CHƯƠNG 1 - MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN
1.1. Những khái niệm liên quan
1.1.1. Khái niệm về xúc tiến XK (XTXK)
Hiện nay trên thế giới có nhiều định nghĩa khác nhau về XTXK. Có thể tạm chia
ra làm hai loại khái niệm về XTXK: khái niệm truyền thống (khái niệm hẹp) và khái niệm
hiện đại (khái niệm rộng).
1.1.1.1. Khái niệm truyền thống về XTXK
Cách tiếp cận này xem XTXK là một "P" của Marketing hỗn hợp, bao gồm sản
phẩm (Product), giá cả (Price), phân phối (Place) và xúc tiến (Promotion). Đồng thời, chủ
thể của hoạt động XTXK là DN trong mối tương quan với khách hàng. Một số khái niệm
tiêu biểu thuộc loại này:
1) Philip Kotler [1] "Xúc tiến là hoạt động thông tin tới khách hàng tiềm năng. Đó
là các hoạt động trao truyền, chuyển tải tới khách hàng những thông tin cần
thiết về DN, sản phẩm của DN, phương thức phục vụ và những lợi ích khác mà
khách hàng có thể thu được từ việc mua sản phẩm hay dịch vụ của DN cũng như
những thông tin phản hồi lại từ phía khách hàng để từ đó, DN tìm ra cách tốt nhất
nhằm thoả mãn yêu cầu của khách hàng"
2) Theo Viện Nghiên cứu Thương mại [2], các nhà lý luận của các nước tư bản
quan niệm xúc tiến là hình thái quan hệ giữa người bán và người mua, là một
lĩnh vực hoạt động định hướng vào việc chào hàng một cách nă
ng động và hiệu
quả nhất. Các nhà kinh tế học ở các nước Đông Âu thì cho rằng xúc tiến là một công
cụ, một chính sách thương mại nhằm làm năng động và gây ảnh hưởng định hướng
giữa người bán và người mua, là một hình thức hoạt động tuyên truyền nhằm mục tiêu
đạt được sự chú ý và chỉ ra những lợi ích của khách hàng tiềm năng về hàng hoá và
dịch vụ.
3) UNESCAP [3] cho r
ằng "Giống như xúc tiến thương mại, đó là những hoạt
động được thiết kế nhằm gia tăng kim ngạch XK của một DN hay một quốc gia.
Bao gồm việc tham gia hội chợ, khảo sát thị trường, các chiến dịch quảng
cáo…"
1
1.1.1.2. Khái niệm hiện đại về XTXK
Trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế, bản chất của thương mại quốc tế cũng có
những biến đổi sâu sắc. Đi liền với những cơ hội mới là những thách thức lớn lao đòi hỏi
phải có những biện pháp phối hợp đồng bộ giữa chính phủ và DN để thúc đẩy XK phát
triển. Điển hình là một số khái niệm sau :
1) Trung tâm Thương mại Quốc tế (ITC) [4] quan niệm XTXK bao trùm cả tầm
vi
mô (DN) và vĩ mô (chính phủ và các tổ chức hỗ trợ thương mại) và cả trong
ngắn hạn lẫn dài hạn.
Trước mắt Dài hạn
DN Quá trình XK Phát triển kinh doanh XK
(Marketing XK) (Marketing quốc tế)
Chính phủ và các tổ chức XTXK Phát triển XK
hỗ trợ thương mại (TSIs)
Quan niệm này của ITC là rất rộng và chứa đựng tất cả các biện pháp nhằm phát triển XK
trên bình diện quốc gia. Có hai loại biện pháp là gián tiếp và trực tiếp. Các biện pháp gián
tiếp nhằm cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao tính cạnh tranh bền vững cho DN
như cải thiện năng suất, chất lượng, cải cách hệ thống thuế, tài chính, hành chính, cơ sở hạ
tầng, giảm chi phí đầu vào ... Các biện pháp trực tiếp nhằm kích thích nhu cầu, bao gồm
nội dung XTXK truyền thống cùng với nỗ l
ực của chính phủ trong đàm phán hội nhập
kinh tế quốc tế.
2) G. Albaum, J. Strandskov và E. Duerr trong “Quản trị XK và Marketing quốc
tế” [5] quan niệm XTXK bao gồm các chính sách và chương trình do các tổ
chức của chính phủ thực hiện nhằm đẩy mạnh hoạt động XK. Các chương trình
này có thể được tài trợ và thực hiện một cách độc lập bởi chính phủ hoặc phối hợp giữa
chính phủ với các DN.
3) Đị
nh nghĩa của Todaro Micheal [6] "XTXK là những nỗ lực có chủ đích của
chính phủ nhằm gia tăng khối lượng XK của một quốc gia thông qua những
chính sách khích lệ và các biện pháp khác, qua đó thu được nhiều ngoại tệ để
cải thiện cán cân thanh toán quốc gia"
2
Tác giả hoàn toàn tán đồng quan điểm XTXK theo nghĩa rộng. Đó không còn là công việc
riêng lẻ của các DN nhưng phải có sự phối hợp giữa chính phủ, các tổ chức xúc tiến
chuyên nghiệp và cộng đồng DN. Do đó, tác giả quan niệm về XTXK như sau "XTXK là
những nỗ lực chung của cả quốc gia nhằm gia tăng kim ngạch XK của đất nước thông qua
các biện pháp kinh tế và phi kinh tế, nhờ đó thu được nhi
ều ngoại tệ hơn góp phần cải
thiện cán cân thanh toán quốc gia"
1.1.2. Xúc tiến XK và xúc tiến thương mại (XTTM)
Ngày nay, thuật ngữ XTTM (trade promotion) phổ biến hơn so với XTXK (export
promotion) tuy trong hầu hết trường hợp, XTTM vẫn mang ý nghĩa của XTXK. Thực ra,
XTTM là một thuật ngữ bao hàm ba nội dung: XTXK, xúc tiến nhập khẩu và XTTM trên
thị trường nội địa. Tuy nhiên ở các quốc gia đang phát triển, XTTM thường được đồng
nhất v
ới XTXK do tầm quan trọng của XK đối với phát triển kinh tế quốc gia.
e Kinh nghiệm của Nhật Bản và Hàn Quốc trong thập niên 50 ~ 60 của thế kỷ 20
và thực tiễn của các nước đang phát triển cho thấy XTTM cũng chính là XTXK.
Điều này được phản ánh một cách rõ rệt trong hoạt động XTTM của các quốc
gia này.
e Tài liệu huấn luyện về XTTM của UNESCAP cũng xem XTTM cũng là XTXK
[7].
e Diễn đàn “Định nghĩa lại XTTM”[8] do ITC khởi xướng vào năm 1999 nhấn
mạnh đến sự hợp tác giữa chính phủ, TSIs và cộng đồng DN đặt chiến lược XK
quốc gia là trọng tâm của hoạt động XTTM, đồng thời nhấn mạnh đến các giải
pháp về XTXK trong bối cảnh thương mại thế giới có nhiều biến động như hiện
nay.
