Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Tiểu luận Vận dụng quy luật phủ định vào xây dựng nền vănhoá Việt Nam tiên tiến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.83 KB, 19 trang )

Tiểu luận: Vận dụng quy luật phủ định vào xây dựng nền văn
hoá Việt Nam tiên tiến .
MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Trải qua hơn 55 năm trên chặng đường phát triển văn hóa, từ văn
kiện đầu tiên “Đề cương văn hoá năm 1943”, Đảng và nhà nước ta
đã tích luỹ kinh nghiệm thực tiễn và lý luận để lại dấu ấn lịch sử, dấu
ấn thời đại về tư duy văn hoá.
Không phải ngẫu nhiên mà trong Văn kiện Hội nghị lần thứ 4 của Ban
chấp hành TW khoá VII Đảng ta đã xác định văn hoá không chỉ là kết
quả mà còn là nguyên nhân của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Phát triển quan điểm trên, Hội nghị lần thứ 10 Ban
chấp hành TW Đảng khoá IX tiếp tục xác định mục tiêu cần phải đạt
tới là tạo được sự phát triển đồng bộ về chất lượng văn hoá “Đảm
bảo sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây
dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt với không ngừng nâng cao văn
hoá - nền tảng tinh thần của xã hội; tạo nên sự phát triển đồng bộ
của ba lĩnh vực trên chính là điều kiện quyết định đảm bảo cho sự
phát triển toàn diện và bền vững của đất nước” (Văn kiện Hội nghị
TW 10 khoá IX). Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X tháng
4 năm 2006 đã tiếp tục khẳng định: “ Xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển
của xã hội và con người trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Qua hơn 20 năm với đường lối đúng đắn của Đảng, cùng với công
cuộc đổi mới và chủ động hội nhập quốc tế, chúng ta từng bước
vững chắc đạt được những thành tựu rất đáng tự hào như: nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang từng bước được xây
dựng; nền dân chủ XHCN với nhà nước pháp quyền của dân, do
dân, vì dân đã được thiết định. Bên cạnh việc hội nhập kinh tế, tiến
trình hội nhập văn hóa cũng là một tất yếu khách quan. Tiến trình


giữa hội nhập kinh tế và hội nhập văn, nếu coi nhẹ hội nhập kinh tế
thì đất nước sẽ chậm thoát nghèo. Còn coi nhẹ hội nhập văn hóa đôi
khi lại nguy hiểm hơn bởi có thể bị các nền văn hóa khác đồng hóa.
Vì vậy bên cạnh chiến lược phát triển kinh tế, chúng ta cần có chiến
lược phát triển nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc phù hợp với
phát triển kinh tế. Tất nhiên đậm đà bản sắc dân tộc không thể đóng
cửa nền văn hóa, mà chủ động chọn lọc những tinh hoa văn hóa
nhân loại để làm phong phú, giàu có thêm, hiện đại hơn nền văn hóa
của dân tộc của đất nước mình.
Văn hóa vốn bao giờ cũng là nền tảng quyết định của xã hội, một văn
hóa cho sự phát triển mạnh mẽ, sâu sắc toàn diện nhất toàn cầu hóa
và hôi nhập, toàn cầu hóa như một tất yếu. Có thể khẳng định: Văn
hóa là cốt hồn của dân tộc, một dân tộc, nếu không giữ được bản
sắc văn hóa riêng thì dân tộc đó sẽ bị lu mờ thậm chí không còn dân
tộc đó nữa. Vì thế, xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc không chỉ là trách nhiệm của ngành văn
hoá mà còn là trách nhiệm của toàn đảng, toàn dân và toàn xã hội.
Tôi quan tâm và chọn đề tài: “Quy luật phủ định của phủ định và
sự vận dụng quy luật này vào việc xây dựng và phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” để làm đề tài
cho tiểu luận này.
2. Tình hình nghiên cứu:
Đất nước ta đang trong thời kỳ hội nhập với nền kinh tế mở. Tuy
nhiên, việc hội nhập có mặt tích cực và tiêu cực. Nếu chúng ta tiếp
thu không chọn lọc, thì bên cạnh những mặt tích cực của nền văn
minh hiện đại, chúng ta dễ bị tiếp thu những những mặt tiêu cực. Mặt
khác, chúng ta còn lo ngại bị đánh mất truyền thống dân tộc, chạy
theo các nước trên thế giới, bị ảnh hưởng hoàn toàn bởi nền văn hoá
của nước khác.
Mỗi một quốc gia đều có những truyền thống, những bản sắc riêng

của mình. Bản sắc riêng của một dân tộc, giúp chúng ta phân biệt và
nhận dạng rõ một quốc gia đó. Giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc
là một việc tất yếu trong nền kinh tế mở hiện nay. Với những lý do
trên, chúng ta có thể thấy rõ tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát
huy bản sắc dân tộc. Vì thế tình huống đặt ra trong việc xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là
điều tất yếu và cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích nhiệm vụ.
- Làm rõ vấn đề văn hoá và bản sắc văn hóa ở Việt Nam.
- Đánh giá các mặt tích cực và hạn chế trong việc việc xây dựng nền
nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong quá
trình hội nhập ở nước ta.
- Vận dụng quy luật phủ định của phủ định vào việc xây dựng nền
nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
- Thành quả của vận dụng quy luật phủ định của phủ định vào việc
xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
- Trên cơ sở lý luận và thực tiễn đã nghiên cứu, đề xuất các giải
pháp nhằm xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc ở nước ta.
NỘI DUNG
Chương 1
Những vấn đề chung về quy luật của phủ định vào việc xây
dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc.
1.1.Khái niệm phủ định biện chứng.
Theo nghĩa thông thường, phủ định được hiểu là sự không thừa
nhận, bác bỏ hay sự thay thế một sự vật, hiện tượng nào đó. Trong
Triết học có hai quan điểm: quan điểm siêu hình và quan điểm biện
chứng về sự phủ định.
Quan điểm siêu hình hiểu sự phủ định là sự can thiệp của những lực

