Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

BÀI TIỂU LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ĐỀ TÀI QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC VÀ VAI TRÒ CỦA NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP GIẢI PHÓNG DÂN TỘC VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (277.99 KB, 29 trang )

TIỂU LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH GVHD : Ngô Quang Ty
BÀI TIỂU LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI: QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ CÁCH MẠNG GIẢI
PHÓNG DÂN TỘC VÀ VAI TRÒ CỦA NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP
GIẢI PHÓNG DÂN TỘC VIỆT NAM
BỐ CỤC BÀI TIỂU LUẬN
A.PHẦN MỞ ĐẦU
B.PHẦN NỘI DUNG
**Đặt vấn đề
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giải phóng dân tộc:
I.1/ Cơ sở lý luận và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
I.1.1.Quan điểm của Mác – Lênin
I.1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh
I.2/ Vấn đề giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người trong chủ
nghĩa Mác-Lênin
I.3/ Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin
I.3.1. Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc:
I.3.1.1. Tính chất và nhiệm vụ của cách mạng ở thuộc địa
I.3.1.2. Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc
I.3.2 Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường CMVS
I.3.2.1. Rút bài học từ sự thất bại của các con đường cứu nước trước đó
I.3.2.2. CMTS là không triệt để
I.3.2.3. Con đường giải phóng dân tộc
I.3.3 Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng cộng sản lãnh
đạo.
I.3.4 Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân, trên cơ sở liên
minh công nông.
I.3.5 CM giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng
giành thắng lợi trước CM VS ở chính quốc.
I.3.6 CM giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường cách mạng bạo lực.
I.4.Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giải phóng dân tộc:


I.4.1.Sự vận dụng của Đảng ta
I.4.2.Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giải phóng dân tộc trong thời
đại mới
II.Vai trò của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp giải phóng dân tộc
II.1.Người đã vạch ra chân lý sáng ngời cho dân tộc Việt Nam
II.2.Người lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam
SVTH : Nguyễn Việt Hưng ( MSSV: 0851031816) Page 2
TIỂU LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH GVHD : Ngô Quang Ty
II.2.1. Sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam
II.2.2.Người đã giải quyết đúng đắn con đường cứu nước,giải phóng dân tộc,đưa
cách mạng tháng 8 đến thành công,lập nên nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam á
II.2.3.Hồ Chí Minh lãnh đạo Cách mạng XHCN ở miền Bắc và đấu tranh chống
Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ Quốc (1954-1969)
C. KẾT LUẬN
…………………………………………………………………………………………………………………………………………
A.PHẦN MỞ ĐẦU
T
ư tưởng Hồ chí Minh là một hệ thống toàn diện, có nội dung rất phong phú, đa lĩnh vực
và là hệ thống mở. Các ngành, các giới, các đối tượng có thể lựa chọn, bổ sung những
chuyên đề có nội dung phù hợp với nhiệm vụ chính trị của mình. Trong các nội dung của
tư tưởng Hồ Chí Minh, giải phóng dân tộc là nội dung quan trọng nhất và có ý nghĩa
hàng đầu, trước hết của CM Việt Nam. Giải phóng dân tộc, xét về thực chất là đánh đổ
ách thống trị, áp bức, xâm lược của đế quốc thực dân, giành độc lập dân tộc, hình thành
Nhà nước dân tộc độc lập và tự do lựa chọn con đường phát triển của dân tộc phù hợp xu
hướng phát triển của thời đại, tiến bộ xã hội.
Sau khi giành được độc lập dân tộc, phải chuẩn bị mọi điều kiện để đảm bảo cho đất
nước phát triển nhanh, bền vững, thoát khỏi đói nghèo lạc hậu, dân giàu nước mạnh, dân
tộc có địa vị và đóng góp xứng đáng vào sự phát triển chung của nhân loại, giải phóng
dân tộc được thực hiên bằng con đường cách mạng vô sản (CMVS).
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của dân tộc và thời đại, nó trường tồn, bất diệt,

là tài sản tinh thần vô giá của dân tộc ta. Nét đặc sắc nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh là
vấn đề xung quanh việc giải phóng dân tộc và định hướng cho sự phát triển của dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho Đảng ta và nhân dân ta trên con đường thực
hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Tư tưởng Hồ
Chí Minh là nền tảng tư tưởng vững chắc để Đảng ta vạch ra đường lối CM đúng đắn, là
sợi chỉ đỏ dẫn đường cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đi tớt thắng lợi.
Đối với sự phát triển của thế giới, tư tưởng Hồ Chí Minh phản ánh khát vọng thời
đại. Hồ Chí Minh đã có những cống hiến xuất sắc về lý luận CM giải phóng dân tộc
thuộc địa dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, giành độc lập dân tộc để tiến lên xây
dựng chủ nghĩa xã hội.Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với thế giới còn ở chỗ, ngay
từ rất sớm Người đã nhận thức đúng sự biến chuyển thời đại để tìm ra các giải pháp đấu
tranh giải phóng loài người. Người cương quyết bảo vệ và phát triển quan điểm của
Lênin về khả năng to lớn và vai trò chiến lược của CM giải phóng dân tộc ở thuộc địa đối
với cách mạng vô sản. Tư tưởng Hồ Chí Minh cổ vũ các dân tộc vì mục tiêu cao cả.
Trong lòng nhân dân thế giới chủ tịch Hồ Chí Minh là bất diệt.
SVTH : Nguyễn Việt Hưng ( MSSV: 0851031816) Page 3
TIỂU LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH GVHD : Ngô Quang Ty
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã, đang và sẽ mãi mãi là chân lý sáng ngời, góp phần
vào sự kiến tạo và phát triển của nhân loại.
B.NỘI DUNG
ĐẶT VẤN ĐỀ: Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc cũng là giải
phóng giai cấp, giải phóng con người chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống tư tưởng
Hồ Chí Minh . Đây cũng là vấn đề cơ bản của đường lối cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người vừa là sự kết hợp tinh hoa văn hóa dân tộc và trí tuệ thời đại, vừa thể
hiện tinh thần độc lập, tự chủ sáng tạo của người trong việc vận dụng những nguyên lý
phổ biến của Chủ nghĩa Mac Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam. Chính vì vậy, tư tưởng Hồ
Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người
được coi là bước phát triển mới học thuyết Mac Leenin về cách mạng thuộc địa ở thời
điểm các dân tộc bị áp bức vùng lên đấu tranh cho độc lập, tự do.

I.TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
I.1/ Cơ sở lý luận và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
I.1.1.Quan điểm của Mác – Lênin
* Khái niệm: Dân tộc là một vấn đề rộng lớn bao gồm những quan hệ về chính trị, kinh
tế, lãnh thổ, pháp lý, tư tưởng và văn hoá giữa các dân tộc, các nhóm dân tộc và bộ tộc.
* Quan điểm của chủ nghĩa Mác:Dân tộc là sản phẩm của lịch sử. Mác-Ăngghen đã đặt
nền tảng lý luận cho việc giải quyết vấn đề dân tộc một cách khoa học.
Lênin đã phát triển quan điểm về vấn đề dân tộc thành hệ thống lý luận toàn diện và sâu
sắc.
I.1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh
Vấn đề dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh – là vấn đề dân tộc thuộc địa
“Vấn đề dân tộc thuộc địa thực chất là vấn đề đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc
địa nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước ngoài, giành độc lập dân tộc, xoá bỏ áp bức, bóc
lột thực dân, thực hiện quyền dân tộc tự quyết, thành lập nhà nước dân tộc độc lập”.
• Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của tất cả các dân
tộc.“Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có
quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. (Trích "Tuyên Ngôn Độc Lập"
Bác Hồ đọc tại Quảng trường Ba đình ngày 02/09/1945).
• Độc lập, tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa. Độc lập hoàn
toàn và thật sự trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao. Trong
nền độc lập, mọi người đều được ấm no, tự do, hạnh phúc.
SVTH : Nguyễn Việt Hưng ( MSSV: 0851031816) Page 4
TIỂU LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH GVHD : Ngô Quang Ty
• Độc lập thật sự phải gắn với hoà bình thật sự. “Nhân dân chúng tôi thành thật
mong muốn hoà bình…kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền
thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”.
• Độc lập dân tộc phải gắn liền với sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
• Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn ở các nước đang đấu tranh giành độc lập
*Chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa dân tộc là một động lực to lớn của đất nước.
*Chủ nghĩa dân tộc là chủ nghĩa yêu nước và sự thức tỉnh ý thức dân tộc. “Phát

động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế cộng sản…”, đó là chủ nghĩa
dân tộc chân chính.
Kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc và CNXH, chủ
nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế.
* Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Hồ Chí Minh xác định con đường cách mạng
Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: làm “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa
cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Do đó, “giành được độc lập rồi phải tiến lên
CNXH…”. “yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội”.
* Độc lập cho dân tộc mình và cho tất cả các dân tộc khác. “Phải đấu tranh cho tự
do, độc lập của các dân tộc khác như là đấu tranh cho dân tộc ta vậy”.
I.2/ Vấn đề giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người trong chủ
nghĩa Mác-Lênin
Chủ nghĩa Mác-Leenin có sứ mệnh lịch sử và vạch rõ con đường và phương
pháp đấu tranh để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người.
Những vấn đề trên đây đã được các nàh kinh điển của giai cấp vô sản chỉ ra từ rất sớm.
Trong tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, năm 1848, Mác, Ăngghen không chỉ luận giải
vấn đề giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc mà vấn đề giải phóng con người cũng
được đề cập sâu sắc: “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển
tự do của tất cả mọi người”.
Tuy nhiên do cả hai ông đều sống ở Tây Âu nơi mà chủ nghĩa tư bản phát triển
tới trình đọ cao nên trước hết các ông nhấn mạnh vấn đề giải phóng giai cấp, Mác và
Ăngghen đã viết: “hãy xóa bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này
bóc lột dân tộc khác sẽ bị xóa bỏ”.Mác và Ăngghen cho rằng giải phóng giai cấp là
nhiệm vụ trung tâm, là điều kiện để giải phóng dân tộc. Sau Mác và Ăngghen, Lênin
đã trực tiếp giải quyết vấn đề giải phóng dân tộc.
Trong thời kì chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn tột cùng của nó là chủ
nghĩa đế quốc. Một trong những đặc điểm cơ bản là xâm chiếm thuộc địa, một số nước
đế quốc biến 70% dân số thế giới thành thuộc địa, Lênin đã kế tục và phát triển sự
nghiệp của Mác, Ăngghen khi thành lập Quốc tế I và Quốc tế II đại diện cho giai cấp
SVTH : Nguyễn Việt Hưng ( MSSV: 0851031816) Page 5

