Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Xu hướng sử dụng thẻ thanh toán tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.14 KB, 32 trang )

MỤC LỤC
3. Biện pháp phát triển thanh toán không dùng tiền mặt trong khu vực doanh nghiệp (Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với Bộ Thương mại thực hiện ) 30
1
LỜI MỞ ĐẦU
Sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển đã kéo theo các phương thức
thanh toán phát triển,phương thức này là sự kế thừa và phát triển của phương
thức trước đó.Khắc phục những nhược điểm của phương thức thanh toán bằng
tiền mặt,thanh toán thẻ là phương thức thanh toán mới ưu việt hơn, đáp ứng
một cách tốt hơn cho yêu cầu của sự phát triển kinh tế.
Hiện nay ở rất nhiều nước trên thế giới việc thanh toán qua thẻ đã trở
nên quen thuộc với mỗi người dân, trong khi đó ở Việt Nam khối lượng thanh
toán qua thẻ còn chiếm tỷ lệ rất hạn chế, thanh toán qua thẻ chưa được gnười
dân chấp nhận rộng rãi. Có thể nói rằng chúng ta chưa phát huy được tính ưu
việt của thanh toán thẻ và như vật là chúng ta chưa tận dụng được hết các điều
kiện tốt nhất cho sự phát triển của nền kinh tế.
Hiện nay khi mà thanh toán đang là phổ biến hì việc tìm ra giải pháp cho
sự phát triển của thanh toán thẻ là rất cần thiết tuy rằng đó là điều không đơn
giản.Nó đòi hỏi phải có sự quan tâm,nghiên cứu một cách đầy đủ, phải có cái
nhìn sâu, rộng hơn.Với mong muốn hình thức thanh toán bằng thẻ ngày càng
được chấp nhận rộng rãi , nhóm em đã lựa chọn đề tài :"Xu hướng sử dụng
thẻ thanh toán tại Việt Nam".
Nội dung chính của bài làm nhóm em gồm có 7 phần:
I.Tổng quan về thẻ thanh toán
II. Tại sao thanh toán qua thẻ lại trở thành xu thế ?
III. Hội nghị Foresight: Tìm ra mong muốn của các bên có liên quan tới
việc sử dụng thẻ thanh toán và một số vấn đề còn gặp phải.
IV.Chiến lược ưu tiên phát triển hệ thống chuyển mạch thẻ quốc gia dựa
trên 3 liên minh thẻ hiện có Banknetvn, Smartlink và VNBC.
V. Đánh giá sự phù hợp và khả thi của chiến lược
VI. Các hành động thực hiện chiến lược


VII.Kết luận
2
Do khả năng phân tích đánh giá thực tế và kinh nghiệm còn nhiều hạn
chế, đè tài rộng, thời gian nghiên cứư không nhiều cho nên những vấn đề đưa
ra, các nhận xét đánh giá và kiến nghị chắc chắn không tránh khỏi sai sót ,
lệch lạc. Chúng em rất mong nhận được sự chỉ bảo của cô giáo để bài làm
được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn cô!
3
I. Tổng quan về thẻ thanh toán
1. Khái niệm
Đối với thẻ thanh toán có nhiều khái niệm để diễn đạt nó, mỗi một cách
diễn đạt nhằm làm nổi bật một nội dung nào đó. Sau đây là một số khái niệm
về thẻ thanh toán:
- Thẻ thanh toán (thẻ chi trả) là một phương tiện thanh toán tiền mua
hàng hoá, dịch vụ hoặc có thể được dùng để rút tiền mặt tại các Ngân hàng
đại lý hoặc các máy rút tiền tự động.
- Thẻ thanh toán là một loại thẻ giao dịch tài chính được phát hành bởi
Ngân hàng, các Tổ chức tài chính hay các công ty.
- Thẻ thanh toán là một phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt mà
người chủ thẻ có thể sử dụng để rút tiền mặt hoặc thanh toán tiền mua hàng
hoá, dịch vụ tại các điểm chấp nhận thanh toán bằng thẻ.
- Thông qua máy đọc thẻ phối hợp với hệ thống mạng máy tính kết nối
giữa Ngân hàng/ Tổ chức Thẻ thanh toán là phương thức ghi sổ những số tiền
cần thanh toán tài chính với các điểm thanh toán (Merchant). Nó cho phép
thực hiện thanh toán nhanh chóng, thuận lợi và an toàn đối với các thành phần
tham gia thanh toán.
Tóm lại: các cách diễn đạt trên đều phản ánh lên đây là một phương thức
thanh toán mà người sở hữu thẻ có thể dùng để thanh toán tiền mua hàng hoá
dịch vụ hay rút tiền mặt tự động thông qua máy đọc thẻ hay các máy rút tiền

tự động.
2. Phân loại thẻ và cách thức thanh toán
Có nhiều cách để phân loại thẻ thanh toán: phân loại theo công nghệ sản
xuất, theo chủ thể phát hành, theo tính chất thanh toán của thẻ, theo phạm vi
lãnh thổ
2.1. Phân loại theo công nghệ sản xuất:
4
- Thẻ khắc chữ nổi (EmbossingCard): dựa trên công nghệ khắc chữ nổi,
tấm thẻ đầu tiên được sản xuất theo công nghệ này. Hiện nay người ta không
còn sử dụng loại thẻ này nữa vì kỹ thuật quá thô sơ dễ bị giả mạo.
- Thẻ băng từ (Magnetic stripe): dựa trên kỹ thuật thư tín với hai băng từ
chứa thông tin đằng sau mặt thẻ. Thẻ này đã được sử dụng phổ biến trong 20
năm qua , nhưng đã bộc lộ một số nhược điểm: do thông tin ghi trên thẻ
không tự mã hoá được, thẻ chỉ mang thông tin cố định, không gian chứa dữ
liệu ít, không áp dụng được kỹ thuật mã hoá, bảo mật thông tin
- Thẻ thông minh (Smart Card): đây là thế hệ mới nhất của thẻ thanh
toán, thẻ có cấu trúc hoàn toàn như một máy vi tính.
2.2. Phân loại theo tính chất thanh toán của thẻ
- Thẻ tín dụng (Credit Card): là loại thẻ được sử dụng phổ biến nhất,
theo đó người chủ thẻ được phép sử dụng một hạn mức tín dụng để mua sắm
hàng hoá, dịch vụ tại những cơ sở kinh doanh, khách sạn, sân bay chấp
nhận loại thẻ này.
Gọi đây là thẻ tín dụng vì chủ thẻ được ứng trước một hạn mức tiêu dùng
mà không phải trả tiền ngay, chỉ thanh toán sau một kỳ hạn nhất định. Cũng
từ đặc điểm trên mà người ta còn gọi thẻ tín dụng là thẻ ghi nợ hoãn hiệu
(delayed debit card) hay chậm trả.
Hằng tháng, đến ngày kết sổ, NH sẽ tổng kết số tiền chi tiêu bằng CC
của bạn và gửi đến bạn 1 “giấy báo nợ” gọi là bảng Sao Kê, trong đó thông
thường cho thêm bạn 15 ngày để thanh toán số tiền đó. Do đó, như trên đã nói
nó là tín dụng vì thực chất NH đã cho bạn vay để trả trước tiền mua hàng và

