng Yên, Ninh Bình. Tuy diện tích trồng lúa không lớn nhưng
trình độ thâm canh cao và luôn được nâng cao nên chất lượng và năng suất lúa
của Đồng bằng sông Hồng lớn và không ngừng tăng lên. Được các thị trường ở
Bắc Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản ưa chuộng với lượng ngoại tệ trên một đơn vị diện
tích là khá cao.
Ngoài ra, đối với các vùng trồng lúa khác, đặc biệt là Đồng bằng ven biển
miền Trung, không có các tiềm năng sản xuất lúa xuất khẩu thì cũng được đầu tư

sản xuất lúa gạo để đảm bảo an ninh lương thực quốc gia.
Đẩy mạnh công nghệ, tăng năng lực cạnh tranh.
Để phát huy lợi thế của vùng, nâng cao năng lực cạnh tranh cho mặt hàng
gạo xuất khẩu, các vùng chuyên canh lúa xuất khẩu đã tập trung đầu tư phát
triển công nghệ trong các khâu từ canh tác đến chế biến gạo.
Đặc biệt phải kể đến tỉnh Vĩnh Long đã đầu tư các cụm chế biến xay xát
gạo chất lượng cao theo công nghệ liên hoàn từ khâu sấy khô, bảo quản đến xay
xát chế biến, tạo ra sản phẩm đạt tiêu chuẩn, có sức cạnh tranh và giá trị cao
đồng thời hạ giá thành sản phẩm để nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Công ty cổ
phần lương thực thực phẩm Vĩnh Long tiếp tục đầu tư hoàn chỉnh, đồng bộ thiết
bị xay xát, đánh bóng ở xí nghiệp chế biến lương thực số 5, 7, 8 kho Phú Lộc.
Trong đó trọng điểm là dự án đầu tư 8 tỷ đồng trang bị máy tách màu chuyên
sản xuất chế biến gạo cao cấp, gạo đặc sản, gạo đồ để xuất khẩu sang các thị
trường có nhu cầu cao như Iran, khối các nước Ả Rập, Nhật Bản, Malaysia và
dự án đầu tư 9 tỷ đồng xây dựng nhà máy sản xuất bao bì để giảm giá thành xuất
khẩu gạo. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp xuất khẩu gạp và nhà máy xay xát, cơ
sở chế biến gạo liên kết tổ chức mạng lưới mua gắn với vùng nguyên liệu trong
12
tỉnh và khu vực, nâng cấp mạng lưới khi dự trữ và công nghệ bảo quản nhằm
khắc phục tình trạng chỉ hoạt động hết công suất vào các tháng mùa vụ, chủ
động nguyên liệu nâng sản lượng xay xát chế biến phục vụ nhu cầu xuất khẩu và
tiêu thụ nội địa.
Áp dụng trồng giống lúa chất lượng cao.
Trong những năm qua, mặt sản xuất lúa theo tiêu chuẩn GlobalGAP (an
toàn, sạch, có chất lượng cao) ở Đồng bằng sông Cửu Long tuy còn gặp nhiều
khó khăn và đang còn mới mẻ đối với nông dân, nhưng đã có một số vùng sản
xuất có kết quả và đạt tiêu chuẩn được công nhận. Áp dụng tiêu chuẩn
GlobalGAP trong sản xuất lúa còn kết hợp các biện pháp về giống lúa cho năng
suất cao, phẩm chất gạo ngon, kháng sâu bệnh chính và áp dụng các kỹ thuật
canh tác tiến bộ như 3 giảm 3 tăng, 5 giảm 1 phải… nhằm giảm chi phí sản xuất,

