Tải bản đầy đủ (.pdf) (152 trang)

Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và một số thay đổi miễn dịch trong bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ (FULL TEXT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.04 MB, 152 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ

TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI


NGUYỄN THỊ PHƢƠNG THỦY


NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG,
CẬN LÂM SÀNG VÀ MỘT SỐ THAY ĐỔI
MIỄN DỊCH TRONG BỆNH VIÊM ĐA CƠ
VÀ VIÊM DA CƠ



LUẬN ÁN TIẾN SỸ Y HỌC


HÀ NỘI – 2015
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
C
: Complement (bổ thể)
CADM
: Clinically amyopathic dermatomyositis (viêm da cơ thể
không điển hình)
CK
: Creatin kinase (men creatin kinase)
CRP
: C- reactive protein (protein C phản ứng)
DNA


: Deoxyribo nucleic acid (axit deoxyribo nucleic)
EJ
: Glycyl
Ha
: Tyrosyl
HLA
: Human leukocyte antigen (kháng nguyên bạch cầu người)
Jo-1
: Histidyl
KS
: Asparaginyl
MDA5
: Melanoma differentiation- induced gene- 5 antibodies
MDAAT
: Myositis disease activity assessment tool (thanh công cụ
đánh giá sự tiến triển của bệnh viêm cơ tự miễn)
MDI
: Myositis damage index (chỉ số đánh giá các tổn thương
mạn tính của viêm cơ tự miễn)
MHC
: Major histocompatibility complex (phức hợp hòa hợp mô chủ yếu)
MITAX
: Myositis intention to treat activity index (chỉ số đánh giá
mức độ tiến triển của bệnh viêm cơ tự miễn để định
hướng điều trị)
MMT8
: Manual muscle testing (test đánh giá cơ lực và trương lực cơ)
MYOACT
: Myositis disease activity assessment visual analogue
scales (đánh giá mức độ hoạt động của bệnh viêm cơ tự

miễn qua thang điểm VAS)
OJ
: Isoleucyl
PL-12
: Ananyl
PL-7
: Threonyl
SAE
: Small ubiquitin- like modifier activating enzyme (enzym
được hoạt hóa đã biến đổi như một ubiquitin nhỏ)
SRP
: Signal recognition particle - Phần nhận biết tín hiệu
VAS
: Visual analogue scale (thang điểm đánh giá mức độ tiến
triển thông qua nhìn)
Zo
: Phenylalanyl
























ĐẶT VẤN ĐỀ
Viêm đa cơ và viêm da cơ được xếp vào nhóm bệnh tự miễn với tổn thương
cơ bản là tình trạng viêm mạn tính của các bó cơ (viêm đa cơ) và có thể có tổn
thương da kèm theo (viêm da cơ). Trên lâm sàng, bệnh nhân thường có triệu chứng
yếu cơ vùng gốc chi đối xứng hai bên. Ngoài tổn thương cơ, bệnh nhân có thể có
các triệu chứng ở khớp, phổi, tim mạch và tiêu hóa [1], [2]. Ở người già, viêm đa
cơ và viêm da cơ có thể kết hợp với ung thư [3], [4].
Tiến triển của bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ phụ thuộc vào mức độ tổn thương
của các cơ quan trong cơ thể và sự xuất hiện của các tự kháng thể có trong huyết
thanh. Trong viêm đa cơ và viêm da cơ, hơn 80% bệnh nhân có những kháng thể
kháng lại các thành phần của bào tương hoặc nhân tế bào. Những thành phần này
có một vai trò quan trọng trong quá trình chuyển đoạn và phiên mã gen, tổng hợp
protein và phản ứng chống lại virut của tế bào. Trong các kháng thể của bệnh,
kháng thể kháng SRP có tiên lượng xấu nhất, sau đó đến nhóm kháng thể kháng
synthetase. Viêm đa cơ và viêm da cơ gồm một nhóm bệnh có biểu hiện những
triệu chứng lâm sàng không đồng nhất nên việc xác định các kháng thể đặc hiệu
với bệnh rất quan trọng, giúp bác sỹ lâm sàng nhận biết được những biểu hiện lâm
sàng đặc trưng với từng kháng thể, tiên lượng bệnh nhân và chọn được một phác
đồ điều trị thích hợp cũng như để làm rõ hơn cơ chế bệnh sinh của bệnh.
Theo kết quả của các nghiên cứu về viêm đa cơ và viêm da cơ trên thế giới, có

nhiều gen và biến thể của gen đã tác động theo những cơ chế sinh học khác nhau,
dẫn đến sự khởi phát và tiến triển của bệnh. Trong bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ,
một số gen thuộc phức hợp hòa hợp mô chủ yếu của người (HLA- human
leukocyte antigen) có liên quan chặt chẽ và rõ ràng nhất với sự tiến triển của bệnh.
Đó là những gen thuộc HLA lớp I và HLA lớp II, những gen này tham gia mã hóa
các phân tử nhận biết và trình diện kháng nguyên nên có một vai trò quan trọng
trong quá trình điều hòa miễn dịch của cơ thể. Những gen này cũng có một mối
liên quan chặt chẽ với các kháng thể đặc hiệu của bệnh và bệnh nhân sẽ có những
biểu hiện đặc điểm lâm sàng đặc trưng riêng tương ứng với từng gen. Khi phân tích
bản đồ gen từ các nghiên cứu được tiến hành ở nhiều chủng tộc người khác nhau
cho thấy, bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ có liên quan chặt chẽ nhất với hai locus
HLA-DRB1 và HLA-DQA1.
Trên thế giới, đã có nhiều nghiên cứu tìm hiểu về các đặc điểm lâm sàng, cận lâm
sàng và những thay đổi miễn dịch cũng như vai trò của gen trong cơ chế bệnh sinh
của bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ. Tại Việt Nam, đã có một số nghiên cứu về tổn
thương phổi trong bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ nhưng hiện nay, chưa có nhiều
nghiên cứu tìm hiểu về đặc điểm lâm sàng– cận lâm sàng, các thay đổi miễn dịch
và những gen nguy cơ của bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ ở người Việt Nam. Do
đó, chúng tôi tiến hành đề tài “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và
một số thay đổi miễn dịch trong bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ” nhằm 3 mục
tiêu sau:
 Mô tả đặc điểm lâm sàng- cận lâm sàng của bệnh viêm đa cơ và bệnh
viêm da cơ.
 Khảo sát mối liên quan giữa một số tự kháng thể của bệnh viêm đa cơ
và bệnh viêm da cơ với một số đặc điểm của bệnh.
 Khảo sát đặc điểm một số allele thuộc locus HLA-DRB1 của bệnh viêm
đa cơ và bệnh viêm da cơ ở ngƣời Việt Nam.

CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ BỆNH VIÊM ĐA CƠ VÀ VIÊM DA CƠ


 Lịch sử nghiên cứu và dịch tễ học của bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ
Năm 1863, Wagner là người đầu tiên đưa ra thuật ngữ viêm cơ tự miễn khi miêu tả
một bệnh nhân có các tổn thương da điển hình của bệnh viêm da cơ. Sau đó, đến
năm 1891, Unverricht lần đầu tiên đưa ra thuật ngữ viêm da cơ khi miêu tả những
bệnh nhân có viêm cơ và các tổn thương da kèm theo, trích dẫn từ nguồn [5]. Đến
năm 1975, Bohan và Peter đã đưa ra tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh viêm cơ tự miễn
gồm viêm đa cơ và viêm da cơ [6], [7].
Viêm đa cơ và viêm da cơ là bệnh tự miễn ít gặp với tỷ lệ mới mắc bệnh từ 2- 10
người/1 triệu người/năm [3]. Tỷ lệ mắc bệnh nói chung của nữ/nam là 2,5/1. Ở trẻ
em và khi bệnh kết hợp với ung thư, tỷ lệ này sẽ thấp hơn là 1/1 nhưng khi bệnh
kết hợp với các bệnh tự miễn khác, tỷ lệ mắc bệnh của nữ/nam là 10/1. Tuổi mắc
bệnh hay gặp nhất là ở lứa tuổi trung niên từ 40- 45 tuổi và tuổi mắc bệnh sẽ tăng
lên khi bệnh kết hợp với ung thư [8].
 Những yếu tố nguy cơ của bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ
Cho đến nay, nguyên nhân chính xác của bệnh chưa rõ ràng. Kết quả của một số
nghiên cứu cho thấy, các tác nhân gây nhiễm trùng, thuốc và một số yếu tố của môi
trường có thể là nguyên nhân gây khởi phát bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ. Yếu tố
gen cũng có một vai trò quan trọng trong cơ chế bệnh sinh của bệnh.
1.2.1. Các tác nhân gây nhiễm trùng
Vi khuẩn có thể xâm nhập vào cơ và gây nên abcess cơ với biểu hiện tình trạng
nhiễm trùng cấp tính. Vi khuẩn hay gặp nhất là tụ cầu vàng. Ở một số bệnh nhân
viêm đa cơ và viêm da cơ, có tiền sử bị nhiễm trùng cấp tính do Toxoplasmosis
gondii và Borrelia burgdorferi gây ra.
Viêm cơ do virut như cúm, coxsackie virut và echo virut. Viêm cơ cấp tính kết hợp
với influenza virut và coxsackie virut thường xảy ra ở trẻ em và tự khỏi. Nhóm
picorna virut (virut gây viêm não- viêm cơ tim và mengo virut) có thể gây viêm cơ
cấp tính và nhóm virut này tác động lên những enzym aminoacyl-tRNA synthetase,
sẽ sinh ra các tự kháng thể đặc hiệu với bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ.
1.2.2. Thuốc: một số thuốc có thể gây nên các triệu chứng giống viêm cơ như

Chloroquin, Colchicin, Corticoid, Cimetidine, Ethanol, Lovastatin và
Penicillamine.
1.2.3. Các yếu tố về gen: kết quả của nhiều nghiên cứu cho thấy, có sự kết hợp
chặt chẽ giữa gen HLA và bệnh viêm đa cơ cũng như bệnh viêm da cơ.
1.2.4. Các yếu tố tác động từ môi trường: các tác nhân môi trường có thể là yếu tố
khởi phát dẫn đến sự tiến triển của bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ. Một số nghiên
cứu cho thấy, bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ thường tiến triển vào một số mùa
trong năm. Trong nghiên cứu của Leff, các bệnh nhân có kháng thể kháng Jo-1
thường tiến triển vào mùa xuân, còn những bệnh nhân có kháng thể kháng SRP
thường tiến triển vào mùa thu. Ở những bệnh nhân viêm da cơ có kháng thể kháng
Mi-2, sự tiếp xúc của da với tia tử ngoại trong ánh nắng mặt trời có liên quan chặt
chẽ với mức độ tiến triển của bệnh. Do đó, những bệnh nhân viêm đa cơ và viêm
da cơ có mang các gen nguy cơ của bệnh khác nhau, sẽ có những thay đổi về đáp
ứng miễn dịch và biểu hiện lâm sàng khác nhau khi tiếp xúc với các tác nhân gây
khởi phát bệnh từ môi trường.
1.3. Các thay đổi về miễn dịch trong bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ
1.3.1. Thay đổi miễn dịch đặc hiệu trong bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ
Bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ đặc trưng bởi sự thâm nhiễm của các tế bào viêm
đơn nhân vào trong tổ chức cơ, dẫn đến tình trạng yếu cơ và mỏi cơ [9]. Những tế
bào viêm xâm nhập vào trong cơ chủ yếu là các tế bào lympho T và đại thực bào, ở
một số bệnh nhân có thêm các tế bào lympho B [10]. Khi sinh thiết cơ của những
bệnh nhân viêm đa cơ và viêm da cơ, thấy có hai vị trí thâm nhiễm của các tế bào
viêm ở trong tổ chức cơ.
- Thứ nhất là tình trạng thâm nhiễm của các tế bào viêm trong bó cơ, gồm những tế
bào bạch cầu đơn nhân, chủ yếu là tế bào lympho T, tập trung ở xung quanh các tế
bào cơ nhưng không có hình ảnh hoại tử hay thoái hóa các sợi cơ. Trong các tế bào
lympho T, phần lớn là tế bào lympho T- CD8+, ngoài ra còn có tế bào lympho T-
CD4+ và đại thực bào.
- Thứ hai là tình trạng thâm nhiễm của các tế bào viêm ở vùng tổ chức liên kết
xung quanh các mạch máu, gồm: tế bào lympho T (chủ yếu là tế bào lympho T-

