Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

VẤN ĐỀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.31 KB, 10 trang )

VẤN ĐỀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT
MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU 2
I_VẤN ĐỀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3
II_PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT CỦA ĐẢNG VÀ
NHÀ NƯỚC VIỆT NAM ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ TÔN GIÁO HIỆN NAY
5
III_NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG VIỆC TIẾP TỤC ĐỔI MỚI
NHẬN THỨC VÀ CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO
9
Trang 1
VẤN ĐỀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT
Tôn giáo là một hình thái ý thức - xã hội ra đời và biến đổi theo sự biến động của điều kiện
kinh tế - xã hội. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, tôn giáo còn tồn tại và có những biến
đổi nhất định.
Việt Nam là một quốc gia có nhiều hình thức tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau và đang có
chiều hướng phát triển trên phạm vi cả nước. Vì vậy, để tiến hành thắng lợi công cuộc đổi mới ở
nước ta, trước hết đòi hỏi Đảng phải đổi mới tư duy, nhìn nhận và đánh giá đúng những vấn đề lý
luận và thực tiễn, trong đó có vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo đang và sẽ có nhiều biểu hiện mới, đa
dạng, phức tạp, cần được giải quyết đúng đắn.
Trang 2
VẤN ĐỀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT
I-VẤN ĐỀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY:
Tôn giáo là hình thái ý thức xã hội, ra đời và phát triển từ hàng ngàn năm nay. Quá trình tồn
tại và phát triển của tôn giáo ảnh hưởng khá sâu sắc đến đời sống chính trị, văn hoá, xã hội, đến
tâm lý, đạo đức, lối sống, phong tục, tập quán của nhiều dân tộc, quốc gia.
Việt Nam là quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng, tôn giáo. Với vị trí địa lý nằm ở khu
vực Đông Nam Á có ba mặt giáp biển, Việt Nam rất thuận lợi trong mối giao lưu với các nước trên
thế giới và cũng là nơi rất dễ cho việc thâm nhập các luồng văn hoá, các tôn giáo trên thế giới.


Về mặt dân cư, Việt Nam là quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh em. Mỗi dân tộc, kể cả
người Kinh (Việt) đều lưu giữ những hình thức tín ngưỡng, tôn giáo riêng của mình. Người Việt có
các hình thức tín ngưỡng dân gian như thờ cũng ông bà tổ tiên, thờ Thành hoàng, thờ những người
có công với cộng đồng, dân tộc, thờ thần, thờ thánh, nhất là tục thờ Mẫu của cư dân nông nghiệp
lúa nước. Đồng bào các dân tộc thiểu số với hình thức tín ngưỡng nguyên thuỷ (còn gọi là tín
ngưỡng sơ khai) như Tô tem giáo, Bái vật giáo, Sa man giáo.
Ở Việt Nam, do đặc điểm lịch sử liên tục bị xâm lược từ bên ngoài nên việc Lão giáo, Nho
giáo - những tôn giáo có nguồn gốc ở phía Bắc thâm nhập; Công giáo - một tôn giáo gắn với văn
minh Châu Âu vào truyền đạo và sau này đạo Tin lành đã khai thác điều kiện chiến tranh ở miền
Nam để truyền giáo thu hút người theo đạo là điều dễ hiểu.
Ở Việt Nam có những tôn giáo có nguồn gốc từ phương Đông như Phật giáo, Lão giáo, Nho
giáo; có tôn giáo có nguồn gốc từ phương Tây như Thiên chúa giáo, Tin lành; có tôn giáo được
sinh ra tại Việt Nam như Cao Đài, Phật giáo Hoà Hảo; có tôn giáo hoàn chỉnh (có hệ thống giáo lý,
giáo luật, lễ nghi và tổ chức giáo hội), có những hình thức tôn giáo sơ khai. Có những tôn giáo đã
phát triển và hoạt động ổn định; có những tôn giáo chưa ổn định, đang trong quá trình tìm kiếm
đường hướng mới cho phù hợp.