thu lại sau của bạn (thời gian trả sau từ 15 ngày đến 45 ngày tuỳ theo ngày
bạn mua hàng).
Bạn sẽ không phải trả bất kỳ khoản lãi hay phí gì trên số tiền đó với
những điều kiện: số tiền đó là tiền mua hàng hoá dịch vụ (không dùng CC để
rút tiền mặt), bạn thanh toán 100% số tiền trên sao kê vào đúng thời hạn. Bạn
5
cũng có thể thanh toán theo số tối thiểu cho ngân hàng, ở Việt Nam khoảng
20% tổng số tiền trên sao kê khi đến hạn thanh toán. Nhưng số tiền chưa
thanh toán sẽ bị tính lãi vay thay vì hoàn toàn miễn phí.
Một vấn đề nữa là nếu dùng CC rút TM thì bạn sẽ bị NH trực tiếp tính
phí trên số tiền đó với tỷ lệ từ 3% - 5% tuỳ theo thương hiệu thẻ và nơi bạn
rút tiền. Ngoài ra, số tiền này còn bị tính lãi vay theo lãi suất NH công bố kể
từ ngày rút tiền đến ngày bạn thanh toán hết nợ; và có khi còn có phí chuyển
đổi tiền tệ (ví dụ từ tiền Bath Thái Lan sang VNĐ chẳng hạn, vì NH chỉ báo
nợ bạn bằng VNĐ thôi)
Khi bạn ở nước ngoài và muốn phát hành thẻ CC thì không cần ký quỹ,
thế chấp (tín chấp) nhưng ở VN thì khác. Với nhiều lí do, để đảm bảo an toàn,
các NH ở VN sẽ yêu cầu bạn ký quỹ hay thế chấp thì mới phát hành CC cho
bạn (trừ một số trường hợp bạn là chủ DN, CB lãnh đạo cấp cao thì mới
được tín chấp).
- Thẻ ghi nợ (Debit card): đây là loại thẻ có quan hệ trực tiếp và gắn liền
với tài khoản tiền gửi. Loại thẻ này khi được sử dụng để mua hàng hoá hay
dịch vụ, giá trị những giao dịch sẽ được khấu trừ ngay lập tức vào tài khoản
của chủ thẻ thông qua những thiết bị điện tử đặt tại cửa hàng, khách sạn
đồng thời chuyển ngân ngay lập tức vào tài khoản của cửa hàng, khách sạn
Thẻ ghi nợ còn hay được sử dụng để rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động.
Thẻ ghi nợ không có hạn mức tín dụng vì nó phụ thuôc vào số dư hiện
hữu trên tài khoản của chủ thẻ.
Có ba loại thẻ ghi nợ cơ bản:
+ Thẻ online: là loại thẻ mà giá trị những giao dịch được khấu trừ ngay

lập tức vào tài khoản chủ thẻ.
+ Thẻ offline: là loại thẻ mà giá trị những giao dịch đợc khấu trừ vào tài
khoản chủ thẻ sau đó vài ngày.
+ Thẻ rút tiền mặt (Cash card): là loại thẻ rút tiền mặt tại các máy rút
6
tiền tự động hoặc ở ngân hàng. Với chức năng chuyên biệt chỉ dùng để rút
tiền, yêu cầu đặt ra đối với loại thẻ này là chủ thẻ phải ký quỹ tiền gởi vào tài
khoản ngân hàng hoặc chủ thẻ được cấp tín dụng thấu chi mới sử dụng được.
Thẻ này hay còn gọi là thẻ ATM. Do để mở rộng tính năng thẻ đáp ứng nhu
cầu ngày càng đa dạng của khách hàng, nâng cao tính cạnh trang cho ngân
hàng, thẻ ATM cũng được coi là một công cụ thanh toán hữu hiệu.
Thẻ rút tiền mặt có hai loại:
Loại 1: chỉ rút tiền tại những máy tự động của Ngân hàng phát hành.
Loại 2: được sử dụng để rút tiền không chỉ ở Ngân hàng phát hành mà
còn được sử dụng để rút tiền ở các Ngân hàng cùng tham gia tổ chức thanh
toán với Ngân hàng phát hành thẻ.
2.3. Phân loại theo phạm vi lãnh thổ
- Thẻ trong nước: là thẻ được giới hạn trong phạm vi một quốc gia, do
vậy đồng tiền giao dịch phải là đồng bản tệ của nước đó.
- Thẻ quốc tế: đây là loại thẻ được chấp nhận trên toàn thế giới, sử dụng
các ngoại tệ mạnh để thanh toán.
2.4. Phân loại theo chủ thể phát hành
- Thẻ do Ngân hàng phát hành (Bank Card): là loại thẻ do ngân hàng
phát hành giúp cho khách hàng sử dụng một số tiền do Ngân hàng cấp tín
dụng.
- Thẻ do tổ chức phi ngân hàng phát hành: là loại thẻ du lịch và giải trí
của các tập đoàn kinh doanh lớn hoặc các công ty xăng dầu lớn, các cửa hiệu
lớn phát hành như Diner's Club, Amex
3. Một số lợi ích khi sử dụng thẻ
3.1. Đối với ngân hàng phát hành thẻ

- Với khoản lệ phí hàng năm mà chủ thẻ phải nộp để hưởng dịch vụ
thanh toán mà ngân hàng cung cấp, chủ thẻ đã tạo nên một nguồn thu đều đặn
cho ngân hàng phát hành.
7
- Ngoài ra, việc chủ thẻ nạp tiền vào tài khoản để sử dụng thẻ, ngân hàng
cũng có thêm một nguồn huy động từ tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng.
Để sở hữu thẻ, thông thường chủ thẻ phải có thế chấp hoặc có số dư tài khoản
ở mức nhất định theo quy định của ngân hàng. Điều này đã làm số dư tiền gửi
của ngân hàng tăng một cách đáng kể.
- Việc đặt các máy ATM hay liên hệ với các đơn vị chấp nhận thẻ mới
cũng góp phần mở rộng địa bàn hoạt động của ngân hàng, điều này rất có ích
ở những nơi mà việc mở chi nhánh là tốn kém.
3.2. Đối với chủ thẻ
- Khi sử dụng thẻ, chủ thẻ đã được ngân hàng cung cấp một dịch vụ
thanh toán có độ bảo mật cao, độ tiên dụng lớn. Ngày nay, với trình độ kỹ
thuật cao, việc làm thẻ giả trở nên khó khăn hơn, điều này đồng nghĩa với
việc các chủ thẻ có thể yên tâm hơn về tiền của mình. Thêm nữa, khi những
cơ sở thanh toán thẻ ngày càng nhiều, các máy ATM ngày càng trở nên phổ
biến, thẻ sẽ trở thành công cụ thanh toán lý tưởng cho các chủ thẻ.
- Với việc ngân hàng có thẻ cấp tín dụng trước cho khách hàng để thanh
toán hàng hoá dịch vụ mà không bị tính bất kỳ một khoản lãi nào, khách hàng
đã được ngân hàng giúp mở rộng khả năng thanh toán của mình. Ngoài ra, khi
khách hàng có số dư tài khoản, nếu khách hàng không sử dụng, số dư này sẽ
được hưởng mức lãi suất tiền gửi không kỳ hạn.
- Ngoài ra, khi sử dụng thẻ, khách hàng không phải mang theo một
lượng tiền mặt lớn mà rủi ro bị mất cũng như việc bảo quản cũng rất phức tạp.
Chưa kể đến việc rất bất tiện khi sử dụng tiền mặt chi tiêu ở các nước khác
nhau. Việc dùng thẻ thanh toán đảm bảo khả năng chi tiêu đa ngoại tệ, không
bị lệ thuộc vào ngoại tệ của nước nào.
3.3. Đối với ngân hàng thanh toán