Tại Việt Nam, nội dung của nhiều văn bản pháp luật quan trọng cũng thể hiện quan điểm
xem XTTM và XTXK là một.
e Chiến lược Phát triển Kinh tế - xã hội 2001 - 2010 nêu “Chủ động và tích cực
thâm nhập thị trường quốc tế, chú trọng thị trường các trung tâm kinh tế thế
giới, duy trì và mở rộng thị phần trên các thị trường quen thuộc, tranh thủ mọi
cơ hội mở thị trường mới. Từng bước hiện đạ
i hoá phương thức kinh doanh phù
3
hợp với xu thế mới của thương mại thế giới. Đẩy mạnh hoạt động tiếp thị, XTTM,
thông tin thị trường bằng nhiều phương tiện và tổ chức thích hợp, kể cả các cơ quan
đại diện ngoại giao ở nước ngoài. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài
nước tham gia các hoạt động môi giới, khai thác thị trường quốc tế …”[9]
e Quan điểm của chính phủ “... . Công tác thị trường, XTTM có ý nghĩa rất quan
trọng, phải được triển khai mạnh mẽ nhằm tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho
XK. Các chương trình XTTM, mở rộng thị trường cần được cụ thể hóa và gắn
với hoạt động đối ngoại, tranh thủ ngoại giao hỗ trợ việc ký kết các Hiệp định khung,
các Thỏa thuận và các Hợp đồng dài h
ạn có giá trị lớn với các quốc gia, các Tổ chức
quốc tế, các thị trường lớn để tạo đầu ra ổn định và từ đó có cơ sở cho đầu tư đổi mới
công nghệ, nâng cao giá trị nội địa hóa, giá trị gia tăng hàng XK…”[10]
Xét cho cùng, việc đồng nhất XTXK với XTTM cũng không trái với nguyên lý chung là
XTXK là một bộ phận của XTTM. Để diễn tả chính xác nội dung sự việc, tác giả v
ẫn sử
dụng thuật ngữ XTXK. Nhưng để tôn trọng nguyên tắc khách quan, tác giả sẽ giữ nguyên
cách sử dụng thuật ngữ XTTM của tài liệu được trích dẫn.
1.1.3. Xúc tiến XK và phát triển XK
Khái nịêm phát triển XK khác với XTXK ở chỗ phát triển XK nhắm đến việc sản xuất ra
các sản phẩm mới và/hoặc xâm nhập vào những thị trường mới. Mục tiêu của các hoạt
động phát triển XK là xác định các cơ hội đang có và khuyến khích sự phát triển của các
ngành công nghiệp mới hoặc đầu tư vào các thiết bị sản xuất mới nhằm thoả mãn những
như cầu mới của thị trường quốc tế.
Nói rộng hơn, phát triển XK cũng bao hàm vấn đề điều chỉnh sản phẩm, nghĩa
là sử dụng các thiết bị sản xuất có sẵ
n để sản xuất ra những sản phẩm mới thay vì chỉ sản
xuất những sản phẩm truyền thống nhằm xâm nhập các thị trường mới.
Khái niệm phát triển XK như thế đòi hỏi nhiều nỗ lực, tài lực và kiên trì hơn là XTXK
truyền thống. Điều này lý giải vì sao phát triển XK không phải lúc nào cũng được áp dụng
ở nhiều quốc gia.
1.1.4. Tầm quan trọng của xúc tiến XK
4
Có thể xem vai trò của XTXK cũng chính là vai trò của XK đối với nền kinh tế của một
quốc gia:
e Giúp gia tăng thị phần hàng hoá của quốc gia trên thị trường quốc tế.
e Tăng khả năng cạnh tranh và nâng cao vị thế của sản phẩm XK trên thị trường
quốc tế.
e Lành mạnh hoá tình hình tài chính quốc gia, đảm bảo sự cân đối trong cán cân
thanh toán, giảm tình hình nhập siêu.
e Đảm bảo nguồn ngoại tệ mạnh, tăng tích luỹ vốn, mở rộng sản xuất, phục vụ quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá quốc gia.
e Tạo công ăn việc làm, cải thiện mức sống nhân dân.
e Khai thác các lợi thế tuyệt đối và tương đối của quốc gia, kích thích các ngành
kinh tế phát triển.
e Giúp phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại với tất cả các quốc gia trên thế giới. Như vậy,
XTXK không chỉ là một nhiệm vụ kinh tế thuần tuý nhưng thật sự là một yêu cầu cấp bách
và khách quan đối với tất cả các quốc gia đang phát triển hoặc đang trong giai đoạn
chuyển đổi kinh tế.
1.2. Phân loại xúc tiến XK
Có thể phân loại XTXK theo nội dung (thông tin, khảo sát thị trường, quảng cáo,
hội chợ, triển lãm …) hoặc chủ thể của hoạt động XTXK (DN, chính phủ, cơ quan
XTXK, các hiệp hội DN …) … Luận văn sẽ phân loại XTXK theo chủ thể của hoạt
động này.
1.2.1. Xúc tiến XK của DN
DN luôn phải giải quyết ba vấn đề quan trọng trong kinh doanh :
1) Có nên tham gia vào thị trường quốc tế không ? Điều này tuỳ thuộc tình hình
cạnh tranh trên thị trường nội địa; tình hình hội nhập kinh tế; các cơ hội mới trên
thị trường quốc tế; thông tin; vận tải …
2) Đâu là thị trường mục tiêu cho sản phẩm, dịch vụ của DN ? Đó có thể là một
quốc gia, một khu vực hoặc thị trường toàn cầu. Điều này phụ thuộc vào chiến
lược của DN.
5
3) Công ty sẽ xâm nhập thị trường mục tiêu bằng phương thức nào để đưa sản
phẩm, dịch vụ đến với người tiêu dùng ?
Dựa trên các thông tin kinh tế có độ tin cậy cao và kết quả khảo sát thị trường, các DN có
thể ra quyết định về chiến lược, chính sách phù hợp xâm nhập thị trường mục tiêu. Một
khi đã thành công, DN cần phải tiếp tục củng cố và mở rộng thị phần, phát triển kinh
doanh thông qua các chiến lược cụ thể.
Kinh nghiệm cho thấy đa số DN đều gặp khó khăn về thị trường và thông tin trong XK.
Hơn nữa, đối với các DNVVN, chi phí cho công tác XTXK là một vấn đề nan giải. Vì thế,
các DNVVN rất cần sự hỗ trợ từ các tổ chức XTXK.
1.2.2. Xúc tiến XK quốc gia
Hai chủ thể chịu trách nhiệm chính về XTXK ở tầm quốc gia là các tổ chức XTXK của
chính phủ và các hiệp hội DN.
e Các tổ chức XTXK chính phủ
Ngoài chức năng thiết lập một hành lang pháp lý thông suốt, một môi trường thuận lợi cho
hoạt động kinh tế, chính phủ còn thành lập các tổ chức XTXK nhằm hỗ trợ các DN trong
các hoạt động XTXK một cách hữu hiệu.
Các tổ chức XTXK chính phủ có tiềm lực vượt trội hơn so với DN, hiệp hội DN và
các tổ chức XTXK khác. Đó là cơ sở vật chất hiện đại, mạng lưới rộng khắp trong
và ngoài nước, kinh phí hoạt động lớn, nhân sự ưu tuyển và ưu thế chính trị trong
đối ngoại.
Các tổ chức XTXK chính phủ có một vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động XTXK
của quốc gia. Đặc biệt, các tổ chức này là chỗ dựa quan trọng cho các DNVVN trong
XTXK.
e Hiệp hội DN
Các hiệp hội DN cũng có vai trò to lớn trong các hoạt động XTXK của quốc gia. Hiệp hội
DN thường là các tổ chức phi chính phủ, phi lợi nhuận, do các DN cùng ngành lập ra
nhằm bảo vệ quyền lợi và hỗ trợ lẫn nhau trong hoạt động kinh doanh. Do đó, ưu điểm của
hiệp hội trong XTXK là dễ định hướng trong thu thập thông tin, có thị trường mục tiêu
chung, đối tượng phục vụ hẹp và tính chuyên môn cao.
1.2.3. Xúc tiến XK quốc tế
6
Hầu hết các quốc gia ngày này đều nỗ lực mở cửa thị trường, tham gia hội nhập kinh tế
quốc tế vì những lợi ích to lớn do thương mại quốc tế mang lại. Các học thuyết lợi thế so
sánh của David Ricardo (1772 - 1823) và của E. Hecksher - B. Ohlin khẳng định thương
mại quốc tế có tính tất yếu khách quan và mang lại lợi ích cho mọi quốc gia, giàu cũng
như nghèo, tuy mức độ có khác nhau.
