Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.54 KB, 30 trang )

Hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam
LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế
khách quan chi phối sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia và quan hệ
quốc tế, bắt nguồn từ quy luật phát triển của lực lượng sản xuất và phân công
lao động quốc tế. Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó.
Trong bối cảnh hiện nay, hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đơn thuần giới
hạn trong phạm vi cắt giảm thuế quan mà đã được mở rộng ra tất cả lĩnh vực
liên quan đến chính sách kinh tế thương mại, nhằm mục đích mở cửa thị
trường cho hàng hoá và dịch vụ, loại bỏ các rào cản hữu hình và vô hình đối
với trao đổi thương mại.
Đối với Việt Nam hiện nay, vấn đề đặt ra không phải là có hội nhập hay
không mà là làm thế nào để hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, đảm bảo
được lợi ích dân tộc, nâng cao được sự cạnh tranh của nền kinh tế, thực hiện
thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội trong quá trình hội nhập. Báo
cáo Chính trị Đại hội IX của Đảng, nhất là Nghị quyết 07- NQ/W ngày
27/11/2001 của Bộ Chính trị về Hội nhập kinh tế quốc tế đã nhấn mạnh quan
điểm: Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy
tối đa nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài để phát triển nhanh, có
hiệu quả và bền vững, đảm bảo tính độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ gìn an ninh quốc gia, phát huy bản sắc văn
hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái.
Đây là một chủ trương lớn trong chính sách đối ngoại, hội nhập của Đảng
và nhà nước ta. Theo quan điểm này, hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện
toàn cầu hoá kinh tế là một quá trình mà trọng tâm là chủ động mở cửa kinh
tế, tham gia phân công hợp tác quốc tế tạo điều kiện kết hợp có hiệu quả
Tiểu luận đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam Page 1
Hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam
nguồn lực trong nước và nước ngoài, mở rộng không gian và môi trường để
phát triển và chiếm lĩnh vị trí phù hợp trong quan hệ kinh tế quốc tế. Hội nhập
giúp cho việc mở rộng cơ hội kinh doanh, thâm nhập thị trường thế giới, tìm


kiếm và tạo lập thị trường ổn định, từ đó có điều kiện thuận lợi để xây dựng
cơ cấu kinh tế hợp lý, phát triển kinh tế trong nước. Việc nâng cao sức cạnh
tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp và hàng hoá là một trong những nội
dung quan trọng nhất để hội nhập kinh tế quốc tế hiệu quả.
Chúng ta đã trải qua 17 năm thực hiện đường lối mở cửa, đổi mới và hội
nhập với nền kinh tế khu vực và toàn cầu. Với phương châm "đa dạng hoá, đa
phương hoá quan hệ" và "sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy với tất cả các nước
trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Việt
Nam đã thiết lập các quan hệ thương mại, đầu tư, dịch vụ và khoa học kỹ thuật
với tất cả các nước, tích cực tham gia vào các tổ chức, diễn đàn kinh tế thế
giới và khu vực. Vì vậy, vấn đề nâng cao khả năng hội nhập của nền kinh tế
nước ta hiện nay đang là vấn đề lý luận và thực tiễn nóng bỏng. Có rất nhiều
bài viết của các nhà nghiên cứu và các chuyên gia đầu ngành trong nước và
ngoài nước đề cập đến vấn đề này. Đây là vấn đề rộng lớn và phức tạp, có cả
những nhận thức và quan điểm khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Thông qua
những tài liệu tham khảo cùng với những kiến thức đã được lĩnh hội trong nhà
trường, trong khuôn khổ báo cáo của mình, em xin phép được trình bày tóm
tắt về đề tài: " Hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề nâng cao sức cạnh tranh
của nền kinh tế Việt Nam ".
Tiểu luận đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam Page 2
Hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam
Mục lục
LỜI MỞ ĐẦU 1
Mục lục 3
I.KHÁI QUÁT VỀ TOÀN CẦU HOÁ VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ 4
1.Nhận thức chung về toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế 4
a.Toàn cầu hoá 4
b.Hội nhập quốc tế 5
2.Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế, cơ hội và thách thức đối với Việt Nam.
6

a.Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế : Những cơ hội. 6
b. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế : Những thách thức 8
II. NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 10
1.Các quan điểm về hội nhập và nâng cao khả năng cạnh tranh 10
2.Một số nhiệm vụ cần thực hiện trong quá trình hội nhâp kinh tế quốc tế
17
3.Những giải pháp cơ bản để nâng cao khả năng cạnh tranh 21
a.Tăng cường đổi mới kinh tế trong nước và vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước 21
b.Cải thiện chính sách đầu tư gắn với điều chỉnh cơ cấu kinh tế 23
c.Đẩy mạnh cải cách các doanh nghiệp nhà nước theo hướng nâng cao tính chủ động, hiệu
quả và khả năng cạnh tranh 25
KẾT LUẬN 29
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 30
Tiểu luận đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam Page 3
Hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam
I. KHÁI QUÁT VỀ TOÀN CẦU HOÁ VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
1. Nhận thức chung về toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế .
a. Toàn cầu hoá.
Ngày nay toàn cầu hoá hay thực chất là toàn cầu hóa kinh tế đang trở thành
một xu thế chủ yếu của quan hệ kinh tế hiện đại. Hiện nay tuy có rất nhiều
những quan niệm không giống nhau về toàn cầu hoá kinh tế nhưng có thể thấy
nét chung nhất là thừa nhận mối quan hệ qua lại của các hoạt động kinh tế
hiện nay đã bao trùm gần như tất cả các nước, mang tính toàn cầu. Có thể hiểu
toàn cầu hoá kinh tế là quá trình phát triển kinh tế của các nước trên thế giới
vượt qua khỏi biên giới quốc gia, hướng tới phạm vi toàn cầu trên cơ sở lực
lượng sản xuất cũng như trình độ khoa học kỹ thuật mạnh mẽ và sự phân
công hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng, tính chất xã hội hoá của sản xuất
ngày càng tăng.
Đi liền với toàn cầu hoá, xu thế khu vực hoá cũng sớm hình thành phù hợp với
trình độ lực lượng sản xuất và các quan hệ kinh tế giữa các quốc gia trong khu