hạ giá thành sản phẩm. Một số vùng sau đây đã sản xuất có kết quả tốt:
Ở Tiền Giang, theo báo Nông nghiệp Việt Nam ngày 12/2/2009, Hợp tác
xã Mỹ Thành đã chính thức đón nhận giấy chứng nhận tiêu chuẩn GlobalGAP,
thúc đẩy việc áp dụng tiêu chuẩn GAP được nhân rộng ra các tỉnh thành khác.
Ở Sóc Trăng, theo báo Hậu Giang ngày 30/7/2010, hợp tác xã Hòa Lời đã
nhận chứng nhận GlobalGAP và công bố gạo sạch Ngọc Đồng, nông dân HTX
Hòa Lời đã bán lúa với giá cao gấp 2 lần so với lúa thường.
Ở An Giang, theo website www.angiang.gov.vn, ngày 6/4/2010, trong vụ
đông xuân, lần đầu tiên Sở NN&PTNT An Giang đưa vào sản xuất thử nghiệm
trên 70.5 ha lúa theo tiêu chuẩn GAP tại 2 xã Bình Chánh (Châu Phú) và Vĩnh
Khánh (Thoại Sơn). Đây là bước đầu quan trọng để tập huấn cho nông dân làm
quen với phong cách sản xuất “quốc tế hóa”.
Tại Đồng bằng sông Hồng, các giống lúa có thương hiệu nổi tiếng trên thị
trường luôn được áp dụng sản xuất thu được năng suất cao như gạo tám xoan
Hải Hậu, Hương Thơm, Bắc Thơm, gạo Jasmine…
13
Yếu tố thời cơ và may rủi
“Tình hình thị trường hiện nay đang trong một giai đoạn đặc biệt, có
những thay đổi nhất định với những yếu tố mới. Dự báo xuất khẩu gạo của
Việt nam đang có lợi thế cạnh tranh so với các đối thủ khác”, đó là nhận định
của ông Huỳnh Minh Huệ, Tổng thư ký hiệp hội lương thực Việt Nam trong
buổi họp giao ban xuất khẩu được tổ chức vừa qua tại TP.Hồ Chí Minh.
Tình hình xuất khẩu gạo Việt Nam đang có lợi thế cạnh tranh cao. Bởi
tình hình lũ lụt tại Thái Lan chưa chấm dứt. Mặc dù chưa có số liệu đánh giá
cuối cùng về vụ lụt ở Thái Lan, nhưng có đủ thông tin để dự báo thiệt hại có thể
lên đến 6 triệu tấn lúa, tương đương 3.6 triệu tấn gạo. Theo nhận định của các cơ
quan hữu quan, chương trình can thiệp của Thái Lan đến lúc này chưa có tác
động dẫn dắt thị trường, trong khi dự báo tồn kho toàn cầu dồi dào và thu hoạch
mới đang đến ở nhiều nước châu Á. Thái Lan sẽ có thể có nguy cơ đứng ngoài
thị trường cho đến khi nào chấp nhận giá cạnh tranh.

Nhận định về thị trường xuất khẩu gạo trong thời gian gần đây, ông
Huỳnh Minh Huệ cho biết, yếu tố chính tạo áp lực thay đổi thị trường trong thời
gian qua là chương trình can thiệp tăng giá gạo tại Thái Lan và yếu tố này đã
xảy ra nhưung tình hình có vẻ không như mong đợi, giá đã không tăng cao như
dự báo. Trong khi đó, Ấn Độ xuất khẩu trở lại bình thường và có đủ khả năng để
bù vào khoảng trống do Thái Lan để lại, đặc biệt là gạo đồ và ngay cả gạo 5%
tấm với tín hiệu trúng thầu Iraq. Theo đánh giá, Ấn Độ đang là trung tâm thu hút
sự quan tâm của thương mại gạo thế giới. Song khả năng cung ứng, giao hàng
chậm do điều kiện hậu cần yếu và chất lượng chưa ổn định, nhưng vấn đề này có
thể khắc phục.
14
Trước tình hình trên, các chuyên gia dự báo thị trường gạo Việt Nam sẽ có
sự thay đổi nhất định trong thời gian tới do đối thủ cạnh tranh với Việt Nam ở
thời điểm này không còn là Thái Lan nữa mà là Ấn Độ và Pakistan. Cạnh tranh
sẽ gay gắt hơn vì giá gạo Ấn Độ và Pakistan đang thấp hơn giá gạo Việt nam rất
nhiều (trên 100USD/tấn). Việt Nam có lợi thế với thị trường gần và cung cấp ổn
định nhưng giá từ các nguồn khác quá thấp sẽ hình thành giá nơi đến cũng thấp
hơn.
Theo VFA, tính chung trong 7 tháng đầu năm 2011, xuất khẩu gạo đạt
4,619 triệu tấn. Giá xuất khẩu bình quân đạt 473,37 USD/tấn, tăng 35,11
USD/tấn so với cùng kỳ năm ngoái. Đặc biệt trong tuần cuối tháng 7, giá gạo
Việt Nam tăng do ảnh hưởng tâm lý từ thị trường Thái Lan (tăng từ 50-70
USD/tấn). VFA dự báo, sắp tới giá gạo xuất khẩu sẽ còn tiếp tục tăng do ảnh
hưởng từ giá gạo Thái Lan. Đây là một tín hiệu đáng mừng cho ngành sản xuất
lúa gạo Việt Nam.
Tuy nhiên, bên cạnh nhiều cơ hội như trên, xuất khẩu gạo Việt Nam vẫn
phải đối mặt với nhiều thách thức không thể chủ quan. Khi giá gạo xuất khẩu
tăng, bên cạnh có thể mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu, nâng cao giá bán
sẽ có nhiều rủi ro do thị trường biến động thường xuyên, giá tăng cao ngoài dự
kiến, có thể nhiều doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn không kịp đáp ứng nguồn hàng