Chính vì thế, các t
ổ chức quốc tế ngày nay đang thúc đẩy mạnh mẽ quá trình tự do hoá
thương mại và đầu tư trên phạm vi toàn cầu. Các nỗ lực XTXK của quốc tế được thực hiện
thông qua nhiều phương thức khác nhau:
1) Pháp chế hoá hoạt động thương mại quốc tế thông qua các cơ quan hàng đầu
như Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO),
Phòng Th
ương mại Quốc tế (ICC)
2) Thúc đẩy các hoạt động nhằm thuận lợi hoá môi trường thương mại quốc tế
thông qua vai trò của các cơ quan như Tổ chức Hải quan Quốc tế (WCO), Tổ
chức Quốc tế về Tiêu chuẩn hoá (ISO)
3) Hỗ trợ cơ chế đối thoại, các khu vực mậu dịch tự do nhằm thúc đẩy tiến trình hội
nhập thương mại quốc tế diễn ra nhanh hơn như Diễn đàn về Thương mại và
Phát triển của Liên Hiệp Quốc (UNCTAD), Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF),
Diễn dàn Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC), các khu vực mậu dịch tự do như
Asean, EU, Nafta.
4) Hỗ trợ các quốc gia kém phát triển về kỹ thuật XTTM thông qua Trung tâm
Thương mại quốc tế (ITC), về tài chính thông qua Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và
Ngân hàng Thế giới (WB)
Ngoài ra, còn có s
ự tham gia tích cực của nhiều tổ chức XTXK quốc tế khác. Tất cả đã
góp phần tích cực giúp thương mại quốc tế phát triển nhanh chóng và vững chắc. Nếu
tổng giá trị hàng hoá thương mại thế giới của năm cơ sở 1948 (năm đầu tiên của Hiệp định
chung về Thuế quan và mậu dịch - GATT) chỉ là 58 tỷ USD thì đến năm 2002 vừa qua,
con số này đã lên đến 6.272 ngàn tỷ
USD. Nghĩa là chỉ sau gần 50 năm theo đuổi tự do hoá
thương mại, giá trị thương mại quốc tế đã tăng hơn 100 lần. Ngoài ra, khi mới thành lập
các thành viên của GATT chỉ chiếm khoảng 60% giá trị thương mại quốc tế thì con số này
đã tăng lên đến hơn 90% vào năm 2002.
7
1.3. Các tổ chức XTXK chính phủ
1.3.1. Tại sao vai trò các tổ chức XTXK chính phủ ngày càng quan trọng ?
Lịch sử phát triển ngoại thương của nhiều nước cho thấy trước đây, các tổng công ty
thương mại (GTCs) của Nhật Bản như Mitsubishi, Mitsui, Sumitomo .. hoặc "chaebols"
của Hàn Quốc như Samsung, Deawoo, Huyndai … đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt
động XK quốc gia.
Đối với các nền kinh tế kế hoạch hoá trước đây, các công ty thương mại nhà nước (STEs)
cũng có vai trò tương tự. Ở New Zealand và Canada, các STEs được tổ chức dưới hình
thức các ủy ban marketing cho từng loại sản phẩm như sữa, táo, lê, lúa mì ... Nhìn chung,
dù dưới hình thức nào, các GTCs hoặc STEs thường nhận được rất nhiều ưu đãi của chính
phủ so với các DN khác.
Tuy nhiên, môi trường luật thương mại quốc tế ngày nay có khuynh hướng đối xử
bình đẳng đối với mọi DN, đặc biệt khuyến khích sự vương lên của các DNVVN.
WTO đã có những quy định riêng về các GTCs để hạn chế sự lạm dụng vị thế của
nó. Dưới sức ép của WTO và tình hình cạnh tranh quốc tế, chính phủ các nước buộc
phải cải tổ lại các GTCs. Sự suy yếu của các GTCs có tác động gián tiếp đến XK
của quốc gia và của các DNVVN do trước đây họ thường XK thông qua các GTCs
này.
Trong bối cảnh đó, vai trò của các DN tư nhân và DNVVN trong XK đang ngày được đề
cao. Tuy nhiên, do các DN này còn thiếu kinh nghiệm và khả năng để tự làm XTXK, do
đó họ phải dựa vào các tổ chức XTXK chính phủ, hiệp hội dianh nghiệp và các tổ chức hỗ
trợ thương mại khác. Vì thế, vai trò của các tổ chức XTXK chính phủ sẽ ngày càng trở nên
quan trọng hơn.
1.3.2. Chức năng của các tổ chức XTXK chính phủ
Các tổ chức XTXK chính phủ có thể đảm nhiệm nhiều chức năng khác nhau tuỳ theo quốc
gia, tuy nhiên chức năng chính của họ vẫn là XTXK
1) Hỗ trợ tổng quát hoạt động XK quốc gia, hỗ trợ các DN xác định sản phẩm xuất
.khẩu và thị trường tiêu thụ, tiến hành các hoạt động xúc tiến, quảng bá thương
hiệu, giúp thuận lợi hoá thương mại và các hoạt động khác liên quan.
8
2) Lãnh đạo việc phối hợp soạn thảo, theo dõi thực hiện và điều chỉnh chiến lược
XK quốc gia, thiết kế các mối liên hệ chức năng nhằm thực hiện chiến lược hiệu
quả, tư vấn cho chính phủ về chính sách thương mại hiện hành và kiến nghị
những sửa đổi nếu cần thiết.
3) Hợp tác kinh tế với các cơ quan quốc tế, tổ chức các đoàn khảo sát thị trường,
hội chợ thương mại, triển lãm, trao đổi thông tin và tài liệu, hội thảo về các chủ
đề liên quan đến thương mại.
4) Phát triển XK, mục tiêu là phát triển những sản phẩm, dịch vụ mới để XK cũng
như xâm nhập các thị trường mới.
5) Thúc đẩy cả đầu tư trong nước lẫn đầu tư nước ngoài. 6)
Hỗ trợ tín dụng XK.
7) Thuận lợi hoá thương mại, đặc biệt một số quốc gia xem việc thuận lợi hoá
thương mại cũng quan trọng không kém XTXK như Singapore
Ví dụ, Jetro (Nhật Bản) có các chức năng như sau : 1) Xúc tiến XK, 2) Xúc tiến nhập khẩu,
3) Xúc tiến đầu tư, 4) Xúc tiến chuyển giao công nghệ, 5) Thành lập và điều hành các tiện
ích hội chợ thương mại và 6) Chức năng nghiên cứu, đề xuất đường lối, chính sách
(think-tank).
Như vậy, chức năng của các tổ chức XTXK chính phủ phụ thuộc vào trình độ phát triển
kinh tế. Đối với các quốc gia đang phát triển thì XTXK luôn là ưu tiên quan trọng nhất.
Tuy nhiên, với các quốc gia đã phát triển như Nhật bản, ngoài XTXK họ còn nhấn mạnh
đến cả xúc tiến nhập khẩu nhằm giúp nền kinh tế phát triể
n cân đối.
1.3.3. Yêu cầu về mặt tổ chức của các cơ quan XTXK chính phủ
Các tổ chức XTXK chính phủ cần có một số các điều kiện sau về mặt cơ cấu tổ chức để
thành công trong hoạt động.
1) Có vị trí trong cơ cấu của chính phủ để sử dụng những phương tiện và quyền
hạn cần thiết nhằm bảo đảm thực hiện nhiệm vụ được giao.
2) Tự chủ về quản lý các nguồn lực và tổ chức hoạt động. Nguồn lực phải được
đảm bảo tương xứng với chức năng được giao phó.
3) Có đại diện của cộng đồng DN tham gia điều hành. Nếu không, nhiệm vụ khó
thực hiện hiệu quả do thiếu sự hậu thuẫn của cộng
đồng DN.
