Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

MỘT VÀI NÉT VỀ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU 2008-2009 VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (396.35 KB, 21 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Khủng hoảng kinh tế là một trong những hiện tượng thể hiện sự xáo trộn trong
nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, nó xuất hiện theo chu kỳ mà các nhà kinh tế học tư sản gọi
đó là “chu kỳ kinh tế”. Tác động của khủng hoảng kinh tế đến đời sống kinh tế - xã hội
rất lớn mà các nhà kinh tế học thường tìm cách giải thích nguyên nhân và đề xuất giải
pháp để giải quyết nó. Sức mua sụt giảm, thị trường thu hẹp, sản xuất bị đình đốn,
việc làm bị mất, thu nhập giảm sút, nền kinh tế trì trệ đó là những biểu hiện của
khủng hoảng kinh tế. Trong lịch sử phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa đã chứng kiến
nhiều cơn khủng hoảng, trong đó, sức tàn phá của cuộc đại khủng hoảng kinh tế 1929-
1933 được xem là cơn đại hồng thủy trong kinh tế lớn nhất của thế kỷ XX. Theo Alan
Greenspan, cựu Thống đốc Quỹ dự trữ Liên bang Mỹ (FED) trong một thế kỷ đại khủng
hoảng chỉ xuất hiện một lần, cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay, xuất phát từ
cuộc khủng hoảng tài chính của Mỹ, được A. Greenspan đánh giá là cuộc đại suy thoái
của thế kỷ XXI. Bởi vì hiện nay, xuất phát từ Mỹ, cuộc khủng hoảng tài chính đã lan
sang hàng loạt các trung tâm kinh tế lớn trên thế giới như EU, Nhật, Trung Quốc,
Nga và kéo nền kinh tế thế giới đi xuống. Câu hỏi đặt ra là: Những cuộc khủng hoảng
kinh tế thế giới đã ảnh hưởng như thế nào tới Việt Nam và chúng ta đã làm gì để kéo
nền kinh tế nước nhà không lún sâu thêm trên bờ khủng hoảng. Với mong muốn tìm hiểu
câu trả lời cho câu hỏi trên, nhóm 12 chúng tôi đã thực hiện đề tài:
MỘT VÀI NÉT VỀ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU 2008-
2009 VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM.
Mục đích bài tiểu luận là tìm hiểu sơ lược về khủng hoảng tài chính thế giới, làm rõ
những tác động của nó tới nền kinh tế Việt Nam từ đó đưa ra những giải pháp thực tiễn
mà Việt Nam đã sử dụng trong những năm 2008 – 2009. Phương pháp nghiên cứu chủ
yếu là thu thập, phân tích, tổng hợp tài liệu từ sách báo, tạp chí và trên các website.
1
PHẦN NỘI DUNG
Mở đầu, chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược khái niệm cũng như nguyên nhân dẫn đến cuộc
khủng khoảng tài chính thế giới.
1. KHÁI NIỆM
Khủng hoảng tài chính được hiểu là sự sụp đổ của thị trường tài chính, khiến cho


nó không thể thực hiện được hai chức năng cơ bản nhất:Một là, ổn định giá trị đồng tiền
hoặc các tài sản tài chính như một phương tiện giao dịch, cất trữ tài sản; và hai là, là
trung gian chuyển vốn tiết kiệm vào những dự án đầu tư có hiệu quả nhất. Hệ quả là nền
kinh tế bị đẩy ra khỏi quỹ đạo tăng trưởng tiềm năng, gây nên sự sụt giảm mạnh về
sản lượng, việc làm, đi kèm với giảm phát, hoặc gây nguy cơ bùng nổ lạm phát. Có thể sơ
bộ chia ra ba quan điểm chính về khủng hoảng tài chính:
- Nhóm thứ nhất là những người theo chủ thuyết tiền tệ (MonetaristsView). Họ
cho rằng, khủng hoảng tài chính là do sự hoảng loạn của hệ thống ngân hàng, gây nên
sự co hẹp cung tiền tệ, dẫn đến sự suy thoái trong tổng cầu tiêu dùng và đầu tư. Vì vậy,
theo họ, sự can thiệp của Chính phủ là không cần thiết, và thậm chí có hại, bởi vì những
doanh nghiệp đáng nên sự gia tăng quá mức về cung tiền tệ và dẫn tới lạm phát.
- Đối lập với nhóm theo chủ thuyết tiền tệ là Keynesian View. Họ có quan niệm
rộng hơn, bao gồm sự sụt giảm của hầu hết giá trị cổ phiếu, sự vỡ nợ của nhiều công ty
tài chính và phi tài chính, nạn giảm phát đi kèm với sự rối loạn của thị trường ngoại
hối. Những yếu tố này gây nên sự sụt giảm mạnh về tổng cầu đầu tư và tiêu dùng, vì
thế cần phải có sự can thiệp của Nhà nước. Điều đáng nói là họ không đưa ra một đặc
trưng rõ ràng về nguồn gốc của khủng hoảng, để làm tiền đề cho một chính sách kích
thích có hiệu quả. Vì vậy, sự can thiệp của Chính phủ rất dễ dẫn đến lạm phát và trì trệ,
như những người theo chủ thuyết tiền tệ đã lưu ý.
- Nhóm thứ ba nhấn mạnh tới bản chất rủi ro của hoạt động tài chính. Theo họ,
hoạt động của hệ thống tài chính, đặc biệt là ngân hàng, chịu rủi ro cao, do ngân hàng đầu
tư hay tổ chức cho vay thường không nắm rõ thông tin về khả năng sinh lợi và mức
độ rủi ro của dự án đầu tư bằng cá nhân hay tổ chức đi vay; tức là những người chủ dự
án. Sự khác biệt về thông tin, hay sự thiếu minh bạch về thông tin các dự án, khiến cho hệ
thống tài chính có thể có vấn đề, bởi vì ngân hàng muốn ép lãi suất thực, cộng các phí
dịch vụ cho vay tăng lên để bù cho rủi ro mất vốn có thể xảy ra. Nhưng điều này lại khiến
cho những dự án có độ rủi ro cao nhất mới hy vọng có khả năng sinh lãi đủ cao để trả nợ
(nếu may mắn thành công). Ngược lại, nếu đó là dự án của những doanh nghiệp vừa và
nhỏ, với độ rủi ro ít (mức sinh lãi thấp hơn), thì họ sẽ khó có thể được vay vốn. Vì vậy,
khi lãi suất cho vay tăng lên thì:

+ Sẽ có một tỷ lệ lớn hơn những chủ các dự án với độ rủi ro cao hơn (như đầu cơ
vào bất động sản, chứng khoán thời bong bóng) đi săn lùng vốn vay. Trong khi đó, những
doanh nhiệp vừa và nhỏ, với những nhà đầu tư cẩn trọng, sẽ bị loại ra khỏi danh sách các
ứng cử viên.Người ta gọi đây là sự chọn lầm phải điều nguy hại, theo Akerlof (1974).
2
+ Với những chủ dự án lớn đã vay được vốn, thì họ có xu hướng làm thay đổi bản
chất dự án hay mục đích sử dụng vốn vay, khiến cho dự án mang tính đầu cơ cao hơn
(hoặc có vẻ “quan trọng” hơn, để Nhà nước không thể để cho bị thất bại). Do vậy, họ có
thể giàu lên nhanh chóng, nếu việc đầu cơ thành công; và để ngân hàng chịu tích tụ
những khoản nợ xấu; hay xã hội phải gánh vác tổn thất qua gánh nặng cứu trợ ngân sách
nếu dự án bị thất bại. Người ta gọi đây là hiểm họa do rủi ro đạo đức.
Nhìn chung, cho dù thuộc trường phái kinh tế nào, thì vẫn có một sự nhất trí rằng,
hệ thống tài chính cần phải được giám sát chặt chẽ, do tính phức tạp và rủi ro của
hoạt động này. Và việc thiếu sự quản lý, giám sát luôn dẫn đến bong bóng đầu cơ . Tuy
nhiên, chỉ khi việc mất cân đối vĩ mô trở nên rất nghiêm trọng, thì bong bóng đầu cơ
mới có thể dẫn đến khủng hoảng tài chính và kinh tế trên quy mô lớn.
2. BỐI CẢNH HÌNH THÀNH KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH MỸ VÀ NGUYÊN
NHÂN CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU 2008-2009
Chúng ta hãy xem xét lại một nguyên nhân cơ bản của cuộc khủng hoảng này qua lăng
kính của trường phái kinh tế học thể chế vừa tóm tắt ở trên. Nhưng để có cái nhìn bao
quát, hãy điểm lại một vài sự kiện đáng chú ý vào thời kỳ cận khủng hoảng:
Giai đoạn 1: Dưới thời của cựu tổng thống Bill Clinton (1992 - 2000). Đây được coi
là thời kỳ hoàng kim của Mỹ, với tiến bộ công nghệ và hiệu quả kinh tế cao, thặng dư
ngân sách, và tỷ lệ nợ nước ngoài thấp. Nhưng ngay vào cuối thời kỳ này đã xuất hiện hai
sự kiện đáng chú ý: Một là, Vỡ bong bóng chứng khoán. Điều này làm ảnh hưởng đến sự
giàu có của tầng lớp trung lưu của Mỹ, tức là làm giảm khả năng thế chấp cho các khoản
vay để đầu tư vào nhà cửa, bất động sản, và các hoạt động kinh doanh khác. Hai là, Tự
do hóa tài chính. Năm 1999, dưới áp lực của các nhóm đặc quyền tài chính, Bill Clinton
đã ký đạo luật mới (Gramm-leach-Bliey), khai tử đạo luật Glass-Steagal (1933). Điều này
cho phép các ngân hàng thương mại tham gia vào các hoạt động đầu tư rất rủi ro (chủ yếu