lượng bên ngoài dẫn tới thủ tiêu sự vật, chấm dứt sự phát triển của
nó. Quan điểm biện chứng cho rằng phủ định là khâu tất yếu của bất
kỳ sự phát triển nào. Đó là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác
trên cơ sở mất đi của cái cũ và xuất hiện cái mới tiến bộ hơn, là quá
trình giải quyết mâu thuẫn nội tại của bản thân sự vật bị phủ định.
Vì vậy, phủ định biện chứng là quá trình tự thân phủ định, tự thân
phát triển dẫn tới sự ra đời của cái mới tiến bộ hơn so với cái bị phủ
định (kết quả của quá trình đấu tranh giữa các mặt đối lập bên trong
sự vật ấy quyết định).
1.2. Nội dung quy luật:
Quy luật phủ định của phủ định là một trong 3 quy luật cơ bản của
phép biện chứng duy vật. Quy luật này khái quát khuynh hướng phát
triển tiến lên theo hình thức xoáy ốc thể hiện tính chất chu kỳ trong
quá trình phát triển.
Đó là cơ sở phương pháp luận của nguyên tắc phủ định biện chứng,
chỉ đạo mọi phương pháp suy nghĩ và hành động của con người.
Phủ định biện chứng đòi hỏi phải tôn trọng tính kế thừa, nhưng kế
thừa phải có chọn lọc, cải tạo, phê phán, chống kế thừa nguyên xi,
máy móc và phủ định sạch trơn, chủ nghĩa hư vô với quá khứ.
Nguyên tắc phủ định biện chứng trang bị phương pháp khoa học để
tiếp cận lịch sử và tiên đoán, dự kiến những hình thái cơ bản của
tương lai.
Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển của sự vật là
do mâu thuẫn trong bản thân sự vật quyết định. Mỗi lần phủ định là
kết quả đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập trong bản thân
sự vật - giữa mặt khẳng định và phủ định. Sự phủ định lần thứ nhất
diễn ra là do sự vật cũ chuyển thành cái đối lập với mình. Sự phủ
định lần thứ hai được thực hiện dẫn tới sự vật mới ra đời. Sự vật này
đối lập với cái được sinh ra ở lần phủ định thứ nhất. Nó được bổ
sung nhiều nhân tố mới. Như vậy sau hai lần phủ định sự vật dường

như quay trở lại cái cũ, nhưng trên cơ sở mới cao hơn là đặc điểm
quan trọng nhất của sự phát triển biện chứng thông qua phủ định của
phủ định.
Phủ định của phủ định làm xuất hiện sự vật mới là kết quả của sự
tổng hợp tất cả nhân tố tích cực đã có và đã phát triển trong cái
khẳng định ban đầu và trong những lần phủ định tiếp theo. Do vậy,
sự vật mới với tư cách là kết quả của phủ định của phủ định có nội
dung toàn diện hơn, phong phú hơn, có cái khẳng định ban đầu và
kết quả của sự phủ định lần thứ nhất.
Kết quả của sự phủ định của phủ định là điểm kết thúc của một chu
kỳ phát triển và cũng là điểm khởi đầu của chu kỳ phát triển tiếp theo.
Sự vật lại tiếp tục phủ định biện chứng chính mình để phát triển. Cứ
như vậy sự vật mới ngày càng mới hơn.
Quy luật phủ định của phủ định khái quát xu hướng tất yếu tiến lên
của sự vật - xu hướng phát triển. Song phát triển đó không theo
hướng thẳng mà theo đường "xoáy ốc". Sự phát triển "xoáy ốc" là sự
biểu thị rõ ràng, đầy đủ các đặc trưng của quá trình phát triển biện
chứng của sự vật: tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên. Mỗi vòng
của đường xoáy ốc dường như thể hiện sự lặp lại, nhưng cao hơn,
thể hiện trình độ cao hơn của sự phát triển. Tính vô tận của sự phát
triển từ thấp đến cao được thể hiện ở sự nối tiếp nhau từ dưới lên
của các vòng trong đường "xoáy ốc".
Trong quá trình vận động của sự vật, những yếu tố mới xuất hiện sẽ
thay thế những nhân tố cũ, trong đó những nhân tố tích cực của sự
vật cũ được giữ lại. Song sự vật mới này sẽ lại bị phủ định bởi sự vật
mới khác. Sự vật mới khác ấy dường như là sự vật đã tồn tại, song
không phải là sự trùng lặp hoàn toàn, mà nó được bổ sung những
nhân tố mới và chỉ bảo tồn những nhân tố tích cực thích hợp với sự
phát triển tiếp tục của nó. Sau khi sự phủ định 2 lần của phủ định
được thực hiện thì sự vật mới hoàn thành một chu kỳ phát triển.

1.3. Ý nghĩa:
Quy luật phủ định của phủ định giúp chúng ta nhận thức đúng đắn về
xu hướng phát triển của sự vật. Quá trình phát triển của bất kì một
sự vật nào cũng không bao giờ đi theo một đường thẳng, nó gồm có
nhiều chu kỳ khác nhau. Chu kỳ sao bao giờ cũng tiến bộ hơn chu kỳ
trước. Do đó, chúng ta phải hiểu những đặc điểm đó để có cách tác
động phù hợp với yêu cầu phát triển.
Theo đó, mọi sự vật luôn xuất hiện cái mới thay thế cái cũ, cái tiến bộ
thay thế cái lạc hậu, cái mới ra đời trên cơ sở kế thừa tất cả những
nhân tố tích cực của cái cũ. Do đó, trong hoạt động của mình, con
người phải biết kế thừa tinh hoa của cái cũ, tránh thái độ phủ định
sạch trơn.
Trong giới tự nhiên cái mới phát triển một cách tự phát, còn trong xã
hội cái mới ra đời gắn liền với hoạt động có ý thức của con người.
Chính vì thế trong hoạt động của chính mình con người phải biết
phát hiện cái mới và ủng hộ nó.
Chương 2
Vận dụng quy luật phủ định của phủ định vào việc xây dựng nền
văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
2.1. Những thành tựu và hạn chế trong quá trình hội nhập văn
hóa và thế giới.
Toàn cầu hóa là một xu thế không thể cưỡng lại đối với tất cả các
quốc gia. Chủ động để hội nhập là một thái độ tích cực, khôn ngoan,
là khẳng định đường hướng có chiến lược, có chiến thuật, có kế
hoạch cho từng bước đi. Chủ động hội nhập sẽ khai thác được nhiều
nhất những thuận lợi, những cơ hội để dân tộc có nhiều lợi ích nhất,
hạn chế được đến mức thấp nhất những thách thức, những tiêu cực
nảy sinh.
Công cuộc đổi mới của đất nước ta hai mươi năm qua chính là sự
chủ động hội nhập quốc tế, từng bước vững chắc đạt được những