9
Tất cả các điều kiện trên đều quan trọng, nhưng quan trọng nhất vẫn là quyền tự chủ và
ngân sách phải được đảm bảo để các tổ chức XTXK chính phủ có thể tự chủ hoàn toàn
trong hoạt động.
1.3.4. Vị trí của tổ chức XTXK trong bộ máy chính phủ
Qua khảo sát các tổ chức XTXK trên thế giới, UNESCAP đã khái quát như sau
1) 33% trong tổng số các tổ chức XTXK trực thuộc một bộ trong chính phủ. Tuy
nhiên, các tổ chức XTXK đó thường bị lệ thuộc vì nhiều ràng buộc khác nhau.
2) 10% trong tổng số các tổ chức XTXK độc lập hoàn toàn với chính phủ. Các tổ
chức XTXK này có quyền tự chủ cao trong hoạt động nhưng trong nhiều trường
hợp, họ lại thực hiện nhiều chức năng ngoài phạm vi của XTXK.
3) 7% trong tổng số các tổ chức XTXK là hoàn toàn do cộng đồng DN lập và điều
hành, có thể trực thuộc phòng thương mại hoặc hiệp hội DN. Số lượng các tổ
chức XTXK này ít vì khả năng tài trợ của các DN có hạn.
4) Phần còn lại (50%) là các tổ chức XTXK tuy vẫn do chính phủ thành lập và
được ngân sách tài trợ hoàn toàn nhưng có quyền tự chủ cao (tuy thực tế không
phải lúc nào họ cũng có quyền tự chủ hoàn toàn do thiếu kinh phí hoặc can thiệp
từ chính phủ). Đây được xem là mô hình tốt nhất hiện nay cho các tổ chức XTXK
chính phủ. Đa số các tổ chức thuộc loại này đều có mối quan hệ đặc biệt với một bộ
trong chính phủ, thường là bộ Thương Mại và/hoặc Bộ Công Nghiệp, cũng có khi là
bộ Ngoại thương, Ngoại giao hoặc Tài chính.
1.3.5. Cơ cấu tổ chức
Trong thực tế, không có một mô hình tổ chức lý t
ưởng duy nhất cho mọi cơ quan XTXK.
Cơ cấu này cần được điều chỉnh theo điều kiện cụ thể của từng quốc gia. Nhìn chung, một
tổ chức XTXK nên có các bộ phận quan trọng sau đây 1) Bộ phận phát triển sản phẩm
và thị trường, chịu trách nhiệm xác định,
nghiên cứu các sản phẩm có tiềm năng XK. Đây là nơi quy tụ những chuyên gia
về thị
trường, thủ tục XNK và các quy định khác liên quan đến thị trường mục
tiêu. Họ tư vấn cho các DN cách xâm nhập thị trường mục tiêu.
2) Bộ phận thông tin thương mại là hạt nhân của tổ chức XTXK vì nó có nhiệm
vụ đáp ứng mọi yêu cầu của DN liên quan đến thông tin về thị trường XK. Nếu
10
bộ phận này có liên kết chặt chẽ với trung tâm thông tin quốc gia thì việc cung cấp chất
lượng chắc chắn là tốt hơn. Ví dụ : Phòng dịch vụ thông tin của Jetro hoặc Phòng
thông tin thương mại của Kotra.
3) Bộ phận nghiên cứu chuyên về môi trường pháp lý, điều kiện thương mại của
các quốc gia khác. Bộ phận này giám sát quá trình xâm nhập thị trường nước
ngoài và những tác động đến thương mại nước sở tại. Dựa vào đó, tổ chức
XTXK sẽ cố vấn cho chính phủ về chính sách xâm nhập thị trường nước ngoài. 4) Bộ
phận tư vấn cho cộng đồng DN về thủ tục thương mại, lưu thông,
marketing, chi phí, giá cả, chất lượng sản phẩm, tính tương thích của sản phẩm,
bao bì XK, chào hàng và các vấn đề pháp lý khác.
5) Bộ phận tổ chức kh
ảo sát thị trường, hội chợ quốc tế, đảm nhiệm vấn đề hậu
cần cho các cuộc triển lãm và chuẩn bị tài liệu marketing và xuất bản.
6) Bộ phận xúc tiến đầu tư : Nếu tổ chức XTXK được giao cả nhiệm vụ thu hút
vốn đầu tư nước ngoài FDI. Ví dụ Phòng xúc tiến đầu tư của Kotra aøv Jetro.
7) Bộ phận đào tạo cho tổ ch
ức XTXK và các DN XK. Tuy nhiên, theo
UNESCAP thì tốt hơn nên uỷ thác việc này cho một tổ chức chuyên môn độc
lập và chỉ đáp ứng những nhu cầu đào tạo đặc biệt. Ví dụ : Phòng phát triển
nhân lực của Kotra
8) Bộ phận quản trị về quản lý ngân sách, kế toán, nhân sự. Bộ phận này có thể
báo cáo trực tiếp cho cấp lãnh đạo cao nhất.
Cơ cấu tổ chức cũng không nên bất di bất dịch mà cần được xem xét lại hàng năm nhằm
đáp ứng yêu cầu của thực tế hoạt động XK tốt hơn.
1.3.6. Mạng lưới thương vụ ở nước ngoài
Đây là cánh tay nối dài hết sức quan trọng của tổ chức XTXK. Thương vụ có vai trò cung
cấp thông tin về thị trường nước sở tại, hỗ trợ các đoàn tham gia hội chợ, khảo sát thị
trường và theo dõi các chính sách thươ
ng mại của nước sở tại. Có nhiều hình thức tổ chức
thương vụ ở nước ngoài.
1) Nếu tổ chức XTXK chính phủ được tự chủ trong hoạt động thì nên trực tiếp thiết
lập, bổ nhiệm nhân sự và cấp ngân sách cho hệ thống thương vụ. Đây là cách
11
làm tốt nhất đảm bảo tổ chức XTXK có toàn quyền chỉ đạo và kiểm soát hoạt động của
thương vụ ở nước ngoài.
2) Nếu tổ chức XTXK là cơ quan trực thuộc một bộ trong chính phủ, họ cần phải
thiết lập một cơ chế hợp tác nhằm thông qua đó nối kết tổ chức XTXK, các cơ
quan khác thuộc bộ với hệ thống thương vụ ở nước ngoài một cách gián tiếp.
Đây chính là trường hợp của Vietrade hiện nay.
3) Nếu chưa có khả năng lập văn phòng thương vụ riêng thì nên thông qua bộ
Ngoại giao để bổ nhiệm một quan chức thuộc đại sứ quán hoặc lãnh sự quán làm
tham tán thương mại hỗ trợ cho tổ chức XTXK trong nước. Tương tự như ở trên,
điều quan trọng là phải thiết lập được kênh thông tin thông suốt giữa vị tham tán
thương mại này và tổ chức XTXK ở trong nước.
4) Với những thị trường mới, thay vì thành lập thương vụ, tổ chức XTXK có thể
thương lượng và bổ nhiệm một doanh nhân có uy tín của nước sỡ tại Đại diện
thương mại danh dự (Honorary Trade Representative - HTR). HTR phải là một
nhân vật có tầm ảnh hưởng quan trọng đến việc phát triển thương mại song phương, có
khả năng tư vấn hoạt động thương mại và hỗ trợ các đoàn khảo sát thị trường. DEP của
Thái Lan có một số Honorary Trade Advisor (HTA) tương tự như thế.