Ước tính, hiện nay ở Việt Nam có khoảng 80% dân số có đời sống tín ngưỡng, tôn giáo,
trong đó có khoảng gần 20 triệu tín đồ của 6 tôn giáo đang hoạt động bình thường, ổn định, chiếm
25% dân số. Cụ thể:
- Phật giáo: Gần 10 triệu tín đồ (những người quy y Tam Bảo), có mặt hầu hết ở các tỉnh, thành
phố trong cả nước, trong đó tập trung đông nhất ở Hà Nội, Bắc Ninh, Nam Định, Hải Phòng, Hải
Dương, Thừa Thiên-Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hoà, TP Hồ Chí Minh, Đồng
Nai, Lâm Đồng, Sóc Trăng, Trà Vinh, thành phố Cần Thơ
- Thiên chúa giáo: Hơn 5,5 triệu tín đồ, có mặt ở 50 tỉnh, thành phố, trong đó có một số tỉnh tập
trung đông như Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình, Hải Phòng, Nghệ An, Hà Tĩnh, Đà Nẵng, Kon
Tum, Đắk Lắk, Khánh Hoà, Bình Thuận, Đồng Nai, TP Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Vĩnh Long, An
Giang, thành phố Cần Thơ
Trang 3
VẤN ĐỀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT
- Đạo Cao Đài: Hơn 2,4 triệu tín đồ có mặt chủ yếu ở các tỉnh Nam Bộ như Tây Ninh, Long An,

Bến Tre, TP Hồ Chí Minh, Đồng Tháp, Tiền Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long, Kiên Giang, Cà Mau, An
Giang .
- Phật giáo Hoà Hảo: Gần 1,3 triệu tín đồ, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ như: An
Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long.
- Đạo Tin lành: khoảng 1 triệu tín đồ, tập trung ở các tỉnh: Đà Nẵng, Quảng Nam, TP Hồ Chí
Minh, Bến Tre, Long An, Lâm Đồng, Đắk Lắk, Gia Lai, Đắk Nông, Bình Phước và một số tỉnh
phía Bắc.
- Hồi Giáo: Hơn 60 nghìn tín đồ, tập trung ở các tỉnh: An Giang, TP Hồ Chí Minh, Bình Thuận,
Ninh Thuận
Ngoài 6 tôn giáo chính thức đang hoạt động bình thường, còn có một số nhóm tôn giáo địa
phương, hoặc mới được thành lập có liên quan đến Phật giáo, hoặc mới du nhập ở bên ngoài vào
như: Tịnh độ cư sỹ, Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Tổ Tiên Chính giáo, Bàlamôn, Bahai
và các hệ phái tin lành.
Với sự đa dạng các loại hình tín ngưỡng, tôn giáo nói trên, người ta thường ví Việt Nam
như bảo tàng tôn giáo của thế giới. Về khía cạnh văn hoá, sự đa dạng các loại hình tín ngưỡng tôn
giáo đã góp phần làm cho nền văn hoá Việt Nam phong phú và đặc sắc. Tuy nhiên đó là những khó
khăn đặt ra trong việc thực hiện chủ trương, chính sách đối với tôn giáo nói chung và đối với từng
tôn giáo giáo cụ thể.
Ở Việt Nam có một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số theo các tôn giáo. Theo thống kê
năm 1999, Việt Nam có 53 dân tộc thiểu số với khoảng trên dưới 10 triệu người, sống tập trung ở
ba khu vực chính là Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ: Khu vực Tây Bắc có hơn 30 dân tộc
thiểu số sinh sống với khoảng gần 6 triệu người; Khu vực Tây Nguyên có 21 dân tộc thiểu số cư trú
với hơn 1,5 triệu người. Sau này có thêm các dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc vào Tây
Nguyên sinh sống làm cho thành phần các dân tộc ở đây càng thêm đa dạng; Khu vực Nam Bộ nhất
là các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long với ba dân tộc: Khơme, Hoa và Chăm với số dân khoảng 1
triệu.