thành tựu rất đáng tự hào. Về kinh tế, Việt Nam là một trong những
nền kinh tế có tốc độ phát triển khá cao (từ 7,5 - 8% năm), cơ cấu
kinh tế được chuyển địch theo hướng tích cực phát triển công nghiệp
và dịch vụ, tốc độ hiện đại hóa cơ sở hạ tầng, khoa học công nghệ
với những bước đi dài tất cả đã tạo điều kiện chín muồi để Việt
Nam vững bước trên tiến trình hòa nhập Thương mại Quốc tế WTO.
Chiến lược là vậy, hơn 20 năm hội nhập văn hóa thế giới quả là cuộc
đấu tranh quyết liệt. Đánh giá về thành tựu hội nhập văn hóa có
nhiều ý kiến khác nhau, không được đồng thuận như khi chúng ta
đánh giá về thành tựu đổi mới kinh tế. Điều này chứng tỏ quá trình
hội nhập văn hóa của chúng ta còn có những vấn đề non yếu. Không
ai phủ nhận sau 20 năm đổi mới, đời sống văn hóa tinh thần của
nhân dân ta được nâng cao, được mở rộng, phong phú đa dạng và
giàu có hơn nhiều. Nhưng cũng phải thừa nhận rằng, bên cạnh
những mặt tốt đó, thì nhiều mặt tiêu cực của đời sống xã hội cũng
nảy sinh. Đạo đức xã hội xuống cấp nghiêm trọng, đời sống văn hóa
bị lai căng, nhiều chuẩn mực xã hội không còn được tôn trọng, một
số mặt xấu được duy trì công khai không có người lên tiếng, nhiều tệ
nạn không ngăn chặn được.
Riêng về lĩnh vực văn học nghệ thuật, hơn 20 năm hội nhập thì văn
chương nghệ thuật thế giới ồ ạt tràn vào nước ta, cả những tác
phẩm hay và những tác phẩm dở. Văn hóa bạo lực, tình dục ngang
nhiên thách thức những thuần phong mỹ tục, những món hàng ăn
liền rẻ tiền tấn công những giá trị sâu sắc, thâm nghiêm Những tính
chất văn chương nghệ thuật ngoại lai đó đôi khi còn có sức mạnh
chiếm lĩnh hắn được một bộ phận làm nhiệm vụ sáng tạo, biểu diễn
và một bộ phận công chúng nhất là khá đông đảo giới trẻ hoan hô
môt cách vô tội vạ, "đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu” khá
rầm rộ.
Hội nhập thế giới, nghĩa là ra với đại dương với nhiều sóng to gió

lớn. Ở lĩnh vực nào cũng cần phải có người cầm lái có bản lĩnh và có
tầm nhìn xa trông rộng. Trên thế giới đã có nhiều bài học về sự phát
triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa hóa. Những bài học nào cũng
chỉ có những giá trị nhất định chứ không thể là chìa khỏa vạn năng.
Chiến lược xây dựng nền văn hóa Việt Nam phong phú, đậm đà bản
sắc dân tộc là hoàn toàn đúng đắn, nhưng triển khai xây dựng quản
lý văn hóa toàn xã hội là vô cùng khó khăn phức tạp, là thách thức
lớn cần có sức mạnh của nhiều cấp nhiều ngành mới có thể làm
được. Với quyết tâm cao thì cuối cùng căn bệnh nào cũng tìm ra
được thuốc đặc trị, cũng tìm được giải pháp giải quyết đúng đắn.
Nền văn hóa Việt Nam mấy ngàn năm lịch sử tồn tại và phát triển đã
thể hiện sức sống mãnh liệt. Âm mưu đồng hóa của những nền văn
hóa lớn hết đợt sóng này đến đợt sóng khác cũng không xóa được
bản lĩnh văn hóa Việt Nam. Có thể nói nền văn hóa Việt Nam đã
được tôi luyện và có sức đề kháng cao. Điều này cho chúng ta tin
tuởng vào chặng đường phát triển sắp tới của nền văn hóa dân tộc.
Một vấn đề lớn và quan trọng đặt ra là: Nền văn hoá tiên tiến, hiện
đại do hội nhập quốc tế hình thành có mâu thuẫn, có thủ tiêu nền văn
hoá truyền thống và làm mất đi bản sắc dân tộc của văn hoá truyền
thống?
Phép biện chứng duy vật và thực tiễn xã hội cho thấy, đời sống tinh
thần có cuộc sống độc lập của nó so với nền tảng vật chất xã hội.
Văn hoá, một khi ra đời, dù là xuất phát từ tồn tại kinh tế, từ đời sống
vật chất, nó trở thành thực thể độc lập với cơ sở kinh tế - xã hội.
Thực tế đã chứng minh, những hệ tư tưởng, chính trị, văn hoá đã
đóng vai trò điều chỉnh và qui định chiều hướng vận động của xã hội.
Ngày nay, loài người càng nhận rõ rằng, văn hoá không chỉ là cái
phái sinh của điều kiện kinh tế - xã hội, mà còn là động lực nội sinh
của sự phát triển đó.
Văn hoá Việt Nam với bản sắc của mình, qua bao lần tiếp biến vẫn

không bị sai lạc, phai mờ, thậm chí qua bao lần đất nước bị xâm
lăng, dân tộc bị thôn tính, nhưng bản sắc đó không bao giờ mất,
không những không mất mà nó ngày càng được khẳng định và phát
triển. Mỗi lần tiếp biến, văn hoá Việt Nam với bản lĩnh và sức sống
của mình, lấy bản sắc dân tộc làm tiêu chí, nó gạn lọc, tiếp thu
những tinh hoa tốt đẹp của các nền văn hoá khác trên khắp thế giới,
làm giàu có và đậm đà thêm, phong phú thêm cho bản sắc của mình.
Nói như vậy không có nghĩa hội nhập văn hóa chỉ có đem lại những
thuận lợi, tạo ra tất cả những yếu tố tích cực cho và giữ gìn bản sắc
văn hoá Việt Nam.
Chúng ta dể dàng nhận thấy: “Toàn cầu hoá và hội nhập” một mặt
làm nâng cao chất lượng sống, mặt khác cũng hình thành nên những
chuẩn mực mới lạ trong đời sống tinh thần, có thể dẫn đến "sự va
chạm" giữa lối sống, lối tư duy hiện đại với lối sống và tư duy truyền
thống: Lối sống và cách tư duy hoà với thiên nhiên, tình cảm cộng
đồng tình làng nghĩa xóm dường như "mặc cảm" với lối sống đô thị
và toán tính kinh tế có tính cá nhân, nếp sống thanh bình dễ "dị ứng”
với nhịp độ gấp gáp của tác phong công nghiệp, ứng xử tình cảm
nghiêng về đạo đức thường tương phản với văn hoá trí tuệ và nền
pháp lý chặt chẽ, lối sống tiêu xài không mấy phù hợp với truyền
thống thanh đạm của con người Việt Nam…
Hội nhập quốc tế không chỉ là nhập công nghệ mà là hoạt động toàn
diện khoa học kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất - quản lý kinh tế - xã
hội. Sự hội nhập sẽ làm tăng nhanh nhiều loại sản phẩm văn hoá,
trong đó, bên cạnh các yếu tố tốt đẹp, có cả những yếu tố không phù
hợp với văn hoá truyền thống, thậm chí độc hại nữa.
Chúng ta chủ động lựa chọn chính sách trong tiếp biến của công
nghiệp hoá - hiện đại hoá. Những thế mạnh trong đối sách đó là
tương đối bởi trình độ kinh tế - xã hội nước ta rất thấp so với các
nước đầu tư vào ta. Trong biết bao loại đầu tư, ở đó đồng thời cũng