- Trong quy trình thanh toán thẻ, các cơ sở phát hành thường mở tài
khoản tại các ngân hàng thanh toán cho tiện việc thanh toán. Điều này đã làm
8
tăng lượng số dư tiền gưỉ và nguồn huy động cho ngân hàng thanh toán.
- Với các loại phí như: chiết khấu thương mại, phí rút tiền mặt, phí đại lý
thanh toán, ngân hàng thanh toán sẽ có một khoản thu tương đối ổn định.
3.4. Đối với các cơ sở chấp nhận thanh toán
- Với việc cấp tín dụng trước cho khách hàng, ngân hàng đã giúp khách
hàng chi tiêu vượt quá khả năng của mình, đây là một sức đẩy đối với sức
mua của khách hàng và chính điều này sẽ làm cho lượng tiêu thụ hàng hoá
dịch vụ các cơ sở chấp nhận thanh toán thẻ tăng cao.
- Khi chấp nhận thẻ thanh toán, người bán hàng có khả năng giảm thiểu
các chi phí quản lý về quản lý tiền mặt như bảo quản, kiểm đếm, nộp vào tài
khoản của ngân hàng…
- Ngoài ra, đối với một số cơ sở, việc chấp nhận thanh toán bằng thẻ của
ngân hàng cũng là một điều kiện để được hưởng các ưu đãi của ngân hàng về
tín dụng, dịch vụ thanh toán.
3.5. Đối với công tác quản lý vĩ mô của nhà nước
Trong thanh toán thẻ, các giao dịch đều nằm dưới sự quản lý của ngân
hàng. Nhờ đó ngân hàng có thể dễ dàng kiểm soát được mọi giao dịch, tạo
nền tảng cho công tác quản lý thuế của nhà nước, thực hiện chính sách ngoại
hối quốc gia. Thẻ cũng là biện pháp hữu hiệu, góp phần thực hiện biện pháp
kích cầu của nhà nước.
II. Tại sao thanh toán qua thẻ lại trở thành xu thế ?
1. Sự hạn chế của thanh toán bằng tiền mặt
Trong xã hội loài người, nếu còn sản xuất hàng hóa và lưu thông hàng
hóa thì sự tồn tại mối quan hệ Tiền – Hàng là một yếu tố khách quan, đó là
mối quan hệ biện chứng, tác động lẫn nhau.
Theo tiến trình lịch sử hình thành tiền tệ, đồng tiền đã có những bước
phát triển từ thấp đến cao. Trong nền kinh tế tự nhiên khép kín, do nhu cầu

còn rất đơn giản, con người tự sản xuất được những gì mình cần. Nên không
9
cần trao đổi. Khi xã hội phát triển rộng hơn, họ thấy rằng mình không thể sản
xuất rộng hơn những thứ mà mình cần vì nhiều lý do, lúc này nhu cầu trao đổi
xuất hiện, và vấn đề là trao đổi như thế nào. Muốn trao đổi hàng hóa người ta
nghĩ tới một hàng hóa mà nhiều người cần, đó là vật ngang giá chung – hình
thức đầu tiên của tiền tệ. Lúc đầu rất đơn giản, có thể là vỏ sò, vỏ hến, con gà,
thúng thóc Do yêu cầu trong trao đổi, người ta muốn vật ngang giá chung
đó phải dễ dàng vận chuyển, dễ chia nhỏ, không hao mòn và có thể dự trữ cho
tương lai. Con người đã chọn vàng.
Sản xuất hàng hóa ngày càng phát triển, hàng hóa sản xuất ngày càng
nhiều, đòi hỏi phải có thêm lượng tiền đưa vào đáp ứng nhu cầu của hàng hóa
lưu thông. Hơn nữa người ta nhận thấy rằng, mua bán chịu tờ giấy ghi nợ
cũng có giá trị như tiền. Tiền giấy ra đời giúp cho việc trao đổi diễn ra thuận
tiện và dễ dàng hơn nhiều.
Nhưng sản xuất không ngừng phát triển, khối lượng tiền đưa vào lưu
thông ngày một lớn, đặc biệt là khi có lạm phát. Tiền giấy bộc lộ những hạn
chế nhất định: Chi phí in ấn, bảo quản, tiền giả, Hơn nữa, các loại giao dịch
trong nền kinh tế ngày càng lớn dùng tiền giấy trong giao dịch thì quả là bất
tiện. Từ đó đòi hỏi phải có phương thức thanh toán khắc phục các hạn chế kể
trên. Phương thức thanh toán mới ra đời, thanh toán không dùng tiền mặt và
trong đó thanh toán bằng thẻ là một trong những xu hướng đang được sử dụng
rộng rãi và có triển vọng phát triển trong những năm tiếp theo.
Theo các chuyên gia kinh tế, dùng tiền mặt thanh toán dẫn đến nhiều
thiệt hại cho cả cơ quan quản lý và người tiêu dùng, như: tốn kém chi phí cho
việc thanh toán bằng tiền mặt từ khâu in ấn, vận chuyển, tính đếm, bảo quản,
thất thoát; không an toàn, dễ bị cướp, mất trộm; việc dùng tiền mặt sẽ tạo
nhiều cơ hội cho kinh tế ngầm, cho buôn gian bán lận, trốn thuế, cho tham
nhũng tiêu cực vì rất khó kiểm soát; khó quản lý, kiểm soát chính xác thu
nhập đối với những người có thu nhập cao để tính thuế thu nhập cá nhân.