TIỂU LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH GVHD : Ngô Quang Ty
công nhân, cho phù hợp với tình hình mới, Quốc tế III, Quốc tế Cộng sản do Lênin
sáng lập đại diện cho giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức. Tuy nhiên, trong
công cuộc giải phóng Lênin vẫn cho rằng trước hết phải giải phóng giai cấp công
nhân.
I.3/ Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin
Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người vào điều kiện các nước
thuộc địa.
Từ những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Mác đã xây dựng học
thuyết của mình trên cơ sở châu Âu mà châu Âu thì chưa phải là toàn nhân loại. Hồ
Chí Minh nhấn mạnh: “Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của
chủ nghĩa Mác, bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không
thể có được”, cần: “ Xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó
bằng dân tộc học phương Đông, trong đó có Việt Nam, suốt hơn 50 năm đầu thế kỷ
XX là vấn đề dân tộc, thuộc địa. Do đó, nếu ở phương Tây, các nhà kinh điển macsxit
cho rằng sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người tuy
có liên quan mật thiết với nhau nhưng ưu tiên giải phóng giai cấp công nhân thì Hồ
Chí Minh đối với phương Đông, trong đó có Việt Nam giải phóng dân tộc là nhiêm vụ
trên hết, trước hết.
Hồ Chí Minh cho rằng trong điều kiện các nước thuộc địa thì giải phóng dân tộc
là cơ sở để giải phóng giai cấp, gải phóng con người. Trong quan hệ dân tộc và giai
cấp thì đòi hỏi phải giải quyết thỏa đáng giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp, thì
trước hết là lợi ích giai cấp công nhân. Đây là một vấn đề lướn về lý luận và thực tiễn
trước kia, hiện nay và cả tương lai. Suốt cuộc đời mình Hồ Chí Minh đã giải quyết
thành công vấn đề dân tộc và giai cấp nói chung, giải phóng dân tộc và giải phóng giai
cấp nói riêng. Đay là một trong những nguyên nhân dẫn đến thắng lợi của cách mạng
Việt Nam hơn 70 năm qua.Con người và cuộc đấu tranh nhằm giải phóng con người
giữ vai trò quan trọng trong tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh.
Báo Le Paria (Người cùng khổ) ngày 1-4-1922 Hồ Chí Minh viết: “Le Paria đã sẵn

sàng bước vào cuộc chiến đấu, mục đích của báo chắc chắn sẽ đạt được: đó là giải
phóng loài người”. Trước khi đi gặp cụ Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh
khác, Hồ Chí Minh vẫn nghĩ đến con người và sự nghiệp giải phóng con người. Thật
sâu sắc và cảm động khi thấy những điều Hồ Chí Minh căn dặn chúng ta trong Di
chúc: “Đầu tiên là công việc đối với con người”. Như vậy đối với Hồ Chí Minh trong
sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người thì giải phóng
dân tộc luôn được đặt lên hàng đầu. Đó là sự trung thành, vận dụng và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác-Lênin phù hợp với phương Đông nói chung, Việt Nam nói riêng
SVTH : Nguyễn Việt Hưng ( MSSV: 0851031816) Page 6
TIỂU LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH GVHD : Ngô Quang Ty
I.3.1. Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc:
I.3.1.1 Tính chất và nhiệm vụ của cách mạng ở thuộc địa
Hồ Chí Minh nhận thấy sự phân hóa giai cấp thuộc địa khác với các nước phương
Tây. Các giai cấp ở thuộc địa có sự khác nhau ít nhiều, nhưng đều chung một số phận
mất nước nên có chung số phận là người nô lệ mất nước.
Mâu thuẫn co bản ở các nước phương Tây là giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, mâu
thuẫn chủ yếu ở xã hội thuộc địa phương Đông là dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa thực
dân. Do vậy “cuộc dấu tranh giai cấp không diễn ra giống như các nước phương Tây”.
Đối tượng cách mạng ở thuộc địa không phải là giai cấp tư sản bản xứ, càng không phải
là giai cấp địa chủ nói chung, mà là chủ nghĩa thực dân và tay sai phản động.
Cách mạng xã hội là lật đổ nền thống trị hiện có và thiết lập một chế độ xã hội mới.
Cách mạng ở thuộc địa trước hết phải “lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc”, chứ
chưa phải là cuộc cách mạng xóa bỏ sự tư hữu, sự bóc lột nói chung.
Hồ Chí Minh luôn phân biệt rõ thực dân xâm lược với nhân dân các nước tư bản chủ
nghĩa. Người kêu gọi nhân dân các nước đế quốc phản đối chiến tranh xâm lược, ủng hộ
nhân dân các nươc thuộc địa đấu tranh giành độc lập.
Yêu cầu bức thiết của nhân dân thuộc địa là độc lập dân tộc.
Ở các nước thuộc địa, nông dân là nạn nhân chính bị boc lột bởi chủ nghĩa đế quốc.
Nông dân có hai yêu cầu: độc lập dân tộc và ruộng đất, nhưng luôn dặt yêu cầu độc lập
dân tộc cao hơn so với yêu cầu ruộng đất. Hay nói cách khác nhiệm vụ hàng đầu của cách

mạng thuộc địa là: “Đấu tranh chống lại thực dân xâm lược, giành lại độc lập dân tộc”.
Tính chất của cách mạng thuộc địa là thực hiện cách mạng tư sản kiểu mới tiến lên
chủ nghĩa xã hội.Hội nghị thứ VIII Ban chấp hành Trung ương Đảng (5-1951) do Hồ Chí
Minh chủ trì, kiên quyết giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, nhấn mạnh đó là “nhiệm
vụ bức thiết nhất”.
Trong nhiều bài nói, bài viết Người khẳng định: “Trường kì kháng chiến nhất định
thắng lợi, thống nhất, độc lập nhất định thành công”, “Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất.
Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ xum họp một nhà”.
I.3.1.2. Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc.
Cách mạng giải phóng dân tộc nhằm đánh đổ ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc
thực dân, giành độc lập dân tộc và thiết lập chính quyền của nhân dân.
Mục tiêu cấp thiết của cách mạng ở thuộc địa chưa phải là giành quyền lợi riêng
biệt của mỗi giai cấp, mà là quyền lợi chung của toàn dân tộc. Đó là những mục tiêu
của chiến lược đấu tranh dân tộc, phù hợp với xu thế của thời đại cachsmnangj chống
đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc, đáp ứng nguyện vọng độc lập, tự do của quần
chúng nhân dân.
SVTH : Nguyễn Việt Hưng ( MSSV: 0851031816) Page 7
TIỂU LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH GVHD : Ngô Quang Ty
5-1941 Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị lần thứ VIII Ban chấp hành trung ương
Đảng, chủ trương “thay đổi chiến lược”, từ nhấn mạnh đấu tranh giai cấp sang đẫu
tranh giải phóng dân tộc. Hội nghị khẳng định dứt khoát: “cuộc cách mang Đông
Dương hiện tại không phải là một cuộc cách mạng tư sản dân quyền, cuộc cách mạng
phải giải quyết hai vấn đề: phản đế và điền địa nữa, mà là cuộc cách mạng phải giải
quyết một vấn đề cần thiết “dân tộc giải phóng”, vì vậy cuộc cách mạng Đông Dương
trong giai đoạn hiện tại là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc”, đánh lại kẻ thù
của dân tộc cả về chính trị và kinh tế.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945 cũng như những thắng lợi trong 30
năm chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945-1975 trước hết là thắng lợi của đường lối
cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và tư tưởng độc lập, tự do của Hồ Chí Minh
I.3.2 Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường CMVS

I.3.2.1. Rút bài học từ sự thất bại của các con đường cứu nước trước đó
Để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân Pháp ông cha ta đã sử dụng
nhiều con đường với những khuynh hướng chính trị khác nhau sử dụng những vũ khí tư
tưởng khác nhau nhưng đều bị thất bại. Thất bại của các phong trào yêu nước chống thực
dân Pháp ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX chứng tỏ rằng, những con đường
giải phóng dân tộc dưới ngọn cờ tư tưởng phong kiến hoặc tư tưởng tư sản là không đáp
ứng được yêu cầu khách quan là giành độc lập, tự do của dân tộc do lịch sử đặt ra. HCM
sinh ra và lớn lên trong bối cảnh đất nước đã bị biến thành thuộc địa, nhân dân phải chịu
cảnh lầm than, Hồ Chí Minh được chứng kiến phong trào cứu nước của ông cha Người
rất khâm phục tinh thần cứu nước của ông cha, nhưng Người không tán thành các con
đường cứu nước của họ mà quyết tâm ra đi tìm một con đường cứu nước mới, Người đã
đến nhiều quốc gia và châu lục trên thế giới.
*Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản:
Cuối thế kỷ XIX, mặc dù triều đình phong kiến nhà Nguyễn ký các Hiệp ước ácmăng
(Harmand) năm 1883 và Patơnốt (Patenôtre) năm 1884, đầu hàng thực dân Pháp, song
phong trào chống thực dân Pháp xâm lược vẫn diễn ra. Phong trào Cần Vương (1885-
1896), một phong trào đấu tranh vũ trang do Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết phát động,
đã mở cuộc tiến công trại lính Pháp ở cạnh kinh thành Huế (1885). Việc không thành,
Tôn Thất Thuyết đưa Hàm Nghi chạy ra Tân Sở (Quảng Trị), hạ chiếu Cần Vương. Mặc
dù sau đó Hàm Nghi bị bắt, nhưng phong trào Cần Vương vẫn phát triển, nhất là ở Bắc
Kỳ và Bắc Trung Kỳ, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa: Ba Đình của Phạm Bành và Đinh
Công Tráng (1881-1887), Bãi Sậy của Nguyễn Thiện Thuật (1883-1892) và Hương Khê
của Phan Đình Phùng (1885-1895). Cùng thời gian này còn nổ ra cuộc khởi nghĩa nông
dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo, kéo dài đến năm 1913. Thất bại của phong
SVTH : Nguyễn Việt Hưng ( MSSV: 0851031816) Page 8
TIỂU LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH GVHD : Ngô Quang Ty
trào Cần Vương chứng tỏ sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến trong việc giải quyết
nhiệm vụ giành độc lập dân tộc do lịch sử đặt ra.
Đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu chủ trương dựa vào sự giúp đỡ bên ngoài, chủ yếu là
Nhật Bản, để đánh Pháp giành độc lập dân tộc, thiết lập một nhà nước theo mô hình quân