là trong lĩnh vực bất động sản), làm khởi đầu bong bong nhà đất ngay từ năm 2000.
Giai đoạn 2: Thời kỳ của cựu tổng thống George Bush (2001 - 2008), với điểm nổi
bật là mất cân đối vĩ mô ngày càng trầm trọng, thể hiện:
- Mỹ chịu gánh nặng của hai cuộc chiến tranh tại Iraq và Afganistan (sau sự kiện 11
tháng 9). Điều này trực tiếp làm tăng thâm hụt ngân sách.
- Thâm hụt cán cân thương mại và nợ nước ngoài của Mỹ (nhất là với Trung Quốc)
đã tăng trong suốt 3 thập kỷ, nhưng nhanh nhất là đến cuối năm 2008. Nợ ròng đầu tư
nước ngoài của Mỹ vào 2008 là 3.47 ngàn tỷ USD, tăng 1.33 ngàn tỷ, hay 62% so với
cuối năm 2007. Đó là mức tăng cao nhất kể từ năm 1976. Nếu xét tổng số nợ của Mỹ so
với GDP, thì bức tranh cho thấy sự bấp bênh về tài chính rõ hơn nhiều. Trong thập kỷ 80,
dưới thời Regan, tổng số nợ của Mỹ so với tỷ lệ của GDP bị đẩy từ 150% lên đến xấp xỉ
240%. Con số này tăng lên rất ít trong suốt 2 nhiệm kỳ của Clinton, tới gần 250%. Nhưng
nó lại bị đẩy lên dưới thời của Bush, đạt tới 350% vào năm 2008, vượt xa đỉnh cao trong
lịch sử là 300%, khi xảy ra cuộc đại khủng hoảng 1929-1930.
3
Như đã nói, khi việc mất cân đối vĩ mô trở nên nghiêm trọng, thì bong bóng đầu cơ
dễ dàng làm cho khủng hoảng nổ ra. Hãy nhìn lại những diễn biến chính đưa đến khủng
hoảng:
- Năm 2000, sau cuộc vỡ bong bóng chứng khoán, Fed hạ thấp lãi suất cơ bản nhằm
được mục tiêu kép: Thứ nhất, Kích thích đầu tư và tiêu dùng trong nước. Thứ hai, làm
giảm giá trị của đồng USD so với các đồng ngoại tệ mạnh khác, nhằm kích thích xuất
khẩu, cho phép giảm thâm hụt ngoại thương và kiềm chế nợ nước ngoài. Về dài hạn, sự
kích thích đầu tư, đẩy mạnh tiến bộ công nghệ và tăng năng suất lao động sẽ làm tăng khả
năng cạnh tranh quốc tế và sức mạnh của đồng USD Mỹ. Điều đó dẫn đến kỳ vọng về
một sự thịnh vượng dài hạn của đất nước và người dân Mỹ.
- “Hiệu ứng phụ” của việc giảm lãi suất cơ bản của Fed là giảm lãi suất vay, do đó,
làm tăng tổng số cho vay đầu tư vào bất động sản. Điều này được thúc đẩy bởi niềm tin
của người dân vào sự giàu có ngày càng tăng của Mỹ, vào dân số tiếp tục tăng và giới
hạn của đất đai, nên giá bất động sản sẽ chỉ có tăng. Nói một cách khác, “bong bóng bất
động sản” bắt đầu hình thành.

- “Bong bóng nhà đất” đã kích thích các ngân hàng thương mại tham gia vào các
hoạt động đầu cơ rủi ro cao (chủ yếu trên lĩnh vực bất động sản). Điều này trước đây bị
cấm, do rủi ro trong đầu cơ bất động sản được coi là vượt quá khả năng đảm bảo an toàn
của các ngân hàng thương mại. Thế nhưng, bây giờ họ lại được phép làm, nhờ đạo luật
mới,Gramm-leach-Bliey.
- Tuy nhiên, để đối phó với rủi ro cao, các ngân hàng thương mại, như Freddie Mac
và Fannie Mae, đã chứng khoán hóa những khoản cho vay đầu tư bất động sản. Điều này
trên thực tế có nghĩa là: những cá nhân hay tổ chức cho vay đầu tư bất động sản bán các
khoản cho vay của họ cho các ngân hàng thương mại (như Freddie, Fannie). Các ngân
hàng này “bó” các khoản vay nợ đó lại, ứng với từng mức rủi ro, rồi phân nhỏ ra để làm
tăng tính thanh khoản, sau đó bán ra như chứng khoán cho công chúng, thông qua các
ngân hàng đầu tư. Khi công chúng hay những nhà đầu tư phổ thông mua các khoản cho
vay nợ được chứng khoán hóa này, họ thường mua luôn bảo hiểm để chống lại rủi ro do
khoản vay nợ được chứng khoán hóa đó có thể không trả được. Vì vậy, quá trình này cho
phép những cá nhân, tổ chức cho vay đầu tư vào bất động sản trút được gánh nặng rủi ro
sang cho tổ chức khác gánh chịu, và thu về khoản tiền bán ra những tài sản cho vay được
chứng khoán hóa đó. Họ giàu lên nhanh chóng, nên được các công ty xếp hạng đánh giá
cao. Do vậy, các nhà đầu tư phổ thông trên thị trường vốn càng hưng phấn, và giá bất
động sản càng bị bốc lên cao.
- Cho tới hết nhiệm kỳ đầu tiên của cựu tổng thống Bush (2004), bong bóng bất
động sản không tạo ra lo ngại. Lý do là nền kinh tế về cơ bản vẫn vững vàng: tốc độ tăng
năng suất và tiền lương thực tế vẫn tiếp tục được giữ ở mức cao; cân đối vĩ mô vẫn nằm
trong tầm kiểm soát. Trong điều kiện cân bằng vĩ mô được duy trì, các tổ chức này hoạt
động rất có lãi nhờ “bong bong nhà đất”.
4
- Vào sau quý I/2005, thâm hụt ngân sách, thâm hụt ngoại thương, và nợ nước ngoài
của Mỹ thể hiện ra ngày càng trầm trọng. Fed thay đổi chính sách của mình và đẩy lãi
suất cơ bản lên 0.25 % trong mỗi lần điều chỉnh. Mục đích là nhằm thu hẹp cầu cơ; hạn
chế bong bóng nhà đất và lái vốn đầu tư vào các lĩnh vực công nghệ cao, có hiệu quả dài
hạn cao hơn. Trên thực tế, bong bóng nhà đất không hề giảm và nợ nước ngoài ngày càng

tăng. Thêm vào đó, chiến tranh ngày càng trở nên tốn kém. Hệ quả là mất cân đối vĩ mô
trở nên nghiêm trọng, buộc Fed phải mạnh tay hơn.
- Fed liên tiếp đẩy lãi suất cơ bản lên 0.25% trong mỗi lần điều chỉnh cho tới hết
năm 2006, và duy trì nó ở mức cao tới cuối 2008. Hệ quả là, lãi suất cho vay để đầu cơ
vào bất động sản tăng lên gấp bội và không ngừng bị đẩy lên. Số đông tầng lớp trung lưu,
đang vay nợ để đầu tư vào nhà đất, lúc này không còn chịu đựng nổi gánh nặng lãi suất,
dẫn đến bong bóng nhà đất vỡ. Vào cuối 2008, hàng loạt người vay nợ buộc phải trả lại
nhà cửa, bất động sản mua bằng tiền vay không có thế chấp cho ngân hàng để trừ nợ. Giá
bất động sản sụt giảm nhanh chóng. Cùng một lúc, hàng loạt con nợ bị vỡ nợ với quy mô
lớn, khiến cho vốn của các ngân hàng bị bốc hơi nhanh chóng.
“Bong bong nhà đất” đã quá giới hạn
Sự hoảng loạn từ thị trường nhà đất, lan sang thị trường chứng khoán, rồi lan sang hệ
thống ngân hàng. Khủng hoảng tài chính bắt đầu diễn ra, thể hiện như sau:
- Ngày 1/7/2008, Bank of America mua lại Countrywide Financials (một trong
những tổ chức bán mortgage backed securities lớn nhất).
- Ngày 8/9/2008, Freddie Mac and Fannie Mae bị quốc hữu hoá (với tổng tài sản
hơn 5 ngàn tỷ USD).
- Ngày 15/ 9/2008, Lehman đệ đơn phá sản (tài sản lớn nhất trong lịch sử nướcMỹ:
600 tỷ USD).
- Ngày 16/9/2008, Fed buộc phải cứu AIG với 85 tỷ USD cứu trợ (Tài sản của nó
hơn 1 ngàn tỷ USD).
Lý do là các tổ chức này mất khả năng thanh toán. Sự vỡ nợ của một loạt tổ chức
trong lĩnh vực tài chính, địa ốc làm một số lượng lớn nhân viên làm việc thuộc lĩnh vực
5
này bị sa thải. Sự sụt giảm mạnh giá địa ốc, chứng khoán, làm tài sản của giới trung lưu -
trụ cột của sức tiêu thụ của nền kinh tế Mỹ bị giảm mạnh, dẫn đến sự co thắt về tổng cầu
tiêu dùng hàng hóa cao cấp và lâu bền như xe hơi, cũng như các dịch vụ giải trí. Điều này
cũng làm các công ty xe hơi lớn như GM và một số lớn các nhà thầu phụ của chúng bị
phá sản. Nhiều trung tâm giải trí lớn như Las vegas cũng vắng khách. Việc rất nhiều các
công ty tài chính và phi tài chính bị phá sản làm tăng số người thất nghiệp, kéo theo sự co