10
2. Yêu cầu tất yếu của sự phát triển và sự hội nhập kinh tế
Bất kỳ một hoạt động nào cũng có một xu hướng phát triển của nó, các
nền kinh tế luôn có xu hướng tiến tới một nền kinh tế hiện đại, phát triển hơn
và kéo theo đó là hoạt động thanh toán cũng hướng tới một hệ thống thanh
toán phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế.
Thực tế đã chứng minh rằng, các nước phát triển trên thế giới để có thể
đạt được mức tăng trưởng và phát triển như vậy thì cần phải có một hệ thống
tài chính tốt, một hệ thống thanh toán hoàn hảo đủ để đáp ứng các yêu cầu của
sản xuất hàng hoá, của các chu kỳ kinh doanh trong nền kinh tế. Như vậy
thanh toán là một hoạt động quan trọng và then chốt trong một nền kinh tế, hệ
thống thanh toán phát triển sẽ đảm bảo cho nền kinh tế phát triển tốt hơn.
Ngày nay khi hội nhập kinh tế quốc tế đang trở thành tất yếu khách quan
thì hoạt động kinh tế đối ngoại của mỗi quốc gia nói chung và của các doanh
nghiệp trong từng quốc gia nói riêng là vấn đề mấu chốt để đưa nền kinh tế
quốc gia đó hội nhập với nền kinh tế thế giới. Để tiến hành hoạt động kinh
doanh quốc tế một cách trôi chảy thì hoạt dộng thanh toán đóng vai trò vô
cùng quan trọng. Điều đó đặt ra yêu cầu tất yếu đối với hệ thống ngân hàng
phải tiến hành cung cấp cho khách hàng của mình dịch vụ thanh toán một
cách nhanh chóng, linh hoạt để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách
hàng. Thanh toán qua thẻ là một trong những bước tiến lớn trong việc phát
triển hệ thống thanh toán.
3. Sự minh bạch hoá nền kinh tế
Nền kinh tế khó có thể hoạt động tốt nếu thiếu đi tính minh bạch. Tất cả
đang phải thừa nhận rằng chúng ta đang phải chứng kiến những hậu quả do sự
thiếu minh bạch tạo ra . Số lượng thông tin tài khóa, tài chính và kinh tế mà
Chính Phủ Việt Nam hiện đang thu thập và cung cấp cho công chúng không
đầy đủ cho sự vận hành trơn tru của một quốc gia ở mức thu nhập trung bình.
Ngay cả số liệu thống kê cơ bản như cơ cấu chi tiêu ngân sách theo ngành, chi
11

tiêu ngoài ngân sách, dự trữ ngoại hối, và các bảng cân đối của doanh nghiệp
nhà nước hoặc không được thu thập, không được công bố, hoặc chỉ được
công bố với độ trễ về thời gian đáng kể. Tuy nhiên, người tham gia thị trường
như các nhà đầu tư vốn cổ phần, nhà xuất nhập khẩu, người kinh doanh ngoại
hối, chủ sở hữu trái phiếu, các ngân hàng, doanh nghiệp, và thậm chí cả nông
dân đều cần thông tin cập nhật gần như hàng ngày để hoạt động trong nền
kinh tế thị trường. Và nếu thông tin như vậy không có sẵn, người tham gia thị
trường sẽ phải dùng đến phương án đầu cơ, tin đồn, và thậm chí là các
phương thức không trung thực để có được thông tin. Điều này giải thích do tại
sao người ta đã lập luận rằng một trong những nguồn gốc của sự bất ổn kinh
tế hiện nay tại Việt Nam có thể có nguồn gốc từ việc thiếu dữ liệu kinh tế kịp
thời và đáng tin cậy và sự yếu kém trong công tác truyền thông về các thay
đổi chính sách tới thị trường.
Minh bạch tài chính đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình
chuyển đổi kinh tế của Việt Nam. Chính vì lẽ đó, thanh toán qua thẻ trở thành
công cụ đắc lực trong công tác quản lý nền kinh tế của nhà nước, tiến tới một
nền kinh tế minh bạch.
III Hội nghị Foresight: Tìm ra mong muốn của các bên có liên quan
tới việc sử dụng thẻ thanh toán và một số vấn đề còn gặp phải.
1. Công tác tiến hành hội nghị
Bước 1: Xây dựng kế hoạch tổ chức
Kế hoạch tổ chức cần thể hiện được các nội dung cơ bản sau:
- Mục đích: Tìm ra được mong muốn của các bên liên quan như khách
hàng muốn gì, nhà cung cấp dịch vụ muốn gì Và đưa ra những vấn đề còn
gặp phải ở hiện tại.
- Thời gian: 7h ngày 25.06.2012 tại Nhà văn hóa đại học KTQD.
- Đơn vị tổ chức: Viện Ngân hàng – Tài chính trường Đại học Kinh tế
Quốc dân.
12
- Thành phần tham gia:

+ 100 đại diện người sử dụng thẻ là các tổ chức, doanh nghiệp
+ 200 đại diện ngưới sử dụng thẻ với tư cách là các cá nhân
+ 50 đại diện từ phía các Ngân hàng
- Phạm vi nghiên cứu: địa bàn quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội
Bước 2: Công tác chuẩn bị.
a. Triển khai kế hoạch đến các cơ sở các đơn vị tổ chức và đại biểu tham
gia hội nghị
Có hai hình thức triển khai chính:
- Trực tiếp: Triệu tập thành phần liên quan họp triển khai kế hoạch
- Gián tiếp: Triển khai bằng văn bản tới các đại biểu tham gia hội nghị
b.Chuẩn bị về nhân sự.
- Thành lập Ban Tổ chức Hội nghị, gồm có Trưởng ban Tổ chức, Phó
Trưởng ban và các thành viên (cần lưu ý tính đại diện) nhằm điều hành thực
hiện kế hoạch tổ chức hội nghị.
- Chuẩn bị kế hoạch nhân sự bố trí thực hiện các công việc chuẩn bị cho
hội nghị: từ công việc gửi giấy mời, lên nội dung, tổ chức hội trường và công
tác chuẩn bị khác để hội nghị được diễn ra tốt đẹp.
c. Chuẩn bị về nội dung
Chuẩn bị bảng hỏi bao gồm 20 câu với nội dung trọng tâm để tìm ra
mong muốn của các bên liên quan phù hợp với độ tuổi và công việc của họ,
bên cạnh đó là những câu hỏi tham vấn ý kiến trực tiếp các đại biểu tham dự
hội nghị. Và những câu hỏi lấy ý kiến trực tiếp từ các đại biểu.
Trong mục này cũng cần chú ý đưa ra những câu hỏi để tìm ra được các
vấn đề còn gặp phải ở thời điểm hiện tại.
Đây là khâu quan trọng, Tiểu ban Nội dung hoặc các thành viên được
phân công phụ trách mảng nội dung phải chuẩn bị tốt và có cách dẫn dắt để
các đại biểu đưa ra y kiến của mình. Nội dung bàn thảo phải được gửi tới cho
13
tất cả các đại biểu tham dự hội nghị để các đại biểu nắm rõ và có thời gian
nghiên cứu.