chủ lập hiến của Nhật. Ông lập ra Hội Duy tân (1904), tổ chức phong trào Đông Du
(1906-1908).Chủ trương dựa vào đế quốc Nhật để chống đế quốc Pháp không thành, ông
về Xiêm nằm chờ thời. Giữa lúc đó Cách mạng Tân Hợi bùng nổ và thắng lợi (1911).
Ông về Trung Quốc lập ra Việt Nam Quang phục Hội (1912) với ý định tập hợp lực
lượng rồi kéo quân về nước võ trang bạo động đánh Pháp, giải phóng dân tộc, nhưng rồi
cũng không thành công.
Phan Châu Trinh chủ trương dùng những cải cách văn hóa, mở mang dân trí, nâng cao
dân khí, phát triển kinh tế theo hướng tư bản chủ nghĩa trong khuôn khổ hợp pháp, làm
cho dân giàu, nước mạnh, buộc thực dân Pháp phải trao trả độc lập cho nước Việt Nam. ở
Bắc Kỳ, có việc mở trường học, giảng dạy và học tập theo những nội dung và phương
pháp mới, tiêu biểu là trường Đông Kinh nghĩa thục Hà Nội. ở Trung Kỳ, có cuộc vận
động Duy tân, hô hào thay đổi phong tục, nếp sống, kết hợp với phong tràođấu tranh
chống thuế (1908).
Do những hạn chế về lịch sử, về giai cấp, nên Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, cũng
như các sĩ phu cấp tiến lãnh đạo phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX không thể tìm được
một phương hướng giải quyết chính xác cho cuộc đấu tranh giải phóng của dân tộc, nên
chỉ sau một thời kỳ phát triển đã bị kẻ thù dập tắt.
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất mặc dù còn nhiều hạn chế về số lượng, về thế lực kinh
tế và chính trị, nhưng với tinh thần dân tộc, dân chủ, giai cấp tư sản Việt Nam đã bắt đầu
vươn lên vũ đài đấu tranh với thực dân Pháp bằng một số cuộc đấu tranh cụ thể với
những hình thức khác nhau.
- Năm 1919-1923, Phong trào quốc gia cải lương của bộ phận tư sản và địa chủ lớp
trên đã diễn ra bằng việc vận động chấn hưng nội hoá bài trừ ngoại hoá; chống độc quyền
thương cảng Sài Gòn; chống độc quyền khai thác lúa gạo ở Nam Kỳ; đòi thực dân Pháp
phải mở rộng các viện dân biểu cho tư sản Việt Nam tham gia.
Năm 1923 xuất hiện Đảng Lập hiến của Bùi Quang Chiêu ở Sài Gòn, tập hợp tư sản và
địa chủ lớp trên. Họ cũng đưa ra một số khẩu hiệu đòi tự do dân chủ để lôi kéo quần
chúng. Nhưng khi bị thực dân Pháp đàn áp hoặc nhân nhượng cho một số quyền lợi thì
họ lại đi vào con đường thỏa hiệp.
- Năm 1925-1926 đã diễn ra Phong trào yêu nước dân chủ công khai của tiểu tư sản

thành thị và tư sản lớp dưới. Họ lập ra nhiều tổ chức chính trị như: Việt Nam Nghĩa đoàn,
Phục Việt (1925), Hưng Nam, Thanh niên cao vọng (1926); thành lập nhiều nhà xuất bản
như Nam Đồng thư xã (Hà Nội), Cường học thư xã (Sài Gòn), Quan hải tùng thư (Huế);
ra nhiều báo chí tiến bộ như Chuông rạn (La Cloche fêlée), Người nhà quê (Le Nhaque),
An Nam trẻ (La jeune Annam) Có nhiều phong trào đấu tranh chính trị gây tiếng vang
SVTH : Nguyễn Việt Hưng ( MSSV: 0851031816) Page 9
TIỂU LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH GVHD : Ngô Quang Ty
khá lớn như đấu tranh đòi thả Phan Bội Châu (1925), lễ truy điệu và để tang Phan Châu
Trinh, đấu tranh đòi thả nhà yêu nước Nguyễn An Ninh (1926). Cùng với phong trào đấu
tranh chính trị, tiểu tư sản Việt Nam còn tiến hành một cuộc vận động văn hóa tiến bộ,
tuyên truyền rộng rãi những tư tưởng tự do dân chủ. Tuy nhiên, càng về sau, cùng sự thay
đổi của điều kiện lịch sử, phong trào trên đây ngày càng bị phân hoá mạnh. Có bộ phận đi
sâu hơn nữa vào khuynh hướng chính trị tư sản (như Nam Đồng thư xã), có bộ phận
chuyển dần sang quỹ đạo cách mạng vô sản (tiêu biểu là Phục Việt, Hưng Nam).
- Năm 1927-1930 Phong trào cách mạng quốc gia tư sản gắn liền với sự ra đời và hoạt
động của Việt Nam Quốc dân Đảng (25-12-1927). Cội nguồn Đảng này là Nam Đồng thư
xã, lãnh tụ là Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài, Nguyễn Khắc Nhu và Phó Đức Chính.
Đây là tổ chức chính trị tiêu biểu nhất của khuynh hướng tư sản ở Việt Nam, tập hợp các
thành phần tư sản, tiểu tư sản, địa chủ và cả hạ sĩ quan Việt Nam trong quân đội
Pháp.
Về tư tưởng, Việt Nam quốc dân Đảng mô phỏng theo chủ nghĩa Tam Dân của Tôn
Trung Sơn. Về chính trị, Việt Nam quốc dân Đảng chủ trương đánh đuổi đế quốc, xóa bỏ
chế độ vua quan, thành lập dân quyền, nhưng chưa bao giờ có một đường lối chính trị cụ
thể, rõ ràng. Về tổ chức, Việt Nam quốc dân Đảng chủ trương xây dựng các cấp từ Trung
ương đến cơ sở, nhưng cũng chưa bao giờ có một hệ thống tổ chức thống nhất. Ngày 9-
2-1929, một số đảng viên của Việt Nam Quốc dân Đảng ám sát tên trùm mộ phu Badanh
(Bazin) tại Hà Nội. Thực dân Pháp điên cuồng khủng bố phong trào yêu nước. Việt Nam
Quốc dân Đảng bị tổn thất nặng nề nhất. Trong tình thế hết sức bị động, các lãnh tụ của
Đảng quyết định dốc toàn bộ lực lượng vào một trận chiến đấu cuối cùng với tư tưởng
“không thành công cũng thành nhân”. Ngày 9-2-1930, cuộc khởi nghĩa Yên Bái bùng nổ,

trung tâm là thị xã Yên Bái với cuộc tiến công trại lính Pháp của quân khởi nghĩa. ở một
số địa phương như Thái Bình, Hải Dương cũng có những hoạt động phối hợp
Khởi nghĩa Yên Bái nổ ra khi chưa có thời cơ, vì thế nó nhanh chóng bị thực dân
Pháp dìm trong biển máu. Các lãnh tụ của Việt Nam quốc dân Đảng cùng hàng ngàn
chiến sĩ yêu nước bị bắt và bị kết án tử hình. Trước khi bước lên đoạn đầu đài họ hô vang
khẩu hiệu "Việt Nam vạn tuế". Vai trò của Việt Nam Quốc dân Đảng trong phong trào
dân tộc ở Việt Nam chấm dứt cùng với sự thất bại của khởi nghĩa Yên Bái.
Nhìn chung, các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam
đã diễn ra liên tục, sôi nổi, lôi cuốn đông đảo quần chúng tham gia với những hình thức
đấu tranh phong phú, thể hiện ý thức dân tộc, tinh thần chống đế quốc của giai cấp tư sản
Việt Nam, nhưng cuối cùng đều thất bại vì giai cấp tư sản Việt Nam rất nhỏ yếu cả về
kinh tế và chính trị nên không đủ sức giương cao ngọn cờ lãnh đạo sự nghiệp giải phóng
dân tộc. Mặc dù thất bại nhưng các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư
sản đã góp phần cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân dân ta, bồi đắp thêm cho
SVTH : Nguyễn Việt Hưng ( MSSV: 0851031816) Page 10
TIỂU LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH GVHD : Ngô Quang Ty
chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đặc biệt góp phần thúc đẩy những nhà yêu nước, nhất là
lớp thanh niên trí thức có khuynh hướng dân chủ tư sản chọn lựa một con đường mới,
một giải pháp cứu nước, giải phóng dân tộc theo xu thế của thời đại và nhu cầu mới của
nhân dân Việt Nam. Chính vì thế, mặc dù rất khâm phục tinh thần cứu nước của ông cha,
nhưng Hồ Chí Minh không tán thành con đường của họ, mà quyết tâm ra đi tìm con
đường mới
I.3.2.2. CMTS là không triệt để:
Trong khoảng 10 năm vượt qua các đại dương, đến với nhân loại cần lao đang tranh
đấu ở nhiều châu lục, quốc gia trên thế giới. Người đã kết hợp nghiên cứu lý luận và thực
tiễn 3 cuộc CM điển hình: CM Mỹ 1776, CM tư sản Pháp 1789 và CM tháng 10 Nga,
Người đọc Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, Tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền của
cách mạng Pháp. Người nhận thấy: CM Pháp cũng như CM Mỹ đều là CM tư sản, CM
không đến nơi, tiếng là Cộng hòa dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài
thì nó áp bức thuộc địa, công nhân nỗi dậy khắp nơi. Chúng ta đã hi sinh làm CM thì làm