hẹp tổng cầu về tiêu dùng và đầu tư, diễn ra theo đường xoáy ốc đi xuống. Do Mỹ là
trung tâm tài chính, thị trường tiêu thụ, và là con nợ lớn nhất thế giới, khủng hoảng tài
chính và kinh tế của Mỹ đã lan nhanh ra các nền kinh tế khác, dẫn đến khủng hoảng kinh
tế toàn cầu.
Tiến trình khủng hoảng toàn cầu : Có thể nói là khoảng giữa 2006 khi ngân hàng
trung ương Mỹ tăng lãi suất đề phòng lạm phát. Tiền hết rẻ, bong bóng đầu tư, đầu cơ địa
ốc bị xì : bong bóng địa ốc, bong bóng tín dụng gia cư Subprime bị vỡ vì nhiều người vay
tiền quá khả năng, trả tiền nợ nhà không nổi, nhà bị tịch biên. Khi đó mọi người mới
khám phá ra rằng, trong những gói nợ đang lưu hành, có nhiều khoản “nợ xấu” . Nhưng
“xấu” đến cỡ nào thì không ai biết.
Hồi tháng 7 /2008 nhiều ngân hàng châu Âu bát đầu bị điêu đứng vì mua lầm nợ xấu
của Mỹ, nhưng bản thân Hoa Kỳ thì vẫn “ bình chân như vại” cho đến khi số khách hàng
bị vỡ nợ, số nhà bị tịch biên tăng quá lớn. Các công ty tài trợ hết dám cho vay, nước Mỹ
rơi vào cảnh cạn kiệt tín dụng, trong khi kinh tế có dấu hiệu bị suy thoái. Ngân hàng
trung ương vội vàng hạ lãi suất nhưng đã quá trễ. Các ngân hàng trung ương khác - Châu
Âu và Nhật Bản - vội vàng bơm thêm tiền vào ngần hàng nhưng “vòi tín dụng” vẫn bị
nghẹt. Cổ phiếu các công ty tài chính tuột giá.
Tuần lễ 15 đến 21 tháng 9 cả thế giới chao đảo : từ Wall Street đến Tokyo, Thượng
Hải các chỉ số chứng khoán đều tuột dốc mạnh. Tại Châu Âu : Paris, Luân Đôn, Franfurt
hay Amsterdam cùng chung số phận. Thị trường Matxcơva cũng lâm vào tình trạng
hoảng loạn đến nỗi phải tạm đóng cửa để chờ cho cơn bão đi qua.
Hiệu ứng “Domino” đã làm sụp đổ hệ thống ngân hàng.
Tính từ đầu tháng 9 đến nay, trị giá chỉ số Nikkei của Nhật mất giá đến một phần ba.
Chỉ số Hang seng của Hongkong là một phần tư. Bởi lý do đơn giản là các gói nợ xấu của
6
Mỹ đã làm ung thối ngành tài chính ngân hàng tại rất nhiều quốc gia, đứng đầu là Anh
Quốc với cả khu vực tài chính Luân Đôn, City. Chính vì vậy mà sau Hoa Kỳ, Anh quốc
là nước thứ nhì công bố một kế hoạch quy mô cứu nguy ngành ngân hàng : rót thêm 37 tỷ
bảng Anh vào ba ngân hàng đang bị kiệt quệ nhất.
Mặt khác thì cho dù Anh, Mỹ, Liên Hiệp Châu Âu bơm rất nhiều tiền vào hệ thống tài

chính quốc tế, nhưng vẫn không đủ để đảo ngược tình thế hay ngăn chặn khủng hoảng
này lan sang khu vực sản xuất, dịch vụ … bằng chứng cụ thể là chứng khoán toàn cầu
vẫn còn trồi sụt thất thường.
Căn cứ trên trường hợp của Anh Quốc, giáo sư Mai Kim Đỉnh tại Luân Đôn cho rằng:
các khoản cứu giúp nói trên không thấm vào đâu với số nợ thực sự của các ngân hàng đã
mua nhầm nợ xấu.
Từ sự sụp đổ của hàng loạt trung tâm tài chính lớn trên thế giới đã lan rộng ra
các vùng lân cận và gây hiệu ứng lây truyền ra các nước trên thế giới.
3. ĐÔI NÉT VỀ CUỘC ĐẠI SUY THOÁI 1929-1933 VÀ CUỘC KHỦNG
HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU 2008-2009
Có khi nào cuộc đại suy thoái trở lại?
Cho dù kinh tế Mỹ được dự báo sẽ phục hồi trong thời gian tới, nhưng người Mỹ vẫn
chưa thể hoàn toàn thoát khỏi nỗi lo Đại suy thoái 1930 sẽ lặp lại. Hãy điểm lại một số
nét chính tương quan giữa hai cuộc khủng hoảng.
3.1 GIỐNG NHAU
7
Cuộc đại suy thoái lớn nhất nửa đầu thế kỷ 20 (1929-1933) và cuộc khủng hoảng đầu
tiên và nghiêm trọng nhất từ khi thế giới bước vào thế kỷ 21 có nhiều điều giống nhau.
Cả hai cuộc đều bùng nổ ở khâu nhạy cảm nhất là thị trường chứng khoán, tài chính
tiền tệ. Cả hai cuộc đều nổ ra tại nước Mỹ - một nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Cả hai cuộc đều bắt nguồn từ những nguyên nhân na ná giống nhau. Nếu ta “cắt lớp”
chúng ra thì nguyên nhân trực tiếp là những sự bất ổn trong sự vận hành của hệ thống
tài chính - tiền tệ, cho vay bừa bãi, ở lớp sâu hơn là chính sách tài chính dễ dãi kéo dài
đưa tới tình trạng “xài quá cái làm ra” và ở tầng sâu kín bên trong là nghịch lý của nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa (hay nền kinh tế thị trường tự do?) thể hiện trong sự chiếm hữu
và hoành hành của một nhúm người vì những lợi ích ích kỷ trong một nền kinh tế được
xã hội hoá cao.
Diễn biến của cả hai cuộc đều theo một kịch bản đại thể như nhau: hệ thống tài chính
- ngân hàng rung chuyển, gây tắc nghẽn đối với dòng vốn đầu tư, kéo theo sự suy giảm
sản xuất, tiêu dùng, xuất - nhập khẩu, làm cho hàng triệu người thất nghiệp, đưa tới