d. Chuẩn bị về điều kiện, cơ sở vật chất
Tiểu ban Hậu cần hoặc các thành viên được phân công phụ trách phải
tham mưu chuẩn bị các điều kiện đảm bảo cho Hội nghị được diễn ra tốt đẹp,
đầy đủ và suôn sẻ, lập dự trù kinh phí chi tiết cho toàn bộ Hội nghị (kinh phí
có thể từ nguồn ngân sách hoặc vận động tài trợ), lên phương án chuẩn bị đảm
bảo về địa điểm, chỗ ăn nghỉ cho Ban Tổ chức, trang trí, âm thanh, ánh sáng,
hoa, nước uống
Bước 3: Tổ chức Hội nghị.
- Chương trình khai mạc:
- Mở đầu hội thảo:
• Tuyên bố lý do tổ chức hội nghị, giới thiệu đại biểu.
• Trình bày nội dung thảo luận của hội nghị. Nhằm xác định vấn đề hội
thảo. Hình thành các văn bản giải thích chỉ dẫn cho các đại biểu trong đó trình
bày đối tượng, nhiệm vụ, mục đích của hội thảo. Chuẩn bị điều kiện đầy đủ
các điều kiện cho một cuộc hội thảo để đạt kết quả mong muốn.
- Tiến hành hội thảo
• Chủ tuyên bố lý do tổ chức hội nghị.
• Lấy ý kiến thảo luận của các đại biểu. Để nhận biết được mong muốn
của các bên liên quan và những vấn đề còn gặp phải.
• Nghỉ giải lao 30 phút để các đại biểu có thời gian thảo luận nói
chuyện ngoài lề với nhau về vấn đề như vậy rất hữu ích trong thu thập ý kiến.
• Kết quả của hội thảo phụ thuộc rất lớn vào người chủ tọa hội nghị.
Chủ tọa phải là người khách quan đảm bảo cho mọi người được tham gia ý
kiến tích cực, nhưng đồng thời không cho phép dài dòng, kể lể, lạc đề.
14
Bước 4:Kết thúc hội nghị và tổng kết ý kiến
2. Kết quả thu được từ hội nghị
2.1 Các bên liên quan mong muốn điều gì?
- Khách hàng: Khách hàng là đối tượng cốt lõi trong việc sử dụng thẻ
thanh toán.

+ Với khách hàng là cá nhân: Hiện tại thì đối tượng này vẫn có thói quen
tiêu dùng tiền mặt là chủ yếu. Họ sử dụng thẻ chỉ với chức năng rất nhỏ là rút
tiền mặt tại các cây rút tiền tự động, còn việc sử dụng thẻ để thanh toán tại các
điểm bán hàng offline và thanh toán tại các website bán hàng qua mạng chưa
được chú trọng. Bên cạnh đó là vấn đề sử dụng thẻ thanh toán của Ngân hàng
này còn không rút được tiền ở cây rút tiền tự động của các Ngân hàng khác.
(Nếu các Ngân hàng không có liên minh). Điều này gây rắc rối cho rất nhiều
khách hàng và họ mong muốn những nhà cung ứng dịch vụ sẽ có cách giải
quyết thuận tiện hơn cho khách hàng trong tình huống như thế này.
+ Với khách hàng là các tổ chức, doanh nghiệp: Phần lớn các doanh
nghiệp gặp rắc rối trong việc thực hiện các tài khoản kinh doanh. Các nhà
cung cấp tài khoản kinh doanh cho rằng họ phải chịu đựng tổn thất nếu hiệu
quả kinh doanh không đảm bảo, và vì thế không đảm bảo duy trì tài khoản.
Tâm lý e ngại công khai thu nhập. Các Ngân hàng luôn rất kĩ tính trong việc
lựa chọn nên cung cấp tài khoản kinh doanh cho ai? Điều này gây không ít
khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc hình thành tài khoản kinh doanh.
Họ mong muốn có được sự tin tưởng của các nhà cung ứng dịch vụ đối với họ
để họ có những tài khoản kinh doanh thuận lợi cho việc thanh toán đối với
khách hàng. Và mong muốn các Ngân hàng co những chính sách giúp cho
việc thanh toán của khách hàng của họ ở bất cứ Ngân hàng nào thì họ cũng có
thể nhận được tiền qua tài khoản kinh doanh của mình.
- Đối với các nhà cung ứng dịch vụ: Chi phí mà họ bỏ ra để gây dựng
nên hệ thống thanh toán thẻ tự động của riêng mình là rất lớn, chưa kể đến chi
15
phí bảo dưỡng, tu sửa hàng năm đối với hệ thống ấy. Cho nên không phải
Ngân hàng nào cũng có đủ điều kiện để phát triển một hệ thống thanh toán thẻ
một cách hiện đại và đáp ứng tối đa nhu cầu sử dụng của khách hàng. Các nhà
cung ứng dịch vụ mong muốn có thể cắt giảm chi phí trong việc xây dựng hệ
thống thanh toán này nhưng vẫn đảm bảo được sự thanh toán triệt để của
khách hàng của họ.

- Đối với các cơ quan quản lý: Là những người định hướng sự phát triển
hay nói cách khác họ là những người đưa ra các “luật chơi” trong “sân chơi”
là nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, họ mong muốn tạo ra một sân chơi bình đẳng
và lành mạnh để phát huy hết năng lực của các thành phần kinh tế trong nền
kinh tế. Bên cạnh đó là đưa ra các chính sách, các điều kiện đảm bảo cho sự
phát triển nền kinh tế nói chung hay nói riêng là đảm bảo cho sự phát triển
chủa hệ thống thanh toán qua thẻ.
2.2 Các vấn đề còn gặp phải trong qua trình thực hiện việc sử dụng thẻ
thanh toán. Làm cho thẻ thanh toán chưa phát triển tại thị trường Việt Nam.
2.2.1 Môi trường kinh doanh chưa phát triển
- Tính cạnh tranh trên thị trường dịch vụ ở mức thô sơ và phát triển dưới
mức tiềm năng. Cạnh tranh bằng thương hiệu, chất lượng dịch vụ chưa phổ
biến. Các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, thay vì sáng tạo ra sản phẩm
mới hoặc tạo ra giá trị gia tăng trên sản phẩm cùng loại trên thị trường, lại chỉ
tập trung vào yếu tố giá cả nhằm đánh bại đối thủ cạnh tranh. Điều này không
chỉ làm tổn hại tới chính lợi nhuận của các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh
toán trong hoạt động dịch vụ thanh toán, mà còn tổn hại tới sự gắn kết giữa
chính bản thân ngân hàng và khách hàng, khi mà khách hàng không nhận thấy
sự khác biệt giữa các sản phẩm của những ngân hàng khác nhau, vì vậy mà họ
dễ dàng từ bỏ một sản phẩm dịch vụ mang thương hiệu này để đến với một
sản phẩm có thương hiệu khác.
- Vẫn đang còn tình trạng liên kết ngầm giữa các ngân hàng và doanh
16
nghiệp trong việc cung ứng dịch vụ thẻ thanh toán nhằm phục vụ lợi ích riêng
giữa hai bên gây nên tình trạng khó khăn cho khách hàng khi thanh toán hàng
hoá và dịch vụ nếu khách hàng không sử dụng thẻ thanh toán của ngân hàng
đó.
- Tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng trong quá
trình kinh doanh thẻ. Các ngân hàng chạy đua giảm, thậm chí là miễn phí
chiết khấu cho đơn vị chấp nhận thẻ khiến cho việc phát triển mạng lưới