đến nơi, làm sao khi CM rồi thì quyền giao lại cho dân chúng số nhiều, thế thì dân chúng
khỏi phải hi sinh nhiều lần, dân chúng mới hạnh phúc. Bởi lẽ đó, Người không đi theo
con đường cách mạng tư sản.
I.3 .2.3 Con đường giải phóng dân tộc :
Hồ Chí Minh thấy được CM tháng Mười Nga không chỉ là một cuộc CMVS, mà
còn là một cuộc CM giải phóng dân tộc. Nó nêu tấm gương sáng về sự giải phóng các
dân tộc thuộc địa và “mở ra trước mắt họ thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải
phóng dân tộc”.
*Ảnh hưởng to lớn và sâu sắc của CM Tháng Mười Nga đến phong trào CM Việt Nam:
CM Tháng Mười Nga thành công đã mở ra một kỷ nguyên mới cho lịch sử nhân
loại-Thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới. Thành công của CM
Tháng Mười Nga đã ảnh hưởng to lớn và sâu sắc đến phong trào CM trên thế giới nói
chung và CM Việt Nam, nói riêng. Những ảnh hưởng to lớn và sâu sắc đó đã được Chủ
tịch Hồ Chí Minh nhận thức rất đầy đủ và hướng phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam
đi theo. Nhận xét của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện tập trung trong tác phẩm
“Đường cách mệnh” và tác phẩm “CM Tháng Mười vĩ đại mở ra con đường giải phóng
cho dân tộc”. Trước hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra tính triệt để của CM Tháng Mười
Nga: “Trong thế giới bây giờ chỉ có CM Tháng Mười Nga là đã thành công và thành
công đến nơi”. Tính triệt để của CM Tháng mười Nga đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhận thức một cách rất sâu sắc. Đó là, chính quyền thuộc về tay đại đa số quần chúng
nhân dân lao động. Nếu chính quyền còn nằm trong tay “một bọn ít người”-bọn tư bản,
thì CM không triệt để, “chưa đến nơi”. Bên cạnh đó, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh tính triệt
để của một cuộc CM còn thể hiện ở chỗ: giải phóng nhân dân lao động khỏi ách áp bức,
SVTH : Nguyễn Việt Hưng ( MSSV: 0851031816) Page 11
TIỂU LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH GVHD : Ngô Quang Ty
bóc lột một cách triệt để và đem lại hạnh phúc, tự do và bình đẳng thực sự cho họ. Điều
này, sau này, được Người thể hiện dưới dạng khát vọng lớn lao: “Tôi chỉ có một ham
muốn, ham muốn đến tột bực là làm sao nước nhà được hoàn toàn độc lập, dân ta được
hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” (5).
Nhận xét này của của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lóe sáng khát vọng về xã hội tương lai-xã

hội XHCN.
Từ nhận thức về tính triệt để của CM Tháng Mười Nga, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định: “CM Việt Nam muốn thành công phải đi theo con đường CM Tháng Mười
Nga. Đây là một trong những bài học thành công của CM tháng Mười Nga. “Tinh thần
CM triệt để”, theo Bác, một là tiến công kẻ thù một cách triệt để, hai là, thái độ tinh thần
dũng cảm, kiên quyết đấu tranh, không ngại gian khổ hy sinh-Người chỉ rõ: “luôn giương
cao ngọn cờ của chủ nghĩa anh hùng CM, không sợ gian khổ, hy sinh, kiên quyết đấu
tranh đến cùng vì độc lập dân tộc vì CNXH”. Vận dụng bài học này vào Việt Nam,
Người chỉ rõ: “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng quyết giành cho được độc lập”-
CM Tháng Tám; “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không
chịu làm nô lệ”-Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến; “chúng ta quyết không sợ…Không
có gì quý hơn độc lập tự do”-kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
“Kết hợp chặt chẽ lòng yêu nước với tinh thần quốc tế vô sản”. Bài học này được
chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng một cách khá nhuần nhuyễn vào cách mạng Việt Nam.
Trong quá trình tiến hành CM giải phóng dân tộc cũng như trong CM XHCN, một mặt
chúng ta tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế, mặt khác chúng ta cũng thực hiện tốt nghĩa vụ
quốc tế với các nước anh em (Lào, Campuchia, Trung Quốc…) và thế giới. Về bài học
này, Người chỉ rõ: “…trong thời đại ngày nay, CM giải phóng dân tộc là một bộ phận
khăng khít của của cách mạng vô sản, trong phạm vi toàn thế giới, CM giải phóng dân
tộc phát triển thành CM XHCN thì mới giành thắng lợi hoàn toàn”. Lịch sử Việt Nam
chứng minh nhận định trên của người là hoàn toàn đúng đắn.
CM Tháng Mười Nga thành công đã có ảnh hưởng rất to lớn đối với CM Việt nam,
nói riêng và CM thế giới, nói chung. Một mặt cổ vũ tinh thần, mặt khác để lại những bài
học kinh nghiệm hết sức quý báu. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những nhận xét rất sâu
sắc, toàn diện về CM Tháng Mười Nga. Từ đó, Người lãnh đạo CM Việt Nam theo con
đường mà CM Tháng Mười Nga đã mở ra bằng cách vận dụng sáng tạo những bài học
kinh nghiệm quý và đưa CM Việt Nam theo xu thế thời đại mà CM Tháng Mười Nga đã
mở ra. Và thực tế lịch sử đã chứng minh tính đúng đắn trong nhận xét và vận dụng những
bài học CM Mười Nga vào CM Việt Nam của Bác.
Tiếp xúc với luận cương của Lê Nin Người “hoàn toàn tin theo Lênin và Quốc tế

thứ ba” chính vì Lênin và Quốc tế thứ ba đã “bênh vực cho các dân tộc bị áp bức”.,
Người tìm thấy ở đó con đường giải phóng dân tộc và chỉ rõ: Các đế quốc vừa xâu xé
SVTH : Nguyễn Việt Hưng ( MSSV: 0851031816) Page 12
TIỂU LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH GVHD : Ngô Quang Ty
thuộc địa, vừa liên kết nhau đàn áp CM thuộc địa; Thuộc địa cung cấp của cải và binh
lính đánh thuê cho đế quốc để đàn áp CM chính quốc và thuộc địa. Vì thế giai cấp vô sản
chính quốc và thuộc địa có chung kẻ thù và phải biết hỗ trợ nhau chống Đế quốc Người
ví CNĐQ như con đỉa 2 vòi, 1 vòi cắm vào chính quốc, 1 vòi vươn sang thuộc địa, muốn
giết nó thì phải cắt 2 vòi, phải phối hợp CM chính quốc với thuộc địa. CM giải phóng
thuộc địa và CM chính quốc là hai cánh của CM vô sản, muốn cứu nước giải phóng dân
tộc không có con đường nào khác con đường CMVS.
Trong bài Cuộc kháng Pháp, Hồ Chí Minh viết: “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản
thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của
chủ nghĩa cộng sản và của CM thế giới”.
Vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các nhà CM có xu hướng tư
sản đương thời, Hồ Chí Minh đã đến với học thuyết CM của chủ nghĩa Mác-Lênin và lựa
chọn khuynh hướng chính trị vô sản. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng
dân tộc không có con đường nào khác con đường CM”, “…chỉ có CNXH, CNCS mới
giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô
lệ”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Giống như mặt trời chói lọi, CM tháng
Mười chiếu sáng năm châu, thức tỉnh hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất.
Trong lịch sử loài người, chưa từng có cuộc CM nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế"
I.3.3 Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng cộng sản lãnh
đạo.
Các lực lượng lãnh đạo CM giải phóng dân tộc trước khi Đảng cộng sản Việt Nam ra
đời đều thất bại do chưa có một đường lối đúng đắn, chưa có một cơ sở lý luận dẫn
đường. Các phong trào chống pháp trước năm 1930 ở nước ta đã xuất hiện các đảng phái
như: Duy Tân hội, Việt Nam Quang Phục hội, Việt Nam Quốc Dân Đảng,…chính vì
những Đảng này thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức chặt chẽ, thiếu cơ sở rộng rãi

trong quần chúng nên không thể lãnh đạo kháng chiến thành công và bị tan rã với các
khuynh hướng cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến, tư sản.
Từ thắng lợi của CM tháng 10 Nga do Đảng cộng sản lãnh đạo, người khẳng định:
CM muốn thắng lợi, trước hết phải có Đảng lãnh đạo, không có đảng chân chính lãnh đạo
CM không thể thắng lợi. Đảng có vững CM mới thành công, người cầm lái có vững thì
thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có công nhân làm cốt. Không có chủ nghĩa
cũng như người không có trí khôn, không có kim chỉ nam. Đảng phải xác định rõ mục
tiêu, lý tưởng chủ nghĩa cộng sản, phải tuân thủ các nguyên tắc tổ chức của Đảng theo
học thuyết Đảng kiểu mới của Lênin.
SVTH : Nguyễn Việt Hưng ( MSSV: 0851031816) Page 13
TIỂU LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH GVHD : Ngô Quang Ty
Nguyễn Aí Quốc phân tích và cho rằng: “những người giác ngộ và cả nhân dân ta
đều nhận thấy: làm CM thì sống, không làm CM thì chết. Nhưng CM giải phóng dân tộc
muốn thành công, theo Người, trước tiên phải có Đảng CM lãnh đạo. Đảng có vững, CM
mới thành công. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính
nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin. CM Việt Nam muốn thắng lợi
phải đi theo CN Mác và CN Lênin”
Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Người khẳng định: “trước hết phải có Đảng
cách mệnh để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị
áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như
người câm lái có vững thuyền mới chạy.”
*Đảng cộng sản Việt Nam chính là người lãnh đạo duy nhất. Đầu năm 1930, Hồ
Chí Minh sáng lập ra Đảng cộng sản Việt Nam, một chính đảng của giai cấp công nhân
và dân tộc Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin “làm cốt”, có tổ chức chặt chẽ, kỷ luật
nghiêm minh và mật thiết liên lạc với quần chúng. Theo Hồ Chí Minh: “Đảng cộng sản
Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt
Nam”
Phát triển sáng tạo học thuyết Mác Lênin về Đảng cộng sản, Người cho rằng “Đảng
cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp vô sản, đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam.
Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nghĩa là những người thợ thuyền, dân