CD4+), đại thực bào, tế bào lympho B và một số tế bào gai. Những tế bào viêm
thâm nhiễm ở vùng tổ chức liên kết xung quanh các mạch máu chứng tỏ những
phản ứng miễn dịch là nguyên nhân trực tiếp gây tổn thương các mạch máu trong
cơ.
Tuy nhiên, có sự khác biệt về các loại tế bào lympho thâm nhiễm trong tổ chức cơ
giữa hai bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ [11], [12].
- Trong viêm da cơ, chủ yếu là thâm nhiễm các tế bào lympho B, đặc biệt ở vùng
tổ chức liên kết và xung quanh các mạch máu [13]. Các thành phần của bổ thể như
C5, C9 lắng đọng ở xung quanh các mạch máu trong những bó cơ. Trong những
sợi cơ, có nhiều tế bào lympho T-CD8
+
. Ở vùng tổ chức liên kết xung quanh các
mạch máu và xung quanh các sợi cơ, có nhiều tế bào lympho T-CD4
+
. Các mạch
máu trong bó cơ bị tổn thương và có thể xảy ra trước những tổn thương mô khác.
- Trong viêm đa cơ, rất nhiều tế bào lympho T (chủ yếu là các tế bào lympho T-
CD8
+
) xâm nhập vào trong những tế bào cơ, trong đó, có một số tế bào đã được
hoạt hóa. Ở vùng tổ chức liên kết xung quanh các mạch máu và sợi cơ, có nhiều tế
bào lympho T-CD4
+
và trái ngược với viêm da cơ có rất ít tế bào lympho B.
Trong máu của bệnh nhân viêm đa cơ và viêm da cơ, ở giai đoạn bệnh tiến triển
cấp tính, thấy giảm số lượng tế bào lympho T-CD8
+
và tăng số lượng tế bào
lympho T, lympho B tham gia trình diện kháng nguyên. Ở những tế bào lympho,
có rất nhiều các receptor của interleukin-2 (IL-2) và các marker gây hoạt hóa tế

bào lympho T.
Các thay đổi về miễn dịch cùng với những bằng chứng thu được khi sinh thiết cơ
chứng tỏ có nhiều cơ chế khác nhau gây hoạt hóa hệ thống miễn dịch, dẫn đến
những biểu hiện lâm sàng đa dạng ở bệnh nhân viêm đa cơ và viêm da cơ. Hiện
nay, yếu tố khởi phát làm các tế bào viêm xâm nhập vào trong những bó cơ vẫn
chưa rõ ràng. Tuy nhiên, trong viêm đa cơ và viêm da cơ, các phân tử gây kết dính
xuất hiện nhiều ở những tế bào viêm xâm nhập trong bó cơ và các tế bào cơ.
Trong viêm da cơ, các mao mạch thường bị tổn thương sớm và tình trạng yếu cơ
xảy ra muộn hơn, điều đó chứng tỏ viêm mạch là nguyên nhân dẫn đến viêm cơ. Ở
thành của các mạch máu bị viêm, có nhiều phức hợp bổ thể lắng đọng, gây tổn
thương màng tế bào nội mô của thành mạch. Tăng số lượng các tế bào lympho B
đã được hoạt hóa ở trong tuần hoàn. Do vậy, đáp ứng miễn dịch dịch thể đóng một
vai trò quan trọng trong cơ chế bệnh sinh của viêm đa cơ và viêm da cơ.
Ngoài các thay đổi về miễn dịch tế bào, trong huyết thanh của những bệnh nhân
viêm đa cơ và viêm da cơ, có nhiều kháng thể lưu hành được phát hiện. Trong đó,
có một nhóm các tự kháng thể đặc hiệu với bệnh. Những kháng thể này trực tiếp
kháng lại protein và ribonucleoprotein của tế bào, đó là các thành phần quan trọng
trong bộ máy tổng hợp protein của tế bào. Những tự kháng thể này thường có trực
tiếp trong bào tương và các phân tử của tế bào, không xuất hiện trên bề mặt tế bào
[12].

1.3.2. Các thay đổi miễn dịch không đặc hiệu trong bệnh viêm đa cơ và viêm
da cơ
1.3.2.1. Vai trò của tế bào cơ trong cơ chế bệnh sinh của bệnh viêm đa cơ và
viêm da cơ
Bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ có thể tiến triển mà không cần phải có nhiều các tế
bào viêm thâm nhiễm trong cơ, do bản thân các tế bào cơ cũng có khả năng tự
tham gia vào quá trình đáp ứng miễn dịch của bệnh. Những tế bào cơ có khả năng
nhận biết các protein bị tổn thương thông qua receptor. Tế bào cơ sau khi nhận biết
những protein được sinh ra trong cơ thể do stress, sẽ khởi động các đường dẫn

truyền, hoạt hóa hoặc ức chế các gen tham gia kiểm soát phản ứng viêm trong cơ
thể, dẫn đến kích hoạt các phản ứng viêm [14].
Tế bào cơ còn tham gia tổng hợp những phân tử gây viêm nội sinh, có vai trò quan
trọng trong cơ chế bệnh sinh của viêm đa cơ và viêm da cơ. Do vậy, ở một số bệnh
nhân bị viêm đa cơ và viêm da cơ, các sợi cơ vẫn tiếp tục bị viêm và thoái hóa
ngay cả khi đang dùng những thuốc ức chế miễn dịch để khống chế các tế bào
lympho tham gia vào phản ứng tự miễn dịch của cơ thể [15], [16].
1.3.2.2. Vai trò của các Toll-like receptor trong cơ chế bệnh sinh của bệnh viêm
đa cơ và viêm da cơ
Quá trình hoạt hóa những Toll-like receptor là một cầu nối quan trọng giữa đáp
ứng miễn dịch đặc hiệu và không đặc hiệu do các receptor này điều hòa sự xuất
hiện của những phân tử kích thích ở trên bề mặt của tế bào trình diện kháng
nguyên, giúp hoạt hóa tế bào lympho T. Trong bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ, các
phân tử nội sinh và những cytokine được sinh ra từ quá trình tổn thương cơ cùng
với những phản ứng miễn dịch đã thúc đẩy các Toll-like receptor có nhiều trong tổ
chức cơ của bệnh nhân [17]. Những Toll-like receptor có nhiều trong cơ sẽ làm
tăng các phản ứng tự miễn dịch ở bệnh nhân viêm đa cơ và viêm da cơ, do đó, sẽ
làm nặng thêm tình trạng viêm mạn tính của tổ chức cơ [12].
1.3.2.3. Vai trò của các cytokine trong cơ chế bệnh sinh của bệnh viêm đa cơ và
viêm da cơ
Các cytokine tiền viêm, prostaglandin và một số cytokine chống viêm có nhiều
trong cơ và tuần hoàn của những bệnh nhân viêm đa cơ và viêm da cơ [18]. Các
chất này do những tế bào của hệ thống miễn dịch không đặc hiệu, tế bào nội mô và
tế bào cơ tổng hợp nên. Các cytokine có một vai trò trung tâm trong đáp ứng miễn
dịch do thúc đẩy quá trình hoạt hóa của đáp ứng miễn dịch đặc hiệu và không đặc
hiệu với kháng nguyên [19].
Tuy nhiên, hai bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ có thành phần và nồng độ của các
chất cytokine trong cơ khác nhau do phản ứng miễn dịch, tác nhân khởi phát, thành
phần của những tế bào viêm tham gia vào quá trình tự đáp ứng miễn dịch của hai
bệnh khác nhau. Trong viêm đa cơ và viêm da cơ, có một số cytokine luôn xuất