cho các hợp đồng đã ký. Bên cạnh đó, nếu xuất khẩu vượt mức cân đối và giá
tăng lên quá cao sẽ ảnh hưởng đến tiêu dùng trong nước.
Với khoảng 80 doanh nghiệp được phép xuất khẩu gạo và lượng gạo xuất
khẩu nhiều sẽ góp phần hoànn thành mục tiêu xuất khẩu gạo đã đề ra. Tuy nhiên,
trước những diễn biến khó lường của thị trường thế giới, VFA cũng khuyến cáo
các doanh nghiệp nên chủ động lường trước những rủi ro và nên chắc chắn còn
gạo tạm trữ lưu thông (dự trữ lưu thông nội địa) thì mới xuất khẩu bình thường,
còn không thì nên dừng xuất khẩu vì phải đảm bảo ổn định thì trường trong
nước.
15
Vai trò của Chính phủ
Trong những năm qua, cùng với việc chuyển đổi mô hình quản lý kinh tế, cơ chế
quản lý giá cả và hệ thống giá nói chung, giá thóc gạo nói riêng cũng được
chuyển từ cơ chế giá hành chính sang cơ chế giá thị trường có sự quản lý của
Nhà nước
Hỗ trợ vốn
Năm 2009, Thủ tướng Chính phủ đã có văn bản chính thức chỉ đạo các
bộ, ngành, UBND các tỉnh và hiệp hội lương thực Việt Nam về công tác điều
hành xuất nhập khẩu gạo. Công văn số 215/TTg-KTTH chỉ đạo, Tổng công ty
Lương thực miền Nam và miền Bắc sẽ được xem xét, giải quyết việc vay mượn
15% vốn tự có.
Để đảm bảo lợi ích cao nhất của người trồng lúa, Bộ tài chính sẽ phối
hợp chặt chẽ với Hiệp hội lương thực Việt Nam để có thể thường xuyên cập nhật
các thông tin về giá thành sản xuất lúa, giá bán lúa của nông dân và giá lúa gạo
xuất khẩu nhằm kịp thời điều chỉnh quá trình sản xuất và tiêu thụ gạo khi cần
thiết. Không những thế, Thủ tướng chính phủ yêu cầu các cơ quan, đơn vị phải
báo cáo kết quả của chính sách áp dụng thuế suất 0% VAT đối với kinh doanh
gạo nội địa nhằm hỗ trợ các công ty kinh doanh lương thực thực phẩm tham gia
ổn định vào thị trường gạo trong nước để có thể can thiệp kịp thời có hiệu quả
vào sự biến động của thị trường. Bên cạnh đó, Bộ công thương chỉ sẽ theo dõi