những xáo động chính trị - xã hội.
Phác đồ chữa trị hai cuộc khủng hoảng tương tự như nhau, trong đó có hai vị thuốc
nổi trội là sự can thiệp của nhà nước và mở hầu bao kích cầu nội địa đi liền với các biện
pháp bảo hộ công khai hoặc trá hình.
Cả hai cuộc đều dẫn đến những thay đổi sâu sắc trong cơ cấu kinh tế và tài chính
tiền tệ. Lần trước, chế độ bản vị vàng bị thay bằng các khu vực tiền tệ và sau Thế chiến
thứ hai đã hình thành hệ thống Bretton Wood. Lần này, đang xuất hiện những ý tưởng về
việc nâng cao vai trò của cơ chế quyền rút vốn đặc biệt (SDR), “đồng tiền quốc tế”, dùng
nội tệ của nước này hay nước khác để thanh toán xuất - nhập khẩu, thậm chí có nơi còn
quay về cơ chế cổ lỗ sĩ là “hàng đổi hàng”.
3.2 KHÁC BIỆT
Tuy khủng hoảng chu kỳ hay cơ cấu là bạn đồng hành của kinh tế thị trường; sự phát
sinh, diễn biến của nó thuận theo những quy luật nhất định song mỗi cuộc lại có những
nét đặc thù riêng, do vậy hai cuộc khủng hoảng lớn cách nhau gần 8 thập kỷ cũng có
những nét khác biệt:
- Lần này khủng hoảng tài chính, kinh tế diễn ra đồng thời với những xáo động về
năng lượng, lương thực và cả khí hậu, môi trường. Do đó, giải quyết khủng hoảng ở
mỗi nước và trên phạm vi toàn cầu phải tính đến đặc điểm này và mang tính tổng thể.
- Khác trước, với xu thế toàn cầu hoá và công nghệ thông tin, một lượng khổng lồ
các phi vụ giao dịch tài chính được thực hiện qua mạng toàn cầu với tốc độ cực
nhanh, tạo nên đồng tiền ảo có giá trị gấp trăm ngàn lần giá trị đồng tiền thật và không
một ai có thể kiểm soát nổi. Đã hội nhập sâu với kinh tế thế giới và sống trong thời đại
thông tin, chúng ta không thể không chú trọng tới đặc điểm mới này.
- Tuy khủng hoảng lần này rất trầm trọng, song chưa được gắn danh hiệu “đại
khủng hoảng” vì tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm nay được dự báo sẽ ở mức
8
âm một vài phần trăm, trong khi sản xuất những năm 1929-1933 sụt giảm tới 15-20%.
Lần này thương mại toàn cầu sụt giảm gần 10% so với trên 20% lần trước, tỷ lệ thất
nghiệp dao động xung quanh 10% so với 25-30% lần trước
- Cuộc khủng hoảng ngày nay những xáo động chính trị - xã hội chưa nghiêm

trọng như lần trước, mới chỉ có vài chính phủ ở các nước nhỏ bị sụp đổ do khủng hoảng
tài chính - kinh tế, chính quyền ở các nước lớn chưa bị thay đổi như những năm 30 thế kỷ
trước và đặc biệt khó có khả năng nổ ra chiến tranh thế giới.Ngày nay cũng sẽ diễn ra quá
trình cải tổ hệ thống tài chính - tiền tệ song có nhiều khả năng không đưa tới những biến
động cơ bản như lần trước.
- Một khác biệt lớn nữa là lần này đã xuất hiện một cơ chế xử lý khủng hoảng đại
diện cho cả các nền kinh tế phát triển lẫn các nền kinh tế đang phát triển, đó là G-20.
Điều đó chứng tỏ tính tuỳ thuộc lẫn nhau sâu sắc giữa các nền kinh tế trong một thế giới
bị toàn cầu hoá rất cao, mọi nền kinh tế đều ở trên một con thuyền. Cho dù cơ chế này
chứa đựng không ít khuyết tật, song nó là một “hiện tượng” mới của thời đại.
4. NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN
CẦU 2008 -2009
4.1 ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI.
Điều khó tránh khỏi là sự sụp đổ của ngành tài chính trên thế giới đã kéo theo nền
kinh tế thực xuống vực thẳm. Ba cột trụ chính của thế giới, Hoa Kỳ, Châu Âu và Nhật
Bản trong hai quý cuối năm liên tục đưa ra những chỉ số bi quan: thất nghiệp gia tăng,
nhu cầu tiêu thụ từ Âu sang Á đều bị chựng lại, sản xuất công nghiệp, xuất khẩu
đều đi xuống.
Chỉ số tin tưởng của các doanh nhân rơi xuống đến những mức thấp kỷ lục, đầu tư
trong bối cảnh như vậy không thể khởi sắc. Theo dự báo của Tổ chức Hợp tác và Phát
triển, sẽ có thêm từ 20 đến 25 triệu người thất nghiệp trong hai năm 2008-2009. Các quốc
gia sản xuất dầu hỏa cũng tiêu điều: giá dầu xuống dưới ngưỡng 35 đô la một thùng mà
khách hàng thì vẫn dửng dưng. Đơn giản do guồng máy sản xuất của thế giới đã chạy
chậm hẳn lại. Ngành công nghiệp xe hơi thế giới làm ăn thua lỗ, đặc biệt là GM, Ford và
Chrysler của Hoa Kỳ đứng bên bờ vực thẳm, phải ngửa tay xin tiền của Quốc hội. Toyota
lần đầu tiên từ khi được hình thành bị thua lỗ. Hai hãng xe của Pháp là Reunault và PSA
Peugeot Citroen thì phải tạm cho nhân viên nghỉ việc trong nhiều tuần lễ vì “lý do kỹ
thuật”. Ngoài ngành công nghiệp xe hơi, ngành xây dựng cũng ủ rũ không kém.
Tại châu Á, Nhật Bản, Hàn Quốc Trung Quốc đã liên tục tung ra nhiều kế họach kích
cầu quy mô chưa từng thấy.

Điểm không vui khác là thị trường lao động thế giới tiếp tục xấu đi. Ở Hoa Kỳ, thì
đây thực sự là mối đau đầu, một thách thức lớn đối với chính quyền sắp chính thức bắt
tay vào việc của tổng thống tân cử Obama. Ở châu Á, giải quyết thất nghiệp đang trở
thành ưu tiên hàng đầu của chính quyền Bắc Kinh, vì đây là yếu tố quyết định cho sự ổn
định xã hội ở nước đông dân nhất địa cầu.
9
“Việc làm”, một vấn nạn nhức nhối ở các quốc gia bị ảnh hưởng bởi khủng
hoảng.
Cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đã gây một tổn thất không nhỏ cho nền kinh tế các
cường quốc nói riêng và cả nền kinh tế thế giới nói chung. Tiếp theo chúng ta sẽ làm rõ
những ảnh hưởng từ khủng hoảng tài chính thế giới tới nền kinh tế Việt Nam.
4.2 ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
Với một độ mở rất cao nên ảnh hưởng của khủng hoảng và suy thoái kinh tế tới nền
kinh tế Việt Nam là không thể tránh khỏi. Tuy vậy, đánh giá mức độ ảnh hưởng này tới
Việt Nam lại rất khác nhau. Nhớ lại vào 6 tháng đầu năm 2008, trong khi hầu hết các
nước đang bị suy thoái nặng nề thì nền kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng. Mức xuất
khẩu cả năm 2008 vẫn đạt gần 30% so với năm trước, trong khi hệ thống ngân hàng của
Mỹ, Đức, Anh lâm vào tình trạng khốn đốn thì ở Việt Nam không có ngân hàng lớn, nhỏ
nào bị phá sản, lúc này có ý kiến cho rằng cuộc khủng hoảng thế giới ít ảnh hưởng
đến Việt Nam và nếu có ảnh hưởng thì cũng không nhiều.
Thực tế không phải như vậy. Cho đến nay có thể nói là ảnh hưởng của khủng hoảng
tới Việt Nam là nghiêm trọng, tuy con đường tác động có khác. Nếu như cuộc khủng
hoảng bắt đầu từ nền kinh tế Mỹ ảnh hưởng ngay lập tức tới các nền kinh tế hùng mạnh
khác, thì cơn bão này đến Việt Nam chậm hơn một nhịp. Một số ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng toàn cầu 2008-2009 đến Việt Nam trong giai đoạn đó:
4.2.1 Lạm phát và tốc độ tăng trưởng kinh tế
Lạm phát tại Việt Nam tăng mạnh trong nửa đầu năm 2008. Cuối tháng 6/2008, chỉ
số giá so với kỳ gốc 2005 là 144,30%. Trong quí III/2008, tốc độ tăng CPI giảm dần.
Tính cả quí, CPI chỉ tăng 4,18 điểm phần trăm. Từ tháng 10/2008, xuất hiện dấu hiệu
giảm phát khi CPI giảm xuống 148, 20 so với mức 148,48 của tháng trước.

Tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính toàn cầu đã làm cho tốc độ tăng trưởng
kinh tế của nước ta chậm lại. Trong quý một năm 2009, tác động của khủng hoảng đã
trở nên rõ ràng khi GDP chỉ tăng 3,1% so với năm trước, và thấp hơn 4 phần trăm so
với mức tăng trưởng bình quân của quí một của một vài năm trước.Tăng trưởng kinh tế
Việt Nam phụ thuộc nhiều vào tăng trưởng kinh tế thế giới, đặc biệt là các nền kinh tế
10
Mỹ, Nhật Bản, các nước EU, do đây là đối tác đầu tư và thương mại quan trọng của Việt
Nam trong thời gian qua. Mức độ suy giảm cũng như triển vọng phục hồi của các nền
kinh tế lớn trên thế giới sẽ là yếu tố quan trọng đến kinh tế Việt Nam trong thời gian tới.
Nguồn: VCSC Research
4.2.2 Đối với hệ thống tài chính – ngân hàng
Sau nhiều nghiên cứu các nhà kinh tế đã đưa ra khẳng định là cuộc khủng hoảng kinh
tế giới năm 2008- 2009 không có tác động đáng kể đến hệ thống ngân hàng Việt Nam,
bởi lẽ:
Thứ nhất, mức độ hội nhập của nền kinh tế Việt Nam nói chung và của hệ thống
ngân hàng nói riêng với nền kinh tế và hệ thống ngân hàng Mỹ và thế giới chưa sâu. Các
ngân hàng Việt Nam hiện nay chủ yếu làm cầu nối cung cấp dịch vụ thanh toán, bảo lãnh
và bao thanh toán cho các doanh nghiệp xuất, nhập khẩu. Bên cạnh đó, lượng vốn của
các ngân hàng Việt Nam vay trên thị trường quốc tế là không lớn nên có thể loại trừ khả
năng xuất hiện hiệu ứng rút vốn ồ ạt gây nên rủi ro về thanh khoản của hệ thống ngân
hàng.
Thứ hai, các ngân hàng và các tổ chức tài chính Việt Nam không sở hữu các MBS
của Mỹ, do vậy không phải gánh chịu những khoản lỗ phát sinh do công cụ này giảm giá.
Mặt khác, cấu trúc của hệ thống ngân hàng Việt Nam còn khá đơn giản, các sản phẩm và
dịch vụ ngân hàng chưa phát triển, chưa có sự liên thông ở mức tinh vi giữa Thị trường
bất động sản (TTBĐS) và Thị trường chứng khoán (TTCK) thông qua các công cụ phái
sinh tương tự như MBS của Mỹ. Các ngân hàng Việt Nam đầu tư vào bất động sản chủ
yếu thông qua hình thức trực tiếp là cho vay có đảm bảo bằng tài sản hoặc bằng chính bất
động sản hình thành từ vốn vay nên khả năng tạo hiệu ứng dây chuyền kiểu Mỹ khi bất
động sản giảm giá là rất khó xảy ra.

Tuy không phải chịu nhiều tác động từ khủng hoảng tài chính thế giới những hệ thống
ngân hàng việt nam vẫn gặp những vấn đề mà chủ yếu phát sinh từ những yếu tố nội tại:
Trước hết, là vấn đề mô hình của hệ thống ngân hàng. Hiện nay ở Việt Nam bao gồm
các loại hình ngân hàng: ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư,
ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác. Nhưng dưới
11
gốc độ lập pháp thì cho đến nay, chúng ta vẫn chưa có sự phân biệt rõ ràng về chức năng
của từng loại ngân hàng. Đặc biệt, chưa có một văn bản pháp quy nào được ban hành
để điều chỉnh hoạt động của ngân hàng phát triển và ngân hàng đầu tư (NHĐT) – là
những hoạt động kinh doanh ngân hàng có rủi ro cao nhất. Chính sự mập mờ này đã tạo
điều kiện cho các Ngân hàng thương mại (NHTM), các Công ty Tài chính (CTTC) “lấn
sân”. Và trên thực tế, nhiều NHTM và các CTTC đã “không ngần ngại” đầu tư vào bất
động sản và chứng khoán đã mang lại không ít hệ lụy cho nền kinh tế, góp phần không
nhỏ vào việc đẩy nền kinh tế đi đến lạm phát thời gian qua.
Tiếp theo, là sự ra đời ồ ạt của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng,
đặc biệt là các CTTC. Cho đến thời điểm hiện tại, chúng ta đã có trên 80 ngân hàng
thương mại và trên 20 công ty tài chính. Việc có quá nhiều ngân hàng (trong đó, có
khoản 25% ngân hàng có hiệu quả kinh doanh hạn chế) và các CTTC sẽ dẫn đến hai nguy
cơ lớn là khả năng huy động vốn để duy trì kinh doanh ổn định và khả năng quản trị ngân
hàng, đặc biệt trong giai đoạn khó khăn hiện nay.
Bên cạnh đó, tỷ lệ nợ xấu đang có xu hướng gia tăng do tăng trưởng tín dụng khá
cao cũng đặt hệ thống ngân hàng trước những thách thức không nhỏ. Theo số liệu từ
Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tổng dư nợ tín dụng cho vay kinh doanh bất động sản
hiện nay khoảng 115.500 tỷ đồng, chiếm 9,15% trên tổng dư nợ toàn hệ thống. Riêng
năm 2007, tỷ lệ tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng Việt Nam năm 2007 là 53%
– một con số khá cao cộng với khoảng 50% các khoảng dư nợ được thế chấp bằng bất
động sản sẽ làm tăng tỷ lệ nợ xấu trong những tháng cuối năm 2008 khi các khoản cho
vay vào bất động sản trước đây lúc thị trường này còn hấp dẫn sẽ đáo hạn. Trong tình
hình TTBĐS vẫn chưa có dấu hiệu khởi sắc thì việc các ngân hàng phải đối diện với
khoản lỗ lớn là khó tránh khỏi.

Ngoài ra, nguy cơ về tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng vẫn đang còn tiềm
ẩn, mặc dù các giải pháp thắt chặt tiền tệ, ổn định kinh tế vĩ mô, kìm chế lạm phát của
Chính phủ đã phát huy tác dụng. Lãi suất cơ bản qua bốn đợt cắt giảm trong một thời
gian ngắn đã được hạ xuống còn 10%, tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng được giảm xuống đáng
kể đi kèm theo việc tăng lãi suất trên tỷ lệ này, lãi suất cho vay trên thị trường liên ngân
hàng và chiết khấu giấy tờ có cũng giảm khá mạnh. Song song đó, NHNN đã mua lại tín
phiếu bắt buộc phát hành cho các ngân hàng trước thời gian đáo hạn trị giá 20,3 ngàn tỷ
đồng. Những động thái trên là dấu hiệu “nới lỏng chính sách tiền tệ” một cách linh hoạt
của Chính phủ nhằm tăng tính thanh khoản cho hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện để
ngân hàng hạ lãi suất cho vay để các doanh nghiệp có thể tiếp cận nguồn vốn. Qua đó,
kích thích sản xuất chống lại nguy cơ giảm phát và duy trì mức tăng trưởng của nền kinh
tế. Nhưng khi, lượng tiền mặt trong hệ thống tăng lên và các ngân hàng đã giảm đáng kể
lãi suất cho vay tương đương với mức cuối năm 2007 thì các doanh nghiệp lại tỏ ra
không mấy mặn mà. Nguyên nhân chủ yếu được xác định là do ảnh hưởng của đợt lạm
phát trong nước vừa qua và của cuộc khủng khoảng tài chính toàn cầu đang diễn ra đã
làm sức mua trong nước và trên thị trường các nước vốn là nơi tiêu thụ truyền thống sản
phẩm xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam giảm mạnh. Như vậy, hệ thống ngân
12
hàng Việt Nam lại đối diện với một thách thức mới. Đó là tìm đầu ra cho những đồng vốn
của mình. Trong điều kiện TTBĐS “đóng băng” và TTCK liên tục tuột dốc thì rõ ràng
đây thật sự là một bài toán khó.
4.2.3 Đối với hoạt động xuất khẩu
Cuộc suy thoái kinh tế thế giới đã có ảnh hưởng rõ rệt đến khu vực xuất nhập khẩu
của Việt Nam mà trong đó mối lo ngại chính là hoạt động xuất khẩu, vốn chiếm 70%
GDP. Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam chiếm khoảng 20-21% kim ngạch
xuất khẩu. Khủng hoảng tài chính đã tác động đến tốc độ tăng trưởng xuất khẩu vào thị
trường Mỹ do cầu tiêu dùng tại thị trường Mỹ đang trên đà giảm mạnh. Việc suy giảm
tốc độ tăng trưởng xuất khẩu vào thị trường Mỹ đã ảnh hưởng đến tốc độ tăng
trưởng xuất khẩu chung của Việt Nam trong năm 2008 và cả năm 2009. Tuy nhiên,
mức độ ảnh hưởng còn tuỳ thuộc vào tính chất của từng mặt hàng.