vực; đáp ứng nhu cầu “co cụm, tập hợp lực lượng” của từng khu vực để thích
ứng với cạnh tranh toàn cầu. Vì vậy, hội nhập quốc tế đã diễn ra nhiều cấp độ
khác nhau: Song phương, tam giác, tứ giác, tiểu khu vực, khu vực, liên khu
vực, liên khu vực và toàn cầu; dưới nhiều phương thức đa dạng: Khu vực mậu
dịch tự do, liên minh thuế quan, thị trường chung, liên minh kinh tế, diễn đàn
hợp tác kinh tế bằng cơ chế ngày càng thông thoáng theo hướng tự do hoá.
Cho đến nay đã hình thành và tổ chức kinh tế toàn cầu: Quỹ tiền tệ quốc tế
(IMF)- gồm 182 thành viên, Ngân hàng thế giới (WB)-gồm 180 nước thành
viên, Tổ chức thương mại thế giới (WTO)- với 136 nước thành viên, và hàng
Tiểu luận đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam Page 4
Hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam
trăm tổ chức kinh tế khu vực, liên khu vực. Có thể nói thế giới đã thật sự bước
vào “cao trào hội nhập” với tốc độ ngày càng nhanh, với nhiều lĩnh vực ngày
càng nhiều, với hình thức ngày càng đa dạng. Những nhân tố nói trên phát
sinh từ toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế đã tạo nên quan hệ tuỳ thuộc lẫn nhau
giữa các nền kinh tế mà không một ai có thể cưỡng lại được. Quan hệ tuỳ
thuộc lẫn nhau cho phép phát huy các thế mạnh và bổ khuyết các thế yếu của
nền kinh tế quốc gia, đồng thời góp phần củng cố tính độc lập tự chủ của nền
kinh tế quốc gia trong cạnh tranh toàn cầu.
b. Hội nhập quốc tế.
- Hội nhập là một quá trình tất yếu, một xu thế bao trùm mà trọng tâm là mở
cửa kinh tế, tạo điều kiện kết hợp tốt nhất nguồn lực trong nước và quốc tế,
mở rộng không gian để phát triển và chiếm lĩnh vị trí phù hợp nhất có thể
trong quan hệ kinh tế quốc tế. Hội nhập vừa là đòi hỏi khách quan vừa là nhu
cầu nội tại của sự phát triển kinh tế mỗi nước.
- Các nước đều không thể né tránh việc hội nhập mà vấn đề then chốt là phải
đề ra được những chính sách, biện pháp đúng để hạn chế trả giá ở mức thấp
nhất và tranh thủ cao nhất những cơ hội phát triển.
- Hội nhập thực chất là tham gia cạnh tranh trên quốc tế và ngay trong thị
trường nội địa. Để hội nhập có hiệu quả phải ra sức tăng cường nội lực, cải

cách và điều chỉnh cơ chế, chính sách, luật lệ, tập quán kinh doanh, cơ cấu
kinh tế trong nước để phù hợp với "luật chơi chung" của quốc tế.
Chính sách hội nhập phải dựa và gắn chặt với chiến lược phát triển của đất
nước, đồng thời cải cách kinh tế, hành chính phải gắn chặt với yêu cầu của
quá trình hội nhập. Cải cách bên trong quyết định tốc độ và hiệu quả hội nhập,
Tiểu luận đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam Page 5
Hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam
đồng thời hội nhập sẽ hỗ trợ, thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, qua đó
nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế .
- Hội nhập không phải để được hưởng ưu đãi, nhân nhượng đặc biệt mà
nhằm mở rộng các cơ hội kinh doanh , thâm nhập thị trường, có môi trường
pháp lý và kinh doanh ổn định dựa trên quy chế, luật lệ của các thể chế hội
nhập, không bị phân biệt đối xử, không bị các động cơ chính trị hay những lý
do khác cản trở việc giao lưu hàng hoá, dịch vụ và đầu tư. Các nước có thể sử
dụng những luật lệ, quy định, cơ chế giải quyết tranh chấp của các thể chế hội
nhập để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình.
- Tăng cường thông tin, tuyên truyền, giải thích để giới kinh doanh nhận
thức sâu sắc và ủng hộ hội nhập, chuẩn bị tốt mọi mặt để chủ động hội nhập
từng bước, tận dụng những lợi thế so sánh của mỗi nước để cạnh tranh chiếm
lĩnh thị trường.
Nhận thức đúng về hội nhập và toàn cầu hoá kinh tế đối với các nước có ý
nghĩa quan trọng trong việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách và
giải pháp để chủ động hội nhập và tham gia giải quyết các vấn đề mang tính
toàn cầu nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội.

2. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế, cơ hội và thách thức đối với Việt
Nam.
a. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế : Những cơ hội.
Toàn cầu hoá kinh tế thúc đẩy rất mạnh, nhanh sự phát triển và xã hội hoá
lực lượng sản xuất, đưa tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Toàn cầu hoá kinh tế

góp phần làm chuyển biến cơ cấu kinh tế thế giới, đặc biệt làm tăng mạnh tỷ
trọng hàng chế tác (chiếm 21,4%) và các dịch vụ (62,4%) trong cơ cấu kinh tế
thế giới.
Tiểu luận đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam Page 6
Hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam
Toàn cầu hoá và khu vực hoá được thể hiện rõ trong sự hình thành và gia
tăng rất nhanh trao đổi quốc tế về hàng hoá, dịch vụ, tài chính và các yếu tố
sản xuất, được thể hiện qua sự hình thành và củng cố của các tổ chức kinh tế
quốc tế và khu vực.
Toàn cầu hoá làm tăng thêm sự phụ thuộc và tác động lẫn nhau giữa các nền
kinh tế các nước. Toàn cầu hoá kinh tế làm cho kinh tế ở mỗi nước có thể trở
thành bộ phận của các tổng thể, hình thành cục diện kinh tế thế giới mới.
Toàn cầu hoá kinh tế cũng làm giảm thiểu các chướng ngại trong việc lưu
chuyển vốn, hàng hoá, dịch vụ, nguồn nhân lực… giữa các nền kinh tế các
nước, làm tăng vai trò kinh tế đối ngoại, mậu dịch và đầu tư nước ngoài đối
với sự phát triển kinh tế mỗi nước.
Toàn cầu hoá truyền bá và chuyển giao trên quy mô càng lớn những thành
quả mới về khoa học và công nghệ, về tổ chức và quản lý, về sản xuất kinh
doanh … dọn đường cho công nghệ hoá, hiện đại hoá.
Toàn cầu hoá và khu vực hoá có tác dụng hỗ trợ, bổ sung cho nhau và cùng
nhằm mục tiêu thúc đẩy trao đổi hàng hoá, dịch vụ, vốn và lao động. Liên kết
khu vực vừa củng cố quá trình toàn cầu hoá, vừa giúp các nước trong từng khu
vực bảo vệ lợi ích của mình. Mặt khác, toàn cầu hoá, khu vực hoá cũng làm
cho sự cạnh tranh giữa các thực thể kinh tế trở nên gay gắt chưa từng có.
Toàn cầu hoá đã và đang mang lại những cơ hội to lớn cho nền kinh tế thế
giới và cho mỗi quốc gia tham gia vào quá trình hội nhập:
- Hội nhập quốc tế tạo điều kiện để phát huy lợi thế so sánh, thúc đẩy việc
tham gia vào phân công lao động quốc tế, tranh thủ được lợi ích của việc phân
bổ nguồn tài lực hợp lý trên bình diện quốc tế để từ đó phát huy cao độ nhân
tố sản xuất hữu dụng của từng quốc gia.