Về mặt văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo, đồng bào các dân tộc thiểu số ở ba khu vực nói trên
có những nét riêng, độc đáo tạo nên nền văn hóa Việt Nam đa dạng. Hầu hết các dân tộc thiểu số
vẫn giữ tín ngưỡng nguyên thủy thờ đa thần với quan niệm vạn vật hữu linh và thờ cúng theo
phong tục tập quán truyền thống. Sau này, theo thời gian các tôn giáo dần dần thâm nhập vào

những vùng đồng bào các dân tộc thiểu số hình thành các cộng đồng tôn giáo, cụ thể:
- Cộng đồng dân tộc Khơme theo Phật giáo Nam tông. Hiện nay có 1.043.678 người
Khơme, 8.112 nhà sư và 433 ngôi chùa trong đồng bào Khơme.
- Cộng đồng người Chăm theo Hồi giáo. Có khoảng gần 100 nghìn người Chăm, trong đó
số người theo Hồi giáo chính thống (gọi là Chăm Ixlam) là 25.703 tín đồ, Hồi giáo không chính
thống (Chăm Bàni) là 39.228 tín đồ. Ngoài ra còn có hơn 30 nghìn người theo đạo Bàlamôn (Bà
Chăm). Hồi giáo chính thức truyền vào dân tộc Chăm từ thế kỷ XVI. Cùng với thời gian, Hồi giáo
đã góp phần quan trọng trong việc hình thành tâm lý, đạo đức, lối sống, phong tục tập quán, văn
hóa của người Chăm.
- Cộng đồng dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên theo Công giáo, Tin lành. Hiện nay ở khu vực
Trang 4
VẤN ĐỀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT
Tây Nguyên có gần 300 nghìn người dân tộc thiểu số theo Công giáo và gần 400 nghìn người theo
đạo Tin lành.
- Cộng đồng dân tộc thiểu số ở Tây Bắc một số theo Công giáo, Tin lành. Hiện nay ở Tây
Bắc có 38 nghìn người dân tộc thiểu số theo Công giáo; đặc biệt, khoảng 20 năm trở lại đây có đến
trên 100 nghìn người Mông theo đạo Tin lành dưới tên gọi Vàng Chứ và hơn 10 nghìn Dao theo
đạo Tin lành dưới tên gọi Thìn Hùng.
Đa số tín đồ các tôn giáo là người lao động, trong đó chủ yếu là nông dân. Ước tính, số tín
đồ là nông dân của Phật giáo, Thiên chúa giáo chiếm đến 80-85%, của Cao Đài, Phật giáo, Hòa
Hảo: 95% và của đạo Tin lành là 65%. Là người lao động, người nông dân, tín đồ các tôn giáo ở
Việt Nam rất cần cù trong lao động sản xuất và có tinh thần yêu nước. Trong các giai đoạn lịch sử,
tín đồ các tôn giáo cùng với các tầng lớp nhân dân làm nên những chiến thắng to lớn của dân tộc.
Tín đồ các tôn giáo ở Việt Nam có nhu cầu cao trong sinh họat tôn giáo, nhất là những sinh
họat tôn giáo cộng đồng mang tính chất lễ hội. Một bộ phận tín đồ của một số tôn giáo vẫn còn mê
tín dị đoan, thậm chí cuồng tín dễ bị các phần tử thù địch lôi kéo, lợi dụng.
II-PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VIỆT
NAM ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ TÔN GIÁO HIỆN NAY:
Thông qua việc trình bày một số đặc điểm tình hình tôn giáo Việt Nam có thể thấy phần nào
bức tranh toàn cảnh về tôn giáo ở Việt Nam. Đó cũng chính là cơ sở thực tiễn để Đảng và Nhà

nước họach định chủ trương, chính sách đối với tôn giáo ở tầm vĩ mô.
Chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam được xây dựng trên quan điểm cơ bản
của học thuyết Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo và căn cứ vào đặc
điểm tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.
Tư tưởng nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước Việt Nam là tôn trọng quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân; đoàn kết tôn giáo, hòa hợp dân tộc. Tinh thần đó được Đảng và
Nhà nước Việt Nam thể hiện bằng hệ thống chính sách phù hợp với từng giai đoạn cách mạng và đã
có từ khi mới thành lập Đảng.