thanh toán qua thẻ không có hiệu quả do các ngân hàng không có nguồn thu
bù đắp chi phí đầu tư mua sắm thiết bị, chi phí cho nhân sự đi phát triển đơn
vị chấp nhận thẻ. Do vậy, về lâu dài kéo theo chất lượng dịch vụ bị ảnh
hưởng, tác động tiêu cực trở lại đối với tâm lý của khách hàng sử dụng thẻ.
Nguyên nhân:
Một là, môi trường pháp lý chưa hoàn chỉnh:
- Hành lang pháp lý trong lĩnh vực thanh toán chưa hoàn thiện, mặc dù
trong thời gian vừa qua hành lang pháp lý trong lĩnh vực thanh toán đã cải
thiện nhiều, song vẫn được đánh giá là chưa đầy đủ và đồng bộ, đặc biệt là
những vấn đề liên quan đến thanh toán điện tử và thương mại điện tử.
- Một số văn bản còn thể hiện nhiều bất cập và chưa phù hợp với sự phát
triển của nền kinh tế thị trường Các cơ chế, chính sách chưa khuyến khích
các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán đầu tư mạnh và đồng bộ cho cơ sở
hạ tầng; sự phối kết hợp giữa những biện pháp hành chính và biện pháp kích
thích kinh tế chưa đồng bộ, chưa đủ mạnh để đưa chủ trương thật sự đi vào
cuộc sống.
Hai là, công tác quản lý của NHTW chưa hiệu quả:
Khoản 16 Điều 4 và khoản 1 Điều 28 Luật NHNN 2010 quy định trong
nhiệm vụ, quyền hạn của NHNN có việc tổ chức, quản lý, vận hành và giám
sát hệ thống thanh toán quốc gia vì đây là hệ thống thanh toán xương sống
của nền kinh tế Việt Nam nhằm đảm bảo cho hệ thống tài chính quốc gia,
17
hoạt động ngân hàng được ổn định, an toàn và hiệu quả. Như vậy, vai trò
trung tâm của NHTW trong việc quản lý hệ thống thanh toán thẻ là tất yếu,
xuất phát từ các chức năng nhiệm vụ và các hoạt động liên quan đến các hệ
thống thanh toán và quyết toán của NHTW. Bên cạnh đó là vai trò giám sát
phát triển một phần do sự mở rộng các hệ thống thanh toán thẻ của khu vực tư
nhân, yêu cầu phải điều chỉnh lại những sai sót thị trường tiềm ẩn. Bất kể là
hệ thống được thiết kế, xây dựng hay vận hành bởi các định chế tư nhân,
hoặc ngân hàng trung ương, thì tầm quan trọng của việc giám sát tăng lên

cùng sự gia tăng tính phức tạp, tinh vi và việc tập trung hóa cao độ hệ thống
thanh toán thẻ, cùng sự gia tăng rất lớn về giá trị của các giao dịch đi qua hệ
thống. Giá trị thanh toán gia tăng, cùng với sự tập trung hóa ngày càng cao đã
làm dấy lên những lo ngại về rủi ro hệ thống đáng kể nếu như việc thiết kế và
vận hành hệ thống yếu kém. Ở Việt Nam, cần nhìn nhận những yếu kém về
quản lý hệ thống thanh toán thẻ của NHTW đối với các NHTM như sau:
- Việc quản lý hệ thống thanh toán thẻ chưa đạt được hiệu quả để đạt
được một hệ thống thanh toán thẻ thống nhất, đồng bộ và hiệu quả giữa các
NHTM. Vai trò là người vận hành hệ thống thanh toán, thúc đẩy sự phát triển,
giám sát và sử dụng hệ thống thanh toán của Ngân hàng Trung ương chưa
được phát huy triệt để. NHTW thiếu một cơ chế giám sát nhấn mạnh vào các
mối quan hệ tương tác giữa các định chế thành viên của một hệ thống thanh
toán mà chủ yếu còn ở mức đơn lẻ ở các đối tượng cung cấp dịch vụ riêng
biệt.
- Các bên hữu quan thiếu sự hỗ trợ hiệu quả do không có sự tham vấn
phù hợp;- Nguồn lực phát triển hạn chế, chưa có nguồn nhân lực đủ năng lực
và trình độ cũng như các công cụ hiện đại để tiến hành phân tích về chuyên
môn để đưa ra yêu cầu cụ thể về các các thiết bị đầu cuối hoặc các thiết bị kỹ
thuật khác để đảm bảo an toàn và giữ vững lòng tin của công chúng đối với
hoạt động thanh toán thẻ.
18
- Kiến thức không phù hợp về tầm cỡ tổng thể của hệ thống thanh toán
thẻ ở nước ta dẫn đến tầm nhìn còn hạn chế.
- Các chính sách, cơ chế quản lý, giám sát chưa qua các thử nghiệm thực
tế về khả năng sẵn sàng thay thế của hệ thống dự phòng cũng như việc đảm
bảo hoạt động liên tục trong các kịch bản xảy ra thảm họa.Do vậy tính linh
hoạt không cao và khó đề ra hướng điều chỉnh.
2.2.2. Cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển
Hạ tầng cơ sở kỹ thuật phục vụ cho hoạt động thanh toán phát triển chưa
đồng bộ, bởi đòi hỏi một lượng vốn đầu tư lớn nên thường chỉ có các NHTM

có tiềm lực về tài chính mới có khả năng đầu tư các trang thiết bị phục vụ
hoạt động thanh toán, mở rộng các PTTT mới. Mặc dù số lượng ATM, POS
được lắp đặt tăng đều qua các năm nhưng thực tế là tỷ trọng so với số dân vẫn
còn thấp, chưa phân bố đều (chủ yếu tập trung tạo các đô thị lớn, khu công
nghiệp). Hoạt động của hệ thống phục vụ thanh toán chưa đảm bảo, còn tiềm
ẩn nguy cơ về bảo mật; sự hợp tác giữa các nhà cung cấp dịch vụ với các ngân
hàng gặp trở ngại do sự khác biệt về hệ thống quản lý, cơ sở dữ liệu…
- Hạ tầng cơ sở và trang thiết bị kỹ thuật phục vụ cho hoạt động thanh
toán còn nghèo nàn và kém hiệu quả. Có 2.154 ATM số lượng phân bổ chủ
yếu ở các thành phố lớn, các khu công nghiệp. Với dân số nước ta hơn 80
triệu dân thì bình quân 45.000 dân có 1 ATM. Lượng ATM như vậy quá thấp
nếu so với các quốc gia láng giềng (Trung Quốc: 19.000 dân/ATM,
Singapore: 2.638 dân/ATM). Hơn nữa, các máy ATM lại chỉ có khả năng
phục vụ cho một nhóm nhỏ ngân hàng, chứ không có khả năng sử dụng chung
cho nhiều ngân hàng như thực tế ở nhiều nước hiện nay, làm cho mạng lưới
máy rút tiền tự động càng hạn chế phạm vi phục vụ. Với các thiết bị tại điểm
bán (POS) cũng chung tình trạng như vậy. Luôn có tình trạng một đơn vị chấp
nhận thẻ cùng tồn tại nhiều thiết bị POS của các ngân hàng khác nhau để phục
vụ cho các giao dịch bằng thẻ. Điều này thu hẹp đáng kể phạm vi sử dụng các
19
phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt so với nhiều quốc gia trong khu
vực hiện nay, ngay cả khi mật độ thiết bị tương đương như ở các nước đó.
Nguyên nhân:
Một là, quy mô nền kinh tế còn nhỏ:
- Tổng thu nhập quốc dân còn thấp.
Đơn vị: Tỉ USD
Năm 2007 2008 2009 2010 2011
GDP 70 89 91 101 106.9
Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam giai đoạn 2007 - 2011 chủ yếu vẫn là
do tăng yếu tố số lượng, theo chiều rộng, trong đó, chủ yếu do tăng vốn đầu