Tiểu luận đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam Page 7
Hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam
- Tự do luân chuyển hàng hoá, dịch vụ và vốn với việc giảm hoặc xoá bỏ
hàng rào thuế quan, đơn giản hoá thủ tục, cắt giảm kiểm soát hành chính sẽ
góp phần giảm chi phí sản xuất, giảm thất nghiệp và tăng thêm lợi ích cho
người tiêu dùng.
- Tạo ra nhiều cơ hội đầu tư mới, tăng nhanh vòng quay vốn và tạo điều kiện
để đa dạng hoá các loại hình đầu tư, nâng cao hiệu quả, hạn chế rủi ro đầu tư.
- Thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ, chuyển giao vốn, kỹ năng quản
lý, qua đó mở rộng địa bàn đầu tư cho các nước, đồng thời giúp các nước tiếp
nhận đầu tư có thêm nhiều cơ hội phát triển.
b. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế : Những thách thức.
- Sự bất ổn định của thị trường tài chính quốc tế. Nguồn tài chính được phân
bố không đồng đều, tập trung vào một số trung tâm tài chính lớn là các nước
công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới . Quá trình hội nhập và toàn cầu hoá
càng làm cho dòng vốn chảy mạnh hơn và tất yếu rủi ro sẽ lớn hơn.
- Khi tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế, các nước nhất là các nước
đang phát triển phải giảm dần thuế quan và bỏ hàng rào phi thuế quan, nghĩa
là bỏ hàng rào mậu dịch, thì các hàng hoá dịch vụ nước ngoài sẽ ồ ạt đổ vào,
bóp
chết hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước.
- Quá trình toàn cầu hoá phát triển đã làm tan vỡ các hàng rào bảo hộ của
các quốc gia. Do vậy các quốc gia không chỉ chịu tác động tích cực của quá
trình này mà còn phải chịu cả những chấn động của hệ thống kinh tế toàn cầu
trong các lĩnh vực tiền tệ, tài chính, nguyên nhiên liệu… Các nước càng yếu
kém, các chính sách kinh tế vĩ mô càng không đủ thông thoáng phù hợp với
các định chế quốc tế, hệ thống ngân hàng - tài chính càng lạc hậu… thì càng
chịu tác động nặng nề hơn.
Tiểu luận đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam Page 8
Hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam

- Nguy cơ tụt hậu của một số quốc gia. Trong quá trình hội nhập một số
quốc gia tranh thủ được lợi ích của hội nhập mậu dịch quốc tế và thị trường tài
chính quốc tế, phát huy được lợi thế so sánh, nhờ đó thúc đẩy tăng trưởng mở
rộng thương mại, thu hẹp dần khoảng cách với các nước phát triển thì một số
nước khác lại không có khả năng hội nhập vào quá trình phát triển thương
mại, thu hút vốn đầu tư tất yếu sẽ bị đẩy lùi xa hơn nữa về phía sau.
- Mối đe doạ của quá trình toàn cầu hoá là xu hướng hình thành thế độc
quyền, tập trung quyền lực vào một số tập đoàn đầu sỏ quốc tế.
- Quá trình toàn cầu hoá phát triển không chỉ có các lực lượng kinh tế tiến
bộ tham gia vào quá trình này mà còn có cả các thế lực phản động, các tổ chức
khủng bố… Chính sách đúng đắn là phải ngăn chặn, chống lại mọi hoạt động
phá hoại. Nhưng không thể vì nó mà đóng cửa đất nước hay hạn chế sự hội
nhập của đất nước vào quá trình toàn cầu hoá.
Ngoài ra còn có những mặt tiêu cực khác nữa như sự chênh lệch về trình
độ giữa nước giàu và nước nghèo có thể tăng lên, sự xung đột giữa các nền
văn học…nghiêm Quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đem đến
cho các nước những cơ hội thuận lợi lớn đồng thời cũng đứng trước những
khó khăn thách thức trọng. Song những tác động tiêu cực này có thể lớn nhỏ
đến đâu điều đó lại tuỳ thuộc vào chính sách hội nhập quốc tế của các quốc
gia. Một chính sách hội nhập quốc tế đúng đắn và thích hợp thì tác động của
quá trình này sẽ bị hạn chế và ngược lại.
Tiểu luận đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam Page 9
Hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam
II. NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT
NAM
1. Các quan điểm về hội nhập và nâng cao khả năng cạnh tranh
Để hội nhập nền kinh tế quốc gia vào khu vực và thế giới thì việc nâng cao
sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam là thách thức vô cùng lớn đối với
chúng ta. Nó đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cần lưu tâm giải quyết để tạo ra
những bước đột phá, phát huy tối đa nội lực, đảm bảo tính định hướng XHCN

của nền kinh tế trên con đường hội nhập. Sau đây là sáu quan điểm hội nhập
kinh tế quốc tế xác định cho Việt Nam trong xu thế toàn cầu hoá.
Một là, chủ động vạch ra chiến lược phát triển tổng thể vượt đuổi phù
hợp với những mục tiêu cụ thể trong từng thời kì nhất định
Như chúng ta đã biết, các nền kinh tế công nghiệp mới (Nies) Đông á nhờ
xác định được chiến lược vượt đuổi đầy táo bạo mà họ đã đạt được những kết
quả vượt trội so với nhiều nước trong khu vực, vươn lên trở thành các “con
rồng” với những chỉ tiêu kinh tế tăng liên tục trong nhiều năm, tạo nên những
bước đi thần tốc trong qua trình hphát triển kinh tế đất nước. Trong từng giai
đoạn cụ thể Nies đã xác định đựơc chiến lược đi tắt, đón đầu phù hợp nên đã
có những thành công lớn trong phá triển nền kinh tế. Chẳng hạn, ở thời kì đầu
khi còn thiếu vốn, kỹ thuật kém họ đã tiến hành công nghiệp goá thay thế
nhập khẩu, phát triển một số ngành công nghiệp, giải quyếnt những vấn đề xã
hội bức xúc và ở chiến lược công nghiệp hóa hướng ra xuất khẩu, với mục
tiêu khai thác lợi thế bên trong là chủ yếu như lao động dồi dào, giá rẻ nên
họ chủ yếu tập trung vào công nghiệp nhẹ, dùng nhiều lao động đã đem lại
nguồn thu ngoại tệ đáng kể, tạo lực cho sự phát triển công nghiệp nặng. Để
theo kịp xu thế phát triển thì họ lại tiến hành công nghiệp hoá hướng tới công
nghệ cao và đã thu được những kết quả đáng khả quan. Nhìn chung, chỉ có
Tiểu luận đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam Page 10
Hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam
những nước xác định được những chiến lước táo bạo, với những mục tiêu phát
triển đầy tham vọng mới có thể tạo ra được những bước phát triển thần kì, mà
không phải nước nào cũng làm được với những chiến lược thông thường cũng
mang lại thành công như vậy. Vì vậy trong xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá
diễn ra mạnh mẽ như hiện nay thì Việt Nam cần phải căn cứ vào điều kiện cụ
thể để xác định chiến lược phát triển có lựa chọn, có trọng điểm. Đối với Việt
Nam hiện nay thì chiến lược tự do hoá thương mại, tự do hoá thị trường là con
đường phù hợp hơn cả. Có như vậy, Việt Nam mới tiếp cận được những kỹ
thuật công nghệ hiện đại của các nước, mở rộng thị trường giao lưu, tạo ra cầu