kèm theo những dạng văn hoá nhất định. Cái ta cần, nói chung là
vượt hẳn cái ta có khả năng cho. Trong một xã hội nghèo, sự thâm
nhập ồ ạt từ bên ngoài làm đảo lộn nhiều thói quen, nếp sống, kể cả
suy nghĩ của nhân dân ta trên một bình diện rộng hơn bao giờ hết.
Những năm gần đây, không chỉ ở thành thị mà cả ở nông thôn, điều
kiện sống, tiện nghi sinh hoạt, lối sống đã có sự thay đổi lớn, sự thay
đổi đó diễn ra không chỉ ở bề ngoài mà cả ở chiều sâu. Sự khủng
hoảng một số mặt trong nhiều phương diện đời sống đang hình
thành liên quan đến từng gia đình. Trước đây một số người đi tìm sự
thoả mãn lối sống của họ ở nước ngoài, thì nay lối sống đó đã nảy
nở tại Việt Nam, trên một số lĩnh vực lối sống đó đã khống chế lối
sống truyền thống Việt Nam, nhiều cách sinh hoạt, cách sống, cách
nghĩ thực sự đã xung đột với những chuẩn mực mà nhân dân ta
cho là lành mạnh. Nhiều hiện tượng trước đây hoàn toàn xa lạ thì
nay ở không ít người được xem như là chuyện bình thường: bạo lực,
kích dâm, xem tiền là tối thượng, xem hưởng thụ vật chất là mục
đích của cuộc đời. Đồng minh của lối sống buông thả là luận điệu tự
do, dân chủ không ranh giới. Tất cả những cái đó nếu không kịp thời
ngăn chặn, đến một lúc, an ninh quốc gia, thậm chí độc lập dân tộc
sẽ là cái bia bắn phá, lối sống dân tộc, văn hoá dân tộc sẽ bị coi là
lạc hậu, lạc lõng.
2.2. Sự vận dụng quy luật phủ định của phủ định vào việc xây
dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tôc.
Hiện nay, vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc và những biến thể của nó
đang là một trong những vấn đề được đặc biệt quan tâm ở Việt Nam.
Nỗi ám ảnh về bản sắc hiện diện ở khắp nơi, từ những diễn ngôn
chính trị như "xây dựng nền văn hóa tiên tiến, hiện đại, đậm đà bản
sắc dân tộc", "hội nhập nhưng không hòa tan" cho đến các hoạt động
kinh tế, văn hóa xã hội như xây dựng thương hiệu Việt, tự kiểm điểm

tính cách dân tộc hay phê bình văn học nghệ thuật. Không thể phủ
định, đây là một định hướng đúng đắn, một mối quan tâm lành mạnh
của toàn xã hội khi Việt Nam ngày càng tham gia một cách toàn diện
hơn vào quá trình toàn cầu hóa nhưng tự bản thân những khát vọng
bảo tồn, phát huy bản sắc dân tộc cũng đặt ra những câu hỏi hóc
búa đối với toàn xã hội, trước hết là trong việc xác định bản sắc văn
hóa dân tộc và sau đó là việc ứng xử với bản sắc văn hóa đó.
«Bản» là cái gốc, cái căn bản, cái lõi, cái hạt nhân của một sự vật;
«Sắc» là thể hiện ra ngoài. Nói bản sắc dân tộc của văn hóa Việt
Nam tức là nói những giá trị gốc, căn bản, cốt lõi, những giá trị hạt
nhân của dân tộc Việt Nam. Nói những hạt nhân giá trị hạt nhân tức
là không phải nói tất cả mọi giá trị, mà chỉ là nói những giá trị tiêu
biểu nhất, bản chất nhất, chúng mang tính dân tộc sâu sắc đến nỗi
chúng biểu hiện trong mọi lĩnh vực như: văn học nghệ thuật, sân
khấu, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, trong sinh hoạt, giao tiếp, ứng xử
hằng ngày của người Việt Nam.
Những giá trị hạt nhân đó không phải tự nhiên mà có, nó được tạo
thành dần dần và được khẳng định trong quá trình lịch sử xây dựng,
củng cố và phát triển của nhà nước Việt Nam. Những giá trị đó
không phải là không thay đổi trong quá trình lịch sử. Có những giá trị
cũ, lỗi thời bị xóa bỏ, và có những giá trị mới, tiến bộ được bổ xung
vào. Có những giá trị tiếp tục phát huy tác dụng, dưới những hình
thức mới. Dân tộc Việt Nam, với tư cách là chủ thể sáng tạo, thường
xuyên kiểm nghiệm những giá tri hạt nhân đó, quyết định những thay
đổi và bổ sung cần thiết, tái tạo những giá trị đó từ thế hệ này sang
thế hệ khác.
Không nên có tư tưởng tĩnh và siêu hình đối với những giá trị hạt
nhân đó, thậm chí đối với những giá trị mà chúng ta vốn cho là thiêng
liêng nhất. Nếu dân tộc không có ý thức giữ gìn, bồi dưỡng, tái tạo
để trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thì chúng cũng bị mai

một và tàn lụi đi.
Chúng ta thử so sánh bản sắc chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trong
những người cuộc Cách mạng Tháng tám sôi sục, trong cuộc kháng
chiến chống Pháp, Nhật, Mỹ với cái gọi là "Bản sắc" chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam trong những năm tháng cuối đời nhà Nguyễn thì thấy
rõ. Hay là đối với chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời kỳ Lê Mạt với
chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời Lý -Trần. Không thể nói, đấy là
cùng một bản sắc chủ nghĩa yêu nước được!
Có người hỏi có thể có những giá trị bản sắc là tiêu cực, hay là đã
nói bản sắc là nói cái gì tiến bộ, tích cực, xứng đáng được trao
truyền và thừa kế.
Như trên vừa nói, không nên có cái nhìn tĩnh tại và siêu hình đối với
bản sắc dân tộc. Cái gì sống đều thay đổi và phải thay đổi. Bản sắc
dân tộc cũng vậy. Giai cấp lãnh đạo phải sáng suốt và chủ động đối
với quá trình diễn biến của bản sắc dân tộc. Những giá trị nào lỗi thời
phải xóa bỏ, những giá trị mới nào cần bổ sung thêm vào, những giá
trị nào cần kế thừa, nhưng dưới một hình thức mới, và hình thức mới
đó thêm ra sao? Trong những bước chuyển cách mạng, những sự
kiện đổi đời của dân tộc ta như cuộc cách mạng Tháng tám, chiến
thắng của Ngô Quyền kết thúc đêm dài mười thế kỷ Bắc thuộc, sự
kiện Tây Sơn , bộ phận lãnh đạo của dân tộc thời bấy giờ phải
nghiêm túc kiểm nghiệm lại những giá trị bản sắc đương thời của
dân tộc. Không phải không có lý do mà sau 10 thế kỷ Bắc thuộc, bộ
phận lãnh đạo của dân tộc thời bấy giờ đã gạt bỏ Nho giáo và chấp
nhận tư tưởng Phật giáo. Cũng với những lý do xác đáng, dân tộc ta
kinh qua cuộc cách Mạng tháng tám đã chấp nhận hệ tư tưởng Mác-
Lênin như là dòng tư tưởng chủ lưu hiện nay của mình.
Những cuộc kiểm nghiệm như thế cũng cần được tiến hành khi xảy
ra giao tiếp văn hóa rộng rãi giữa các nền văn hóa khác nhau, ví dụ
giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Xô Viết, văn hóa Việt Nam và văn