sát sao mọi hoạt động của thị trường gạo để có có các hành động thúc đẩy, phát
triển thị trường, cũng như kịp thời xử lí những vấn để phát sinh khi thị trường
biến động và kịp thời báo cáo Chính phủ nếu vấn đề vượt qua tầm kiểm soát để
có thể giải quyết nhanh và kịp thời, không gây thiệt hại lớn cho ngành sản xuất
và tiêu thụ gạo. Hiệp hội lương thực Việt Nam có nhiệm vụ tìm kiếm thị trường,
khách hàng để bảo đảm thu hút được cá hợp đồng có giá trị lớn, lâu dài; hướng
16
dẫn các khung giá xuất khẩu và tổ chức đăng kí hợp đồng xuất khẩu linh hoạt
đối với các hợp đồng thương mại.
Trợ cấp
Với những vụ mùa gặp nhiều khó khăn như hạn hán, sâu bệnh, nước biển
xâm mặn hay thiên tai khiến cho hiệu suất lúa giảm hiệu quả hay ngay cả khi
nông dân được mùa nhưng giá gạo xuống thấp thì chính phủ sẽ kịp thời có các
chính sách hỗ trợ đặc biệt giúp những người nông dân có thể giảm thiểu những
thiệt hại. Một trong những biện pháp hữu hiệu đó là hỗ trợ lãi suất hoặc thu mua
lúa gạo trong mùa thu hoạch, hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo.
Năm 2009, dù các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long được mùa lúa nhưng
giá gạo giảm nên lợi nhuận thu được từ mùa vụ của những người nông dân
giảm. Trước hoàn cảnh đó, để tháo gỡ khó khăn cho bà con nông dân, Hiệp hội
Lương thực Việt Nam đã chỉ đạo các công ty lương thực tăng lượng gạo dự trữ
để đảm bảo cho người sản xuất có lãi từ 30% trở lên. Và hỗ trợ lãi suất vay cho
nông dân để đầu tư mua vật tư nông nghiệp phục vụ mùa sản xuất tới.
Năm 2010, Do gặp nhiều thiên tai như hạn hán, lũ lụt và sâu bệnh nên
việc sản xuất lúa gạo gặp nhiều khó khăn. Một động thái tích cực của Hiệp hội
lương thực dưới sự chỉ đạo cuả ban điều hành xuất khẩu gạo đã bám sát thị
trường, cả đầu ra lẫn đầu vào để đưa ra những quyết định xuất khẩu và giá để
làm sao có thể vừa thu mua hết lúa, vừa đảm bảo được lợi ích của người sản
xuất lúa. Chủ trương là thu hoạch đến đâu thu mua đến đó, chính phủ đã ra
Quyết định số 993/ QĐ –TTg, trong đó nêu rõ, ngân sách nhà nước hỗ trợ 100%
vốn lãi suất cho các doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, chính phủ còn đê ra nhiều các chính sách khác như hỗ trợ
lãi suất xuất khẩu gạo trả chậm, bù lỗ cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo, thưởng
xuất khẩu nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp lương thực, thực phẩm, điển hình như
Chương trình hợp tác Liên Chính phủ Việt Nam - Cuba năm 2007.
Thuế
17
Ngày 21/7/2008, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 104/2008/QĐ-
TTg ban hành mức thuế tuyệt đối thuế xuất khẩu gạo và phân bón. Mức thuế
tuyệt đối cao nhất với gạo là 2,9 triệu đồng/ tấn.Theo cơ chế này, thuế xuất khẩu
gạo có thể dễ dàng điều chỉnh và công bằng hơn cho doanh nghiệp. Khi giá gạo
nội địa quá cao, chính phủ có thể tăng thuế xuất khẩu để làm giảm lượng gạo
xuất khẩu và ngược lại, khi giá gạo trong nước xuống thấp, có thể điều chỉnh
giảm thuế để đẩy mạnh xuất khẩu, giúp tiêu thụ lúa nội địa. Theo quyết định
trên, mặt hàng gạo chịu mức thuế tuyệt đối được tính dựa vào giá gạo xuất khẩu
theo giá FOB (giá giao tới mạn tàu chở hàng, chưa có bảo hiểm). Mức thuế tuyệt
đội tăng lũy tiến từ 800 đồng/tấn- 2,9 triệu đồng/tấn theo mức tăng của giá xuất
khẩu gạo tương ứng từ 800 USD/tấn- 1.300 USD/tấn.Sau thời gian áp dụng, các
doanh nghiệp xuất khẩu gạo và hiệp hội lương thực Việt Nam kiến nghị bỏ thuế
này để khuyến khích xuất khẩu gạo.
Ngày 19- 12- 2008, Bộ tài chính ra quyết định gạo xuất khẩu được chính
thức ngưng đánh thuế.
Trợ giá
Trợ giá lúa gạo là một hình thức mà nhà nước dùng các chính sách hỗ trợ
cho người sản xuất lúa gạo khi giá lúa gạo rơi xuống một mức nào đấy nhằm
bảo vệ lợi ích người sản xuất trước sự biến động của thị trường.Ở Việt Nam,
theo chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ thì các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
cần theo dõi sát sao tình hình thị trường để kịp thời đưa ra các biện pháp đảm
bảo cho người trồng lúa có lãi từ 30% trở lên. Năm 2009, tuy những người nông
dân được mùa lúa nhưng giá lúa lại quá thấp gây thiệt hại cho những người
trồng lúa, đặc biệt là ở Đồng bằng Sông Cửu Long. Trước hoàn cảnh đó, bộ