Khủng hoảng tài chính Mỹ tác động tiêu cực tới nhiều nền kinh tế khác trên thế giới,
đặc biệt là EU và Nhật Bản – đây là hai thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam.
Do tác động của khủng hoảng, người dân tại các thị trường này cũng phải cắt giảm chi
tiêu, các nhà nhập khẩu không có khả năng thanh toán do khó khăn về tài chính, theo đó
nhập khẩu đối với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam có xu hướng giảm.
Thực tế những tháng trong năm 2008, với tác động tiêu cực của khủng hoảng tài
chính, xuất khẩu của Việt nam đã bắt đầu có biểu hiện giảm sút, kim ngạch xuất khẩu
tháng 11 đã tiếp tục giảm và xuống dưới ngưỡng 5 tỷ USD/tháng. Đây là tháng thứ ba
kim ngạch xuất khẩu suy giảm. Tháng 11 năm 2008 kim ngạch xuất khẩu cả nước chỉ còn
4,8 tỷ USD giảm so với mức 5,044 tỷ USD của tháng 10. Trong đó: Dệt may giữ được
kim ngạch ở mức 780 triệu USD, giày dép tăng nhẹ lên 400 triệu USD so với 396 triệu
USD của tháng 10/2008. Một số mặt hàng khác cũng suy giảm trong đó đặc biệt là dầu
thô giảm mạnh do giá dầu đã giảm 60% so với mức tháng 7/2008.
Không chỉ thế, trong tám tháng đầu năm 2009, xuất khẩu tính theo đôla đã giảm
14,2% so với cùng kỳ năm trước. Hầu hết các nhóm hàng xuất khẩu chủ lực đều suy
giảm: Nếu so cùng kỳ, 8 tháng đầu năm 2009 hàng dệt nay giảm 1,3%; giày dép giảm
8,7%, thuỷ hải sản giảm 10,7%. Nếu năm 2008 giá xuất khẩu rất cao thì năm nay giá các
mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đều giảm sút nghiêm trọng: giá dầu thô giảm
53%; giá cà phê giảm 28,3% và còn có xu hướng giảm tiếp, giá cao su giảm 44%; giá gạo
giảm hơn 20% … Mặc dù sự giảm sút này còn ít hơn ở các nước đang phát triển khác,
nhưng nó cũng làm cho năm 2009 trở thành năm đầu tiên Việt Nam phải gánh chịu sự sụt
giảm về xuất khẩu kể từ khi bắt đầu cải cách kinh tế.
Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng, nhu cầu nhập khẩu hàng Việt Nam ở hầu
hết các thị trường chính đều giảm như thị trường Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU, Trung Quốc,
Australia Hơn nữa để chống trọi với tình trạng thiếu hụt phương tiện thanh toán và bảo
vệ các doanh nghiệp trong nước, ở hầu hết các thị trường này đều đang gia tăng các biện
pháp bảo hộ, từ chối đơn hàng, tung tin thất thiệt để hạ uy tín của hàng Việt Nam.
13
Về nhập khẩu, tám tháng đầu năm 2009 đã chứng kiến sự suy giảm còn mạnh mẽ
hơn, thấp hơn 28,2% so với cùng kỳ năm trước. Sự xuống dốc tương đối của xuất khẩu

và nhập khẩu lại giúp thu hẹp thâm hụt cán cân thương mại và thâm hụt tài khoản
vãng lai, trong đó thâm hụt tài khoản vãng lai được ước đoán ở mức 5 phần trăm của
GDP năm 2009, giảm xuống từ 11,9% năm 2008. Mức thâm hụt thực tế có thể còn cao
hơn thế nếu nền kinh tế tiếp tục đẩy mạnh đà phục hồi hiện nay.
4.2.4 Đối với vốn đầu tư của nước ngoài kể cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp
Với cuộc khủng hoảng tài chính lan rộng toàn cầu trong năm 2008-2009, có thể nói hầu
hết các doanh nghiệp Mỹ và Châu Âu sẽ giảm đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, nên
việc thu hút FDI ở hai thị trường này của Việt Nam đều bị tác động đáng kể. Hơn thế
nữa, chi phí huy động vốn toàn cầu có thể ngày càng tăng do biên độ tín dụng gia tăng
dẫn tới khả năng thu hút đầu tư bị hạn chế; tiêu dùng có thể giảm sút dẫn tới việc giải
ngân FDI giảm.
Hầu hết các nước trên thế giới thời điểm đó đều phải đối mặt với tốc độ tăng trưởng
kinh tế chậm hoặc âm. Việt Nam cũng không thoát khỏi yếu tố này. Trong khi lạm phát
vẫn là một vấn đề tiềm ẩn ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế Việt Nam năm 2009.
Ngoài ra, tiền gửi ngân hàng nước ngoài và các ngân hàng trong nước sẽ bị giảm lợi tức
do nhiều nước nới lỏng tiền tệ để tránh lâm vào suy thoái sâu rộng; dòng ngoại hối sẽ suy
giảm; nhiều hoạt động kinh tế ở nước ta cũng gặp khó khăn, đặc biệt các hợp đồng đã ký
kết với đối tác nước ngoài có thể bị ngưng trệ và có thể các hợp đồng này sẽ không còn
được ký kết.
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu cũng dẫn tới giá nhiều loại nguyên vật liệu phục
vụ cho sản xuất kinh doanh giảm, đặc biệt là dầu thô. Giá dầu thế giới giảm đã ảnh hưởng
đến nguồn thu ngân sách do xuất khẩu dầu thô bị giảm sút. Ngoài ra, nhiều loại nguyên
liệu khác phục vụ cho hoạt động của nền kinh tế như sắt, thép, phân đạm, giấy, xi măng
cũng gặp khó khăn và hiện tại thị trường tiêu thụ của các ngành này đang bị thu hẹp
4.2.5 Hoạt động của thị trường chứng khoán (TTCK)
Khủng hoảng thế giới năm 2008-2009 tác động mạnh ddenss TTCK Việt Nam, sự tác
động đó biểu hiện trên các phương diện sau đây:
Một là, khủng hoảng tài chính với sức lan tỏa nhanh chóng đã tác động đến các quốc
gia vốn là thị trường xuất khẩu hàng hoá của nhiều doanh nghiệp niêm yết như Mỹ, Liên
minh Châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc…Khủng hoảng tài chính làm sức mua của các thị

trường trên giảm sút nghiêm trọng ảnh hưởng đáng kể đến kế hoạch doanh thu và lợi
nhuận của các doanh nghiệp niêm yết làm giá cổ phiếu của các doanh nghiệp này vốn
đang sụt giảm lại khó có khả năng phục hồi.
Hai là, khủng hoảng tài chính đã làm cho các nhà đầu tư nước ngoài bán ròng cổ
phiếu, trái phiếu. Tính từ đầu tháng 8/2008 đến đầu tháng 10/2008 các nhà đầu tư nước
ngoài đã liên tục bán ròng cổ phiếu với tổng giá trị lên 1.278 tỷ đồng và khoảng 13,5
14
ngàn tỷ đồng đối với trái phiếu. Với giá trị bán ra khổng lồ này đã góp phần không nhỏ
vào sự sụt giảm của chỉ số VN-Index và Hastc-Index thời gian qua.
Thứ ba, tác động rõ nét nhất của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đến TTCK
Việt Nam là ở yếu tố tâm lý. Thật ra, yếu tố tâm lý trên TTCK thì ở quốc gia nào cũng
có, đặc biệt là các quốc gia có thị trường này mới hình thành. Yếu tố tâm lý đã làm cho
TTCK Việt Nam bao phen lâm vào tình trạng mất cân đối cung cầu: khi giá chứng khoán
lên thì mua không được, ngược lại khi giá rớt thì chỉ toàn lệnh bán mà không có lệnh
mua.
Thứ tư, tâm lý giá xuống đã làm méo mó vai trò là “phong vũ biểu” phản ánh “sức
khỏe” nền kinh tế và đe dọa tính thanh khoản của thị trường. Đó là khi, giá chứng khoán
xuống quá thấp thì người bán lại không muốn bán nhưng người mua cũng sẽ không dám
mua do vẫn còn lo sợ chứng khoán sẽ tiếp tục giảm nữa. Khi đó từ “khủng hoảng niềm
tin” thị trường sẽ chuyển sang một cuộc khủng hoảng khác nguy hiểm hơn nhiều: khủng
hoảng về tính thanh khoản.
Chỉ số chứng khoán Việt nam
Nguồn: Vietstock.
Thị trường chứng khoán gần như sụp đổ khi chỉ số chứng khoán Việt Nam tụt
đến điểm 345 vào ngày 24/ 10/ 2008.
4.2.6 Đối với thị trường bất động sản (BĐS)
Hiện nay hầu hết các doanh nghiệp kinh doanh BĐS của Việt Nam tiềm lực tài chính
khá hạn hẹp mà phần lớn phụ thuộc vào nguồn vốn bên ngoài chủ yếu là vốn vay của các
ngân hàng và tổ chức tín dụng. Đây là một khó khăn của doanh nghiệp kinh doanh BĐS
trong điều kiện khủng hoảng tài chính.