hiện trong cơ của bệnh nhân, không có liên quan với các triệu chứng lâm sàng và
giai đoạn tiến triển của bệnh [20]. Những cytokine này đã gây ra tình trạng yếu cơ,
ảnh hưởng đến quá trình chuyển hóa và tái tạo của cơ [19], [21], [22], [23].
1.4. Vai trò của những yếu tố không phải miễn dịch trong cơ chế bệnh sinh
của bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ
Trong các nghiên cứu về bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ, cho thấy có nhiều cơ chế
không phải do rối loạn miễn dịch đã tham gia vào cơ chế bệnh sinh của bệnh [24].
 Mức độ thâm nhiễm của các tế bào viêm trong tổ chức cơ không có liên
quan với mức độ nặng của tổn thương cơ cũng như mức độ tiến triển của
bệnh trên lâm sàng.
 Tổn thương cấu trúc trong các sợi cơ có thể xảy ra mà không cần phải có sự
thâm nhiễm của các tế bào viêm vào trong tổ chức cơ.
 Sau khi dùng thuốc ức chế miễn dịch, mức độ thâm nhiễm của các tế bào
viêm vào trong cơ sẽ giảm xuống. Tuy nhiên, ở một số bệnh nhân, những tế
bào viêm vẫn tiếp tục thâm nhiễm vào trong cơ và tình trạng yếu cơ của
bệnh nhân không được cải thiện, mặc dù bệnh nhân đã được dùng corticoid
liều cao và các thuốc ức chế miễn dịch khác.
 Điều trị corticoid có thể làm giảm mức độ viêm cơ nhưng bệnh nhân không
có cải thiện nhiều trên lâm sàng.
 Bệnh vẫn có thể tiếp tục tiến triển khi quá trình viêm đã bị ức chế.
Những cơ chế không phải do rối loạn miễn dịch đã tham gia vào cơ chế bệnh sinh
của bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ gồm: các stress trong hệ thống lưới nội bào của
tế bào cơ, rối loạn chuyển hóa, giảm nồng độ oxy máu trong tổ chức cơ, quá trình
tự tiêu của tế bào cơ và sự thay đổi cấu trúc của các mạch máu trong cơ [24], [25].
1.5. Vai trò của gen trong cơ chế bệnh sinh của bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ
1.5.1. Tính chất gia đình trong bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ
Wedgwood là người đầu tiên báo cáo về bệnh viêm da cơ thiếu niên ở những trẻ
em sinh đôi với thời gian khởi phát bệnh xảy ra trong cùng một năm. Sau đó đã có
thêm những nghiên cứu khác cho thấy, có ít nhất hai thành viên trong cùng một gia
đình bị bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ. Theo kết quả của nhiều nghiên cứu, ở

những cặp sinh đôi đồng hợp tử bị bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ, có gen HLA-
DQA1 là một yếu tố nguy cơ quan trọng của bệnh [26].
Rider đã tiến hành một nghiên cứu gồm hai nhóm bệnh nhân viêm đa cơ và viêm
da cơ. Nhóm 1 gồm 36 bệnh nhân được lấy từ 16 gia đình độc lập, trong đó, mỗi
gia đình có ít nhất 2 bệnh nhân được chẩn đoán viêm đa cơ hoặc viêm da cơ. Nhóm
2 gồm 181 bệnh nhân viêm đa cơ và viêm da cơ không có liên quan về huyết thống
được chọn làm nhóm chứng. Kết quả nghiên cứu cho thấy, những kháng thể đặc
hiệu của bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ gặp nhiều hơn ở nhóm bệnh nhân không
có liên quan về huyết thống (nhóm chứng) so với nhóm bệnh nhân có liên quan về
huyết thống và allele HLA-DRB1*0301 là một yếu tố nguy cơ của bệnh viêm đa
cơ và viêm da cơ, trích dẫn từ nguồn [26].
1.5.2. Những nghiên cứu về các gen nguy cơ của bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ
thuộc hệ thống kháng nguyên bạch cầu người
Hệ thống kháng nguyên bạch cầu người (HLA- human leukocyte antigen) hay còn
gọi là phức hợp hòa hợp mô chủ yếu (MHC- major histocompatibility complex).
Đó là một nhóm gen nằm trên nhiễm sắc thể số 6, tham gia mã hóa cho các protein
có chức năng nhận biết và trình diện kháng nguyên ở trên bề mặt của tế bào.
Các kháng nguyên HLA có một vai trò quan trọng trong đáp ứng miễn dịch của cơ
thể, gồm có:
 Kháng nguyên HLA đáp ứng với phức hợp hòa hợp mô chủ yếu lớp I, đó là
những peptid ở bên trong tế bào. Khi có tác nhân gây bệnh xâm nhập vào
bên trong tế bào, những phức hợp hòa hợp mô chủ yếu lớp I sẽ nhận biết và
trình diện kháng nguyên cho các tế bào lympho T–CD8, sau đó các tế bào
lympho T-CD8 sẽ phá hủy những tế bào này.
 Kháng nguyên HLA đáp ứng với phức hợp hòa hợp mô chủ yếu lớp II, đó là
những kháng nguyên nằm ở trên bề mặt của các tế bào lympho T. Các kháng
nguyên này sẽ hoạt hóa những tế bào lympho T-CD4 và sau đó, các tế bào
lympho T-CD4 sẽ hoạt hóa các tế bào lympho B. Những tế bào lympho B
sau khi được hoạt hóa sẽ sinh ra các kháng thể chống lại kháng nguyên đặc
hiệu.