Trong Chỉ thị của Thường vụ Trung ương về vấn đề thành lập Hội phản đế Đồng Minh
ngày 18-11-1930, Đảng đã có tuyên bố đầu tiên về chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng của quần
chúng: " phải lãnh đạo từng tập thể sinh họat hay tập đoàn của nhân dân gia nhập một tổ chức
cách mạng, để dần dần cách mạng hóa quần chúng và lại đảm bảo tự do tín ngưỡng của quần
chúng ". Chính sách này cũng được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra ngay trong phiên họp đầu tiên
của Hội đồng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, ngày 3-9-1945" "Tín ngưỡng tự do và
lương giáo đoàn kết", coi đó là một trong sáu nhiệm của Nhà nước non trẻ. Hay trong lời kết thúc
buổi ra mắt vào ngày 3-3-1951, Đảng Lao động Việt Nam đã tuyên bố: " vấn đề tôn giáo, thì
Đảng Lao động Việt Nam hoàn toàn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của mọi người". Ngày 14-6-
Trang 5
VẤN ĐỀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT
1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 234-SL ban hành chính sách tôn giáo của Chính phủ Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, trong đó ghi rõ: "Việc tự do tín ngưỡng, thờ cúng là một quyền lợi của
nhân dân. Chính quyền Dân chủ Cộng hoà luôn luôn tôn trọng quyền lợi ấy và giúp đỡ nhân dân
thực hiện".
Ngay trong năm đầu của cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, mặc dù phải lo đối phó với
cuộc chiến tranh ác liệt nhưng chính phủ vẫn quan tâm đến nhu cầu tâm linh của nhân dân. Ngày
11-6-1964, Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký Thông tư số 60-TTg yêu cầu thi hành chính sách tôn
giáo theo Sắc lệnh 234.
Sau ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, ngày 11-11-1977, Chính phủ ban hành
Nghị quyết số 297-CP về "Một số chính sách đối với tôn giáo" trong đó nêu lên 5 nguyên tắc về tự
do tôn giáo. Để đáp ứng với yêu cầu của quá trình đổi mới, ngày 21-3-1991, Hội đồng Bộ trưởng

đã ban hành Nghị định 59-HĐBT "Quy định về các hoạt động tôn giáo". Nghị định 59 là văn bản
mang tính pháp quy, là sự kế thừa thực tiễn của quá trình thực hiện công cuộc đổi mới. Sự nghiệp
cách mạng là của toàn dân, đổi mới về nhận thức và thực hiện tốt công tác quản lý Nhà nước đối
với các hoạt động tôn giáo là nhằm đảm bảo nhu cầu tín ngưỡng chính đáng của nhân dân. Qua đó
đã phát huy được năng lực, sức sáng tạo của hàng chục triệu đồng bào theo tôn giáo, góp phần dân
chủ hoá đời sống xã hội trên cơ sở ổn định chính trị.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn có quan điểm, thái độ rõ ràng
về tín ngưỡng, tôn giáo. Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng năm
1991 đã khẳng định: "Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đảng
và Nhà nước ta tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân, thực hiện bình
đẳng, đoàn kết lương giáo và giữa các tôn giáo. Khắc phục mọi thái độ hẹp hòi, thành kiến, phân
biệt đối xử với đồng bào có đạo, chống những hành vi lợi dụng tôn giáo phá hoại độc lập dân tộc và
đoàn kết dân tộc, chống phá chủ nghĩa xã hội, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân". Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng ghi rõ: "Tín ngưỡng, tôn giáo là
nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và đảm bảo
quyền tự do tín ngưỡng, đồng thời chống việc lợi dụng tín ngưỡng để làm tổn hại đến lợi ích của Tổ
quốc và nhân dân".
Chủ trương, chính sách của Đảng đối với tín ngưỡng, tôn giáo từng bước được hoàn thiện.