nối thông thương với các nước trên thế giới để học hỏi kinh nghiệm. Tuy vậy,
Việt Nam cần lựa chọn con đường riêng cho mình, để phấn đấu phát triển kinh
tế xã hội, xác định mục tiêu thiết lập được một nền kinh tế cạnh tranh công
bằng và hiệu quả.
Hai là, sức cạnh tranh của nền kinh tế phải dựa trên quan điểm khuyến
khích và thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh.
Chúng ta biết rằng, cạnh tranh là một trong những đặc trưng cơ bản của cơ
chế thị trường, không có cạnh tranh thì không có nền kinh tế thị trường. Nền
kinh tế thị trường khi vận hành phải tuân thủ những quy luật khách quan riêng
có của mình, trong đó quy luật cạnh tranh. Cạnh tranh là động lực hay như
A.Smith gọi là “bàn tay vô hinh” thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát
triển. Nếu lợi nhuận thúc đẩy các cá nhân tiến hành sản xuấ kinh doanh một
cách có hiệu quả nhất thì cạnh tranh lại bắt buộc và thôi thúc họ phải điều
hành các hoạt động sản xuất kinh doanh một cách có hiệu quả nhất. Vì vậy,
cạnh tranh là yếu tố cần thiết cho sự phát triển của nền kinh tế. Cạnh tranh là
động lực kinh tế của sản xuất hàng hóa, bởi lẽ nó là con đường để thực hiện
lợi ích của các chủ thể trong kinh doanh. Động lực này có tác dụng hai mặt,
Tiểu luận đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam Page 11
Hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam
một mặt thúc đẩy kinh tế phát triển, mặt khác hạn chế có khi đi đến sự phá vỡ
sự phát triển kinh tế. Cạnh tranh chính là môi trường tồn tại và phát triển kinh
tế thị trường, không có cạnh tranh sẽ không có tính năng động và sáng tạo
trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Song xã hội dần sẽ chỉ chấp nhận hành
vi cạnh tranh lành mạnh bằng các phương thức sản xuất và chu chuyển hành
hoá một cách khoa học, hiệu quả chứ không thừa nhận các hành vi cạnh tranh
bằng cách dựa vào các thủ đoạn lừa đảo không trong sáng.
Việt Nam đang trong quá trình đổi mới nền kinh tế, thực hiện kinh tế mở, gắn
nền kinh tế Việt Nam với khu vực và thế giới. Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thư VIII của Đảng đã xác định: “Cơ chế thị trường đòi hỏi phải hình thành
một môi trường cạnh tranh lành mạnh, hợp pháp, văn minh. Cạnh tranh vì lợi

ích phát triển đất nước, chứ không phải làm phá sản hàng loạt, lãng phí nguồn
lực, thôn tính lẫn nhau”. Từ quan điểm mang tính nguyên tắc của Đảng, thì
điều kiện cần và đủ để khuyến khích và thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh là phải
xây dựng hệ thống pháp luật nghiêm minh, luật lệ đưa ra phải có tính khả thi.
Cần có sự điều tiết của Nhà nước để tạo điều kiện, môi trường cho cạnh tranh
lành mạnh trong sản xuất kinh doanh. Cần có những quy định cụ thể về thủ
tục khiếu kiện và thẩm quyền xử lý của một tổ chức tài phán trong phạm vi cả
nước đối với những hành vi cạnh tranh không lành mạnh, nhằm giữ nghiêm kỷ
cương phép nước, có như vậy mới tạo sự dung hợp giữa cạnh tranh và công
bằng xã hội.
Ba là, sức cạnh tranh của nền kinh tế phải phát triển trên cơ sở phát huy
các lợi thế so sánh của đất nước như: con người, truyền thống văn hoá dân
tộc, sự ổn định chính trị- xã hội, vị trí địa lý chính trị và kinh tế, tài nguyên
thiên nhiên
Tiểu luận đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam Page 12
Hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam
Việt Nam là nước được thiên nhiên ban tặng nhiều tài nguyên thiên nhiên rất
thuận lợi cho quá trình phát triển kinh tế, cộng với nguồn nhân lực dồi dào với
hơn 80 triệu dân và hơn 40 triệu lao động, cơ cấu dân số trẻ, cần cù lao động,
giá nhân công rẻ. Hơn nữa từ sau đổi mới thì tình hình đất nước có sự ổn định
về chính trị và kinh tế tạo điều kiện cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước
yên tâm bỏ vốn kinh doanh, mở rộng thị trường và mối quan hệ với các nước
trên thế giới. Chính nhờ những lợi thế này mà sức mạnh cạnh tranh của nền
kinh tế được nâng cao, những sản phẩm hàng hóa và dịch vụ Việt Nam đã có
mặt trên thị trường khu vực và quốc tế, đã có sức cạnh tranh về giá cả. Vì vậy,
cần nhận thức rõ vị trí quan trọng của những lợi thế mà mình đang óc để có
những giải pháp hữu hiệu giữ gìn và khai thác có hiệu quả. Đồng thời, cần
nhận thức được thực chất của những lợi thế so sánh đó là phần lớn do thiên
nhiên ban tặng nên nó không có độ bền vững lâu dài nếu chúng ta không có
chiến lược phát triển quy hoạch, phát triển có kế hoạch.Chính vì vậy, trên cơ