tư, xuất khẩu trong khi chất lượng tăng trưởng vẫn thấp. Trong tổng tốc độ
tăng trưởng kinh tế, 5 năm qua, yếu tố số lượng đóng góp 57,5% - 58%, yếu
tố tăng số lượng lao động đóng góp khoảng 20%; cộng hai yếu tố trên đóng
góp tới 77,5% - 78%; các yếu tố còn lại chỉ đóng góp khoảng 22,5% - 22%.
Hiệu quả đầu tư không cao và có xu hướng giảm dần theo thời gian cùng với
quá trình tăng vốn cho công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Tỷ lệ nợ công trên
GDP còn cao, năm 2010 là 56,7%, ước tính tăng lên 58,7% năm 2011 (theo số
liệu của Cục Công sản, Bộ Tài chính). Tỷ lệ nợ nước ngoài chiếm trên 40%
GDP trong các năm 2007 – 2011.
Xét về nhiều mặt, động thái tăng trưởng kinh tế của Việt Nam chưa thể
hiện rõ quyết tâm và khả năng thoát khỏi nguy cơ tụt hậu phát triển. Nền kinh
tế còn bộc lộ nhiều rủi ro tiềm ẩn về tính bền vững của quá trình tăng trưởng.
Điều này gây khó khăn trong việc đầu tư cơ sở hạ tầng của nền kinh tế,
ảnh hưởng tới những hình thức giao dịch hiện đại trong nền kinh tế bị hạn chế
phát triển. Trong đó phải kể đến sự tạo điều kiện cho việc sử dụng thẻ thanh
toán.
- Tỉ trọng các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế cao.
Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm
20
khoảng 95% tổng số các doanh nghiệp, sử dụng khoảng 50% lực lượng lao
động và đóng góp 40% GDP cho nền kinh tế. Tức là số doanh nghiệp vừa và
nhỏ chiếm tỉ trọng rất lớn trong nền kinh tế nhưng mức độ đóng góp vào nền
kinh tế chưa cao. Vì là doanh nghiệp nhỏ nên họ yếu thế, kinh doanh kém.
Cho nên việc chú trọng đầu tư khoa học công nghệ là một khó khăn đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Làm hạn chế sự tiếp cận của người lao động với
một nền kinh tế hiện đại. Một ví dụ cụ thể là sự thiếu hiếu biết trong việc sử
dụng thẻ thanh toán.
- Thu nhập bình quân của người dân còn thấp so với các nước trong khu
vực và thế giới.
Tính theo tỷ giá hối đoái, GDP đầu người của Việt Nam đã tăng từ mức

114 USD năm 1991 lên 1.061 USD năm 2010. Trong khi đó, GDP đầu người
của Trung Quốc tăng từ 353 USD lên 3.915 USD trong khoảng thời gian trên.
Như vậy, thu nhập đầu người của Việt Nam tương đương 32% của
Trung Quốc năm 1991 đã giảm xuống còn 27% năm 2010.
Mặt khác, tính theo sức mua tương đương (PPP), GDP bình quân đầu
người của Việt Nam đạt 706 USD năm 1991 và lên tới 2.948 USD năm 2010.
Trong khoảng thời gian đó, con số này của Trung Quốc tăng từ 888 USD lên
6.786 USD.
Như vậy, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam bằng 80% của
Trung Quốc năm 1991 đã giảm xuống còn 43% năm 2010.
Bên cạnh đó, so với các quốc gia ASEAN khác, dù thu nhập của người
Việt Nam đã dần được thu hẹp trong 20 năm qua, khoảng cách vẫn còn rất lớn
ở vào thời điểm hiện tại.
Tiến sĩ Phạm Hồng Chương và các đồng sự ở ĐH Kinh tế Quốc dân cho
biết, GDP bình quân đầu người của Việt Nam theo PPP chưa bằng 1/2 của
Philippines, hay Indonesia, khoảng 1/5 của Thái Lan, 1/10 của Malaysia năm
1991.
21
Con số này đã vượt qua mức 3/4, 1/3 và 1/5 của các nước trên sau gần 20
năm.
Tóm lại, quy mô GDP bình quân đầu người của Việt Nam năm 2010 đạt
1.061 USD tính theo tỷ giá hối đoái, và 2.948 USD theo PPP.
Tiến sĩ Phạm Hồng Chương nhận xét: “Đây là những chỉ số còn thấp xa
so với mức bình quân chung của khu vực, của châu Á và thế giới”. Ông nhận
xét, sau hơn một phần tư thế kỷ đổi mới và mở của, Việt Nam đã chuyển từ
nhóm nước có thu nhập thấp sang nhóm thu nhập trung bình, theo tiêu chuẩn
của Ngân hàng Thế giới.
Điều này dẫn đến việc sử dụng thẻ thanh toán đối với người dân là
không cần thiết, ảnh hưởng tới tâm lý sử dụng và tiêu dùng của người dân.
Hai là, Chưa có sự hợp tác giữa các NHTM trong việc hình thành

CSHT
Cơ sở vật chất kĩ thuật của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam thiếu
đồng bộ và vẫn chưa có hệ thống kĩ thuật thống nhất từ hội sở chính đến các
chi nhánh. Phần mềm và chương trình ứng dụng của các ngân hàng không
tương thích nhau, mỗi máy POS hay ATM chỉ rút được của 1 ngân hàng.
Theo ông Nguyễn Đại Lai, "Chúng ta có hàng chục ngân hàng phát hành thẻ,
nhưng thẻ của Vietcombank khác, Incombank khác, Đông Á khác… Thẻ của
ngân hàng nào dùng cho ngân hàng nấy, tính kết nối chưa cao. Nói chung,
việc phát hành thẻ ATM ở Việt Nam đang ở thời kỳ trăm hoa đua nở. Rất đẹp.
Nhưng chỉ nở ở riêng mỗi nhà. Đèn nhà nào rạng nhà nấy mà chưa có một
bản đồng ca ở quy mô quốc gia. Chúng ta đang cần một ngọn đèn quốc gia
thay vì những ngọn đèn của riêng mỗi nhà trong hệ thống ATM như hiện
nay".
Câu chuyện kết nối hệ thống thẻ đến nay không phải là vấn đề mới.
Ngân hàng Nhà nước, ngân hàng thương mại, các tổ chức phát hành và cả
người tiêu dùng đều nhìn thấy sự bất tiện của kiểu trăm hoa đua nở đó. Cái tắc
22
không phải là công nghệ, trình độ hay khách hàng mà chính là thiện chí của
các ngân hàng thương mại và chủ trương, chính sách chung.
2.2.3 Tâm lý còn e ngại của người sử dụng
2.2.3.1 Thói quen sử dụng tiền mặt của người dân
- Sau đổi mới ngành Ngân hàng, toàn bộ những yêu cầu quản lý tiền mặt
áp dụng trước đó được loại bỏ. Tiền mặt trở thành một công cụ thanh toán
không hạn chế về đối tượng và phạm vi sử dụng. Tiền mặt có điểm ưu việt rất
lớn là thanh toán tức thời và vô danh, thủ tục đơn giản. Vì vậy, tiền mặt đã trở
thành một công cụ rất được ưa chuộng trong thanh toán và từ lâu đã trở thành
thói quen khó thay đổi của người tiêu dùng và nhiều doanh nghiệp Việt Nam.
Đây là lực cản lớn trong việc phát triển thanh toán KDTM.
- Còn không ít người dân cho rằng, cứ phải tiền trong tay mới là tiền của
mình, còn để trong tài khoản thì không biết thế nào. Trong mua sắm cũng vậy,