cày và lao dộng trí óc kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận lực
phụng sự Tổ Quốc và nhân dân.” Khi khẳng định Đảng cộng sản Việt Nam là đảng của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam, Hồ Chí Minh đã nêu lên luận điểm
định hướng cho việc xây dựng đảng cộng sản Việt Nam thành đảng có sự gắn kết chặt
chẽ với giai cấp công nhân và nhân dân lao động và cả dân tộc trong mọi thời kỳ của CM
Việt Nam. Mọi người Việt Nam yêu nước dù là đảng viên hay không, đều thật sự cảm
nhận đảng cộng sản Việt Nam là đảng của Bác Hồ, là đảng của mình, đều gọi đảng “là
đảng ta”. Hồ Chí Minh đã xây dựng một đảng CM tiên phong, phù hợp với thực tiễn cách
mạng Việt Nam, gắn bó với nhân dân, với dân tộc, một lòng một dạ phụng sự tổ quốc,
phụng sự nhân dân, được nhân dân, được dân tộc thừa nhận là đội tiên phong của mình.
Ngay từ khi mới ra đời, đảng do Hồ Chí Minh sáng lập đã quy tụ được lực lượng và sức
mạnh của toàn bộ giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam. Đó là một đặc điểm, đồng
thời là một ưu điểm của đảng. Nhờ đó, ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã nắm ngọn cờ lãnh
đạo duy nhất đối với CM Việt Nam và trở thành nhân tố hàng đầu bảo đảm mọi thắng lợi
của CM
I.3.4. Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân, trên cơ sở liên
minh công nông.
I.3.4 .1 CM là sự nghiệp của quần chúng bị áp bức :
SVTH : Nguyễn Việt Hưng ( MSSV: 0851031816) Page 14
TIỂU LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH GVHD : Ngô Quang Ty
Năm 1924, Hồ Chí Minh đã nghĩ đến một cuộc khởi nghĩa vũ trang toàn dân.
Người cho rằng: “ để có cơ thắng lợi, một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương:1-
phải có tính chất một cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ không phải một cuộc nổi loạn.
Cuộc khởi nghĩa phải được chuẩn bị trong quần chúng…”
Hồ Chí Minh nghiêm khắc phê phán việc lấy ám sát cá nhân và bạo động non làm
phương thức hành động. “hoặc xúi dân bạo động mà không bày cách tổ chức, hoặc làm
cho dân quen tính ỷ lại, mà quên tính tự cường”. Người khẳng định “ Việt Nam làm CM
giải phóng dân tộc, đó là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người.
CM muốn thắng lợi phải đoàn kết toàn dân, phải làm cho sĩ, nông, công thương đều nhất
trí chống lại cường quyền. Trong sự nghiệp này phải lấy công nông là người chủ cách

mệnh… công nông là gốc cách mệnh”
Trong CM tháng 8 năm 1945 cũng như hai cuộc kháng chiến chống pháp và chống mỹ,
Hồ Chí Minh lấy nhân dân làm nguồn sức mạnh. Quan điểm “lấy dân làm gốc” xuyên
suốt quá trình chỉ đạo chiến tranh của Người. “Có dân là có tất cả”, “dễ trăm lần không
dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Khi còn hoạt động ở nước ngoài Hồ Chí
Minh nói: “đối với tôi câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ,
tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc lập”.
Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của quần chúng nhân dân trong khởi nghĩa vũ trang.
Người coi sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo của quần chúng là then chốt bảo đảm
thắng lợi. Người khẳng định: “ dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không
chống lại nổi. Phải dựa vào dân, dựa chắc vào dân thì thì kẻ địch không thể nào tiêu diệt
được. Chúng ta tin chắc vào tinh thần và lực lượng của quần chúng, của dân tộc”.
I.3 .4.2 Lực lượng của CM giải phóng dân tộc :
Để đoàn kết toàn dân tộc, Nguyễn Aí Quốc chủ trương xây dựng Mặt Trận dân tộc
thống nhất rộng rãi để liên kết sức mạnh toàn dân tộc đấu tranh giành độc lập tự do. Khi
soạn thảo cương lĩnh đầu tiên của Đảng, trong Sách Lược Vắn Tắt, NguyễnAí Quốc chủ
trương: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, thanh niên, Tân
Việt…để kéo họ đi vào vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và
tư bản An Nam mà chưa mặt phản CM thì phải lợi dụng ít lâu rồi mới cho họ đứng trung
lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản CM thì phải đánh đổ”. Sách lược này phải được thực
hiên trên quan điểm giai cấp vững vàng- như người xác định: “công nông là gốc cách
mệnh, còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức song không cực
khổ bằng công nông, 3 hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi, và trong
khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào được nhượng một chút lợi
ích gì của công nông mà đi vào đường thỏa hiệp”.
Trong lực lượng toàn dân tộc, Hồ Chí Minh hết sức nhấn mạnh vai trò động lực
CM của công nhân và nông dân. Người phân tích: các giai cấp công nhân và nông dân có
SVTH : Nguyễn Việt Hưng ( MSSV: 0851031816) Page 15
TIỂU LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH GVHD : Ngô Quang Ty
số lượng đông nhất, nên có sức mạnh lớn nhất. Họ lại bị áp bức bóc lột nặng nề nhất, nên

lòng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết…công nông là tay không chân rồi,
nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ gan
góc”. Từ đó Người khẳng định: “công nông là gốc cách mệnh”. Khẳng định vai trò động
lực CM của công nhân và nông dân là một vấn đề hết sức mới mẻ so với nhận thức của
những nhà yêu nước trước đó.
Năm 1941, Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo CM giải phóng dân tộc,
người đề xuất với Đảng thành lập Mặt Trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh. Người chủ trì
Hội nghị đã đề ra nghị quyết xác định “ lực lượng CM là khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
không phân biệt thợ thuyền, dân cày, phú nông, địa chủ, tư bản bản xứ, ai có lòng yêu
nước thương nòi sẽ cùng nhau thống nhất mặt trận, thu góp toàn lực đem tất cả ra giành
quyền độc lập, tự do cho dân tộc, đánh tan giặc pháp- nhật xâm chiếm nước ta”. Tháng 9/
1955, Hồ Chí Minh khẳng định: “ Mặt Trận Việt Minh đã giúp CM tháng 8 thành công”.
1.5 CM giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng
giành thắng lợi trước CM VS ở chính quốc.
Đây là một luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về CM giải phóng dân tộc với CMVS:
-Theo Mác- Ănghen: CMVS ở chính quốc là cần thiết và được thực hiện trước.
- Theo Lênin: CM thuộc địa phụ thuộc vào CMVS ở chính quốc.
-Còn theo Hồ Chí Minh: CM giải phóng dân tộc phải được tiến hành chủ động và
có khả năng giành thắng lợi trước CMVS ở chính quốc.
Cơ sở đưa ra luận điểm:
-Hồ Chí Minh vận dụng những nguyên lý mà C.Mác đưa ra: “sự giải phóng của
giai cấp công nhân chỉ có thể thực hiện được bởi giai cấp công nhân”, để đưa đén khẳng
định: “công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản
thân anh em”. Vì thế nên công cuộc giải phóng các dân tộc thuộc địa phải do chính các
dân tộc đó thực hiện.
-Hồ Chí Minh nhận thấy sự tồn tại và phát triển của CNTB là được dựa trên sự áp
bức bóc lột giai cấp vô sản ở chính quốc và nhân dân các dân tộc thuộc địa. Vì vậy, cuộc
đấu tranh của giai cấp vô sản ở chính quốc phải kết hợp chặt chẽ với cuộc đấu tranh của
các dân tộc thuộc địa thì mới tiêu diệt được hoàn toàn CNTB. Hơn nữa theo đánh giá của
Hồ Chí Minh trong giai đoạn ĐQCN, sự tồn tại và phát triển của CNTB chủ yếu dựa vào

việc bóc lột nhân dân các nước thuộc địa. Vì vậy, cuộc CMVS ở chính quốc trước chẳng
khác nào đánh rắn đằng đuôi.
-Theo Hồ Chí Minh chính CM giải phóng dân tộc ở thuộc địa có sức bật thuận lợi hơn vì:
SVTH : Nguyễn Việt Hưng ( MSSV: 0851031816) Page 16
TIỂU LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH GVHD : Ngô Quang Ty
+Chính sách khai thác thuộc địa hết sức tàn bạo của CNĐQ là mâu thuẫn giữa
nhân dân thuộc địa với CNĐQ ngày càng gay gắt vì vậy mà tiềm năng CM của các dân
tộc bị áp bức là rất to lớn.
+Tinh thần yêu nước và CNTD chân chính của các dân tộc thuộc địa là một sức
mạnh tiềm ẩn của CM giải phóng dân tộc. Sức mạnh đó nếu được CN Mac-Lênin giác
ngộ và soi đường thì CM giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa sẽ có một sức bật rất
lớn và có khả năng chủ động cao so với CMVS ở chính quốc.
+Thuộc địa là khâu yếu của chủ nghĩa tư bản nên CM giải phóng dân tộc ở thuộc
địa dễ dàng giành chính quyền hơn.
Khi CN Đế quốc xâm lược thuộc địa, CM giải phóng dân tộc có khuynh hướng
phát triển, nhưng lúc đó quốc tế cộng sản lại đánh giá thấp CM giải phóng thuộc địa.
Nghiên cứu luận cương của Lê Nin về CM thuộc địa và xuất phát từ áp bức của CNĐQ
với thuộc địa, Hồ Chí Minh lập luận về nguyên nhân của CM thuộc địa : " Người Đông
Dương không được học, nhưng đau khổ, đói nghèo và sự bạo ngược của CNTDlà người
thầy dạy mầu nhiệm của họ; người Đông Dương sẽ tiến bộ một cách nhanh chóng khi
thời cơ cho phép và họ biết tỏ ra xứng đáng với những người thầy dạy của họ.""Không,
người Đông Dương không chết, người Đông Duơng sống mãi. Bên cạnh sự phục tùng
tiêu cực, Người Đông Dương sống âm ỷ và sẽ bùng nổ mãnh liệt khi thời cơ đến."
Hồ Chí Minh chỉ rõ tính chủ động của CM thuộc địa: “Thuộc địa là mắc xích yếu nhất
trong hệ thống CNĐQ, trong khi đó nhân dân thuộc địa luôn có tinh thần yêu nước, căm
thù xâm lược, họ sẽ vùng lên khi thời cơ đến”. Vì vậy, năm 1924 Nguyễn Ái Quốc khẳng
định: “CM thuộc địa không những không phụ thuộc vào CMVS chính quốc mà có thể nổ
ra và giành thắng lợi trước CM chính quốc và khi hoàn thành CM thuộc địa họ có thể
giúp đỡ giai cấp vô sản chính quốc phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn.
CM thuộc địa phải chủ động giành thắng lợi trước CMVS chính quốc, CM thuộc địa chỉ