hóa Ấn Độ, Trung Hoa, văn hóa Việt Nam và văn hóa Âu, Mỹ
không có biên giới. Thời đại hiện nay là thời đại của kỹ thuật giao
thông liên lạc và thông tin cực kỳ phát triển. Trái đất như bị thu nhỏ
lại hàng mấy trăm lần, so với chục năm về trước. Do đó sự tiếp xúc
văn hóa giữa các dân tộc sống cách xa nhau là tất nhiên và tất yếu.
Qua những cuộc tiếp xúc đó, bản sắc văn hóa của các dân tộc đều
có sự thay đổi, bên cạnh những cái khẳng định. Thật là vô lý nếu
chúng ta gạt bỏ mọi yếu tố tiến bộ và cái hay, đẹp của văn hóa nước
khác chỉ vì chúng ta sợ bị ngoại lai. Nhưng cũng sẽ là vô lý hơn, nếu
chúng ta tiếp thu hàng loạt không có phê phán mọi yếu tố của văn
hóa nước ngoài, chỉ vì chúng là mới lạ, tân kỳ.
Những yếu tố tiến bộ của văn hóa nước ngoài, một khi đã được dân
tộc ta chấp nhận và biến thành sở hữu của mình rồi, thì chúng có thể
trở thành một bộ phận của giá trị bản sắc văn hóa Việt Nam, của dân
tộc Việt Nam. Không ai có thể phủ nhận rằng, nhiều yếu tố Phật giáo,
Nho giáo, mặc dù bắt nguồn từ nước ngoài, nhưng đã trở thành bộ
phận khăng khít của bản sắc dân tộc và văn hóa Việt Nam, đã được
dân tộc Việt Nam biến thành sở hữu thật sự của mình.
Nói tóm lại, cái lỗi thời nhưng không được cải tiến, cái tốt nhưng lại bị
cường điệu, cái tốt ngoại lai nhưng không được bản địa hóa nhuần
nhuyễn đều có thể biến thành tiêu cực và tạo trở ngại cho sự phát
triển bình thường của nền văn hóa dân tộc. Vì vậy, mà chúng tôi
khẳng định, những giá trị bản sắc của dân tộc Việt Nam, của nền văn
hóa Việt Nam cần phải được bộ phận lãnh đạo của dân tộc thường
xuyên kiểm nghiệm, theo dõi, gìn giữ, cải tiến, bổ sung, gạt bỏ những
cái lỗi thời, đổi mới những hình thức không còn thích hợp, tiếp thu và
bản địa hóa mọi tinh hoa của văn hóa nước ngoài khiến cho những
giá trị gọi là bản sắc văn hóa của dân tộc ta phát huy tới mức cao
nhất của hai tác dụng xúc tác và hội tụ, đối với sự phát triển toàn
diện và mọi mặt của dân tộc Việt Nam chúng ta. Tác dụng xúc tác là

tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển. Tác dụng hội tụ là tác
dụng gắn bó, kết hợp với mặt, các yếu tố thành một hệ thống nhất.
2.3. Thành quả của việc vận dụng vào xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Đối với nước ta những năm vừa qua, trong quá trình mở cửa giao
lưu với thế giới, chúng ta không chỉ tiếp thu những giá trị hiện đại,
tiên tiến mà còn bổ sung, điều chỉnh một số nét của các giá trị truyền
thống cho phù hợp với thời đại, thẩm thấu và làm đa dạng thêm bản
sắc của dân tộc. Chúng ta ngày càng ý thức rõ hơn về quá trình hội
nhập. Trong quá trình thực tiễn phát triển đất nước, chúng đã được
những thành quả trong việc xây dựng và phát huy bản sắc văn hóa
đó là:
Quá trình hội nhập văn hóa đã làm cho các quốc gia đang ngày càng
xích lại gần nhau hơn bởi những giá trị truyền thống chung, đồng thời
tạo điều kiện cho mỗi dân tộc phát huy nét độc đáo, đặc trưng của
mình. Quá trình này cũng sẽ tạo điều kiện cho thế giới luôn tồn tại
trong sự thống nhất chung của tất cả những cái riêng, cái đặc thù; cái
chung không bài trừ cái riêng mà cùng với cái riêng làm tiền đề cho
nhau để cùng thúc đẩy nhau phát triển và tiến bộ.
Vận dụng quy luật phủ định của phủ định, ta không thể bảo vệ thụ
động bản sắc mà chỉ hòa nhập cọ sát và biến đổi bản sắc mới xuất
hiện và chói sáng. Từ Truyện Kiều, thơ Nôm hay tranh khắc gỗ dân
gian, tuồng chèo, nhạc Cung Đình Huế, Quan Họ hay Ca trù chứa
đựng bản sắc dân tộc vì từng là sự giao thoa, cọ sát, khai thác lẫn
nhau của các dòng văn nghệ, văn hóa khác nhau. Gần đây thì cái áo
dài, cái nón tới tranh sơn mài, lụa, sơn dầu từ thời Đông Dương tới
Đổi Mới, Thơ Mới, tiểu thuyết, kiến trúc "Đông Dương", cải lương
đều là những suối nguồn, và "kho chứa" của bản sắc dân tộc. Nó
trừu tượng song không chung chung mà nằm ở các tác phẩm cụ thể
của các tác giả cụ thể. Nếu có những nghiên cứu nhận dạng được

những nét chung nào đó của các tác phẩm, tác giả đó thì ta có thể
gọi tên "bản sắc dân tộc" ta.
Giữ gìn bản sắc không co vào cố thủ trong tính riêng biệt , khước từ
giao lưu văn hoá. Trên thế giới này không có một nền văn hoá nào
có tính thuần nhất bản địa. Sự thay đổi giữa các nền văn hoá là do
trao đổi. Khi trao đổi ngừng thì cả hai địa bàn đều chững lại trong
phát triển. Đây là phép biện chứng của nhân tố ngoại sinh trong sự
phát triển nội sinh. Tuy nhiên sự hội nhập các giá trị văn hóa khác với
sự tha hóa về văn hóa cũng như sự lai giống tốt khác với lai ghép
vào cơ thể những gien lạ hoắc, gây nên sự biến dị , thậm chí những
quái thai.
Chẳng nói gì xa. Nửa đầu thế kỷ XX, văn hoá và lối sống Pháp, theo
đó là Âu châu, xâm nhập vào ta nhanh và mạnh, tưởng như ngự trị,
trong khi văn hoá dân tộc có dấu hiệu suy yếu. Thế mà những năm
20 - 30 và đầu 40, dưới sự tác động của làn sóng ấy và cùng với vốn
liếng văn hoá giàu bản sắc có sẵn, đã nảy nở cả một nền văn học -
nghệ thuật Việt Nam mới hầu như chỉ tầng lớp tiểu tư sản mới hình
thành tạo ra, với văn xuôi và thi ca, âm nhạc, hội hoạ, sân khấu, phê
bình văn học… còn âm vang đến tận ngày nay. Cuộc hội họa đầu
của thời mới bị đứt quãng ấy đã làm cho văn hoá Việt, con người
Việt phong phú hơn, bổ túc những nét mới cho bản sắc. Ta chối bỏ
những cái gì đó, ta tiếp thu và sản sinh ra những cái gì đó mới hơn,
phù hợp hơn, có sức nâng cao ta lên.
Cuộc hội nhập thời nay mạnh mẽ hơn, toàn diện và toàn cục, sức chi
phối, sức tác động của nó không thể so sánh với trước được. Song
ta sở hữu cả một vốn liếng gien, vốn liếng bản sắc của ta vô cùng
sâu lắng, vô cùng dai bền, không việc gì phải e ngại! Thử xem, mình
bắt chước ăn cá sống với mù tạt theo kiểu Nhật, nhưng thêm vào
đấy là rau diếp cá, lá cải xanh, củ cải sống. Mình hát nhạc pop, nhạc
rock, song giai điệu và cách thể hiện thì chẳng giống ai. Thậm chí, ở