15
Cuối năm 2007 tình trạng đầu cơ BĐS đã đẩy giá BĐS ở Việt Nam lên quá cao so với
giá trị thực. Thị trường đã lên cơn sốt ảo, cầu ảo tăng cao. Bước sang năm 2008 nền kinh
tế Việt Nam gặp khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế, lạm phát tăng cao
buộc người dân phải giảm chi tiêu, thị trường BĐS đóng băng, giá BĐS đã giảm đến
40%, các doanh nghiệp kinh doanh BĐS rơi vào khó khăn, không bán được sản phẩm lại
phải chịu lãi suất cao do chính sách thắt chặt tiền tệ làm lãi suất ngân hàng tăng cao. Đến
nay thị trường cũng chưa có dấu hiệu phục hồi. Giá BĐS giảm sẽ kéo theo tài sản ngân
hàng cũng giảm theo, nợ xấu tăng lên làm cho cơ cấu vốn của ngân hàng thương
mại rơi vào tình thế bất lợi.
Mặc dù khủng hoảng nợ dưới chuẩn ở Mỹ mà gốc rễ là từ khủng hoảng địa ốc tuy
không làm ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường BĐS ở Việt Nam nhưng nó sẽ ảnh hưởng
gián tiếp qua các tác động đến thị trường tài chính tiền tệ, thị trường chứng khoán và các
yếu tố tâm lý của người dân. Tuy nhiên theo báo cáo của Ngân hàng nhà nước Việt Nam
thì cho vay BĐS chiếm khoảng 9,5% tổng số dư nợ của các Ngân hàng và tổ chức tín
dụng. Mặc dù vậy việc tác động gián tiếp đến thị trường BĐS Việt Nam như đã nói ở trên
là có thể.
4.2.7 Đối với thị trường hàng hoá và dịch vụ
Vào thời điểm đó, bối cảnh kinh tế thế giới nhiều biến động tạo môi trường thuận lợi
cho các hoạt động đầu cơ quốc tế. Các nhà ngân hàng và tập đoàn đa quốc gia với tài sản
hàng nghìn tỷ USD thao túng thị trường giao dịch hàng hóa thiết yếu và đầu vào sản xuất
quan trọng. Lần lượt dầu thô, lương thực, và vàng trở thành đối tượng tập trung đầu cơ
cao.
Diễn biến phức tạp của giá dầu mỏ. Mâu thuẫn địa-chính trị ở một số khu vực nhạy
cảm dầu mỏ trên thế giới và hoạt động tích cực của các nhà đầu cơ đã đẩy giá dầu thô
tăng mạnh trong suốt 6 tháng đầu năm 2008, lên mức đỉnh cao, lần đầu tiên trong lịch sử
kinh tế thế giới, dầu thô được giao dịch với giá 147 USD/thùng vào ngày 11/7/2008. Giá
nhiên liệu tăng cao đặt các nền kinh tế toàn cầu trong tình trạng báo động đỏ khủng
hoảng năng lượng. Tại Việt Nam, xăng A92- nhiêu liệu được tiêu dùng phổ biến nhất, có
lần tăng giá đầu tiên trong năm 2008 vào cuối tháng 2, từ 13.000 đồng lên 14.500

đồng/lít. Xăng dầu là vật tư thiết yếu của sản xuất và hoàng hóa quan trọng trong đời
sống. Chính phủ Việt Nam từ lâu vẫn duy trì sự điều tiết chặt chẽ thông qua thuế, truyền
thông, và qui định giá. Đến giữa tháng 7/2008, trước áp lực giá tăng kỷ lục của thị
trường thế giới, giá bán lẻ xăng A92 tại Việt Nam có sự điều chỉnh lớn, tăng tới trên
30%, lên mức 19.000 đồng/lít. Sự tăng giá cao của giá xăng đã gây rất nhiều khó khăn
đến đời sống của nhân dân trong thời điểm đó.
Giá vàng lên xuống bất thường. Ở Việt Nam, vàng là hàng hóa đặc biệt, vừa là tài sản
tiết kiệm được ưu thích, vừa là phương tiện thanh toán phổ biến. Trong năm 2008, mức
độ tăng giảm của giá vàng tương đối lớn. Trong tháng 2 và 3/2008, chỉ số giá vàng liên
tiếp tăng 11 và 13 điểm phần trăm. Trong hai tháng tiếp theo, chỉ số giá vàng giảm tổng
cộng 13 điểm phần trăm. Tháng 7/2008, chỉ số giá vàng tăng cao nhất trong 10 tháng đầu
năm, ở mức 220,46. Nhưng đến hết tháng 9/2008, chỉ số giá vàng lại tụt xuống 200 điểm.
16
Giá lương thực làm nhiều quốc gia lao đao. Nạn đầu cơ cũng khiến giá lương thực
tăng nhanh từ tháng 4 đến tháng 6/2008. Trong ba tháng, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam
lần lượt tăng 23,6%, 40,4% và 26,7%. So với tháng 1, giá gạo xuất khẩu của tháng
4/2008 đã tăng gấp hơn hai lần. Giá gạo xuất khẩu của tháng 6/2008 tăng cao nhất, 1.005
USD/tấn.
Trước tình hình giá lương thực tăng cao, nhiều nước xuất khẩu gạo chủ chốt (trong đó
có Việt Nam) đã lựa chọn giải pháp tạm ngừng xuất khẩu để quan sát. Trong khi đó, các
quốc gia nhập khẩu nỗ lực tích lũy lương thực để duy trì ổn định giá cả và đảm bảo an
ninh lương thực. Thực tế này dẫn tới hai hiệu ứng đồng thời: giá lương thực tiếp tục bị
đẩy lên cao và hành động “bơm” thêm tiền để mua lượng thực của các Chính phủ khiến
tình hình lạm phát ở nhiều quốc gia càng thêm trầm trọng.
Hiện tượng đầu cơ, tạo khan hiếm giả tạo mặt hàng gạo đã xuất hiện trên thị trường
Việt Nam vào cuối tháng 4/2008. Chính phủ đã có những chỉ đạo quyết hướng tới bình
ổn giá cả và trấn an tâm lý. Sáng tháng 6/2008, xuất khẩu gạo đã được phục hồi. Trong
hai tháng 6 và 7/2008, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam còn cao hơn mức giá bình quân
thế giới.
Trong tình hình kinh tế thế giới đang suy thoái, tình hình kinh tế vĩ mô của Việt Nam

mặc dầu đã được cải thiện nhưng nói chung vẫn còn nhiều khó khăn. Trong thời gian qua
nhiều doanh nghiệp đã cắt giảm kế hoạch sản xuất kinh doanh, thu hẹp quy mô do chi phí
sản xuất tăng, đặc biệt là lãi vay ngân hàng. Một số hoạt động dịch vụ bị thu hẹp,trong
năm 2008, mặc dù có chương trình “Ấn tượng Việt Nam” nhưng lượng khách du lịch tới
Việt Nam vẫn giảm tới hơn 20% so với năm 2007.
5. GIẢI PHÁP CỦA VIỆT NAM VÀ BÀI HỌC RÚT RA
5.1 GIẢI PHÁP
Trước những tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu, ngay từ quý I năm 2008
Chính phủ Việt Nam đưa ra một loạt giải pháp để ngăn chặn, phòng ngừa những hậu quả
khôn lường của “Cơn bão tài chính”. Rất may cho Việt Nam là đã phải chống từ đầu
năm. Trận bão vào quý I năm 2008 đã khiến Việt Nam kịp thời áp dụng các biện pháp
hợp lý để phòng vệ. Các biện pháp ổn định kinh tế vĩ mô đã phát huy tác dụng, lạm
phát giảm, tính thanh khoản giữa các ngân hàng được tăng cường, thanh khoản của
thị trường được đảm bảo, thu hẹp cán cân thương mại, tăng cường ngân sách nhà
nước, thắt chặt chi tiêu công, tăng dự trữ ngoại tệ. Sự chao đảo của thị trường thế giới
khiến giá nguyên liệu giảm dẫn đến làm giảm gánh nặng trợ cấp giá nguyên liệu của ngân
sách nhà nước. Các ngân hàng thương mại cũng được hỗ trợ bằng nhiều biện pháp của
Ngân hàng nhà nước. Ngoài việc thúc đẩy sản xuất kinh doanh và xuất khẩu, thực hiện
chính sách tài chính tiền tệ linh hoạt, cùng các chính sách an sinh xã hội sâu rộng, như
các nước bị ảnh hưởng trên thế giới Chính phủ đã thực hiện gói kích cầu.
Gói kích cầu số 1 của Việt Nam: Gói kích cầu của Chính phủ chủ trương đẩy mạnh,
kích cầu đầu tư và tiêu dùng. Trong kích cầu đầu tư, nguồn tiền sẽ được trích từ ngân
sách nhà nước về xây dựng cơ bản hằng năm, trái phiếu Chính phủ và vốn ODA. Chính
17
phủ khuyến khích các thành phần kinh tế, doanh nghiệp tham gia, tạo điều kiện thuận lợi
cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đầu tư vào các lĩnh vực như xây dựng cơ sở hạ
tầng, giao thông vận tải, điện, xi măng… Đối với tiêu dùng, Chính phủ thực hiện các biện
pháp phát triển mạng lưới phân phối, hệ thống bán lẻ đặc biệt là ở khu vực vùng sâu,
vùng xa để cung cấp các mặt hàng vật tư tiêu dùng thiết yếu.
Tính tới thời điểm quý II năm 2009, gói kích cầu đã lên tới 143 nghìn tỉ đồng (tương