Theo kinh nghiệm của các tổ chức XTXK, các thương vụ chỉ hoạt động hiệu quả khi có
các điều kiện sau
1) Tổ chức XTXK chính phủ phải hỗ trợ toàn diện hoạt động của thương vụ và
theo dõi kết quả hoạt động của họ. Phải có một bộ phận của tổ chức XTXK chịu
trách nhiệm hỗ trợ các thương vụ và liên kết thương vụ với các bộ phận khác
của tổ chức XTXK
12
Sơ đồ 1 - Mô hình tổ chức của một cơ quan XTXK
Cơ quan quản trị cao cấp
e Định hướng chiến lược e
Quyết định chính sách
Bộ phận hành chính,
tài chính và nhân sự
Bộ phận phát triển
thị trường, nghiên
cứu và tư vấn
Bộ phận phát triển sản
phẩm, nghiên cứu công
nghiệp, các chương trình
XK
Bộ phận hoạch định và nghiên cứu
e Giám sát sự phát triển thương mại
quốc tế
.
Bộ phận thương vụ ở
nước ngoài
Bộ phận thông tin
thương mại (TIS)
e Thu thập thông tin
thương mại.
e Phổ biến thông tin
qua các báo cáo,
ấn phẩm.
e Thư viện thông tin e
Yêu cầu thông tin
e Nghiên cứu và tư vấn về các vấn đề
Bộ phận dịch vụ tư vấn
chính sách thương mại
e Tư vấn về
chính sách thương mại.
e Tìm kiếm nguồn tài trợ XK e
Đào tạo về quản trị XK
Nguồn : UNESCAP
2) Các tham tán thương mại cần phải được đào tạo tương xứng về mặt chuyên môn
nhằm hoàn thành tốt vai trò của họ, đồng thời cần phải hiểu biết tường tận về lợi
ích quốc gia trong mối quan hệ với thị trường mục tiêu.
3) Các tham tán thương mại phải về nước hàng năm (hoặc ít nhất hai năm một lần)
để báo cáo về
những phát triển mới nhất trong hoạt động thương mại và duy trì
các quan hệ với cộng đồng DN và các cơ quan chính phủ liên quan với thị
trường mục tiêu. Chế độ bổ nhiệm tham tán thương mại phải có thời hạn với một cơ
chế luân chuyển nhằm khuyến khích họ nâng cao trình độ chuyên môn.
1.3.7. Cơ quan điều hành tổ chức XTXK
Cơ quan điều hành tổ chức XTXK có hai chức năng quan trọng: lãnh đạo tổ chức XTXK
và liên kết tổ chức XTXK với cộng đồng DN.
Tốt nhất nên có các đại diện của cả chính phủ lẫn các DN và các TSIs trong cơ quan điều
hành. Nếu cơ quan điều hành chỉ gồm toàn các quan chức chính phủ, hiệu quả hoạt động
của tổ chức XTXK thường kém hiệu quả do không nắm chắc nhu cầu
13
thực sự của DN. Ngược lại, nếu cơ quan điều hành chỉ gồm đại diện của giới DN, tổ chức
XTXK sẽ thiếu sự quan tâm, hỗ trợ của chính phủ trong hoạt động.
Theo Profiles of TPO do ITC xuất bản thì có rất ít tổ chức XTXK chính phủ chỉ có toàn
đại diện của chính phủ hoặc của giới DN trong cơ quan điều hành. Đa số trường hợp là có
đại diện của cả hai bên. Dĩ nhiên, cộng đồng DN sẽ có ưu thế hơn nếu các đại diện của họ
chiếm đa số trong cơ quan điều hành.
Đại diện chính phủ tham gia cơ quan điều hành có thể đến từ bộ Thương mại, bộ Công
nghiệp, bộ Tài chính hay Bộ Ngoại giao. Ngân hàng trung ương cũng nên có đại diện
trong cơ quan điều hành.
Nếu tổ chức XTXK trực thuộc một bộ trong chính phủ thì không có ban điều hành vì Bộ
trưởng hoặc vụ trưởng sẽ trực tiếp lãnh đạo tổ chức XTXK. Đây là trường hợp của
Vietrade hiện nay.
1.3.8. Ngân sách hoạt động
Ngân sách của tổ chức XTXK có thể từ nhiều nguồn khác nhau. Bản chất của ngân sách
có ảnh hưởng đến tính ổn định và hiệu quả của các chương trình XTXK Vì XTXK là dịch
vụ công nên chính phủ thường tài trợ phần lớn cho các hoạt động của tổ chức XTXK Tuy
nhiên ngân sách không phải là nguồn tài chính lý tưởng cho tổ chức XTXK chính phủ vì
những nhược điểm sau :
e Không phải lúc nào cũng có đủ ngân sách tài trợ cho mọi hoạt động.
e Ngân sách được phân bổ hàng năm và thường có biến động khá lớn. Do đó, tổ
chức XTXK sẽ gặp khó khăn khi thực hiện các chương trình trung hạn.
e Ngân sách thường bị cắt khi quốc gia gặp khó khăn (vì nhiều quốc gia đang phát
triển không xem XTXK là lĩnh vực cần được ưu tiên)
e Ngân sách được cấp thường kèm theo những ràng buộc về mặt quản lý, do đó vô
tình hạn chế tính tự chủ của tổ chức XTXK trong điều hành hoạt động.
Có thể tránh những bất lợi trên bằng cách đa dạng hoá nguồn ngân sách của tổ chức
XTXK. Một số giải pháp có thể bao gồm thu phí dịch vụ, trích từ thuế nhập khẩu, lệ phí
cấp quota, phí hải quan, phí phát hành chúng thư xuất xứ (C/O) hoặc tổ chức đấu thầu
quota ...
14
Cần thận trọng khi cho phép tổ chức XTXK chính phủ thu phí dịch vụ để tạo kinh phí.
Thường các dịch vụ này là hoàn toàn miễn phí tại các quốc gia đang phát triển. Vì thế thu
phí sẽ không khuyến khích các DNVVN sử dụng dịch vụ của tổ chức XTXK. Chỉ nên đặt
vấn đề thu phí sau khi chất lượng các dịch vụ được các DN đánh giá cao và các DN đã trở
thành những nhà XK chuyên nghiệp.
Hội phí cũng có thể đóng góp m
ột phần ngân sách. Các DN thành viên sẵn sàng đóng hội
phí nếu họ được hưởng một số ưu đãi nào đó, như được nhận các ấn phẩm miễn phí và các
trợ giúp đặc biệt từ thương vụ nước ngoài.
Thu từ các chương trình hợp tác kỹ thuật quốc tế có thể là một nguồn quan trọng của tổ
chức XTXK ở các nước đang phát triển. Cần lưu ý là nguồn tài trợ
này chỉ có với một số
hoạt động đặc biệt và chỉ nên xem là nguồn bổ sung, không phải là nguồn thay thế.
Tóm lại, tổ chức XTXK nên có nhiều nguồn thu ngoài ngân sách. Tuy nhiên, không phải
lúc nào các nguồn phụ thu này cũng khả thi nên chính phủ vẫn phải đảm bảo phần lớn kinh
phí hoạt động. Các nguồn thu khác chỉ nên xem là nguồn phụ. Chiến lược quản trị tốt nhất
của một tổ chức XTXK là phát triển một nguồn tài chính hỗn hợp để tránh bị phụ thuộc
vào một nguồn thu duy nhất.
1.4. Một số kinh nghiệm của các tổ chức XTXK nước ngoài
“Xúc tiến thương mại theo lối truyền thống đã không còn đủ để nâng cao tính cạnh tranh
quốc tế. Nếu chiến lược XK quốc gia chỉ xoay quanh những chương trình hành động nay
cũng không còn khả năng đáp ứng với những thách thức mà chúng ta đang đối mặt ...”
J. Denis Bélisle, Giám đốc điều hành ITC, Geneve
Những thay đổi liên tục và to lớn trong môi trường thương mại quốc tế đòi hỏi các nhà
hoạch định chiến lược của DN lẫn chính phủ cần phải đánh giá lại, và có thể phải định
nghĩa lại cách tiếp cận của họ về XTXK. Tác giả xin giới thiệu một số kinh nghiệm của
các tổ chức XTXK nước ngoài có thể áp dụng vào Việt Nam.