Đến đầu thập kỷ 90, trong những năm đầu thực hiện công cuộc đổi mới, Bộ Chính trị ra Nghị quyết
số 24-NQ/TƯ về công tác tôn giáo trong tình hình mới, ghi dấu son về sự đổi mới đường lối, chính
sách tín ngưỡng, tôn giáo. Sau gần 10 thực hiện Nghị quyết 24, Đảng ta đã tổng kết, đánh giá
những thành tựu và nêu rõ những khuyết điểm, đồng thời Bộ Chính trị ra Chỉ thị 37-CT/TƯ ngày
02-7-1998 về công tác tôn giáo trong tình hình mới. Cho đến Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng lần thứ bẩy, khoá IX về công tác tôn giaó (Nghị quyết 25-NQ/TƯ ngày 12-3-
2003) quan điểm, chính sách của Đảng đối với tín ngưỡng, tôn giáo tiếp tục được khẳng định và
phát triển thêm một bước mới phù hợp với sự nghiệp đổi mới của Đảng. Đó là "Tín ngưỡng, tôn
giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền
tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường
theo đúng pháp luật".

Trang 6
VẤN ĐỀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT
Những quan điểm của Đảng ta từ ngày thành lập đến nay chứng minh rằng Đảng coi quyền
tự do tín ngưỡng là một nhu cầu quan trọng của con người, là một trong những quyền công dân,
quyền chính đáng của con người. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn tôn trọng đức tin của
đồng bào theo tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau; tôn trọng quyền được theo bất cứ tôn giáo nào cũng
như quyền không theo tôn giáo nào, mong muốn cho người dân theo tôn giáo được "phần hồn
thong dong, phần xác ấm no".
Từ sau cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay, nước ta đã có 4 Hiến pháp (năm 1946,
1959, 1980 và năm 1992), trong đó Hiến pháp đầu tiên năm 1946 đã khẳng định quyền của người
dân Việt Nam: "Mọi công dân Việt có quyền tự do tín ngưỡng" (Chương II, mục B). Từ những
nguyên tắc cơ bản đó, Điều 80 Hiến pháp 1980 ghi rõ: "Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo
hoặc không theo một tôn giáo nào. Không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính
sách của Nhà nước". Điều 70 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992
được bổ sung rõ hơn: "Công dân Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không
theo tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín
ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc
lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước".
Tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một quyền nhân thân cơ bản của công dân cũng được đề cập
trong Bộ luật Dân sự , được bảo vệ bằng pháp luật và được cụ thể hoá trong các văn bản quy phạm
pháp luật ngày càng ở mức độ cao hơn, hoàn thiện hơn. Sau 5 năm thực hiện Nghị định số
26/1999/NĐ-CP, ngày 19-4-1999 về các hoạt động tôn giáo đã được thay thế bằng Pháp lệnh tín
ngưỡng, tôn giáo do ủy ban Thường vụ Quốc hội khoá XI thông qua ngày 18-6-2004 và Chủ tịch
nước ký Lệnh công bố ngày 29-6-2004.
Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo ra đời là một minh chứng, một bước tiến và một lần nữa tiếp
tục khẳng định nguyên tắc nhất quán trong chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt
Nam là tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Thực tế, những chủ trương, chính sách tín ngưỡng, tôn giáo không phải chỉ được khẳng định ở
Hiến pháp, pháp luật hay trong các chỉ thị, nghị quyết của Đảng mà được thể hiện sống động trong
cuộc sống hàng ngày.

Cho đến nay, Nhà nước ta đã công nhận tư cách pháp nhân cho 15 tổ chức tôn giáo và tiếp
tục xem xét theo tinh thần của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo. Có thể khẳng định, hoạt động tín
ngưỡng, tôn giáo đã và đang diễn ra bình thường ở mọi nơi trên đất nước Việt Nam.
Cả nước có 56.125 chức sắc, nhà tu hành, chưa kể hàng vạn người hoạt động bán chuyên
nghiệp của các tổ chức tôn giáo, trong đó Phật giáo có 33.066 tăng ni; Thiên chúa giáo có 42 giám
mục, 2.700 linh mục và 11.282 tu sĩ, Tin lành có 492 mục sư, giảng sư và truyền đạo; Cao Đài có
8.340 chức sắc, chức việc; Phật giáo Hoà hảo có 982 chức việc và Hồi giáo có 699 chức sắc; 3 học
viện Phật giáo với trên 1.000 tăng ni sinh, 30 trường trung cấp Phật học, 4 trường cao đẳng phật
học với 3.940 tăng ni sinh theo học. Giáo hội Thiên chúa giáo có 6 Đại chủng viện với 1.085 chủng
sinh và 1.712 chủng sinh dự bị. Viện Thánh kinh thần học của Tổng liên hội Hội thánh Tin lành
Việt Nam (miền Nam) đã chiêu sinh hai khoá với 150 học sinh. Hiện có hàng trăm người của các
tôn giáo đang theo học thạc sĩ, tiến sĩ ở các nước trên thế giới.