những sân bay quốc tế này nọ, cứ gặp dăm ba đồng bào mình túm
tụm, là nhận ra ngay. Ấy là trong cuộc sống thường nhật, chứ ở
những phạm trù lớn lao như cách nghĩ, cách sống, cách phấn đấu…
mình chẳng giống ai hết.
Một thành quả vững chắc nữa trong giữ gìn bản sắc là chúng ta
không sợ toàn cầu hóa tấn công mà còn tấn công ngược lại nó. Xin
nêu hai ví dụ: thức ăn và y phục.
Thức ăn là yếu tố mạnh nhất trong bản sắc, cho nên nó phát triển với
toàn cầu hóa. Su-si của Nhật ngày nay toàn cầu hóa thực đơn khắp
năm châu bốn biển. Mà đơn giản quá: chỉ chút cơm bọc rau câu. Thế
giới nhà giàu càng chán mỡ càng chuộng su-si. Nắm yếu điểm đó,
su-si tiến công trên thị trường chuộng thức ăn nhẹ: nó đùa với cái
bao tử, hư hư thực thực, ăn vào như có như không.
Phở của ta bây giờ cũng thế, cũng toàn cầu hóa trong nhu cầu
“fastfood”. Trái với su si, nó thực chất, làm một tô bự là giải quyết
xong bữa trưa, mà mùi vị lại đậm đà, kích thích. Chưa nói đến chả
giò (nem rán) chẳng những đi vào các nhà hàng sang trọng mà còn
đi vào tận căn-tin của các trường học, các xe đẩy trên đường phố.
Học trò thấy nem rán, chưa ăn đã thèm chảy nước miếng.
Nhưng dù là nem rán hay phở, dù phở do bếp Tàu nấu hay dù nem
rán đang lai giống với bánh tráng Thái Lan, cái đặc biệt, cái khác với
Tàu, với Thái của Việt Nam, cái làm cho món ăn Việt Nam được ưa
chuộng trên thế giới, cái làm cho con người Việt Nam muôn đời vẫn
tự định nghĩa mình là Việt Nam bất chấp không gian, bất chấp luật
quốc tịch, vẫn là cái đó, cái mùi thum thủm, cái vị mặn mặn, mà nếu
thiếu nó cuộc đời nhạt nhẽo như thiếu tố quốc: “cái chai nước mắm”,
nước mắm là đại nguyên soái bách chiến bách thắng. Thực dân, đế
quốc, bá quyền, Bắc thuộc, Tây thuộc chẳng coi nó ra gì. Nhưng
đối với Việt Nam đó là “bản sắc”.
“Áo dài” là y phục của dân tộc, là yếu tố then chốt thứ hai của bản

sắc. Aó dài tuy không phải là truyền thống lâu đời, chỉ là y phục cải
cách từ những năm 1930 thôi, cũng là thời trang chế biến để thích
nghi với thời đại mới. Nhưng nó thành công bao nhiêu, thân thương
bao nhiêu, yêu kiều ban nhiêu, thích hợp bao nhiêu! Nó đi vào lòng
dân tộc như thể nó đã được khai sinh từ thuở dân tộc còn nằm nôi.
Và nó hãnh diện phất phới trên thế giới, thế giới thán phục nó. Ngày
nay, thời trang tha hồ vẽ vời, thêm bớt, nhân lên nhiều kiểu mới,
nhưng nó vẫn là nó, vẫn là nhan sắc vô địch. Cái gì hợp với dân tộc
qua bao nhiêu thử thách, cái ấy là bản sắc, cái ấy không sợ ma nào
ám, kẻ cướp nào lấy! Như vậy thì chẳng sợ ai. Như chén nước mắm.
Như chiếc áo dài. Muôn đời của dân tộc.
2.4. Những vấn đề đặt ra trong việc xây dựng và giữ gìn bản sắc
dân tộc trong quá trình toàn cầu hoá và hội nhập văn hóa hiện
nay.
Để khắc phục những hạn chế, yếu kém, tiếp tục giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội và
con người trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập kinh tế quốc tế, trước mắt chúng ta cần thực hiện một số
nhiệm vụ cơ bản, cấp thiết sau:
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy
sức mạnh tổng hợp của đất nước, tạo sự chuyển biến cơ bản và
bước phát triển mạnh mẽ trong xây dựng, nền văn hoá Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đồng bộ với sự phát triển kinh tế - xã
hội.
Chúng ta nhất định phải đẩy mạnh hơn nữa phong trào ''Toàn dân
đoàn kết, xây dựng đời sống văn hoá'' gắn chặt với cuộc vận động
chính trị sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân học tập và
thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, lối sống, làm chuyển
biến mạnh mẽ công tác giáo dục, rèn luyện đạo đức, lối sống trong
cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là đối với cán bộ chủ chốt các