sở phát huy các lợi thế so sánh vốn có thì cần phải có sự phát triển mới, tạo ra
bươc đột phá thu hẹp khoảng cách, đuổi kịp các nước trong khu vực, vươn lên
sánh vai với các nước trên thế giới. Đồng thời, đánh giá đúng tầm quan trọng
của các nguồn lực để có biện pháp khai thác hợp lý có hiệu quả, muốn vậy nền
kinh tế phat có đủ sức mạnh đáp ứng được mọi sự biến đổi của thị trường
bằng chính nội lực của mình là chủ yếu.
Tóm lại phát huy nhứng lợi thế so sánh của đất nước là tiền đề quan trọng
và cần thiết để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam. Vấn để
quan tâm là cần nhận thức và đánh giá đúng mức các lợi thế so sánh. Trong
các nguồn lực thì nguồn nhân lực được đào tạo có ý nghĩa lớn hơn cả, đào tạo
con người là động lực trực tiếp của sự phát triển nền kinh tế. Cần không
Tiểu luận đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam Page 13
Hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam
ngừng kết hợp sử dụng các nguồn lực có hiệu quả, không ngừng tái tạo, bồi
dưỡng tao ra các nguồn có lợi thế cho đất nước.
Bốn là, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế phải giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Nền kinh tế nước ta đang vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
nhà nước theo định hướng XHCN. Do vậy, định hướng XHCN trong sự phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta là một tất yếu khách
quan, tức nhà nước ở đây có vai trò điều tiết nền kinh tế, bảo đảm ngày càng
tốt hơn nhu cầu vật chất cho xã hội; bảo đảm công bằng xã hội trên cơ sở nền
đại công nghiệp hiện đại; tạo ra bước chuyển mạnh mẽ về cơ cấu kinh tế. Định
hướng XHCN là sản phẩm tất yếu của quá trình tác động của quy luật quan hệ
sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất và sự nhận thức của những người cộng sản đối với sự vận động của các
hình thái kinh tế xã hội loài người.
Vì vậy, nhận thức rõ mặt phù hợp giữa kinh tế thị trường với định hướng
XHCN. Bởi vì kinh tế thị trường là sản phẩm chung của nền kinh tế thế giới,
phản ánh các nấc thang tiến hoá trong một giai đoạn cụ thể của nền kinh tế thế

giới. Nó không phải là sản phẩm của một phương thức sản xuất mà sẽ tồn tại
trong nhiều phương thức sản xuất. Và kinh tế thị trường là sản phẩm của sự
tác động biện chứng giữa quy luật quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
Chính vì vậy, kinh tế thị trường và định hướng XHCN không thể đối lập nhau
trong sự phát triển. Nhận thức được những mặt tích cực của kinh tế thị trường,
để từ đó kế thừa chọn lọc, tiếp thu những nhân tố kích thích sự phát triển, đặc
biệt là sự vận dụng mặt tích cực của các quy luật: giá trị, cung cầu, cạnh
tranh làm lợi cho nền kinh tế. Đồng thời, giữa KTTT và định hướng XHCN
có những mặt đối lập, xuất phát từ bản chất của chúng, đó là về xu hướng vận
Tiểu luận đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam Page 14
Hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam
động và mục tiêu phát triển của chúng. Cần nhận thức rõ mặt tiêu cực của
KTTT để có chiến lược đề phòng, hạn chế những tác động xấu cho nền kinh
tế.
Trong điều kiện Việt Nam để đảm bảo tính định hướng XHCN thì cần tăng
cường lực lượng kinh tế nhà nước; kinh tế nhà nước phải đủ sức mạnh, vươn
lên đóng vai trò chủ đạo, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã
chỉ rõ vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước: làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng
trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội; mở đường, hướng dẫn, hỗ
trợ các thành phần kinh tế khác phát triển; làm lực lượng vật chất để nhà nước
thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô; tạo nền tảng cho chế độ xã hội
mới. Và tiến hành đổi mới, hoàn thiện các công cụ quản lý vĩ mô.
Năm là, nâng cao sức cạnh tranh phải quán triệt quan điểm đa phương
hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại.
Sau 15 năm đổi mới nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu nhất
định, nhưng vẫn còn những mặt yếu kém chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển
như: khả năng về vốn có hạn, nhu cầu việc làm rất bức bách, đời sống nhân
dân còn nhiều khó khăn, tình hình kinh tế xã hội chưa thật ổn định vững chắc.
Do vậy, vấn đề đặt ra là cần phải tiếp tục kiên trì và mở rộng kinh tế đối ngoại
là nhu cầu bức bách đối với chúng ta. Đại hội IX cũng đã khẳng định: “Thực

hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá đa
dạng hoá các quan hệ kinh tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của
các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát
triển”.
Để quán triệt được quan điểm trên, chúng ta cần phải mở rộng thị trường xuất
khẩu, đổi mới cơ cấu và nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu. Hoạt động xuất
khẩu phải được đặc biệt chú trọng, đây là ngành mang lai nguồn thu ngoại tệ
Tiểu luận đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam Page 15
Hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam
lớn, tạo nguồn vốn để tiến hành CNH-HĐH đất nước. Đại hội lần thứ VIII của
Đảng đã chỉ rõ: đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là xu hướng ưu tiên và là
trọng điểm của kinh tế đối ngoại. Tăng tỉ trọng sản phẩm chế biến sâu và tinh,
giảm mạnh việc xuất khẩu hàng thô. Tăng khối lượng các mặt hàng đặc sản có
giá trị. Đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại có quan hệ gắn
bó, tác động qua lại, bổ sung, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Do đó, để nâng
cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam cần quán triệt quan điểm đa
phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại.
Sáu là quán triệt quan điểm hiệu quả kinh tế xã hội.
Nền kinh tế muốn tăng trưởng và phát triển bền vững phải đảm bảo hiệu
quả kinh tế- xã hội cao. Nó được coi là tiêu chuẩn hàng đầu ở bất cứ ngành,
lĩnh vực kinh tế nào trong nền kinh tế. Đặc biệt trong guồng máy của sự phát
triển thì hai khía cạnh cần đựơc xem xét đánh giá đúng mức là: hiệu quả kinh
doanh và hiệu quả kinh tế xã hội. Hiệu quả kinh doanh thể hiện kết quả kinh
doanh thông qua chỉ tiêu lãi hay lỗ, được xác định cả định tính lẫn định lượng.
Còn hiệu quả kinh tế xã hội là kết quả mang lại cho đời sống xã hội, đối với
một dịch vụ kinh doanh hoặc hoạt động của một doanh nghiệp hoặc đối với
một hoạt động kinh tế đối ngoại nhất định. Nó thể hiện mức độ đóng góp vào
thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước; chủ yếu được xác định về mặt
định tính khó xác định về mặt định lượng. Do vậy, chúng ta cần nhận thức rõ
tầm quan trọng của hiệu quả kinh doanh và hiệu quả kinh tế xã hội; chúng có

quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại bổ sung lẫn nhau trong quá trình
phát triển của nền kinh tế quốc dân. Nhà nước cần có hệ thống pháp luật,
chính sách và cơ chế quản lý kinh tế, đảm bảo công bằng xã hội, hướng dần
khuyến khích các doanh nghiệp chú trọng đến hiệu quả kinh tế trong kinh
doanh, đây là điểm mấu chốt, quyết định sự thành bại của các doanh nghiệp;
Tiểu luận đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam Page 16
Hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam
có như vậy mới nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trên thị
trường quốc tế. Đổng thời, nhà nước phải hướng dẫn mọi hoạt động kinh tế
thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh theo định
hướng XHCN.
2. Một số nhiệm vụ cần thực hiện trong quá trình hội nhâp kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế có thể mang lại nhiều lợi ích kinh tế. Việc nhập
khẩu các sản phẩm trung gian và thu hút đầu tư mà trong nước không thể cung
cấp với giá tương ứng, việc chuyển giao công nghệ và các ý tưởng từ những
nước phát triển hơn, và việc tiếp cận thị trường vốn và hàng hóa quốc tế có thể
giúp chúng ta giải quyết một số hạn chế cố hữu để tăng trưởng và phát triển
nhanh hơn. Nhưng đó là những lợi ích tiềm năng chỉ có thể phát huy đầy đủ
tác dụng khi trong nước chúng ta có nội lực vững mạnh với những chính sách
và thể chế bổ trợ. Kinh nghiệm của những nước đã đạt được tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay là phải kết hợp
tốt giữa việc mở cửa tự do hóa với việc duy trì mức tiết kiệm - đầu tư cao, ổn
định kinh tế vĩ mô, phát triển nguồn nhân lực và quản lý nhà nước tốt.
Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị đã đề ra chín nhiệm vụ quan trọng cần
được thực hiện trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế:
1. Tiến hành rộng rãi công tác tư tưởng, tuyên truyền, giải thích trong các tổ
chức đảng, chính quyền, đoàn thể, trong các doanh nghiệp và các tầng lớp
nhân dân để đạt được nhận thức và hành động thống nhất và nhất quán về hội
nhập kinh tế quốc tế, coi đó là nhu cầu vừa bức xúc, vừa cơ bản và lâu dài của
nền kinh tế nước ta, nâng cao niềm tin vào khả năng và quyết tâm của nhân

dân ta chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Tiểu luận đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam Page 17
Hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam
2. Căn cứ vào Nghị quyết của Đại hội IX, chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội 2001-2010 cũng như các quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà nước
ta tham gia, xây dựng chiến lược tổng thể về hội nhập với một lộ trình cụ thể
để các ngành, các địa phương, các doanh nghiệp khẩn trương sắp xếp lại và
nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh, bảo đảm cho hội nhập có hiệu quả.
Trong khi hình thành chiến lược hội nhập, cần đặc biệt quan tâm đảm bảo sự
phát triển của các ngành dịch vụ như tài chính, ngân hàng, viễn thông là
những lĩnh vực quan trọng mà ta còn yếu kém.
3. Chủ động và khẩn trương trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế , đổi mới
công nghệ và trình độ quản lý để nâng cao khả năng cạnh tranh, phát huy tối
đa lợi thế so sánh của nước ta, ra sức phấn đấu không ngừng nâng cao chất
lượng, hạ giá thành sản phẩm và dịch vụ, bắt kịp sự thay đổi nhanh chóng trên
thị trường thế giới, tạo ra những ngành, những sản phẩm mũi nhọn để hàng
hóa và dịch vụ của ta chiếm lĩnh thị phần ngày càng lớn ở trong nước cũng
như trên thế giới, đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
Tiến trình điều tra, phân loại, đánh giá khả năng cạnh tranh của từng sản
phẩm, từng dịch vụ, từng doanh nghiệp, từng địa phương để có biện pháp thiết
thực nhằm nâng cao hiệu quả và tăng cường khả năng cạnh tranh. Gắn quá
trình thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ ba khóa IX về tiếp
tục, sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước
với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong quá trình hội nhập cần quan tâm tranh thủ những tiến bộ mới của
khoa học, công nghệ; không nhập khẩu những công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm
môi trường.
Tiểu luận đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam Page 18
Hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam

Đi đôi với việc nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm và dịch vụ
của các doanh nghiệp, cần ra sức cải thiện môi trường kinh doanh, khả năng
cạnh tranh quốc gia thông qua việc khẩn trương đổi mới và xây dựng đồng bộ
hệ thống pháp luật phù hợp với đường lối của Đảng, với thông lệ quốc tế, phát
triển mạnh kết cấu hạ tầng; đẩy mạnh công cuộc cải cách hành chính nhằm
xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch về phẩm chất, vững mạnh về chuyên
môn.
4. Tích cực tạo lập đồng bộ cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ; thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn
thiện các loại hình thị trường hàng hóa, dịch vụ, lao động, khoa học - công
nghệ, vốn, bất động sản ; tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, bình đẳng
cho mọi thành phần kinh tế, tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý kinh tế của
Nhà nước đối với nền kinh tế, đặc biệt chú trọng đổi mới và củng cố hệ thống
tài chính, ngân hàng.
5. Có kế hoạch cụ thể đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực , vững
vàng về chính trị, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có
đạo đức trong sáng, tinh thông nghiệp vụ và ngoại ngữ, có tác phong công
nghiệp và tinh thần kỷ luật cao. Trong phát triển nguồn nhân lực theo những
tiêu chuẩn chung nói trên, cần chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và
kinh doanh hiểu biết sâu về luật pháp quốc tế và nghiệp vụ chuyên môn, nắm
bắt nhanh những chuyển biến trên thương trường quốc tế để ứng xử kịp thời,
nắm được kỹ năng thương thuyết và có trình độ ngoại ngữ tốt. Bên cạnh đó,
cần hết sức coi trọng việc đào tạo đội ngũ công nhân có trình độ tay nghề cao.
Cùng với việc đào tạo nguồn nhân lực, cần có chính sách thu hút, bảo vệ và
sử dụng nhân tài; bố trí, sử dụng cán bộ đúng với ngành nghề được đào tạo và
với sở trường năng lực từng người.
Tiểu luận đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam Page 19
Hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam
6. Kết hợp chặt chẽ hoạt động chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại .
Cũng như trong lĩnh vực chính trị đối ngoại, trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại

và hội nhập kinh tế quốc tế cần giữ vững đường lối độc lập tự chủ, thực hiện
đa phương hóa, đa dạng hóa thị trường và đối tác, tham gia rộng rãi các tổ
chức quốc tế. Các hoạt động đối ngoại song phương và đa phương cần hướng
mạnh vào việc phục vụ đắc lực nhiệm vụ mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại,
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Tích cực tham gia đấu tranh vì một hệ
thống quan hệ kinh tế quốc tế bình đẳng, công bằng, cùng có lợi, bảo đảm lợi
ích của các nước đang phát triển và chậm phát triển.
Các cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài cần coi việc phục vụ công
cuộc xây dựng và phát triển kinh tế của đất nước là một nhiệm vụ hàng đầu.
7. Gắn kết chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế với nhiệm vụ củng cố an
ninh quốc phòng ngay từ khâu hình thành kế hoạch, xây dựng lộ trình cũng
như trong quá trình thực hiện, nhằm làm cho hội nhập không ảnh hưởng tiêu
cực tới nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và an toàn xã hội; mặt khác, các cơ
quan quốc phòng và an ninh cần có kế hoạch chủ động hỗ trợ tạo môi trường
thuận lợi cho quá trình hội nhập.
8. Tích cực tiến hành đàm phán để gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) theo các phương án và lộ trình hợp lý, phù hợp với hoàn cảnh của
nước ta là một nước đang phát triển ở trình độ thấp và đang trong quá trình
chuyển đổi cơ chế kinh tế. Gắn kết quá trình đàm phán với quá trình đổi mới
mọi mặt hoạt động kinh tế ở trong nước.
9. Kiện toàn ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế đủ năng lực và thẩm
quyền giúp Thủ tướng Chính phủ tổ chức, chỉ đạo các hoạt động về hội nhập
kinh tế quốc tế. ủy ban gồm hai bộ phận: một bộ phận chuyên trách, một bộ
Tiểu luận đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam Page 20
Hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam
phận kiêm nhiệm bao gồm đại diện có thẩm quyền của các Bộ, Ban, ngành
hữu quan.
3. Những giải pháp cơ bản để nâng cao khả năng cạnh tranh
a. Tăng cường đổi mới kinh tế trong nước và vai trò quản lý kinh tế của
Nhà nước

Đổi mới bên trong và hội nhập là hai quá trình gắn bó chặt chẽ với nhau, hỗ
trợ và thúc đẩy lẫn nhau. Đổi mới bên trong tạo tiền đề và điều kiện thúc đẩy
hội nhập kinh tế quốc tế. Ngược lại, hội nhập một mặt đặt ra yêu cầu phải đẩy
mạnh đổi mới, cải cách bên trong, mặt khác cũng tạo điều kiện thuận lợi thúc
đẩy quá trình đổi mới đó. Để hội nhập đạt được kết quả tích cực, cần tiếp tục
đẩy mạnh quá trình đổi mới, cải cách thị trường theo những nội dung chủ yếu
sau:
Thứ nhất, thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các
loại thị trường, đặc biệt quan tâm đến các thị trường quan trọng nhưng hiện
chưa có hoặc còn sơ khai như thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị
trường bất động sản, thị trường khoa học - công nghệ. Phát triển thị trường
hàng hóa và dịch vụ đáp ứng nhu cầu đa dạng và nâng cao sức mua của thị
trường trong nước cả ở thành thị và nông thôn; mở rộng thêm thị trường mới ở
nước ngoài; xác định thời hạn bảo hộ hợp lý và có điều kiện với một số sản
phẩm quan trọng, tích cực chuẩn bị để hội nhập thị trường quốc tế; xóa bỏ độc
quyền kinh doanh của các doanh nghiệp lớn. Mở rộng thị trường lao động
trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu lao động; hoàn thiện hệ thống pháp luật và
chính sách để tạo cơ hội bình đẳng về việc làm cho người lao động, tạo điều
kiện thuận lợi và khuyến khích người lao động tự tìm việc làm, nâng cao trình
độ, đào tạo lại và học nghề mới. Sớm tổ chức thị trường khoa học - công nghệ
và bảo hộ sở hữu trí tuệ; đẩy mạnh phát triển các dịch vụ về thông tin, chuyển
Tiểu luận đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam Page 21
Hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam
giao công nghệ. Phát triển nhanh thị trường vốn, nhất là vốn dài hạn và trung
hạn; vận hành thị trường chứng khoán an toàn và hiệu quả; hình thành đồng
bộ thị trường tiền tệ; tăng khả năng chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam. Tổ
chức, phát triển thị trường bất động sản; Nhà nước giao quyền sử dụng đất dài
hạn cho người sản xuất, kinh doanh và cho phép chuyển nhượng quyền sử
dụng đất trên thị trường theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, hình thành đồng bộ cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường theo

định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục những yếu kém hiện nay, gỡ bỏ
những vướng mắc cản trở sự phát triển. Cơ chế quản lý kinh tế cần được đổi
mới sâu rộng, phát huy những yếu tố tích cực của cơ chế thị trường, triệt để
xóa bỏ bao cấp trong kinh doanh, tăng cường vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô
của Nhà nước, đấu tranh có hiệu quả chống các hành vi tiêu cực, lãng phí,
tham nhũng, gây phiền hà. Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bình
đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển; định hướng
phát triển kinh tế - xã hội; duy trì ổn định kinh tế vĩ mô; điều tiết thu nhập;
kiểm tra, kiểm soát mọi hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với
nền kinh tế. Cơ chế thị trường kết hợp với cơ chế kế hoạch, quy hoạch; tăng
cường công tác thông tin kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế, công tác
thống kê; ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ trong công tác dự báo;
kiểm tra tình hình thực hiện ở cả cấp vĩ mô và doanh nghiệp. Chi ngân sách
nhà nước cần bảo đảm tính minh bạch, công bằng; gắn chi ngân sách với tốc
độ tăng trưởng kinh tế và hiệu quả quản lý kinh tế, tài chính. Nhà nước đầu tư
vốn phát triển từ ngân sách nhà nước căn cứ vào hiệu quả kinh tế - xã hội
thông qua các công ty đầu tư; chuyển cơ chế phân bổ nguồn vốn vay nhà nước
mang tính hành chính sang có chế cho vay theo nguyên tắc thị trường, xóa bỏ
Tiểu luận đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam Page 22
Hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam
bao cấp thông qua tín dụng đầu tư. Hệ thống thuế tiếp tục được cải cách phù
hợp với tình hình đất nước và các cam kết quốc tế; đơn giản hóa các sắc thuế;
từng bước áp dụng hệ thống thuế thống nhất không phân biệt đầu tư trong
nước và nước ngoài; hiện đại hóa công tác quản lý thuế. Cải tổ các ngân hàng
thương mại quốc doanh thành những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, có sức
cạnh tranh; xóa bỏ sự can thiệp hành chính đối với các hoạt động cho vay của
các ngân hàng này; mở rộng để tiến tới xóa bỏ quy định khung lãi suất, tự do
hóa lãi suất đi đôi với việc hình thành thị trường tiền tệ hoạt động theo cung
cầu; thực hiện chính sách tỷ giá linh hoạt theo cung cầu ngoại tệ, từng bước tự