1.4.1. Các đặc điểm của một tổ chức XTXK thành công
1) Có tính chất của một cơ quan công lập lẫn tính chất của một hiệp hội DN. 2)
Nhân sự không bị lệ thuộc vào chính phủ.
15
3) Tài chính độc lập tương đối với ngân sách chính phủ, có sự đóng góp của các
DN nhằm trang trải một phần kinh phí hoạt động.
4) Chế độ đãi ngộ đặc biệt so với các cơ quan chính phủ để giữ chân được những
chuyên gia giỏi.
1.4.2. Nhu cầu ngắn hạn và dài hàn của các DN
Các DN thường yêu cầu tổ chức XTXK hỗ trợ về những nhu cầu ngắn hạn như thông tin;
hỗ trợ kinh phí hoặc các vấn đề nảy sinh từ thực tế. Họ ít quan tâm đến việc khắc phục
những nhược điểm quan trọng trong quản lý hoặc sản xuất vì bản thân nhiều DN vẫn chưa
ý thức được về những nhược điểm đó. Các tổ chức XTXK phải làm sao để vừa thoả mãn
các nhu cầu hiện tại đồng thời giúp họ khắc phục những nhược điểm để nâng cao tính
cạnh tranh.
1.4.3. Mục tiêu là nâng cao khả năng cạnh tranh toàn diện của DN
Cách mạng thông tin đã làm cho thương mại trực tuyến giữa các DN (B2B) phát triển
mạnh mẽ. Kết quả là các DN không chỉ cạnh tranh trên cơ sở giá và chất lượng mà còn
phải chịu sức ép về khả năng đáp ứng nhanh nhu cầu của khách hàng. Thành công trên thị
trường quốc tế sẽ ngày càng phụ thuộc vào tính thích nghi, linh hoạt, thông tin nhanh nhạy
và đáp ứng nhanh của DN. Tóm lại, DN muốn tồn tại phải có khả năng cạnh tranh toàn
diện.
Do đó, tổ chức XTXK không nên chỉ quan tâm đến việc đẩy mạnh XK mà còn phải hỗ trợ
DN điều chỉnh để thích nghi tốt với môi trường kinh doanh đang thay đổi nhằm thoả mãn
yêu cầu cạnh tranh toàn diện.
1.4.4. Xác định đúng đối tượng phục vụ
Tổ chức XTXK phải xác định nhóm DN nào là đối tượng chính cần phải hướng đến. Đối
tượng phục vụ sẽ quyết định nội dung và quy mô chiến lược hoạt động của tổ chức
XTXK.
Nhóm X : Nhóm DN XK nhiều kinh nghiệm. Hiệu quả hỗ trợ là rất cao trong thời gian
ngắn. Đây là nhóm dễ được các tổ chức XTXK lựa chọn vì dễ thuyết phục chính phủ
duyệt chi ngân sách.
Nhóm Y : Nhóm DN có tiềm năng nhưng thiếu kinh nghiệm XK. Hiệu quả hỗ trợ sẽ
thấp hơn nhóm X và cần nhiều thời gian hơn. Nhu cầu hỗ trợ của nhóm Y cũng đa
16
Bảng 1 - Lựa chọn đối tượng phục vụ của tổ chức XTXK
Tiềm năng XK của DN
Thấp Trung bình Cao
Nhu cầu cần hỗ Thấp X
trợ từ tổ chức
Trung bình Y Y
XTXK
Cao Z Y Y
dạng và rất khác biệt so với nhóm X. Các tổ chức XTXK thường có khuynh hướng không
chú ý đến nhóm này. Nhưng xét theo quan điểm toàn diện, họ nên tập trung hỗ trợ nhóm Y.
Tuy nhiên do số DN nhóm Y rất nhiều, khó có khả năng phục vụ từng DN nên tốt nhất là
hỗ trợ thông qua hiệp hội doanh nghiệp hoặc theo nhóm liên quan (cluster), qua đó giúp
củng cố các mối liên hệ giữa các DN với nhau.
Nhóm Z : Nhóm DN có nhu cầu hỗ trợ rất lớn nhưng tiềm năng XK lại thấp. Về mặt logic
thì họ không có đủ điều kiện để được hỗ trợ. Trong thực tế các DN nhà nước thường rơi
vào nhóm này nên chính phủ vẫn dành ưu đãi cho họ vì nhiều lý do tuy hiệu quả hỗ trợ là
rất thấp..
1.4.5. Nâng cao năng lực sản xuất của các DN trung bình
Nếu chọn nhóm Y làm đối tượng phục vụ chính, tổ chức XTXK phải chú trọng nâng cao
năng lực sản xuất song song với phát triển thị trường XK.
Với các quốc gia đang phát triển, sản xuất kém thường là hạn chế lớn nhất trong hoạt động
XK. Các vấn đề thường gặp phải là nguồn nguyên liệu không ổn định; kỹ thuật sản xuất
lạc hậu; thiết kế nghèo nàn, chất lượng kém, năng lực sản xuất không đủ để đáp ứng các
đơn hàng dù nhỏ nhất … Kinh nghiệm cho thấy có rất ít chiến lược XK trực tiếp giải quyết
những khó khăn này cho DN. Do đó, phát triển sản xuất nội địa phải là một nội dung căn
bản của chiến lược XTXK của các quốc gia đang phát triển để hướng đến một khả năng
cạnh tranh toàn diện.
1.4.6. Cắt giảm chi phí kinh doanh
Nhất thiết phải cắt giảm các chi phí gián tiếp mà các DN phải gánh chịu khi tham gia XK
như điện thoại quốc tế, Internet, hải quan, kiểm định, vận tải, chứng chỉ chứng nhận chất
lượng ISO... Tổ chức XTXK cũng cần thiết kế các chương trình giúp cắt giảm đồng bộ
các chi phí liên quan đến đầu vào sản xuất thông qua đơn
17
giản hoá thủ tục và giảm chi phí trong lĩnh vực hành chính công, tài chính, ngân hàng...
1.4.7. Rút ngắn quá trình quốc tế hoá DN
Quá trình quốc tế hoá DN thường diễn ra lần lượt từ thấp đến cao, từ thị trường nội địa tiến
ra thị trường quốc tế, từ XK thử nghiệm cho đến XK chuyên nghiệp. Tuy nhiên, có thể
giúp các DN đi tắt trong quá trình này và đây phải là nhiệm vụ của các tổ chức XTXK
chính phủ. Phần Lan đã làm rất tốt công tác này. Họ đã quy tụ các DNVVN trong các
ngành công nghiệp hướng về XK và hỗ trợ các DN này tiến hành các hoạt động quốc tế
hoá ngay từ ban đầu, thay vì làm từng bước theo lối truyền thống là phát triển trên thị
trường nội địa rối mới từng bước XK.
1.4.8. Chú trọng phát triển các khách hàng lâu bền
Các nghiên cứu đều chứng minh rằng chi phí để tìm một khách hàng mới thường lớn gấp
ba lần chi phí để duy trì một khách hàng cũ. Điều này cho thấy chiến lược phát triển thị
trường cũng cần phải thay đổi. Thay vì giúp các nhà XK tìm khách hàng mới theo từng
hợp đồng riêng lẻ (spot business) như khuynh hướng của nhiều chương trình hỗ trợ hiện
nay, tổ chức XTXK nên hỗ trợ các DN xây dựng mối quan hệ lâu dài với khách hàng, tập
trung vào các công ty đa quốc gia và các công ty khác phải dựa vào dịch vụ ngoài
(outsourcing) để duy trì hoạt động sản xuất của họ.
1.4.9. Kết hợp XTTM và xúc tiến đầu tư
Đối với nhiều nước đang phát triển, thu hút vốn FDI là con đường ngắn nhất để có năng
lực XK đạt tiêu chuẩn quốc tế, tiếp cận thị trường XK và có lợi thế cạnh tranh nhanh nhất.