cấp và thanh niên.
Chúng ta phải gắn chặt nhiệm vụ xây dựng văn hoá với nhiệm vụ
trung tâm xây dựng kinh tế và nhiệm vụ then chốt xây dựng Đảng,
bảo đảm hoạt động văn hoá tiến hành đồng bộ với hoạt động kinh tế,
hình thành nền tảng tinh thần vững chắc cho xã hội. Cũng cần nói
thêm rằng, để thực hiện tốt các nhiệm vụ cụ thể về xây dựng và phát
triển văn hoá, trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng con
người với những đức tính cơ bản, tốt đẹp, chúng ta phải xây dựng và
phát triển hài hoà các nhiệm vụ khác, từ xây dựng môi trường văn
hoá, phát triển văn học - nghệ thuật, thông tin đại chúng, bảo tồn và
phát huy các di sản văn hoá đến việc bảo tồn và phát triển văn hoá
các dân tộc thiểu số, chính sách văn hoá đối với tôn giáo và hợp tác
quốc tế về văn hoá
Chúng ta tiếp tục tăng cường các nguồn lực và phương tiện cho hoạt
động văn hoá, trước hết và tăng mức đầu tư từ ngân sách cho phát
triển sự nghiệp văn hoá đi đôi với việc huy động sự đóng góp của
các tầng lớp nhân dân và sử dụng một cách có hiệu quả nhất các
nguồn lực đó; sớm xây dựng và thực hiện chiến lược tuyển chọn,
đào tạo, phát triển các tài năng văn hoá, nghệ thuật; tăng cường và
đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của
Nhà nước đối với văn hoá.
Để làm được điều đó, trước hết là cán bộ, đảng viên, cần nâng cao
nhận thức và trình độ lãnh đạo trên lĩnh vực văn hoá, song song với
các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội ; nêu cao tinh thần gương mẫu
về tư tưởng, đạo đức, lối sống; nâng cao chất lượng, hiệu quả công
tác tư tưởng theo phương châm ''nói đi đôi với làm”, đã nói là làm để
cho các quyết định lần này được quán triệt trong từng cán bộ, đảng
viên, nhất và cán bộ chủ chốt, và mọi tầng lớp nhân dân. Các cấp,
các ngành cần có ngay các chương trình, kế hoạch và biện pháp cụ
thể để đưa những nội dung đó thấm sâu vào từng địa phương, từng

ngành, từng đơn vị, từng cộng đồng, từng gia đình, từng con người,
tạo thành phong trào thi đua sôi nổi, xây dựng con người mới và môi
trường văn hoá mới phong phú, lành mạnh, phát huy những truyền
thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc ta. Nếu như mỗi ngày, mỗi người
chúng ta đều làm được một việc tốt hay vài ba việc tốt, và toàn xã hội
đều làm như vậy thì chắc chắn chúng ta sẽ đẩy lùi được các hiện
tượng tiêu cực, làm cho xã hội ta ngày càng tốt đẹp hơn, nền văn
hoá của chúng ta ngày càng được nâng cao hơn.
KẾT LUẬN.
Quy luật phủ định của phủ định giúp chúng ta nhận thức đúng đắn về
xu hướng phát triển của sự vật. quá trình phát triển của bất kỳ sự vật
nào cũng không bao giờ đi theo đường thẳng mà diễn ra quanh co,
phức tạp trong đó bao gồm nhiều chu kỳ khác nhau. Chu kỳ sau bao
giờ cũng tiến bộ hơn chu kỳ trước. Vì vậy, quá trình đổi mới của
nước ta cùng đều diễn ra theo chiều hướng đó. Nền kinh tế nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa đặt dưới sự quản lý
điều tiết của nhà nước tạo tiền đề phủ định nền kinh tế tập trung, bao
cấp đặt nền móng cho xã hội phát triển cao hơn nó trong tương lai đó
là xã hội xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, trong thời đại ngày nay, hội nhập đang trở thành một xu thế
khách quan. Dân tộc Việt Nam, hay bất cứ một dân tộc nào khác
không thể nằm ngoài quĩ đạo đó. Hội nhập là con đường tất yếu, là lẽ
sống còn của cả dân tộc. Vấn đề đặt ra là chúng ta hội nhập như thế
nào. Rõ ràng, chúng ta với tư thế chủ động, hội nhập trên cơ sở tự
khẳng định mình, nổ lực để vượt lên chính mình, nghĩa là, thông qua
quá trình hội nhập, chúng ta có thể nhận thức đầy đủ hơn, có ý thức
hơn trong việc bảo tồn, phát huy bản sắc của dân tộc mình. Đồng
thời trong quá trình đó, chúng ta sẽ thấy được những hạn chế của
những truyền thống có khả năng cản trở sự tiến bộ để tìm cách khắc
phục. Một khi đã nhận thức được như vậy, chắc chắn chúng ta sẽ kết

hợp hài hoà các giá trị truyền thống với các giá trị hiện đại, trên cơ
sở bảo tồn bản sắc dân tộc, giữ lấy những gì là tinh hoa, loại bỏ dần
các yếu tố lỗi thời, tăng cường giao lưu, học hỏi với bên ngoài thì sẽ
vượt qua được những thử thách, sẽ khơi dậy được vai trò động lực
của các giá trị truyền thống. Với tinh thần và bản lĩnh của người Việt
Nam, chúng ta sẽ “phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác
quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa”,
kết hợp sức mạnh dân tộc với những ưu thế của thời đại để phát
triển đất nước và từng bước khẳng định vị thế bản lĩnh của dân tộc
mình trước cộng đồng./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/ Công nghiệp hóa - hiện đại hóa và vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc - Nguyễn Văn Huyên.
2/ Bản sắc và toàn cầu hóa - GS. Cao Huy Thuần
3/ Đừng quá sợ đánh mất bản sắc dân tộc - Kim Hạnh
4/ Một văn hóa mới cho hội nhập hôm nay - Nguyên Ngọc
5/ Bản sắc văn hoá của dân tộc Việt Nam - GS. Minh Chi (Học viện
Phật giáo Việt Nam)
trong lĩnh vực hữu cơ mới có quy luật phủ định của phủ định và
quy luật này ở Hêgen khác hoàn toàn với ở C.Mác, Ph.Ăngghen.
Cả Hêgen và C.Mác, Ph.Ăngghen đều nói: Nhờ quy luật phủ định
của phủ định, sự vật quay trở lại với chính mình nhưng ở một trình
độ phát triển cao hơn. Tuy nhiên, trong cách diễn giải thì nội dung
hoàn toàn khác nhau. Quy luật phủ định của phủ định ở Hêgen
không phải là sự phủ định 3 bước như chúng ta thường nghĩ mà là
sự phủ định liên tục, không ngừng (Hêgen thường hay gọi là sự
phủ định tuyệt đối). Theo Hêgen, bản chất của cuộc sống là cái phổ
quát, sự thống nhất bao trùm, không ngừng vận động vượt qua các
giới hạn (cái đặc thù) của chính bản thân mình, cái phổ quát bao
gồm trong nó cái đặc thù và chỉ tồn tại thông qua sự phủ định liên