Trang 7
VẤN ĐỀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT
Cả nước hiện có 22.000 cơ sở thờ tự, trong đó có nhiều cơ sở được xây dựng mới, xây dựng
lại khang trang, đẹp đẽ. Đó là bằng chứng sinh động về đảm bảo tự do tín ngưỡng, tôn giaó là
nguyên tắc hàng đầu và nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam vì cuộc sống tinh thần của
hàng triệu tín đồ các tôn giáo và cũng là những công dân của Việt Nam.
Năm 1955 trước yêu cầu mới về công tác tôn giáo nói chung, công tác quản lý Nhà nước về
hoạt động tôn giáo nói riêng, Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà căn cứ vào ý
kiến của Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 566-TTg ngày 2-8-1955 thành lập Ban Tôn
giáo trực thuộc Phủ Thủ tướng (tiền thân của Ban Tôn giáo Chính phủ ngày nay) để "nghiên cứu kế
hoạch thi hành những chủ trương chính sách của Chính phủ về vấn đề tôn giáo, giúp Thủ tướng
phối hợp với các ngành ở Trung ương và theo dõi hướng dẫn, đôn đốc các địa phương trong việc
thực hiện những chính sách của Chính phủ về vấn đề tôn giáo và liên hệ với các tổ chức tôn giáo".
Quá trình xây dựng và trưởng thành của Ban Tôn giáo Chính phủ có thể chia thành 3 thời
kỳ:
- Thời kỳ 1955-1975: Đây là thời kỳ Ban Tôn giáo thực hiện chức năng giúp Thủ tướng trong việc
thực hiện các chủ trương chính sách về tôn giáo, nhất là sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh
234-SL về tôn giáo. Thời kỳ này Ban Tôn giáo Chính phủ là đầu mối liên hệ với các tổ chức tôn

giáo nhằm động viên tín đồ, chức sắc tôn giáo tham gia công cuộc xây dựng đất nước ở miền Bắc
đấu tranh chống đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ, đấu tranh
chống âm mưu cưỡng ép tín đồ Công giáo di cư vào Nam; động viên giới tôn giáo tham gia các
phong trào cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
- Thời kỳ 1975-1990: Đây là thời kỳ Ban Tôn giáo Chính phủ thực hiện chức năng giúp Chính phủ
quản lý Nhà nước về tôn giáo trong điều kiện đất nước mới được thống nhất. Để đáp ứng yêu cầu
quản lý hoạt động tôn giáo trong phạm vi cả nước, Ban Tôn giáo Chính phủ đã trình Thủ tướng
Chính phủ ban hành Nghị quyết số 297-CP, ngày 11-11-1997 về hoạt động tôn giáo. Đồng thời làm
đầu mối giúp đỡ, hướng dẫn các tôn giáo đi tới thống nhất về tổ chức và xây dựng Hiến chương
đường hướng hành đạo theo phương châm "tốt đời, đẹp đạo", gắn bó với dân tộc.
- Thời kỳ 1990 đến nay: Thời kỳ này, Ban Tôn giáo Chính phủ phối hợp với các ngành thực hiện
các mặt công tác đấu tranh chống các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng Việt
Nam; đồng thời giúp Đảng và Nhà nước khẳng định quan điểm, chủ trương chính sách đối với tôn
giáo.