Chủ tịch Hiroshi Yokokawa của Jetro lập luận "Thương mại và đầu tư ngày nay không
còn có thể tách rời trong kinh tế toàn cầu. Các tổ chức XTXK khó mà XTTM hi
ệu quả nếu
không quan tâm đến xu thế đầu tư toàn cầu... Ví dụ, FDI sẽ làm gia tăng sản lượng hàng
hoá của nước chủ nhà. Không thể kể hết những ví dụ chứng minh FDI đã góp phần lớn
vào XK ở các quốc gia đang phát triển. Nói tóm lại, thương mại và đầu tư là hai mặt
không thể tách rời và do đó, các biện pháp xúc tiến chung cả hai lĩnh vực này là phù hợp"
[11]. Đó là lý do Jetro, Kotra và các tổ chức XTXK đã kết hợp XTXK và xúc tiến đầu tư
trong hoạt động của họ.
1.4.10. Vai trò của tổ chức XTXK trong chiến lược XK quốc gia
18
Theo phân tích của ITC, có ba nguyên nhân chính làm hoạt động XTXK ở các quốc gia
đang phát triển kém hiệu quả là:
1) Thiếu một sự liên kết chặt chẽ giữa tổ chức XTXK và cộng đồng DN. Do đó,
hoạt động của tổ chức XTXK thường không đáp ứng những nhu cầu thiết thực
của giới DN.
2) Thiếu một sự liên kết chiến lược giữa tổ chức XTXK và các cơ quan TSIs.
Những mối liên kết này là cực kỳ cần thiết nhằm đảm bảo hỗ trợ tổng lực cho
cộng đồng DN. Các tổ chức XTXK thường chú trọng XTXK mà quên mất cần
phải cải thiện môi trường sản xuất kinh doanh ở trong nước.
3) Tổ chức XTXK không có ảnh hưởng trực tiếp trên hệ thống thương vụ ở nước
ngoài.
4) Nhiều quốc gia sau khi đã đưa ra chiến lược XK thì mọi việc coi như chấm dứt. Để
khắc phục tình trạng này, ITC khuyến cáo tổ chức XTXK phải chủ động xây dựng cơ chế
liên kết giữa chính phủ, các TSIs và cộng đồng DN trong quá trình soạn thảo, thực hiện và
đánh giá chiến lược XK quốc gia. Trong đó, tổ chức XTXK (TPO) chính phủ phải đóng
vai trò trung tâm.
19
Sơ đồ 2 - Mạng lưới liên kết trong thực hiện chiến lược XK quốc gia
Nguồn : ITC (1999), Redefining trade promotion- The need for a strategy responses
Tóm lại, cộng đồng DN cần phải đóng một vai trò tích cực hơn trong quá trình hoạch định
chiến lược XK quốc gia. Đồng thời, tổ chức XTXK phải nỗ lực đáp ứng những nhu cầu
toàn diện của cộng đồng DN.
CHƯƠNG 2 - THỰC TRẠNG CÁC TỔ CHỨC XTXK CHÍNH PHỦ
2.
2.1. Khái quát
Việt Nam bắt đầu tiến hành cải cách kinh tế từ năm 1986, tuy nhiên hoạt động xúc tiến XK
(XTXK) của Việt Nam đến đầu thập niên 90 vẫn còn mang tính tự phát và tản mạn, vai trò
XTXK của chính phủ trong giai đoạn này còn chưa thể hiện rõ.
Ngày 18/11/1996, Bộ Chính trị đã ra nghị quyết số 01-NQ/TW về mở rộng và nâng cao
hiệu quả kinh tế đối ngoại, yêu cầu chính phủ "Nghiên cứu thành lập trung tâm khuếch
trương thương mại để làm tốt công tác thúc đẩy XK và là đầu mối đặt quan hệ, trao đổi
kinh nghiệm với các tổ chức tương tự ở một số nước trong khu vực và trên thế giới, có kế
hoạch cụ thể cho các tổ chức kinh tế của ta đặt VPĐD ở nước ngoài để nghiên cứu thị
trường, tìm đối tác XK".
Sau khi có chủ trương của Đảng, hoạt động XTXK đã phát triển nhanh chóng trong những
năm tiếp theo. Lần lượt các tổ chức XTXK của Việt Nam đã hình thành, bao gồm Cục
XTTM (Vietrade); các trung tâm XTTM địa phương; các hiệp hội ngành nghề; hệ thống
thương vụ Việt Nam ở nước ngoài. Ngoài ra, cùng với làn sóng đầu tư nước ngoài vào
Việt Nam, các tổ chức XTXK nước ngoài, hiệp hội DN nước ngoài và hàng ngàn VPĐD
doanh nghiệp nước ngoài đã vào hoạt động tại Việt Nam. Như vậy, "phần cứng" hay bộ
khung của mạng lưới XTXK quốc gia xem như đã cơ bản thành hình.
Bên cạnh đó, "phần mềm" hay chiến lược, nội dung hoạt động và phối hợp giữa các tổ
chức XTXK nói trên vẫn còn đang bị các DN trong nước chỉ trích mạnh mẽ. Điều đó cho
thấy hoạt động của các tổ chức XTXK vẫn chưa đi sát với nhu cầu thực tiễn và còn phải
cải thiện nhiều mặt.
Tuy nhiên, điều quan trọng là nhận thức về vai trò của XTXK đã được khẳng định ở cả ba
cấp: chính phủ, các tổ chức XTXK và cộng đồng DN.
2.2. Chiến lược, luật và các chính sách chi phối hoạt động XTXK
2.2.1. Chiến lược phát triển XNK giai đoạn 2001 - 2010
21
Chiến lược phát triển XNK giai đoạn 2001-2010 được chính phủ xây dựng nhằm cụ thể
hoá những định hướng nêu trong Chiến lược phát triển kinh tế xã hội đã được Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ IX thông qua.
Chiến lược đã định hướng nội dung cơ bản của công tác XK giai đoạn này là nỗ lực gia
tăng tốc độ tăng trưởng XK, chuyển dịch cơ cấu XK theo hướng nâng cao giá trị gia tăng,
gia tăng sản phẩm chế biến và chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao,
thúc đẩy XK dịch vụ ... mở rộng và đa dạng hoá thị trường và phương thức kinh doanh,
hội nhập thắng lợi vào kinh tế khu vực và thế giới. Chiến lược đã đề ra các chỉ tiêu XK cụ
thể như sau:
Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2010
Tăng trưởng XK hàng hoá và dịch vụ Bình quân 15%/năm
Kim ngạch XK hàng hoá 13,5 tỷ USD 54,6 tỷ USD
Kim ngạch XK dịch vụ 2 tỷ USD 8,1 tỷ 2010
2.2.2. Luật và các chính sách
Luật và các chính sách quan trọng liên quan đến XTXK giai đoạn 1999 ~ 2004 được tóm
tắt và trình bày theo trình tự thời gian trong phụ lục 3 của luận văn.
2.3. Mạng lưới các tổ chức XTXK chính phủ
Mạng lưới các tổ chức XTXK chính phủ của Việt Nam bao gồm :
e
Cục XTTM (Vietrade) trực thuộc Bộ Thương mại.
e
Cơ quan hỗ trợ XTXK thuộc một số bộ, ngành.
e
Trung tâm/phòng XTTM địa phương.
e
Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài.
e
Trung tâm giới thiệu hàng Việt Nam ở nước ngoài.