đương 8 tỉ USD, thống kê chưa chính xác). Gói kích cầu của Chính phủ bao gồm 7 khoản
chi chính:
- Hỗ trợ lãi suất vay vốn tín dụng (khoảng 17.000 tỷ đồng)
- Tạm hoãn thu hồi vốn đầu tư xây dựng cơ bản ứng trước (khoảng 3.400 tỷ đồng),
ứng trước ngân sách nhà nước để thực hiện một số dự án cấp bách (khoảng 37.200 tỷ
đồng)
- Chuyển nguồn vốn đầu tư kế hoạch năm 2008 sang năm 2009 (khoảng 30.200 tỷ
đồng)
- Phát hành thêm trái phiếu Chính phủ (khoảng 20.000 tỷ đồng)
- Thực hiện chính sách giảm thuế (khoảng 28.000 tỷ đồng)
- Tăng thêm dư nợ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp (khoảng 17.000 tỷ đồng)
- Các khoản chi kích cầu khác nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, đảm bảo an sinh
xã hội (khoảng 7.200 tỷ đồng).
Báo cáo giám sát về gói kích cầu của UB Tài chính - Ngân sách của Quốc hội nhận
xét: “Việc triển khai thực hiện vốn kích cầu của Chính phủ khá kịp thời, đã tạo ra “cú
hích” cho nền kinh tế đang trong tình trạng trì trệ và suy giảm, đem lại những kết quả tích
cực bước đầu”.
“Nền kinh tế Việt Nam được “giải cứu” bởi gói kích thích trị giá 147.000 tỷ đồng (8,6
tỷ USD), đang phục hồi sau khi cuộc suy thoái toàn cầu đã thực sự thử thách “dũng khí”
của các nhà quản lý kinh tế đất nước. Sự tăng trưởng tích cực đã được dự báo cho năm
2010”. Đó là đánh giá của Giám đốc ADB tại Việt Nam Ayumi Konishi. Theo ông
Konishi, suy thoái kinh tế là một thử thách đối với nhà chức trách, hơn 20 năm sau khi
cuộc cải cách kinh tế bắt đầu bằng chính sách ”Đổi mới” (năm 1986) và đánh dấu sự khởi
đầu của con đường phát triển lâu dài. Tăng trưởng kinh tế đã mang lại thành quả lớn lao.
Năm 1993, gần một nửa dân số Việt Nam có mức sống dưới mức nghèo. Kể từ đó, thu
nhập bình quân đã tăng hơn gấp đôi, đẩy tỉ lệ nghèo xuống dưới 20%.
Cùng quan điểm với đại diện ADB, Trưởng đại diện của Phòng Thương mại Australia
tại Việt Nam Clive Randall nhận xét, Chính phủ Việt Nam đã nhanh chóng hành động
nhằm làm dịu bớt mối đe dọa kinh tế. “Họ kiểm soát chính sách tài chính theo một cách
thức rất gây ấn tượng, và điều đó đã có tác động làm cho lạm phát giảm xuống một mức

có thể quản lý được. Họ đang thoát ra khỏi chu kỳ nhanh hơn so với một số nền kinh tế
18
đang phát triển khác ở châu Á, thậm chí cả trên thế giới. Do đó, có thể nói rằng họ đã làm
được một công việc rất tốt (trong quản lý suy thoái)”, ông Clive Randall cho biết.
Giám đốc điều hành của Công ty Lắp máy Leighton của Australia khẳng định ”rất
nhiều công ty nói rằng hãy nhìn vào Việt Nam, tình hình ở đó tốt như hồi trước tháng
9/2008”.
Tờ The Economist - tạp chí uy tín số 1 về kinh tế chính trị quốc tế (nước Anh), trung
tuần tháng 9/2009 dự báo, kinh tế Việt Nam sẽ phát triển tích cực trong vài năm tới.
5.2 BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
Mặc dù có nhiều hiệu ứng tích cực do gói kích cầu đem lại nhưng chúng ta phải suy
xét kĩ. Về mặt chủ trương, gói kích cầu nhằm hỗ trợ các ngành xuất khẩu và đầu tư
vào các dự án hạ tầng, tạo việc làm, thu nhập, và kích thích tiêu dùng của dân cư.
Tuy nhiên, sự giảm mạnh về nhu cầu từ các thị trường xuất khẩu truyền thống là
một trở ngại trong vài năm tới mà Việt nam sẽ tiếp tục phải đối mặt. Bên cạnh đó,
theo đánh giá của Vụ thống kê tài khoản quốc gia: “Tiêu dùng của dân cư đã suy giảm
nghiêm trọng ở mức âm 10%trong nửa đầu năm nay so với cùng kỳ năm ngoái” (SGTT,
07/07/09). Điều đó nói lên rằng, mặc dù gói kích cầu là rất nhanh và khá lớn so với tỷ lệ
GDP, nhưng hiệu quả thực tế của nó cần phải có sự thẩm định và đánh giá chính xác,
nhằm tránh cho nền kinh tế bị rơi vào một cuộc suy thoái hay lạm phát mới trong tương
lai.
Bài học từ khủng hoảng kinh tế ở Mỹ cho thấy, kích cầu tự bản thân nó không phải là
giải pháp cho phép nền kinh tế vượt nhanh ra khỏi khủng hoảng; mà ngược lại, có thể là
hiểm họa tiềm ẩn gây nên lạm phát và suy thoái, nếu thể chế tài chính có những khiếm
khuyết, khiến cho dòng vốn kích cầu bị lái trệch khỏi mục tiêu ban đầu, hoặc bị sử dụng
quá kém hiệu quả. Ở kịch bản xấu nhất, dòng vốn kích cầu có thể bị lái vào đầu cơ bong
bóng chứng khoán hoặc bất động sản, vì bản chất của nó vẫn chỉ là chính sách nới lỏng
tiền tệ, dựa trên việc hạ thấp lãi suất như Mỹ đã làm. Điều này có thể là một nguy cơ dễ
xảy ra, bởi rủi ro lựa chọn tồi và hiểm họa do sự vô trách nhiệm trong việc sử dụng vốn
vay, mà Stiglitz - Weiss đã chỉ ra; và cũng bởi chính hành vi trục lợi có thể xảy ra ở ngay

tại các tổ chức tài chính, do thiếu sự giám sát chặt chẽ. Chúng ta cần tách biệt rõ giữa ý
nguyện đúng đắn của chính sách kích cầu với khiếm khuyết hay rủi ro có thể xảy ra của
hệ thống tài chính (mà ngay cả Mỹ cũng có vấn đề), để có một cái nhìn thực tiễn.
PHẦN KẾT LUẬN
19
Hậu quả của việc không kiểm soát các hoạt động kinh doanh đối với các sản phẩm tài
chính phái sinh trên thị trường tài chính ở Mỹ đã dẫn đến cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu tác động làm nền kinh tế thế giới lâm vào suy thoái và được các chuyên gia kinh
tế đánh giá là cơn suy thoái tồi tệ nhất từ sau thế chiến thứ II đến nay. Để chặn đà suy
giảm của kinh tế thế giới, chính phủ nhiều quốc gia đã, đang và sẽ hợp lực cùng nhau
thực hiện các gói giải pháp bao gồm các giải pháp về chính sách tiền tệ, lãi suất, lẫn các
giải pháp về chính sách tài khóa. Đối với Việt Nam, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu
đã có những tác động tiêu cực đến các hoạt động của đời sống kinh tế - xã hội nhất là kim
ngạch xuất khẩu sụt giảm, đầu tư trong và ngoài nước gặp khó khăn do nhu cầu tiêu thụ
của thị trường trong và ngoài nước bị thu hẹp, sụt giảm. Trước tình hình đó, chính phủ
VIệt Nam đã phải điều chỉnh chính sách kinh tế vĩ mô từ chống lạm phát sang chống suy
thoái kinh tế, điều này đòi hỏi sự cẩn trọng trong liều lượng thực hiện các công cụ kinh tế
vĩ mô để nhằm một mặt kiềm hảm đà suy giảm tăng trưởng cũng như đảm bảo không làm
gia tăng lạm phát trở lại. Thực chất đòi hỏi chính phủ Việt Nam phải điều hành chính
sách kinh tế vĩ mô một cách thông minh và linh hoạt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Khủng hoảng kinh tế thế giới và bài học cho Việt Nam, TS. Lê Hồng Nhật.
20
2. Khủng hoảng tài chính toàn cầu và những vấn đề đặt ra đối với nền kinh tế Việt
Nam , PGS. TS Nguyễn Văn Luân & PGS. TS Nguyễn Văn Trình.
3. Khủng hoảng tài chính Mỹ và những ảnh hưởng, Trần Văn Thọ – Trần Lê Anh.
4. kinh tế Việt Nam trước khủng hoảng tài chính toàn cầu, TS. Nguyễn Văn Tạo
( />5. Khủng hoảng toàn cầu và ứng phó của Việt Nam, Vũ Khoan.
( />6. Kinh tế Việt Nam trong bão tài chính 2008-2009, TS. Vương Quân Hoàng
Đại học Tổng hợp Brussels đăng trên Tạp Chí Cộng Sản, Tháng 1 năm 2009

7. www.tailieu.vn
8. www.vovnews.vn
9. www . vneconomy.vn
10.www.taichinhdientu.vn
11.www.tuoitre.com.vn
12.www.laodong.com.vn
13.www.thanhnien.com.vn
21

×