có thể dựa vào sự nỗ lực của nhân dân thuộc địa, phải đem sức ta tự giải phóng cho ta”.
Tóm lại, đây là luận điểm có ý nghĩa thực tiễn to lớn giúp CM giải phóng dân tộc
ở Việt Nam không thụ động, ỷ lại chờ sự giúp đỡ từ bên ngoài mà luôn phát huy tính độc
lập tự chủ, tự lực, tự cường nhờ đó mà CM Việt Nam giành thắng lợi vĩ đại và góp phần
định hướng cho phong trào giải phóng dân tộc ở các nước khác trên thế giới trong thời
kỳ đó.
1.6 CM giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường cách mạng bạo lực.
Theo CN Mác Lê Nin, có nhiều phương pháp giành chính quyền từ tay giai cấp
thống trị. Những kẻ thù không bao giờ tự nguyện giao chính quyền cho nhân dân. Vì vậy
CM muốn thắng lợi phải dùng bạo lực của quần chúng nhân dân để giành chính quyền.
Hồ Chí Minh khẳng định: Ở các nước thuộc địa, CN thực dân dùng bạo lực phản CM đàn
áp các phong trào yêu nước. CM giải phóng dân tộc muốn thắng lợi thì phải dùng bạo lực
SVTH : Nguyễn Việt Hưng ( MSSV: 0851031816) Page 17
TIỂU LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH GVHD : Ngô Quang Ty
CM chống lại bạo lực phản CM. Bạo lực phản CM là bạo lực của quần chúng gồm lực
lượng "chính trị" của quần chúng và lực lượng "vũ trang" với 2 hình thức đấu tranh chính
trị và vũ trang kết hợp với nhau.
Để giành chính quyền phải bằng bạo lực, trước hết là khởi nghĩa vũ trang của quần
chúng. Trong thời đại mới, thời đại CMVS thì cuộc khởi nghĩa vũ trang phải có sự ủng
hộ của CMVS thế giới, CM Nga, thậm chí với CMVS Pháp.
Tư tưởng về CM bạo lực gắn liền với tư tưởng về xây dựng lực lượng vũ trang được Hồ
Chí Minh suy nghĩ từ sớm và khi trở thành chủ trương của Đảng tại hội nghị trung ương
VIII (5/1941), Người kết luận: cuộc CM Đông Dương được kết liễu bằng khởi nghĩa vũ
trang. Căn cứ vào tương quan so sánh lực lượng vào thiên thời, địa lợi. Hồ Chí Minh bàn
tới khởi nghĩa từng phần, mở rộng cho cuộc tổng khởi nghĩa to lớn giành chính quyền
trong cả nước.
Từ sau Hội nghị trung ương VIII, Hồ Chí Minh chỉ đạo xây dựng căn cứ địa, lực
lượng vũ trang, lực lượng Chính trị, chuẩn bị tổng kết khởi nghĩa. Thắng lợi CM tháng 8
đã chứng minh tính đúng đắn của TTHCM về con đường bạo lực CM.
Sáng tạo và phát triển nguyên lý CN Mac – Lênin về con đường bạo lực ở Hồ Chí Minh

thể hiện ở chỗ:
+ Khởi nghĩa vũ trang đương nhiên phải dùng vũ khí, phải chiến đấu bằng lực
lượng vũ trang, nhưng không phải chỉ là một cuộc đấu tranh quân sự, mà là nhân dân
vùng dậy, dùng vũ khí đuổi quân cướp nước. Đó là một cuộc đáu tranh to tát về chính trị
và quân sự, việc quan trọng làm đúng thì thành công, làm sai thì thất bại.
+ Thực hành con đường bạo lực của Hồ Chí Minh là tiến hành đấu tranh chính trị,
đấu tranh vũ trang khi điều kiện cho phép, thực hành đấu tranh ngoại giao, đồng thời phải
biết kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh ngoại giao để giành và giữ chính quyền.
I.4.Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giải phóng dân tộc:
I.4.1.Sự vận dụng của Đảng ta:
*Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH –chính là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng
Hồ Chí Minh trong điều kiện hiện nay. Đảng ta đã khẳng định, đổi mới không phải từ bỏ
mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn,
và được xây dựng có hiệu quả hơn. Đổi mới không phải xa rời mà là nhận thức đúng, vận
dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm
nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng"
(1)
. Như vậy, độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu chính trị không thay đổi, dù trong bất cứ giai
đoạn nào, hoàn cảnh nào của cách mạng Việt Nam.
Khắc sâu bài học về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, khi chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ đã thuộc về nhân dân ta, công cuộc đổi mới trong thời gian qua, càng khẳng định
bản lĩnh chính trị đúng đắn, vững vàng của Đảng ta về kiên định mục tiêu chiến lược của
cách mạng Việt Nam, trong giai đoạn mới. Công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta là tiếp
tục sự nghiệp giải phóng dân tộc theo con đường CMVS, trong điều kiện mới. Độc lập
dân tộc lúc này, đối với chúng ta, chính là sự vươn lên để thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu,
khẳng định vị thế của Việt Nam bình đẳng với tất cả các quốc gia dân tộc khác trên thế
SVTH : Nguyễn Việt Hưng ( MSSV: 0851031816) Page 18
TIỂU LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH GVHD : Ngô Quang Ty
giới, ở mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học Dân giàu, nước mạnh, xã hội

công bằng, dân chủ, văn minh là điều kiện cơ bản để bảo vệ nền độc lập dân tộc một cách
thực tế, vững chắc trong hội nhập kinh tế quốc tế rất phức tạp và đầy rẫy nguy cơ mất còn
hiện nay. Trong quá trình đổi mới, Đảng ta đã sớm cảnh báo tới nguy cơ tụt hậu xa hơn
về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới sẽ ảnh hưởng không tốt tới an
ninh quốc gia, chủ quyền dân tộc và nền độc lập của đất nước.
Đổi mới để phát triển và phát triển để đổi mới mạnh mẽ và vững chắc hơn là nhận
thức căn bản và biện chứng về quan hệ giữa chủ nghĩa xã hội và độc lập dân tộc. Tập
trung cho tăng trưởng mạnh kinh tế trong thời kỳ quá độ chính là làm cho cơ sở vật chất
của CNXH ngày một nhiều hơn trên thực tế; do đó, càng có điều kiện thuận lợi hơn trong
công tác bảo vệ và giữ vững nền độc lập dân tộc, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Định
hướng xã hội chủ nghĩa được Đảng ta xác định trong phát triển kinh tế thị trường có ý
nghĩa căn bản đảm bảo cho nền kinh tế vừa phát triển theo quy luật một cách đúng hướng
vừa làm điều kiện nền tảng giải quyết những vấn đề xã hội bền vững.
Thực tế cũng cho thấy, nền độc lập dân tộc càng được bảo vệ vững chắc thì hiệu quả
công cuộc xây dựng chế độ mới ngày càng cao. Công cuộc xây dựng xã hội mới có hiệu
quả càng là điều kiện quan trọng thiết thực bảo vệ nền độc lập dân tộc vững vàng. Nhờ
xác định đúng mối quan hệ này và tổ chức thực hiện tốt trên thực tế nên CM Việt Nam
trong thời kỳ đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong cả đối
nội và đối ngoại.
Bài học của Đại hội X về độc lập dân tộc và CNXH chính là sự trung thành và phát
triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của Đảng ta
trong sự nghiệp cách mạng hiện nay. Theo Hồ Chí Minh, quá độ lên CNXH ở Việt Nam
là thời kỳ xây dựng chế độ dân chủ mới, trong đó, về chính trị, mọi quyền lực đều thuộc
về nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng; về kinh tế, thực hiện nền kinh tế nhiều thành
phần.
Như vậy, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ phát triển kinh tế nhiều thành
phần. Quan điểm này đã được chúng ta thực thi từ khởi sự đổi mới (1986) và ngày một
hoàn thiện nó. Đại hội X khẳng định trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư
nhân), hình thành nhiều hình thức sở hữu và thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế
hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh
lành mạnh. Ở đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng
để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo điều kiện thúc đẩy các thành phần
kinh tế cùng phát triển; kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động
lực của nền kinh tế.
Hồ Chí Minh rất coi trọng các thành phần kinh tế tư nhân, tư bản và xác định vị trí
kinh tế - xã hội to lớn của nó trong thời kỳ quá độ. Người cho rằng, nếu ta khéo lãnh đạo,
khéo tổ chức thì giai cấp tư sản cũng có thể theo chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội. Về bản
chất, đây là thời kỳ phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Muốn vậy, phải tập
trung phát triển lực lượng sản xuất, giải phóng triệt để sức sản xuất; quan hệ sản xuất
phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
SVTH : Nguyễn Việt Hưng ( MSSV: 0851031816) Page 19
TIỂU LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH GVHD : Ngô Quang Ty
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề này, Đại hội X chỉ rõ Nhà nước phải
tập trung làm tốt các chức năng:
- Định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và cơ chế, chính
sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị trường.
- Tạo môi trường pháp lý và cơ chế, chính sách thuận lợi để phát huy các nguồn lực xã
hội cho phát triển.
- Hỗ trợ phát triển, chăm lo xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội quan
trọng, hệ thống an sinh xã hội.
- Bảo đảm tính bền vững tích cực của các cân đối kinh tế vĩ mô, hạn chế các rủi ro và tác
động tiêu cực của cơ chế thị trường.
Về văn hóa xã hội, con người, một lần nữa, Đại hội X làm rõ và vận dụng đúng tư tưởng
Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc với năm quan điểm chỉ đạo cơ bản mang tính chiến lược trong quá trình xây dựng
và phát triển nền văn hóa nước nhà trong thời kỳ quá độ. Đồng thời Đại hội X cũng xác
định, phát triển văn hóa, nền tảng tinh thần của xã hội là một trong những nhiệm vụ lớn
của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân.