2.3.1. Cục Xúc tiến Thương mại (Vietrade)
2.3.1.1. Lịch sử hình thành
Tiền thân của Vietrade là Ban XTTM của Bộ Thương mại được thành lập vào tháng
12/1998. Sau đó, Thủ tướng chính phủ đã có quyết định số 78/2000/QĐ-TTg ký ngày
10/08/2000 chính thức thành lập Cục XTTM trực thuộc Bộ Thương mại. Vietrade là tổ
chức XTXK quốc gia, có vị trí tương tự các tổ chức IE Singapore, DEP (Thailand),
Matrade (Malaysia), Jetro (Nhậ
t Bản), Kotra (Hàn Quốc) ...
2.3.1.2. Nhiệm vụ và tổ chức
22
Nhiệm vụ cụ thể, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Vietrade được Bộ TM quy định tại
Quyết định 1116/2000/QĐ-BTM ngày 10/08/2000. Nhiệm vụ của Vietrade có thể được
tóm tắt trong các lĩnh vực sau:
e
Quản lý nhà nước : Quản lý, hỗ trợ, hướng dẫn và giám sát các hoạt động
XTTM theo Luật Thương mại; kiến nghị về chính sách, biện pháp hỗ trợ DN;
Hỗ trợ và hướng dẫn các tổ chức XTTM trong nước tổ chức các hoạt động
XTTM, xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ cho các hoạt động XTTM.
e
Hỗ
trợ DN : Cung cấp thông tin, tư vấn kinh doanh, thực hiện các dự án hỗ trợ
kỹ thuật phục vụ DN, hỗ trợ DN tìm kiếm đối tác, tổ chức hội chợ triển lãm ở
nước ngoài, thực hiện chương trình truyền hình thương mại, Đào tạo kỹ năng tổ
chức các họat động XTTM và phát triển thương mại điện tử.
e
Quan hệ quốc tế : Hỗ trợ các DN nước ngoài phát triển kinh doanh tại Việt
Nam và hợp tác quốc tế về phát triển thương mại.
e
Cơ cấu tổ chức :
Bộ Thương Mại
Ban Tư Vấn
VIETRADE
Cục Trưởng
Bộ phận XTTM và hỗ trợ DN
Phòng Hợp tác quốc tế
Phòng E-Commerce và Thông tin
Phòng Hành chính Tổng hợp
Nguồn : Vietrade (2003), Vietnam Exports
2.3.1.3. Kinh phí hoạt động
Văn phòng đại diện trong nước
Văn phòng đại diện và Trung tâm
Thương mại nước ngoài
Các dự án hỗ trợ XK và các tổ chức
liên quan
Căn cứ vào tài liệu hoạt động sự nghiệp năm 2003 và 2004 của Vietrade, tác giả đã thống
kê được kinh phí hoạt động của Vietrade theo các nội dung chính như sau:
23
Bảng 2 : Kinh phí hoạt động sự nghiệp của Vietrade 2003 ~ 2004
Đơn vị : Triệu đồng
STT Nội dung hoạt động 2003 2004
1 Biên tập, phát hành ấn phẩm, thông tin, quảng bá 2.161,5 693,0
2 Đào tạo, tập huấn, hội nghị tại Việt Nam 703,5 404,0
3 Khảo sát thị trường, hội chợ, triển lãm, hội nghị ... 631,3 1.205,5
4 Triển lãm, toạ đàm, giao dịch thương mại tại Việt Nam 518,0 400,5
5 Chương trình, hoạt động khác 1.985,1 2.100,0
6 Truyền hình thương mại - 90,0
7 Công nghệ thông tin - Thương mại điện tử - 1.107,0
Tổng cộng 6,000.0 6,000.0
Nguồn : Vietrade
2.3.2. Các tổ chức XTTM thuộc các bộ, ngành khác
2.3.2.1. Cục Kinh tế (Bộ Quốc phòng)
Đây là cơ quan nổi bật nhất trong số các tổ chức XTTM của các bộ, ngành. Đối
tượng phục vụ chủ yếu của Cục Kinh tế (Bộ Quốc phòng) là các DN quân đội . Cục
Kinh tế đã tham gia rất tích cực các chương trình XTTM trọng điểm trong các năm
2003 và 2004. Nhờ những hoạt động XTTM này, Cục Kinh tế đã giúp các DN quân
đội "mở một cánh cửa ra thế giới để các DN quân đội (vốn xưa nay đóng kín) giới
thiệu mình với các đối tác và tạo điều kiện cho đối tác tiếp cận nhanh nhất đến DN
quân đội"[12]
2.3.2.2. XTTM ở các bộ, ngành khác
Hầu hết các bộ như Bộ Kế hoạch - Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Công nghiệp, Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn ... đều có các bộ phận chuyên trách hỗ trợ các DN trực
thuộc về chính sách, khuyến khích XK. Đó có thể là các vụ chức năng, viện nghiên cứu,
các trung tâm thông tin, trường đào tạo, báo chí chuyên ngành ...hỗ trợ công tác quản lý,
phát triển sản xuất, kinh doanh.
2.3.3. Trung tâm /Phòng XTTM địa phương.
Hiện nay, toàn quốc đã có 59 Trung tâm/Phòng XTTM tại 58 tỉnh và thành phố. Danh
sách các đơn vị này được trình bày trong phần phụ lục 5.
2.3.3.1. Tình hình chung [13]
24
Tính đến tháng 9/2004, ngoài 6 tỉnh chưa có tổ chức XTTM là Hà Giang, Lai Châu, Hà
Tĩnh, Quảng Bình, Dak Nông và Trà Vinh, đa số các địa phương còn lại đều đã thành lập
xong tổ chức XTTM. Tuy nhiên, còn có sự khác biệt về mô hình tổ chức và quản lý các
trung tâm này giữa các địa phương như sau :
e 30 trung tâm XTTM thuộc sở Thương mại.
e 21 phòng XTTM thuộc Sở Thương mại.
e 5 trung tâm XTTM thuộc UBND.
e 2 trung tâm XTTM thuộc Sở Kế hoạch -Đầu tư.
e 1 trung tâm XTTM thuộc văn phòng UBND.
Về chức năng nhiệm vụ, phần lớn các trung tâm XTTM địa phương chỉ tập trung quản lý
và hỗ trợ các hoạt động XTTM nội địa, bên cạnh đó cũng có địa phương giao thêm cả
chức năng xúc tiến đầu tư và du lịch. Tp. HCM, Hà Nội và Bình Định vừa có Trung tâm
XTTM thuộc UBND lẫn Phòng XTTM thuộc Sở Thương mại. Về mặt quản lý nhà nước,
Vietrade được phân công quản lý theo ngành dọc đối với các trung tâm XTTM thuộc Sở
Thương mại.
Trong số các tổ chức XTTM địa phương, chỉ có một số rất ít là có hoạt động XTXK thực
sự. Trong số các tổ chức này, Trung tâm XTTM & Đầu tư (ITPC) của Tp. HCM là đơn vị
có hoạt động XTXK điển hình, có ảnh hưởng tích cực không chỉ đối với Tp. HCM mà còn
với các địa phương lân cận.
2.3.3.2. Trung tâm XTTM và Đầu tư (ITPC) Tp. Hồ
Chí Minh
ITPC là cơ quan trực thuộc UBND Tp. HCM. Tiền thân của ITPC là Trung tâm Khuếch
trương Xuất cảng Sài Gòn được thành lập vào ngày 28/11/1964. Ngày 01/11/2001,
UBND Tp. HCM ra quyết định số 104/2001/QĐ-UB thành lập ITPC. Ngày 17/01/2002,
UBND Tp. HCM ra quyết định số 04/2002/QĐ-UB về việc ban hành Quy chế tổ chức và
hoạt động của ITPC. Như vậy, ITPC thực sự là tổ chức XTTM lâu đời nhất của Việt Nam.
So với Vietrade, vị trí và chức năng của ITPC có những khác biệt đáng lưu ý sau:
e
Chức năng : ITPC là cơ quan chuyên trách về cả XTTM lẫn xúc tiến đầu tư của
Tp. HCM.
25