 Kháng nguyên HLA đáp ứng với phức hợp hòa hợp mô chủ yếu lớp III, đó
là những kháng nguyên tham gia mã hóa các thành phần của hệ thống bổ
thể.
Các bệnh tự miễn thường xảy ra ở những người có mang các gen đặc biệt, đó là
yếu tố thuận lợi cho sự phát triển của bệnh. Sau khi tiếp xúc với các yếu tố môi
trường, hệ thống miễn dịch sẽ được hoạt hóa, dẫn đến sự tiến triển của bệnh viêm
đa cơ và viêm da cơ. Trong viêm đa cơ và viêm da cơ, một số gen thuộc HLA lớp I
và lớp II có liên quan chặt chẽ với sự tiến triển của bệnh. Những gen này tham gia
mã hóa các phân tử nhận biết và trình diện kháng nguyên nên có một vai trò quan
trọng trong điều hòa miễn dịch [27].
Trong một nghiên cứu của Terrance PO năm 2006, gồm những người Mỹ gốc Phi
bị bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ, kết quả cho thấy allele HLA-DRB1
*
0301 là một
yếu tố nguy cơ quan trọng của những bệnh nhân có kháng thể kháng Jo-1 và allele
HLA-DRB1
*
0302 là một yếu tố nguy cơ của các bệnh nhân có kháng thể kháng
Mi-2 [26].
Kết quả của những nghiên cứu gần đây cho thấy, có rất nhiều cơ chế khác nhau để
giải thích về vai trò của các allele HLA là yếu tố nguy cơ và yếu tố bảo vệ chống
lại sự tiến triển của bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ. Các allele HLA đã tác động
lên những loại tế bào lympho T khác nhau, dẫn đến sự kích thích (yếu tố nguy cơ)
hoặc ức chế quá trình tiến triển của bệnh (yếu tố bảo vệ). Các allele nguy cơ và
allele bảo vệ chống lại sự tiến triển của bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ cũng khác
nhau về tính bền vững bên trong của allele, dẫn đến những tác động khác nhau
(kích thích hoặc ức chế) lên sự trình diện của các tự kháng nguyên [28]. Sự kết hợp
giữa allele bảo vệ và allele nguy cơ cũng sẽ dẫn đến tính đặc thù và ổn định đối với
từng bệnh viêm đa cơ hoặc viêm da cơ.
Trong một nghiên cứu khác của Hector Chinoy ở Anh năm 2007, gồm 233 bệnh

nhân viêm đa cơ và viêm da cơ, thấy allele HLA-DPB1
*
0101 là một yếu tố nguy
cơ của những bệnh nhân có kháng thể kháng Jo-1 [29]. Như vậy, các gen của HLA
có một vai trò quan trọng, giúp bác sỹ lâm sàng trong chẩn đoán phân biệt các thể
bệnh của bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ về triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng.
Trong những nghiên cứu về bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ ở người châu Âu, các
allele HLA-DRB1*0301, HLA-DQA1*0501, HLA-C4A*Q0 là yếu tố nguy cơ của
bệnh và allele HLA-DRB1*07 là yếu tố bảo vệ chống lại sự tiến triển của bệnh.
Nguyên nhân của hiện tượng này là do một số haplotype nhất định đã chia sẻ các
allele với nhau. Trong bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ, do haplotype 8.1 (trong đó
có allele HLA-DRB1*0301) chiếm một tỷ lệ cao nên sẽ làm giảm tỷ lệ của allele
HLA-DRB1*07 vì tất cả những haplotype này đều chung nhau allele HLA-
DQB1*02. Tuy nhiên, trong một nghiên cứu về bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ ở
người Mỹ gốc Mexico và một nghiên cứu ở người Hàn Quốc, lại không tìm thấy
mối liên quan giữa các gen thuộc HLA và bệnh. Do đó, yếu tố chủng tộc giữ một
vai trò rất quan trọng trong cơ chế bệnh sinh của bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ.
1.5.3. Sự kết hợp giữa HLA và các tự kháng thể của bệnh viêm đa cơ và viêm da

Các allele của HLA có liên quan chặt chẽ với sự xuất hiện của những tự kháng thể
đặc hiệu với bệnh trong huyết thanh của bệnh nhân viêm đa cơ và viêm da cơ. Mức
độ liên quan này chặt chẽ nhiều hơn so với mối liên quan của HLA với các triệu
chứng lâm sàng của bệnh. Những biểu hiện lâm sàng của bệnh viêm đa cơ và viêm
da cơ chứng tỏ sự đa dạng và không đồng nhất của nhóm bệnh này [30], [31].
Trong một nghiên cứu của Mierau tại Đức, thấy hai allele HLA-DRB1*0701 và
HLA-DQA1*0201 là những yếu tố nguy cơ quan trọng của bệnh nhân viêm đa cơ
và viêm da cơ có kháng thể kháng Mi-2 [32], [33].
Mối liên quan chặt chẽ giữa các allele thuộc HLA và những kháng thể của bệnh
viêm đa cơ và viêm da cơ có thể là nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện độc lập của
các kháng thể này ở trong huyết thanh của bệnh nhân. Rất hiếm khi có nhiều kháng

thể đặc hiệu của bệnh cùng xuất hiện ở một bệnh nhân [33].
Sự liên quan giữa những allele thuộc HLA và các kháng thể của bệnh viêm đa cơ
và viêm da cơ là khác nhau giữa các chủng tộc người nghiên cứu. Trong một
nghiên cứu gần đây cho thấy, giống như người châu Âu, allele HLA-DRB1*0301
là một yếu tố nguy cơ của những người Mỹ gốc Phi bị bệnh viêm đa cơ và viêm da
cơ có kháng thể kháng Jo-1 [33]. Tuy nhiên, cùng có kháng thể kháng Mi-2 nhưng
người Mỹ gốc Phi và người Châu Âu có gen nguy cơ của bệnh viêm đa cơ và viêm
da cơ khác nhau. Ở người Mỹ gốc Phi, HLA-DRB1*0302 là một yếu tố nguy cơ
của bệnh, còn ở người châu Âu lại là HLA-DRB1*0701 [34], [35], [36].
Kết quả của nhiều nghiên cứu chứng tỏ, sự khác biệt giữa các chủng tộc người sẽ
dẫn đến những biểu hiện lâm sàng, cận lâm sàng, tự kháng thể và allele nguy cơ
của bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ khác nhau [17].
1.6. Đặc điểm lâm sàng - cận lâm sàng của bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ
Các biểu hiện lâm sàng của bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ rất đa dạng. Hay gặp
nhất là dấu hiệu yếu cơ vùng gốc chi đối xứng hai bên, không đau cơ, tiến triển từ
từ tăng dần, trong khoảng từ ba đến sáu tháng trước khi bệnh nhân được chẩn đoán
bệnh. Ở một số bệnh nhân, đặc biệt ở trẻ em và người trẻ, bệnh thường khởi phát
cấp tính, đau cơ và yếu cơ tiến triển nhanh trong khoảng vài tuần [36] , [37], [38].
Một số ít bệnh nhân chỉ bị đau cơ vùng gốc chi.
1.6.1. Toàn thân
- Bệnh nhân thường có cảm giác mệt mỏi và sốt.
- Khi bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ kết hợp với ung thư, bệnh nhân có thể bị sút
cân.
1.6.2. Cơ
- Yếu cơ vùng gốc chi, đối xứng 2 bên. Bệnh nhân có dấu hiệu ghế đẩu dương tính.
Yếu cơ vùng ngọn chi thường xảy ra ở giai đoạn muộn của bệnh. Hay gặp nhất là
các nhóm cơ ở vùng vai và vùng đai chậu, sau đó đến cơ ở cổ, đặc biệt là những cơ
tham gia vào động tác gập cổ, xảy ra ở khoảng 50% các bệnh nhân viêm đa cơ và
viêm da cơ. Những cơ ở vùng mặt và các cơ vận nhãn hiếm khi bị tổn thương [39].
- Yếu cơ vùng hầu họng làm bệnh nhân khó nuốt hoặc khàn tiếng, yếu cơ liên sườn