*Nâng cao sức chiến đấu của đảng, xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy
Nhà nước, đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, thực hiện cần kiệm xây
dựng CNXH.
Đại hội X khẳng định: Đảng ta "Kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh trong hoạt động của Đảng"
(4)
, với tư cách là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho
hành động cách mạng của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH:
- Kiên trì đường lối đổi mới, đổi mới toàn diện, có nguyên tắc và sáng tạo; trong quá trình
đổi mới, phải luôn luôn giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, kiên định CN
Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH,
không đa nguyên, đa đảng. Đây chính là bản lĩnh chính trị của Đảng trung thành với quan
điểm của Hồ Chí Minh về Đảng lãnh đạo CM thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng, và tổ chức, thường xuyên tự đổi mới, tự
chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu; đổi mới công tác xây dựng
Đảng. Phát huy dân chủ trong Đảng, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, giữ
vững kỷ cương, kỷ luật; thường xuyên tự phê bình và phê bình; giữ gìn và tăng cường
xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, đấu tranh kiên quyết với những phần tử cơ
hội thực dụng Xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy trong sạch, vững mạnh, tinh gọn; xác
định thẩm quyền, trách nhiệm rõ ràng, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Coi trọng xây
dựng tổ chức cơ sở đảng. Đây là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng
cầm quyền.
- Đảng chăm lo xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ bản lĩnh chính trị,
phẩm chất, trí tuệ và năng lực hoạt động thực tiễn để hoàn thành nhiệm vụ. Tạo sự
chuyển biến thực sự và đồng bộ trong công tác cán bộ trên tất cả các khâu đánh giá, quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng cán bộ. Đặc biệt, coi trọng xây
dựng hạt nhân lãnh đạo, trọng dụng nhân tài mà Hồ Chí Minh hằng quan tâm.
SVTH : Nguyễn Việt Hưng ( MSSV: 0851031816) Page 20
TIỂU LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH GVHD : Ngô Quang Ty

- Tăng cường gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Xây dựng các thiết chế mở rộng và phát
huy dân chủ, bảo đảm các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đều có sự tham
gia xây dựng của nhân dân, phản ánh ý chí, lợi ích chính đáng của nhân dân, của quốc
gia, dân tộc. Cán bộ, đảng viên và công chức luôn thực sự là công bộc của nhân dân như
Hồ Chí Minh đã dạy.
- Để làm trong sạch Đảng và bộ máy công quyền, tăng cường và nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát - chức năng và phương thức lãnh đạo quan trọng của
Đảng. Thường xuyên kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết, quyết định của Đảng để
phát huy ưu điểm, phòng ngừa và khắc phục kịp thời mọi sai phạm, khuyết điểm; kiểm
tra, giám sát kết quả công tác, năng lực và phẩm chất của cán bộ, đảng viên, góp phần
xây dựng tổ chức đảng, cơ quan nhà nước và đội ngũ cán bộ, đảng viên ngày càng trong
sạch, vững mạnh.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo, nhất là phương thức lãnh đạo Nhà nước, bảo đảm nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy hiệu lực, hiệu quả quản lý của
Nhà nước, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của Mặt trận, các đoàn thể nhân dân. Đảng
hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật
* Không ngừng củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết trong Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam,
đưa chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh lên một tầm cao, một chiều sâu mới.
Trong khuôn khổ luật pháp, tiếp tục đổi mới chính sách giai cấp, chính sách xã
hội, hoàn thiện chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo, chính sách đối với tri thức, chính
sách đối với công đồng ngườiViệt ở nước ngoài, tập hợp đến mức rông rãi nhất mọi nhân
tài, vật lực vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nước gắn liền với xây dựng kinh tế tri thức.
Cải thiện đời sống các dân tộc miền núi, khắc phục, đẩy lùi tình trạng khó khăn,
lạc hậu, nghèo nàn để không bị các thế lực thù địch lợi dụng gây mâu thuẫn.
*Kiên định con đường đi lên CNXH
Đối với Viêt Nam HCM khẳng định trước sau như một chỉ có CNXH mới có đủ
cơ sở và điều kiện để thực hiện công cuộc giải phóng con người một cách triệt để và thiết
thực .Tức là thực hiện đầy đủ các quyền của con người, trong đó có quyền sống, quyền tự
do và quyền mưu cầu hạnh phúc tất cả con người. Cũng chính vì vậy mà con đường đi

lên CNXH và độc lập phải gắn liền với CNXH trở thành nội dung cốt lõi trong tư tưởng
HCM và là mục tiêu chiến lược trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam của Đảng cọng sản
Viêt Nam suốt hai phần ba thế kỷ và mãi mãi về sau.
Toàn thế giới đã bước vào thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Thực
tiễn đã khẳng định rằng CNTB là chế độ xã hội đã lỗi thời về mặt lịch sử, sớm hay muộn
cũng phải thay bằng hình thái kinh tế- xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đù là giai
đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa.Chủ nghĩa tư bản không phải là tương lai của loài người nên
chủ nghĩa xã hội khoa học, tự do, dân chủ và nhân đạo mà loài người vươn tới luôn đại
diện cho những giá trị tiến bộ của nhân loại, đâị diện cho lợi ích của người lao động, là
hình thái kinh tế xã hội cao hơn chủ nghĩa tư bản. Đi lên CNXH là sự nghiệp cao cả là
SVTH : Nguyễn Việt Hưng ( MSSV: 0851031816) Page 21
TIỂU LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH GVHD : Ngô Quang Ty
giải phóng con người, vì sự phát triển tự do và toàn diện của con người .Đi theo dòng
chảy của thời đại cũng tức là đi theo quy luật phát triển tự nhiên của lịch sử
Chỉ có đi lên CNXH mới giữ vững được độc lập, tự do cho dân tộc, mới thực hiện
được mục tiêu làm cho mọi người dân được ấm no,tự do, hạnh phúc.Sự lựa chọn của
chính lịch sử dân tộc lại phù hợp với xu thế của thời đại. Điều đó thể hiện qua sự quá độ
lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một tât yếu của lịch sử
I.4.2.Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giải phóng dân tộc trong thời đại mới
Chúng ta cần phải nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ
giữu dân tộc và giai cấp, giữa dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội nhằm tạo ra những nguồn lực mới, đưa sự nghiệp đổi mới tiến lên bước thắng
lợi mới.
I.4.2.1 Khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, nguồn động
lực mạnh mẽ để xây dựng và bảo vệ tổ quốc Phát huy
tối đa nguồn nội lực, bao gồm con người, trí tuệ, truyền thống dân tộc, đất đai, tài
nguyên, vốn liếng… nhưng yếu tố quan trọng nhất vẫn là nguồn lực con người. Chống
lại sự phụ thuộc nước ngoài, diễn biến hòa bình, nâng tầm ảnh hưởng Việt Nam trên
trường quốc tế. Giáo dục hệ tư tưởng Hồ Chí Minh sâu trong lòng dân tộc, giáo dục
truyền thống dân tộc, tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, giải

phóng giai cấp, giải phóng con người.
I.4.2.2 Nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên quan điểm giai cấp.
Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề dân tộc, nhưng người luôn đứng vững trên lập
trường giai cấp để nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc đó là:
Luôn luôn khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, vai trò độc quyền
lãnh đạo của Đảng, của giai cấp công nhân trong quá trình cách mạng Việt Nam
từ cách mạng dân tộc dân chủ đến cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Chủ trương đại đoàn kết dân tộc, tầng lớp trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
I.4.2.3 chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, giải quyết tốt mối quan hệ
giữa các dân tộc anh em và trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Nhờ vận dụng sáng tạo và kết hợp nhuần nhuyễn mối quan hệ giữa dân tộc vấn đề
giai cấp, Hồ Chí Minh đã thành công trong việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, khơi
dậy và phát huy được tiềm năng cách mang của toàn dân tộc, đưa đến thắng lợi vĩ đại sự
nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, nhân dân bình đẳng, ấm no, hạnh phúc
SVTH : Nguyễn Việt Hưng ( MSSV: 0851031816) Page 22
TIỂU LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH GVHD : Ngô Quang Ty
II.VAI TRÒ CỦA HỒ CHÍ MINH TRONG SỰ NGHIỆP GIẢI PHÓNG DÂN
TỘC VIỆT NAM
Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khẳng định: ''Dân tộc ta, nhân dân ta,
non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ Tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính
Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta".
Hồ Chí Minh là người đi tiên phong trong công cuộc giải phóng thuộc địa. Đối với các
dân tộc ở Á, Phi, Mỹ La tinh, Hồ Chí Minh là ''người thầy của nghệ thuật giành tự do độc
lập''. Tổ chức UNESCO của Liên hiệp quốc tôn vinh Hồ Chí Minh là Anh hùng giải
phóng dân tộc, Nhà văn hoá lớn.
II.1.Người đã vạch ra chân lý sáng ngời cho dân tộc Việt Nam
Vào cuối thế kỷ XIX, nước ta bị thực dân Pháp thống trị. Không cam chịu nô lệ,
nhiều nhà yêu nước nổi tiếng như Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học, Hoàng Hoa Thám,
Lương Văn Can đi tìm đường cứu nước, nhưng kết cục đều bị thất bại. Trong lúc khó

khăn chưa có lối thoát, ngày 5/6/1911, Bác Hồ với tên gọi Nguyễn Tất Thành đã rời bến
Nhà Rồng quyết tâm ra đi tìm bằng được con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam.
Nguyễn Tất Thành đã len lỏi trong quần chúng cần lao, trong giới thợ thuyền, những
người nông dân nghèo khổ, đến các nông thôn hẻo lánh ở New York, Luân Đôn, Pari,
Thái Lan, Trung Quốc để tìm hiểu, tham gia vận động và tổ chức các phong trào cách
mạng. Song, lúc đó Người chưa thể có điều kiện đầy đủ để bắt gặp Chủ nghĩa Mác-Lê
Nin. ở châu Âu, chủ nghĩa Mác ra đời đã trên 60 năm (1847-1911), nhưng trên thế giới
chưa có cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa nào giành được thắng lợi. Những nơi mà
Nguyễn Tất Thành (Nguyễn ái Quốc) đặt chân đến để tìm hiểu, nghiên cứu cũng chưa có
Đảng Cộng sản, và trước năm 1919, Quốc tế Cộng sản chưa ra đời. Người nghiên cứu
những cuộc cách mạng đã giành thắng lợi tại những nước tư bản phát triển nhất. Đó là
cách mạng Mỹ năm 1776, cách mạng tháng 7/1789 và phong trào giải phóng dân tộc ở
các nước thuộc địa chống chủ nghĩa thực dân. Người rất khâm phục tinh thần cách mạng
ở những nước này, nhưng không thể đi theo con đường cách mạng của họ được. Bởi vì,
như Người đã nói: “Kách mệnh Mỹ cũng như kách mệnh Pháp nghĩa là kách mệnh tư
bản, kách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực thì nó tước đoạt
công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”. Năm 1917, Người trở lại Pháp tham gia phong
trào công nhân Pháp. Tháng 11 năm đó, diễn ra một sự kiện rung chuyển toàn thế giới,
đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử xã hội loài người. Đó là cách mạng Tháng Mười
Nga vĩ đại thắng lợi, mở đầu một thời đại mới trong lịch sử xã hội loài người, thời đại
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Đến giữa năm 1923, Người rời nước
Pháp sang Liên Xô trực tiếp tìm hiểu và hoạt động tại quê hương Lê Nin vĩ đại. ở đây,
Người có những điều kiện thuận lợi để tiếp thu đầy đủ chủ nghĩa Mác-Lê Nin, tìm hiểu
kinh nghiệm của cách mạng tháng Mười, quan sát trực tiếp nước xã hội chủ nghĩa đầu
SVTH : Nguyễn Việt Hưng ( MSSV: 0851031816) Page 23
TIỂU LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH GVHD : Ngô Quang Ty
tiên trên thế giới ra đời và tham gia hoạt động của Quốc tế Cộng sản (Quốc tế thứ ba).
Nhờ đó, nhận biết của Người về lý luận và thực tiễn nói chung và kinh nghiệm của cách
mạng tháng Mười được sâu sắc hơn, đã giãi bầy đúng đắn vấn đề mà Người rất quan tâm.
Đó là con đường giải phóng dân tộc bị áp bức, độc lập dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã

hội, góp phần định hướng con đường cứu nước, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội của dân tộc Việt Nam.
Từ đây, Nguyễn ái Quốc đứng hẳn về con đường cách mạng tháng Mười, đứng hẳn
về Chủ nghĩa Mác-Lê Nin, đứng hẳn về Quốc tế Cộng sản. Như Người đã ghi lại trong
cuốn sách Đường Kách mệnh: “Trong thế giới bây giờ chỉ có kách mệnh Nga là thành
công và thành công đến rồi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc, tự do bình
đẳng thật sự. Kách mệnh Nga đã đuổi được vua, tư bản, địa chủ, rồi lại ra sức cho công
nông các nước và các dân tộc bị áp bức, các thuộc địa làm kách mệnh để lật đổ tất cả đế
quốc và tư bản chủ nghĩa trên thế giới”.
Lập trường của Người đứng hẳn về chủ nghĩa Mác-Lê Nin được ghi rõ: “Bây giờ
học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, kách mệnh nhất là
chủ nghĩa Mác-Lê Nin”.
Lập trường dứt khoát đứng hẳn về Quốc tế Cộng sản cũng được Người ghi rõ: “Việt
Nam muốn kách mệnh thành công thì phải gia nhập Đệ tam Quốc tế”.
Với lập trường yêu nước đúng đắn, Người đã vạch ra chân lý sáng ngời cho dân tộc
Việt Nam: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản”. Người còn chỉ rõ: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Cộng
sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức”.
Công lao vĩ đại của Bác Hồ không những chỉ rõ sự nghiệp giải phóng dân tộc đi liền
với cách mạng xã hội chủ nghĩa, mà Người còn biết gắn phong trào cách mạng Việt Nam
với cách mạng thế giới. Người đã đi nối quan hệ giữa cách mạng thuộc địa với cách
mạng vô sản ở các nước như hai cánh của con chim”. Cách mạng Việt Nam là một bộ
phận của cách mạng thế giới.
II.2.Người lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam
II.2.1. Sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam
Sau gần 15 năm tìm đường cứu nước, đến năm 1924, Người rời đất nước Nga Xô viết
trở về phương Đông, Quảng Châu gần tổ quốc Việt Nam để truyền bá chủ nghĩa Mác-Lê
Nin vào Việt Nam và trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đến Quảng Châu, Người
chuẩn bị về chính trị tư tưởng và tổ chức truyền bá chủ nghĩa Mác-Lê Nin vào Việt Nam
để lôi cuốn những người yêu nước Việt Nam đi theo con đường Bác đã chọn và chuẩn bị

cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Trước hết, Người tiếp xúc với những thanh
niên yêu nước hăng hái nhất trong nhóm Tâm Tâm Xã như Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu,
SVTH : Nguyễn Việt Hưng ( MSSV: 0851031816) Page 24
TIỂU LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH GVHD : Ngô Quang Ty
Lê Hồng Phong Thông qua họ, Người xúc tiến kế hoạch xây dựng một tổ chức cách
mạng. Người mở lớp học để đào tạo cán bộ về công tác tổ chức và tuyên truyền. Đến
tháng 5/1925, Người lập ra tổ chức Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên, một tổ chức
tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Suốt từ năm 1924 đến đầu năm 1930, Nguyễn ái
Quốc đem hết sức mình đào tạo ra lực lượng cách mạng nòng cốt đầu tiên cho phong trào
cách mạng Việt Nam, xây dựng tổ chức tiền thân của Đảng, để chỉ đạo hướng dẫn hội
viên thanh niên đi vào quần chúng để tuyên truyền giác ngộ truyền bá chủ nghĩa Mác-Lê
Nin, tổ chức quần chúng đưa họ ra đấu tranh. Phong trào đấu tranh của quần chúng chống
áp bức thống trị của chủ nghĩa thực dân Pháp ngày càng lên cao, trong đó giai cấp công
nhân đã trở thành một lực lượng chính trị độc lập. Sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lê Nin
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của dân tộc Việt Nam đã dẫn đến sự ra
đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3/2/1930 do Bác Hồ sáng lập và rèn luyện.
II.2.2.Người đã giải quyết đúng đắn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc,đưa cách
mạng tháng Tám đến thành công,lập nên nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam á
Hồ Chí Minh khẳng định muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường
nào khác con đường cách mạng vô sản, ''chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới
giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên toàn thế giới khỏi
ách nô lệ để giành thắng lợi trong sự nghiệp giải phóng dân tộc theo con đường cách
mạng vô sản, ngay từ những năm 20 của thế kỷ trước, Hồ Chí Minh đã khẳng định cách
mạng trước hết cần có đảng cách mạng. Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác- Lênin ''làm cốt'',
phải gắn bó máu thịt với nhân dân, phải đặt quyền lợi của toàn dân tộc lên trên hết. Nét
đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng là Người luôn dành cho yếu tố dân tộc một
vị trí đặc biệt. Điều đó được thể hiện từ việc xác định các yếu tố cấu thành Đảng, xác
định đường lối đến việc đặt tên Đảng. Theo đó, trong tiến trình cách mạng, nhất là ở
những thời điểm có ý nghĩa quyết định như khi chuẩn bị Tổng khởi nghĩa trong Cách
mạng Tháng Tám 1945 hay những năm tháng cam go của kháng chiến chống Mỹ sau

này, Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh quyền lợi dân tộc, đặt lợi ích dân tộc lên trên hết,
trước hết. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ VIII, năm 1945 dưới
sự chủ trì của Hồ Chí Minh đã xác định: ''Trong lúc này, quyền lợi của bộ phận, của giai
cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu
không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập tự do cho toàn
thể dân tộc, chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà
quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cúng không đòi lại được''.
Đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh luôn là sự vận dụng, phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê nin phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Từ những năm 20 của
SVTH : Nguyễn Việt Hưng ( MSSV: 0851031816) Page 25
TIỂU LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH GVHD : Ngô Quang Ty
thế kỷ XX, Hồ Chí Minh khẳng định chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước,
Người tìm ra những, lý do lịch sử cho phép chủ nghĩa cộng sản thâm nhập vào châu Á dễ
dàng hơn là châu Âu, cách mạng thuộc địa có thể thành công trước cách mạng chính
quốc. Đồng chí Phạm Văn Đồng, một trong những học trò xuất sắc nhất của Hồ Chí
Minh cho rằng những người nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh rất hào hứng và thú vị,
tìm thấy biết bao luận điểm độc đáo của Nguyễn Ái Quốc về sự nghiệp cách mạng ở các
nước thuộc địa, nghĩa là xung quanh vấn đề độc lập dân tộc. Đồng chí Phạm Văn Đồng
viết: ''Ở đây, người ta không thể không ngạc nhiên cao độ lúc Hồ Chí Minh khẳng định
rằng cách mạng thuộc địa có thể diễn ra và thắng lợi trước cách mạng ở chính quốc".
Trong tiến trình lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đã sớm
vượt trước các bậc tiền bối và những người cùng thời trong việc tập hợp lực lượng, tiên
đoán và chớp thời cơ cho công cuộc giải phóng. Hồ Chí Minh đã đoàn kết tất cả các lực
lượng trong nước, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân thế giới, kể cả
nhân dân Pháp, nhân dân Mỹ. Đây là điểm tựa vững chắc để làm lên những chiến- công -
những"đại thành công" của người Anh hùng giải phóng dân tộc Hồ Chí Minh.
II.2.3.Hồ Chí Minh lãnh đạo Cách mạng XHCN ở miền Bắc và đấu tranh chống Mỹ xâm
lược, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ Quốc (1954-1969)
Trở lại Thủ đô Hà Nội trong giai đoạn cách mạng mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ
nhiệm vụ của nhân dân Việt Nam là thi hành đúng Hiệp nghị Giơ ne vơ nǎm 1954 về

Đông Dương; củng cố hoà bình, đấu tranh để thực hiện thống nhất đất nước bằng Tổng
tuyển cử tự do; củng cố miền Bắc về mọi mặt; mở rộng và củng cố Mặt trận dân tộc
thống nhất trong cả nước. Đặc biệt chú trọng công tác xây dựng Đảng, Người nhắc nhở
đảng viên phải phấn đấu, chú trọng nâng cao đạo đức cách mạng, coi đó là nền tảng của
mỗi đảng viên để hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang của mình.
Nǎm 1958 Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm "Đạo đức cách mạng", trong đó
Người nêu lên tư cách của một người đảng viên là: Phải trung thành tuyệt đối với Đảng,
quyết tâm suốt đời phấn đấu cho Đảng, cho cách mạng; ra sức làm việc cho Đảng, giữ
vững kỷ luật của Đảng đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lao động lên trên lợi ích của cá
nhân, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, vì Đảng vì dân mà đấu tranh; gương mẫu trong
mọi việc, ra sức học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, luôn luôn dùng phê bình và tự phê bình
để nâng cao tư tưởng và cải tiến công tác của mình và đồng chí mình tiến bộ.
Về phần mình, lời nói đi đôi với việc làm, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là gương sáng
về thực hành đạo đức cách mạng. Những kỷ vật của Người để lại được giới thiệu trong
SVTH : Nguyễn Việt Hưng ( MSSV: 0851031816) Page 26

×