do hóa tỷ giá hối đoái; nâng cao năng lực giám sát của Ngân hàng Nhà nước.
b. Cải thiện chính sách đầu tư gắn với điều chỉnh cơ cấu kinh tế
Về lâu dài, đầu tư và tích tụ vốn có ý nghĩa quyết định đối với đối với sự
tăng trưởng và phát triển kinh tế. Đối với một nước có trình độ phát triển thấp,
đầu tư tư nhân còn yếu và cơ cấu sản xuất chưa phát triển đa dạng như Việt
Nam, theo kinh nghiệm quốc tế, mức đầu tư trong nước phải cao hơn mức tích
lũy nội bộ 25% GDP của ta hiện nay. Mở cửa hội nhập có tác động thúc đẩy
đầu tư, nhưng một mình nó không quyết định được mức đầu tư và tích tụ vốn.
Do đó, cần phải bổ trợ cho định hướng hội nhập bằng một chiến lược đầu tư
đồng bộ trong nước nhằm làm tăng hiệu suất đầu tư cho các doanh nghiệp,
khơi dậy và phát huy ý thức tự chủ kinh doanh của họ. Các chính sách khuyến
khích đầu tư cần ưu tiên cho việc xóa bỏ các biện pháp, chính sách có tác
động làm tăng giá các tư liệu sản xuất, trong đó có các biện pháp hạn chế
thương mại; tăng các biện pháp trợ cấp cho đầu tư sản xuất được áp dụng theo
nguyên tắc không phân biệt đối xử; đơn giản hóa chế độ khuyến khích đầu tư
theo hướng làm rõ các mục tiêu, công khai hóa và giảm bớt thủ tục hành
chính; chú ý hơn đến đầu tư sản xuất các ngành hàng phục vụ cho tiêu dùng
Tiểu luận đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam Page 23
Hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam
trong nước và xuất khẩu; đa dạng hóa cơ cấu nền kinh tế; đầu tư nhà nước vào
cơ sở hạ tầng, thủy lợi, cảng và các ngành sản xuất tư liệu sản xuất có tác
dụng khuyến khích đầu tư tư nhân phát triển; kết hợp tốt giữa các biện pháp
tăng cường xuất khẩu với thay thế nhập khẩu ở một số lĩnh vực nhất định.
Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư cần phải dựa trên việc phát
huy các thế mạnh, các lợi thế so sánh quốc tế của đất nước, gắn với nhu cầu
thị trường trong nước và ngoài nước thì mới phát huy được hiệu quả và hỗ trợ
cho tiến trình hội nhập. Việc xây dựng chương trình chuyển dịch cơ cấu đòi
hỏi phải xác định được về cơ bản cơ cấu kinh tế của Việt Nam trong 10-20
năm tới (bao gồm cả cơ cấu ngành, hàng và cơ cấu vùng), xác định được
những ngành mũi nhọn, những ngành cần ưu tiên phát triển trong một thời

gian nào đó, những ngành ta nên chuyên môn hóa để làm cơ sở xây dựng
các lộ trình mở cửa và các chính sách bảo hộ cụ thể theo phương châm có
chọn lọc, hợp lý và có thời hạn. Ngược lại, sự chuyển dịch cơ cấu xuất nhập
khẩu về hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, lao động với nước ngoài cũng sẽ tác động
tích cực tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước. Xây dựng chương trình
điều chỉnh cơ cấu kinh tế phải gắn với việc thành lập cơ chế rà soát và điều
chỉnh các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trung và dài hạn, các hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2010 và năm 2020 cho phù hợp hơn
với các lợi thế so sánh tĩnh và động của ta nhằm nâng cao sức cạnh tranh của
nền kinh tế Việt Nam để cuối cùng xác định rõ các ngành, hàng, lĩnh vực nào
sẽ mở, mặt hàng, lĩnh vực nào cần được bảo hộ và lịch trình của quá trình mở
cửa đối với từng lĩnh vực, từng mặt hàng đó. Trước mắt, chính sách đầu tư và
phát triển kinh tế cần phải khai thác mọi nguồn lực hiện có (lợi thế so sánh
tĩnh), đặc biệt lao động dôi dư để đẩy mạnh xuất khâut và tạo thêm công ăn
việc làm là một yêu cầu cấp bách, có ý nghĩa quan trọng không chỉ về kinh tế
Tiểu luận đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam Page 24
Hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam
mà cả về chính trị - xã hội. Về trung và dài hạn, sự chuyển dịch cơ cấu cần
thuận chiều với sự chuyển dịch của cơ cấu kinh tế thế giới, bám sát với tín
hiệu của thị trường, phù hợp với nhu cầu không ngừng biến đổi của người tiêu
dùng trong và ngoài nước. Theo đó, chính sách chuyển dịch cơ cấu sản xuất
trong nước phải làm cho tỷ trọng hàng thô hoặc sơ chế không ngừng giảm
tương đối, sản phẩm công nghiệp chế biến và chế tạo tăng mạnh, dịch vụ và
sản phẩm của các ngành có công nghệ cao, hàm lượng chất xám nhiều chiếm
vị trí ngày một tăng. Hơn nữa, biện pháp để thực hiện sự chuyển dịch này là
phải không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất, chất lượng thiết bị vật tư nội
địa chứ không thể trông chờ vào sự bảo hộ quá mức.
c. Đẩy mạnh cải cách các doanh nghiệp nhà nước theo hướng nâng cao
tính chủ động, hiệu quả và khả năng cạnh tranh
Việc đẩy mạnh cải cách các doanh nghiệp nhà nước có một ý nghĩa rất quan

trọng đối với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và việc nâng cao
khả năng cạnh tranh hội nhập của bản thân các doanh nghiệp nhà nước. Điều
này thể hiện ở các mặt sau: 1/ Chúng ta không thể hội nhập thực sự nếu cứ
duy trì mãi cơ chế quản lý hành chính, bao cấp đối với các hoạt động của các
doanh nghiệp nhà nước, vì như vậy là vi phạm "luật chơi chung" quy định là
không phân biệt đối xử, nhất là đối với những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ
triền miên, đối xử công bằng và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, và các
doanh nghiệp nhà nước phải hoạt động theo nguyên tắc hạch toán kinh doanh;
2/ Doanh nghiệp nhà nước cũng không thể hội nhập được nếu không được tự
chủ hạch toán kinh doanh và kinh doanh không có hiệu quả, bởi vì hiện nay
trong số 5.429 doanh nghiệp nhà nước, tuy 71,1% báo cáo có lãi nhưng chỉ có
Tiểu luận đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam Page 25

×