dẫn đến khó thở.
- Đau cơ: gặp ở khoảng 50% các bệnh nhân và thường xảy ra nhiều hơn trong viêm
da cơ.
- Xơ hóa cơ có thể làm cơ rắn chắc và gây co rút cơ, dẫn đến hạn chế vận động của
khớp.
- Các men cơ trong huyết thanh tăng: CK, SGOT, SGPT, LDH, aldolase, trong đó,
men CK có độ đặc hiệu cao nhất với bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ. Trong đợt
tiến triển của bệnh, men CK có thể tăng trước khi có dấu hiệu yếu cơ khoảng vài
tuần đến vài tháng. Trong một số trường hợp, men CK có thể không tăng như:
bệnh ở giai đoạn muộn có teo cơ nhiều, bệnh ở giai đoạn sớm đặc biệt trong viêm
da cơ, bệnh kết hợp với ung thư [40].
- Điện cơ: khoảng 90% các bệnh nhân viêm đa cơ và viêm da cơ có những thay đổi
khi lần đầu ghi điện cơ ở cơ vùng gốc chi và cơ cạnh cột sống. Trên điện cơ, có
hình ảnh dễ bị kích thích của các sợi cơ khi nghỉ ngơi, khi co cơ thấy những điện
thế phức tạp, biên độ thấp [41].
- Sinh thiết cơ: thấy xâm nhập nhiều tế bào viêm mạn tính ở xung quanh các mạch
máu và tổ chức mô kẽ xung quanh các sợi cơ, chủ yếu là những tế bào lympho,
tương bào, mô bào và bạch cầu đa nhân. Các sợi cơ bị thoái hóa và hoại tử, có sự
tái tạo của các sợi cơ, trong đó hình ảnh đặc hiệu nhất là teo tổ chức liên kết xung
quanh các bó cơ. Trong quá trình tiến triển của bệnh, tổ chức liên kết xơ và/hoặc
mỡ sẽ thay thế những sợi cơ bị hoại tử và chia tách các bó cơ.
1.6.3. Da
Tổn thương da trong bệnh viêm da cơ là dấu hiệu đặc trưng của bệnh. Ban ở da có
thể xuất hiện trước khi có dấu hiệu yếu cơ vùng gốc chi khoảng một năm hoặc lâu
hơn.
 Ban màu đỏ hoặc tím ở vùng mi mắt, có thể kèm theo phù ở vùng mi mắt.
 Ban Gottron: ban màu đỏ tím ở mặt duỗi của các khớp ở ngón tay (gồm
khớp bàn ngón, khớp ngón gần) và mặt duỗi của khớp khuỷu, khớp gối,
khớp cổ chân.
 Bàn tay của người thợ cơ khí: hay gặp nhất ở những bệnh nhân viêm da cơ

có hội chứng kháng synthetase và các bệnh nhân có hội chứng hỗn hợp
(viêm da cơ kết hợp với xơ cứng bì).
 Ở giai đoạn bệnh tiến triển, những vùng da tổn thương sẽ bị teo và mất sắc
tố, có các ban đỏ và giãn mao mạch ở xung quanh móng tay giống như
những bệnh tự miễn khác.
 Sinh thiết da ở giai đoạn bệnh tiến triển thấy: teo da, thoái hóa và hóa lỏng
lớp tế bào đáy, thâm nhiễm nhiều bạch cầu lympho và tương bào ở xung
quanh các mạch máu trong lớp thượng bì. Trên miễn dịch huỳnh quang,
không có lắng đọng các globulin miễn dịch hay bổ thể ở giữa lớp thượng bì
và trung bì giống như bệnh lupus ban đỏ hệ thống [42].
















Ban Gottron ở mặt duỗi của các khớp bàn
ngón và khớp ngón gần



Ban Gottron ở mặt duỗi của khớp khuỷu tay




Ban màu đỏ tím ở vùng mi mắt


Ban đỏ ở vùng cổ và ngực
(dấu hiệu hình chữ V)




Bàn tay của người thợ cơ khí


Viêm mao mạch quanh móng tay

Hình 1.1: Các hình ảnh của tổn thương da trong bệnh viêm da cơ


1.6.4. Hô hấp
- Trong viêm đa cơ và viêm da cơ, các tổn thương hô hấp hay gặp gồm: viêm phổi
kẽ, viêm phổi do sặc, giảm quá trình thông khí do rối loạn chức năng của cơ hoành.
- Những tổn thương khác ít gặp hơn gồm: hội chứng suy hô hấp cấp, tràn dịch
màng phổi, tăng áp động mạch phổi, chảy máu phế nang lan tỏa, tràn khí màng
phổi và khó thở do bệnh lý tim mạch.
- Bệnh nhân có thể bị viêm phổi do thuốc và các nhiễm trùng cơ hội.
1.6.5. Khớp