tục cái đặc thù. Trong quá trình phủ định này, không chỉ cái phổ
quát được củng cố và phát triển, còn cái đặc thù thì biến mất ngược
lại, cái đặc thù cũng càng ngày càng phát triển rực rỡ hơn, sự phát
triển của cái phổ quát là tiền đề cho sự phát triển của cái đặc thù và
ngược lại, sự phát triển của cái đặc thù là điều kiện để cái phổ quát
phát triển. Hêgen lấy ví dụ về sự phát triển này như sau: cái cây
với tất cả các quy định đặc thù của nó (rễ, thân, lá, cành trong tất
cả các giai đoạn phát triển ) đã được chứa đựng trong cái hạt (sau
này khoa học đã chứng minh quan điểm này là đúng, nó được chứa
đựng dưới dạng gen di truyền). Tuy nhiên, lúc ban đầu, ở dạng cái
hạt, cả cái đặc thù (rễ, thân, cành, lá ) và cái phổ quát (cái cây
nhìn tổng thể) đều mờ nhạt (dưới dạng cái lý tưởng). Trong quá
trình phát triển của cái cây, các giới hạn của cái cây không ngừng
bị phủ định (cái mầm bị phủ định thành cây con 1 lá, cây con 1 lá
bị phủ định trở thành cây con 2 lá ), nhưng cái cây không biến
mất, không chuyển hoá thành cái khác mà là vẫn bảo tồn được
mình trong sự phủ định liên tục này và cái cây ở giai đoạn sau phát
triển ở trình độ cao hơn cái cây ở giai đoạn trước. Cái cây ở giai
đoạn phát triển sung mãn nhất, chính là thời điểm cái đặc thù (sự
phân hoá, khác biệt, đối lập trong bản thân nó) bộc lộ rõ nhất.
Không thấy ở đâu Hêgen đưa ra các ví dụ về sự phủ định kiểu hạt
thóc - cây lúa - bông thóc.
Có thể lấy một ví dụ khác về quy luật phủ định của phủ định theo
cách hiểu của Hêgen, đó là quan điểm của ông về quá trình phát
triển của lịch sử thế giới. Theo Hêgen, xã hội loài người phát triển
trải qua 4 loại hình thái nhà nước có tính lịch sử toàn thế giới (khác
hẳn với quan niệm của Mác). Hình thái Nhà nước có tính lịch sử
toàn thế giới đầu tiên là nhà nước phong kiến phương Đông. Trong
nhà nước phong kiến phương Đông, cái đặc thù (nhân quyền, lợi
ích cá nhân, quyền tự do cá nhân) chưa được thừa nhận, hay nói

theo cách mà Hêgen thường dùng là bị "nhấn chìm" trong cái phổ
quát (Nhà nước, cộng đồng).
Tuy nhiên, theo quy luật phát triển của mình, cái đặc thù sẽ "nhú
lên”? trong cái phổ quát và hình thái Nhà nước có tính lịch sử toàn
thế giới tiếp theo sẽ là Nhà nước chủ nô Hy Lạp. Trong Nhà nước
chủ nô Hy Lạp, cái đặc thù đã “nhú lên", nhân quyền, lợi ích cá
nhân, quyền tự do cá nhân của một bộ phận xã hội (giới chủ nô) đã
được công nhận, nhưng nhân quyền, lợi ích cá nhân, quyền tự do
cá nhân của tất cả mọi người (bao gồm nô lệ) thì chưa được công
nhận.
Sự trỗi dậy của ý thức về cái cá nhân đặc thù sau thời hoàng kim
của Nhà nước dân chủ chủ nô Hy Lạp làm nảy sinh thái độ phản
kháng, sự trỗi dậy của kiểu tư duy siêu hình, đồng nhất chết cứng
(tuyệt đối hoá cái chung, cái cộng đồng, tập thể), thù địch với cái
đặc thù (sự khác biệt, đối lập - một quy định cất yếu khác của cuộc
sống). Do thù địch với cái cá nhân đặc thù, xã hội mất đi sức sống
và hệ quả tất yếu của nó là sự nghèo đói, kiệt quệ, chuyên quyển,
độc đoán, chiến tranh liên miên. Nhà nước có tính lịch sử toàn thế
giới tương ứng với thời kỳ này, theo Hêgen, đó là Nhà nước La
Mã. Nhà nước pháp quyền tư sản, theo Hêgen, là kiểu hình thái
Nhà nước có tính lịch sử toàn thế giới thay thế hình thái Nhà nước
kiểu La Mã. Nhà nước này được hình thành dựa trên 2 nền tảng là
gia đình và xã hội công dân. Những giai đoạn quan trọng trong quá
trình hình thành Nhà nước pháp quyền là:
Hình thành xã hội công dân: Trong thời kỳ này, cái cá nhân đặc thù
của tất cả mọi người (sở hữu tư nhân? cá thể, lợi ích cá nhân )
được thừa nhận, xã hội giàu có rất nhanh, nhưng mối quan hệ giữa
người với người thì lại cực kỳ căng thẳng, như chó sói với chó sói"
(do chủ nghĩa cá nhân phát triển), đạo đức của xã hội dường như bị
phá vỡ. Tuy nhiên, xã hội công dân sẽ dần dần đi vào trật tự, đi vào

quỹ đạo phát triển hợp lý nhờ sự hình thành và củng cố các thiết
chế của nó là cảnh sát, toà án, các hiệp hội và sự hình thành của
thiết chế nhà nước chính trị. Một số triết gia coi giai đoạn này
tương ứng với giai đoạn phát triển ban đầu, "sơ khai", "hoang dã"
của Nhà nước tư sản.
Hình thành nhà .nước chính tri: Nhà nước chính trị chỉ có thể được
hình thành trên cơ sở trong xã hội đã có thiết chế xã hội công dân.
Đây là thiết chế quyền lực đối nội (thiết chế quyền lực nhằm đối
phó với bên ngoài là chính quyền quân sự). Sự phi chính trị của lực
lượng cảnh sát và quận đội trong các nước tư bản phát triển hiện
nay, có phần bắt nguồn từ các quan điểm triết học về xã hội công
dân và Nhà nước chính trị của Hêgen. Nhà nước chính trị ra đời
nhằm khắc phục các hạn chế của thiết chế gia đình và xã hội công
dân.
Theo Hêgen, nhà nước chính trị thể hiện sự thống nhất quyền lực
sống động trên cơ sở phân hoá, khác biệt hợp lý của 3 loại quyền
lực: 1) quyền của cái phổ quát (đại diện cho ý chí của tất cả các
tầng lớp xã hội), nói cách khác, đó là quyền lập pháp. Thiết chế
tương ứng với nó là nghị viện (Thượng nghị viện và Hạ nghị viện).
2) Quyền của cái đặc thù (giải quyết các vấn đề đặc thù, liên quan
đến từng tầng lớp, trường hợp cụ thể trên cơ sở các luật lệ phổ quát
do nghị viện ban hành). Đó là cơ quan hành pháp. Thiết chế tương
ứng là chính phủ. 3) Quyền của cái đơn nhất, nói cách khác, đó là
quyền của nguyên thủ quốc gia, người ký các quyết định của nhà
nước và có một số quyền phủ quyết đối với nghị viện (nhiều
chuyên gia ngày nay coi tư pháp là cơ quan quyền lực thứ 8, nhưng
theo Hêgen và nhiều triết gia khác thì tư pháp chỉ là thiết chế của
xã hội công dân). Trong Nhà nước pháp quyền, quyền lực của cái
đơn nhất (nguyên thủ quốc gia) không phải là thứ quyền lực tuỳ
tiện như trong các kiểu Nhà nước khác, mọi văn bản để nguyên thủ

quốc gia ký đều do các cơ quan chức năng chuẩn bị kỹ lưỡng, cho
nên, về thực chất, chữ ký của nguyên thủ quốc gia chỉ có ý nghĩa,
theo cách nói của Hêgen, là "đánh dấu chấm trên đầu chữ i".

×