Đặc biệt trên cơ sở tổng kết thực tiễn "nhìn lại và đổi mới", Ban Tôn giáo Chính phủ phối
hợp với các ngành chức năng tham mưu cho Trung ương ban hành các chủ trương chính sách đổi
mới trong công tác tôn giáo như Nghị quyết số 24-NQ/TƯ ngày 16-10-1990 về Đổi mới công tác
tôn giáo trong tình hình đổi mới; Chỉ thị 37-CT/TW ngày 2-7-1998 về Tăng cường công tác tôn
giáo trong tình hình mới; Nghị định số 59-HĐBT ngày 21-3-1991 và sau này là Nghị định số
26/1999/NĐ-CP ngày 19-4-1999 về Hoạt động tôn giáo. Tham mưu cho Ban Chấp hành Trung
ương Đảng ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TƯ ngày 12-3-2003 về Công tác tôn giáo. Để thể chế
hoá tư tưởng đổi mới đối với công tác tôn giáo của Nghị quyết 25, Ban Tôn giáo Chính phủ phối
hợp với các ngành chức năng xây dựng và trình ủy ban Thường vụ Quốc hội khoá XI, ban hành
Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo.
Trang 8
VẤN ĐỀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT
Đánh giá sự trưởng thành và những đóng góp của Ban Tôn giáo Chính phủ, năm 2002, Nhà
nước trao tặng Huân chương Độc lập hạng Nhất và để khẳng định truyền thống của ngành quản lý
Nhà nước về tôn giáo và xác lập cơ chế quản lý theo ngành - một ngành vốn có nhiều nét đặc thù,
nhạy cảm, ngày 27-5-2005, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 445/QĐ-TTg lấy ngày 2-8 hằng

năm là Ngày truyền thống của ngành quản lý Nhà nước về tôn giáo. Đây là phần thưởng cao quý
của Đảng và Nhà nước dành cho các thế hệ làm công tác tôn giáo trong cả nước.
III-NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG VIỆC TIẾP TỤC ĐỔI MỚI NHẬN THỨC VÀ
CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO:
Thứ nhất, chúng ta đã thừa nhận tôn giáo còn là một thực tại xã hội, thậm chí nó có thể
đồng hành với dân tộc và với CNXH. Tư duy lý luận của chúng ta phải tiến thêm một bước quan
trọng khác, một luận đề có tính “đột phá” khác là, để tôn giáo - thực thể xã hội ấy có thể thích ứng
với CNXH phải tạo cho nó khả năng và quyền hạn “pháp lý nhân sự” tham gia tích cực hơn vào
một số lĩnh vực xã hội thích hợp, đóng góp vào việc xây dựng phát triển đất nước và thoả mãn nhu
cầu của đời sống tôn giáo.
TIền đề lý luận khách quan là: trong bối cảnh toàn cầu hoá, hiện đại hoá, mọi tôn giáo đều
có khuynh hướng trở thành “tôn giáo xã hội”, thích ứng xã hội ngày càng cao.
Đại hội X đã lưu ý vấn đề này khi chỉ ra rằng: “Đồng bào các tôn giáo là bộ phận quan
trọng của khối đại đoàn kết dân tộc. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự
do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo của công dân, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường
theo pháp luật”.
Nhu cầu xã hội của các tôn giáo hiện nay ngày càng tăng trong xu thế hội nhập, toàn cầu
hoá và nó cũng không tách rời “quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường”.
Thứ hai, giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa Nhà nước và các giáo hội. Trong những năm
qua, chúng ta có rất nhiều thành tựu về vấn đề này do Đảng ta từ lâu đã biết dựa vào tư tưởng Hồ
Chí Minh, nắm chắc đặc điểm dân tộc, yếu tố dân tộc của cách mạng Việt Nam, tránh được phần
lớn những sai lầm thiếu sót của khuynh hướng tả khuynh về vấn đề tôn giáo trong phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế.
Đặc biệt từ 1990 đến nay, lần đầu tiên Đảng ta đã chuyển vấn đề tôn giáo từ phạm trù nội
chính, qua phạm trù công tác dân vận, tạo nên một cục diện mới, được đồng bào các tôn giáo (xuất
hiện cụm từ “đồng bào có đạo”) đón nhận, tạo nên bầu không khí phấn khởi, thuận lợi hơn cho
quan hệ Nhà nước với các tổ chức tôn giáo.
Hiện nay, vấn đề then chốt để tiếp tục đổi mới về tôn giáo là phải đặt mối quan hệ này trong
vấn đề nhà nước pháp quyền, bình thường hoá và pháp trị. Càng làm tốt điều này, đời sống tôn giáo
càng ổn định vững chắc và xây đắp hơn đại đoàn kết dân tộc, tôn giáo.