- Đau khớp hoặc viêm khớp giống như viêm khớp dạng thấp, thường hay gặp nhất
ở các khớp nhỏ của bàn tay, khớp cổ tay và khớp gối.
- Viêm khớp thường xuất hiện sớm trong quá trình tiến triển của bệnh, hay gặp ở
những bệnh nhân có hội chứng kháng synthetase và khi bệnh kết hợp với các bệnh
tự miễn khác [43].
1.6.6. Tổn thương tim mạch
- Tỷ lệ bệnh nhân viêm đa cơ và viêm da cơ có tổn thương tim mạch giao động
trong khoảng từ 9- 72% tùy theo kết quả của từng nghiên cứu. Theo nghiên cứu
của Bohan, tổn thương tim mạch gặp nhiều hơn ở bệnh nhân viêm đa cơ và kháng
thể kháng Ro là một yếu tố nguy cơ của tổn thương tim mạch ở bệnh nhân viêm đa
cơ và viêm da cơ. Bệnh lý tim mạch có thể xảy ra trong tất cả các giai đoạn của
bệnh, ngay cả khi bệnh đã thuyên giảm [44].
- Ở những bệnh nhân có tổn thương tim mạch, triệu chứng lâm sàng thường hay
gặp nhất là suy tim. Theo một số nghiên cứu, khoảng 13- 72% bệnh nhân viêm đa
cơ và viêm da cơ có tổn thương tim mạch nhưng không có biểu hiện triệu chứng
trên lâm sàng và chỉ được phát hiện nhờ các phương pháp thăm dò như: điện tâm
đồ, siêu âm tim, chụp cộng hưởng từ tim [45].
- Trên điện tâm đồ: hay gặp nhất là rối loạn nhịp tim do rối loạn dẫn truyền gồm
bloc nhĩ thất hoàn toàn và bloc nhánh.
- Những thay đổi về cấu trúc tim gồm: phì đại thất trái và/hoặc nhĩ trái, giãn thất
trái. Bệnh lý van tim ít gặp. Các thay đổi về chức năng co bóp của tim gồm: rối
loạn chức năng tâm trương thất trái, giảm chức năng co bóp của toàn bộ cơ tim
hoặc khu trú. Tràn dịch màng tim với số lượng ít và không ảnh hưởng đến huyết
động. Khoảng 63- 75% bệnh nhân có tăng áp động mạch phổi.
- Trong một nghiên cứu của Vidya, khoảng 26% bệnh nhân viêm đa cơ và viêm da
cơ bị bệnh thiếu máu cơ tim. Theo kết quả của một nghiên cứu theo dõi dọc trong 6
năm gồm các bệnh nhân viêm đa cơ, thấy nguy cơ tử vong của bệnh nhân tăng gấp
4 lần, trong đó, nguy cơ tử vong do nhồi máu cơ tim tăng 16 lần, trích dẫn từ
nguồn [44].
- Những bệnh lý tim mạch có thể gây tử vong ở bệnh nhân viêm đa cơ và viêm da

cơ gồm: suy tim, rối loạn nhịp tim và nhồi máu cơ tim. Theo nghiên cứu của
Danko, các biến chứng tim mạch chủ yếu dẫn đến tử vong sau khi bệnh nhân mắc
bệnh khoảng 5 năm. Tổn thương tim mạch là một biến chứng thường gặp ở những
bệnh nhân viêm đa cơ và viêm da cơ và có tiên lượng xấu. Do các biểu hiện lâm
sàng của bệnh lý tim mạch ở bệnh nhân thường kín đáo nên bệnh được phát hiện
muộn.
1.6.7. Tổn thương mạch máu ngoại vi
- Hội chứng Raynaud: thường gặp ở các bệnh nhân viêm đa cơ và viêm da cơ có
hội chứng kháng synthetase và khi bệnh kết hợp với lupus ban đỏ hệ thống hoặc xơ
cứng bì toàn thể.
1.6.8. Các bệnh lý ung thư kèm theo
- Viêm đa cơ và viêm da cơ kết hợp với ung thư được Stertz đề cập đến lần đầu
tiên vào năm 1916, khi miêu tả ung thư dạ dày ở một bệnh nhân viêm đa cơ, trích
dẫn từ nguồn [46].
- Ở những bệnh nhân bị ung thư, viêm da cơ gặp nhiều hơn viêm đa cơ gấp 3 lần.
Trong một nghiên cứu dịch tễ học năm 2001, gồm 157 bệnh nhân viêm cơ tự miễn,
ung thư được phát hiện có ở 15% bệnh nhân viêm đa cơ và 30% bệnh nhân viêm
da cơ. Những bệnh nhân viêm đa cơ và viêm da cơ đều có nguy cơ cao bị ung thư
kết hợp, đặc biệt ở nhóm bệnh nhân viêm da cơ [47], [48].
- Các cơ quan bị ung thư thường phụ thuộc vào lứa tuổi. Ở những bệnh nhân viêm
đa cơ và viêm da cơ dưới 40 tuổi và trẻ em, tỷ lệ bị ung thư kết hợp thấp hơn khi so
sánh với các bệnh nhân mắc bệnh sau 40 tuổi. Khi bệnh nhân càng lớn tuổi thì
nguy cơ bị ung thư kết hợp càng cao [49], [50].
- Trong một nghiên cứu của So MW, gồm 151 bệnh nhân viêm đa cơ và viêm da
cơ tại Hàn Quốc, thấy ung thư phổi gặp nhiều nhất. Các yếu tố nguy cơ bị ung thư
kết hợp của bệnh nhân gồm: tuổi cao, viêm da cơ, có dấu hiệu khó nuốt, viêm
mạch ở đầu ngón tay, không có viêm phổi kẽ và men CK trong huyết thanh không
tăng [51].
- Các biểu hiện lâm sàng không có sự khác biệt giữa những bệnh nhân viêm cơ tự
miễn có hay không có ung thư kết hợp. Kết quả của một số nghiên cứu cho thấy, ở

phụ nữ viêm đa cơ và viêm da cơ thường kết hợp với ung thư buồng trứng và ung
thư vú. Những bệnh nhân nữ có nguy cơ bị ung thư buồng trứng tăng gấp 17 lần so
với người bình thường. Ở nam giới, thường hay gặp ung thư phổi và ung thư tiền
liệt tuyến kết hợp với viêm đa cơ và viêm da cơ. Ngoài ra, bệnh có thể kết hợp với
ung thư dạ dày, tụy, đại trực tràng, bàng quang và u lympho non Hodgkin [52].
- Cho đến nay, cơ chế chính xác của sự tăng nguy cơ bị ung thư kết hợp ở những
bệnh nhân viêm đa cơ và viêm da cơ vẫn chưa rõ ràng. Tuy nhiên, có giả thuyết
cho rằng, viêm đa cơ và viêm da cơ là kết quả của phản ứng chéo giữa các tế bào
ung thư và những sợi cơ bị tổn thương. Theo Carciola-Rosen, các tự kháng nguyên
đặc hiệu của viêm đa cơ và viêm da cơ như: Mi-2, Jo-1 có rất nhiều trong các sợi
cơ bị thoái hóa của bệnh nhân viêm đa cơ và viêm da cơ, trong adenocarcinoma
của phổi và tuyến vú. Những tự kháng nguyên có trong khối u sẽ hoạt hóa hệ thống
miễn dịch và sinh ra rất nhiều các tế bào lympho đặc hiệu. Sau đó, những tế bào
lympho này sẽ nhận biết và tấn công các tự kháng nguyên có trong những sợi cơ bị
viêm, làm các sợi cơ bị tổn thương nhiều hơn. Do đó, các tự kháng nguyên sẽ ngày
càng xuất hiện nhiều hơn trong sợi cơ và làm viêm cơ tiến triển nặng hơn. Như
vậy, một vòng xoắn bệnh lý sẽ tiến triển liên tục và làm viêm đa cơ và viêm da cơ
tiến triển nặng lên [53].
- Trong một nghiên cứu của Zampieri, gồm những bệnh nhân bị ung thư đại tràng
giai đoạn sớm và không có triệu chứng lâm sàng của viêm đa cơ hay viêm da cơ.
Tất cả các bệnh nhân được sinh thiết cơ ở thời điểm phẫu thuật ung thư đại tràng
trước khi điều trị ung thư. Kết quả sinh thiết cơ cho thấy, tăng số lượng các sợi cơ
tái sinh và không có thâm nhiễm các tế bào viêm, một hình ảnh mô bệnh học điển
hình thường gặp ở các bệnh nhân viêm đa cơ và viêm da cơ. Như vậy, ung thư đã
gây ra những tổn thương cơ mặc dù bệnh nhân không có biểu hiện triệu chứng trên
lâm sàng và những tổn thương cơ này có thể là nguyên nhân gây khởi phát làm các
tự kháng nguyên đặc hiệu với viêm đa cơ và viêm da cơ xuất hiện trong cơ, trích
dẫn từ nguồn [53].
Bảng 1.1: Các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng thường gặp
của bệnh viêm đa cơ [12], [54].

Triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh viêm đa cơ
1
Bệnh tiến triển từ từ, vài tuần đến vài tháng
2
Yếu cơ và teo cơ gốc chi xuất hiện âm thầm, giai đoạn muộn có tổn
thương cơ vùng ngọn chi
3
Gặp chủ yếu từ lứa tuổi trung niên đến người già, Nam/nữ= 1/2
4
Hiếm khi kết hợp với ung thư, có thể kết hợp với bệnh tự miễn khác
5
Nồng độ CK trong huyết thanh bình thường hoặc tăng cao
6
Có các kháng thể trong huyết thanh (Jo-1)
7
Điện cơ có hình ảnh kết hợp của tổn thương cơ và thần kinh
8
Triệu chứng đau cơ ít gặp
9
Đáp ứng một phần với corticoid và thuốc ức chế miễn dịch


Bảng 1.2: Các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng thường gặp
của bệnh viêm da cơ [12], [54].
Triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh viêm da cơ
1
Bệnh tiến triển cấp tính trong vài ngày (cấp tính) hoặc tiến triển từ từ, vài
tuần đến vài tháng (bán cấp)
2
Yếu cơ và teo cơ gốc chi xuất hiện âm thầm, giai đoạn muộn có tổn thương

cơ vùng ngọn chi
3
Gặp chủ yếu ở người trẻ và từ lứa tuổi trung niên đến người già,
Nam/nữ = 1/2
4
Thường kết hợp với ung thư hoặc với bệnh tự miễn khác
5
Có tổn thương da kèm theo
6
Nồng độ CK trong huyết thanh bình thường hoặc tăng cao
7
Có các kháng thể trong huyết thanh (Jo-1, Mi-2, Ro52)
8
Điện cơ có hình ảnh kết hợp của tổn thương cơ và thần kinh
9
Triệu chứng đau cơ hay gặp
10
Đáp ứng một phần với corticoid và thuốc ức chế miễn dịch

1.7. Các tự kháng thể trong bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ
Các tự kháng thể trong viêm đa cơ và viêm da cơ được chia thành 2 nhóm chính:
kháng thể đặc hiệu với bệnh và kháng thể kết hợp với bệnh [55].
1.7.1. Các kháng thể đặc hiệu với viêm đa cơ và viêm da cơ. Đó là kháng thể
kháng lại những thành phần của nhân hoặc bào tương tế bào. Những thành phần
này có liên quan đến quá trình chuyển đoạn và phiên mã gen, tổng hợp protein và
phản ứng chống virut của tế bào. Khoảng 50% bệnh nhân có các tự kháng thể đặc
hiệu với viêm đa cơ và viêm da cơ.
1.7.1.1. Nhóm kháng thể kháng synthetase: là kháng thể kháng những enzym
aminoacyl-tRNA synthetase có trong bào tương của tế bào và hay gặp nhất trong
các kháng thể đặc hiệu của bệnh. Trong đó, kháng thể kháng Jo-1 chiếm một tỷ lệ

cao nhất (khoảng 20% bệnh nhân viêm đa cơ và viêm da cơ), sau đó, đến những
kháng thể kháng 7 enzym aminoacyl-tRNA synthetase khác gồm: threonyl (PL-7),
ananyl (PL-12), glycyl (EJ), isoleucyl (OJ), asparaginyl (KS), tyrosyl (Ha) và
phenylalanyl (Zo) với tỷ lệ của mỗi kháng thể giao động trong khoảng từ 1- 5%
các bệnh nhân. Các enzyme này là những thành phần cơ bản của bộ máy phiên mã
bởi vì mỗi một enzyme sẽ xúc tác cho sự este hóa của một amino acid với tRNA
đặc hiệu [33], [34].
Các enzyme aminoacyl-tRNA synthetase trở thành tự kháng nguyên có rất nhiều
trong những tế bào cơ bị tổn thương, làm tăng sự hóa ứng động của tế bào, gây
hoạt hóa các phản ứng miễn dịch và dẫn đến sự tiến triển của bệnh viêm đa cơ và
viêm da cơ [56].
Những bệnh nhân có kháng thể kháng synthetase, trên lâm sàng sẽ có hội chứng
kháng synthetase gồm 6 tổn thương cơ bản: sốt, viêm cơ, viêm phổi kẽ, hội chứng
Raynaud, bàn tay của người thợ cơ khí và viêm khớp. Những tổn thương này có
thể xuất hiện sớm ngay ở giai đoạn đầu của bệnh hoặc muộn hơn trong quá trình
tiến triển của bệnh. Các tổn thương của hội chứng kháng synthetase xuất hiện
không đồng nhất, trong đó, có một số tổn thương biểu hiện nổi bật hoặc là một tổn
thương xuất hiện duy nhất của hội chứng kháng synthetase [57], [58].
Tuy cùng thuộc nhóm kháng thể kháng synthetase nhưng mỗi kháng thể lại có
những biểu hiện triệu chứng lâm sàng khác biệt, đặc trưng riêng cho từng kháng
thể. Kháng thể kháng Jo-1 thường gặp ở bệnh nhân viêm đa cơ, còn các kháng thể
kháng KS, OJ và PL-12 chủ yếu gặp ở bệnh nhân viêm da cơ. Bệnh viêm phổi kẽ
rất hay gặp ở nhóm bệnh nhân có kháng thể kháng synthetase (khoảng 70- 95%),

×