phần đông người mua và người bán vẫn quen thực hiện theo phương thức
“tiền trao cháo múc”, vì người tiêu dùng lo ngại khi mua hàng qua mạng có
thể sẽ mua phải sản phẩm không dùng được hoặc chất lượng không đạt như
mong muốn hoặc thậm chí là không nhận được hàng hoá mặc dù tiền đã được
chuyển khoản, trong khi pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng của Việt Nam
vẫn chưa thực sự hiệu quả.
- Việc thay đổi thói quen tiêu dùng tiền mặt của càng khó hơn khi chất
lượng, tiện ích và tính đa dạng về dịch vụ thanh toán KDTM cũng chưa phong
phú, chưa đáp ứng nhu cầu của nhiều loại đối tượng sử dụng. Các phương tiện
thanh toán KDTM chưa đạt được tính tiện ích và phạm vi thanh toán để có thể
thay thế cho tiền mặt. Để được nhận một sản phẩm dịch vụ của ngân hàng,
các chủ thể tham gia thường phải đến các điểm giao dịch của ngân hàng.
Phương thức giao dịch từ xa, dựa trên nền tảng công nghệ thông tin hiện đại
như giao dịch qua internet, mobile, homebanking chưa phát triển hoặc mới
chỉ dừng lại ở quy mô nhỏ hẹp.
23
Chi phí tham gia các phương tiện thanh toán KDTM còn cao so với sử
dụng tiền mặt.
- Công tác thông tin tuyên truyền là bước đầu tiên để thay đổi dần thói
quen tiêu dùng tiền mặt lại chưa được quan tâm, chú trọng và định hướng
đúng đắn.
Những mục tiêu chiến lược, định hướng và các chính sách lớn để phát
triển hoạt động thanh toán chưa được công bố đầy đủ cho công chúng. Vì vậy,
không chỉ người dân mà thậm chí nhiều doanh nghiệp còn rất ít hiểu biết hoặc
hiểu biết mơ hồ về các dịch vụ thanh toán và phương tiện thanh toán KDTM.
Ngoài ra, các phương tiện thông tin đại chúng đôi khi còn phản ánh thiên
lệch, khai thác những yếu điểm, lỗi kỹ thuật hoặc những yếu tố tiêu cực mang
tính cá biệt để đưa lên công luận, khiến cho thông tin đến với những người
tiêu dùng thường một chiều, thậm chí sai lạc, gây mất lòng tin vào một công
cụ thanh toán nào đó ngay từ khi mới bắt đầu phát triển.

2.2.3.2. Doanh nghiệp không muốn công khai thu nhập
Một trong những e ngại khiến cho các doanh ngiệp không muốn sử dụng
thẻ thanh toán trong các giao dịch của mình chính là việc công khai thu nhập.
Như chúng ta đã biết thì tất cả các doanh ngiệp kinh doanh đều vì mục
tiêu lợi nhuận. Để có lợi nhuận cao trong kinh doanh thì các phương pháp
hạch toán thu nhập để giảm các khoản thuế phải đóng là phương pháp mà các
doanh nghiệp sử dụng phổ biến nhất hiện nay.
Thực tế có thể thấy trên thị trường Việt Nam hiện nay, các giao dịch
ngầm giữa các doanh ngiệp hay giữa doanh nghiệp với tư nhân là một trong
những lỗ hổng lớn mà các chính sách của Nhà Nước không quản lý hoặc chưa
kiểm soát được. Đây chính là một lỗ hổng của pháp luật, nó đã giúp cho các
doanh nghiệp luôn có các khoản thu nhập ngầm.
Khi các doanh nghiệp sử dụng thẻ thanh toán: Tất cả các khoản thu nhập
đều được công khai,các khoản thu nhập ngầm không còn. Các doanh nghiệp
24
sẽ phải đóng thuế theo đúng phần thu nhập của mình trong thực tế nên lợi
nhuận sẽ giảm.
Vì vậy, mặc dù thẻ thanh toán sẽ giúp cho các doanh nghiệp thanh toán
nhanh và tiện lợi hơn trong các giao dịch; kiểm soát chặt chẽ hơn các khoản
thu chi nhưng các doanh nghiệp vẫn không muốn ứng dụng.
2.2.3.3 . Quản lý rủi ro của các NHTM còn nhiều bất cập
- Tội phạm trong lĩnh vực thanh toán gia tăng. Gian lận phát sinh chủ
yếu liên quan đến gian lận tài khoản thẻ và thẻ giả, tiếp sau là các loại hình
khác như thẻ mất cắp, thất lạc… Trong đó, gian lận tài khoản thẻ thường xảy
ra với các giao dịch không xuất trình thẻ vẫn chiếm tỷ lệ cao hơn đáng kể so
với gian lận thẻ giả. Gần đây, thị trường xuất hiện rủi ro cực kỳ nguy hiểm là
hiện tượng kẻ xấu đập phá máy ATM để lấy tiền(ii). Ngoài ra, còn có một số
rủi ro khác gây thiệt hại tài chính khá lớn đối với các ngân hàng như:
+ Ăn cắp dữ liệu thẻ
+ Các đơn vị ĐVCNT thông đồng thực hiện các giao dịch gian lận và bỏ

trốn sau khi đã thực hiện được tiền tạm ứng của ngân hàng
+ Gần đây đã xuất hiện hiện tượng chủ thẻ thường xuyên sử dụng thẻ ghi
nợ quốc tế để thực hiện các giao dịch rút tiền mặt bằng USD tại Campuchia
nhằm trục lợi từ chênh lệch tỷ giá. Bên cạnh đó cũng xuất hiện loại hình giao
dịch chuyển tiền từ tài khoản thẻ tín dụng sang tài khoản ảo sau đó chuyển
tiền từ tài khoản ảo sang tài khoản ngoại tệ và thực hiện rút ngoại tệ, gây thiệt
hại về chênh lệch tỷ giá đối với các ngân hàng…
III Chiến lược ưu tiên phát triển hệ thống chuyển mạch thẻ quốc gia
dựa trên 3 liên minh thẻ hiện có Banknetvn, Smartlink và VNBC.
a. Tầm nhìn.
Phát triển một môi trường thanh toán hiện đại, an toàn và hiệu quả đáp
ứng nhu cầu sử dụng dịch vụ ngày càng cao của nền kinh tế trong thời kì hội
nhập và phát triển.
25

×