Văn kiện Đại hội X có nói đến “các tôn giáo hợp pháp” và việc được pháp luật bảo hộ khi
các tổ chức tôn giáo ấy “hoạt động theo pháp luật”.
Trang 9
VẤN ĐỀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT
Đây là vấn đề rất quan trọng không chỉ ở góc độ xây dựng nhà nước pháp quyền, mà còn
đáp ứng đòi hỏi bức xúc: chỉ có làm tốt công tác hoàn thiện luật pháp tôn giáo mới có thể có điều
kiện, phương tiện hữu hiệu làm tốt công tác quản lý nhà nước về tôn giáo.
Ở Việt Nam hiện nay, trước khi nói đến một bộ luật về tôn giáo (Các văn bản của Bộ Chính
trị khoá IX đã từng nói điều này) thì cấp thiết phải xây dựng, hoàn thiện hơn luật pháp nhân tôn
giáo, các chế tài khác liên quan đến đời sống tôn giáo dù chúng ta đã có Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn
giáo Có như vậy chúng ta mới có thể hoàn thiện mô hình nhà nước thế tục đã lựa chọn từ những
năm đầu hoà bình lập lại, sau Hiệp định Giơ-ne-vơ (1954)
Thứ ba, việc ổn định đời sống tôn giáo và tạo thêm điều kiện cho các tôn giáo cống hiến
khả năng xây dựng, phát triển đất nước là không ngoài quy luật mà tư tưởng Hồ Chí Minh đâ chỉ
ra: luôn luôn duy trì và phát triển xu hướng tôn giáo đồng hành với dân tộc và CNXH, đoàn kết dân
tộc tôn giáo trước hết bằng mục tiêu chung, điểm tương đồng giữa lý tưởng tốt đẹp vốn có của các
tôn giáo với CNXH, khai thác những giá trị tích cực của các tôn giáo trước hết là các giá trị văn hoá
và đạo đức, đồng thời luôn cảnh giác với những âm mưu lợi dụng các tôn giáo vào mục đích chính
trị phản dân tộc và CNXH
Vấn đề tôn giáo được đề cập trong Văn kiện Đại hội X phù hợp với thực tiễn đời sống tôn
giáo, cả trong những năm sắp đến. Vấn đề chỉ còn ở chỗ: các cơ quan, ban, ngành hữu quan tiếp tục
có những chương trình phổ biến, giáo dục sinh động cho toàn Đảng, toàn dân - trước hết là đội ngũ
những người làm công tác tôn giáo trực tiếp - thấm nhuần hơn nữa các quan điểm đổi mới này về
công tác tôn giáo.
Chúng ta đã từng trải qua những giai đoạn quá dài phương pháp nhận thức về tôn giáo chưa
đầy đủ, tả khuynh và nóng vội. Trong các nhận thức chưa đúng đắn ấy, có lẽ ba nhận thức cơ bản
sau đây vẫn còn ám ảnh ở một bộ phận cán bộ, quần chúng: Thứ nhất, vì tôn giáo là “sự phản ánh
ngược” của hiện thực và duy tâm nên nó hoàn toàn đối nghịch với khoa học và chủ nghĩa duy vật.
Thứ hai vì tôn giáo luôn đồng nhất với mê tín nên nó là hệ ý thức lạc hậu, phải xoá bỏ. Thứ ba, vì
tôn giáo luôn luôn bị các thế lực chính trị phản động lợi dụng, nên tôn giáo thường đồng nhất với

chính trị, ở đó không có chỗ cho “văn hoá” và giải quyết vấn đề tôn giáo là đấu tranh tư tưởng
chính trị, nhận thức và giải quyết vấn đề địch - ta.
Như đã nói ở trên, về đại thể, dưới ánh sáng đổi mới của Đảng ta trong nhận thức và hành
động, chúng ta đã có những bước đột phá quan trọng. Tuy vậy, cũng chưa thể coi như “không còn
vấn đề gì” trong lĩnh vực vốn rất phức tạp và nhạy cảm này.
HẾT
Trang 10

×