nông nghiệp và phát triển nông thôn cùng bộ tài chính và một số bộ, ngành điều
tra thực địa và đưa ra mức giá bảo hiểm là 3.800 đồng/kg. Nghĩa là trong vụ này,
nếu giá lúa rớt xuống 3.800 đồng/kg, người trồng lúa sẽ được bảo hiểm tức là đủ
bù 3.800 đồng/kg.
Đây là chủ trương nhằm khuyến khích người dân trồng lúa trong cả
nước yên tâm sản xuất.
18
KẾT LUẬN
Thế giới luôn thay đổi từng ngày về mọi mặt, nhu cầu về lúa gạo
không phải ở thời điểm nào cũng giống nhau nhưng nhìn chung vẫn liên tục tăng
vì đây là một trong những loại lương thực chủ yếu phục vụ con người. Việt Nam
đã tận dụng được những lợi thế vốn có và khắc phục phần nào những yếu điểm
để trở thành nước xuất khẩu nhiều lúa gạo đứng thứ hai trên thế giới, điều này
đã được thực tế chứng minh. Đây là thành quả đáng quý và cần phát huy ngày
một tốt hơn của chúng ta.
Tuy nhiên đi đôi với nhu cầu về lượng, sự đòi hỏi về chất cũng ngày
một cao, do vậy ta cần nâng cao hiệu quả sản xuất hơn nữa. Nhìn chung năng
lực cạnh tranh của Việt Nam không phải là nhỏ nhưng vẫn còn thấp hơn một số
nước khác. Phương thức sản xuất của chúng ta vẫn còn nhỏ lẻ và lạc hậu, chưa
áp dụng triệt để được những tiên tiến của khoa học kỹ thuật. Vì vậy, sự quan tâm
và đầu tư đúng mức của Nhà nước là hết sức quan trọng để ta có thể giữ vững
thậm chí nâng cao vị trí một trong những đất nước xuất khẩu lúa gạo lớn nhất
thế giới.

19
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Giáo trình kinh tế Ngoại thương – Nhà xuất bản Kinh tế lao động
Hà Nội năm 2007.
- “Thị trường gạo thế giới” – Tạp chí Ngoại thương.
- “Sản xuất, lưu thông, xuất khẩu gạo của Thái Lan và Việt Nam, những chính

sách và biện pháp quản lý có liên quan” – Bộ Thương mại.
- www.agriviet.com
- www.wikipedia.com.vn
- www.vneconomy.vn
20

×