Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Khảo sát tâm lý du khách hàn quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (334.21 KB, 21 trang )









Tiểu luận

KHẢO SÁT TÂM LÝ DU
KHÁCH HÀN QUỐC


I. KHÁI QUÁT VỀ ĐẤT NƯỚC, CON NGƯỜI HÀN QUỐC.
1. Tổng quan về đất nước Hàn Quốc:
a. Sơ lược về lịch sử hình thành
Thời Nhật Bản thống trị Triều Tiên từ năm 1910 đến 1945 chấm dứt cùng với Thế
chiến thứ hai. Năm 1945, Triều Tiên bị chia cắt thành hai miền. Liên bang Xô viết chiếm
đóng miền bắc cho đến vĩ tuyến 38 và Hoa Kỳ chiếm đóng từ vĩ tuyến 38 về nam. Hoa
Kỳ và Liên bang Xô viết không thể đồng thuận về việc áp dụng Đồng uỷ trị ở Triều Tiên.
Vào tháng 11 năm 1947, Hội đồng Liên hợp quốc đã đề ra một giải pháp tiến hành
tổng bầu cử tại Hàn Quốc dưới sự hỗ trợ của một Ủy ban Liên hợp quốc.
Tuy nhiên, Liên bang Xô viết đã khước từ việc tuân theo giải pháp này và từ chối
những ảnh hưởng của Ủy ban liên hợp quốc đối với nửa phía Nam của bán đảo.
Điều này dẫn tới việc thành lập các chính phủ riêng biệt ở miền bắc và miền nam,
Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên ở phía bắc và Cộng hoà Triều Tiên (Hàn Quốc)
ở phía nam, mỗi bên đều tuyên bố mình là chính phủ hợp pháp của toàn bộ lãnh thổ Triều
Tiên.
Căng thẳng tăng lên giữa hai chính phủ ở miền bắc và miền nam cuối cùng dẫn tới
Chiến tranh Triều Tiên, và bán đảo Triều Tiên bị chia cắt cho đến ngày hôm nay.


Gần 3 triệu người thiệt mạng hoặc bị thương và hàng triệu người khác mất nhà cửa
hoặc chia lìa những người thân trong gia đình trong cuộc chiến tranh này.
Đến thập niên 1970 quan hệ hai bên dần được cải thiện. Hai bên Triều Tiên công
nhận chính phủ của nhau. Năm 1991 cả hai nước được cả hai phe công nhận để chính
thức gia nhập Liên hiệp quốc cùng một lúc. Hàn Quốc đã đầu tư kinh tế và là nước chủ
yếu viện trợ lương thực giúp người dân Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên vượt qua
nạn đói thập niên 1990 làm chết 2 triệu người thông qua chương trình lương thực Thế
giới WEP của Liên hiệp quốc. Hiện nay dân tộc Triều Tiên là dân tộc còn lại duy nhất
trên thế giới có đất nước bị chia cắt do ý thức hệ sau Chiến tranh Lạnh và là dân tộc đang
cố gắng giải quyết trạng thái đối lập ý thức hệ bằng con đường hoà bình, hoà giải dân tộc.
a. Điều kiện tự nhiên
 Vị trí địa lý
Đại Hàn, là một quốc gia thuộc Đông Á, nằm ở nửa phía nam của bán đảo Triều
Tiên. Phía Bắc giáp với Bắc Triều Tiên. Phía Đông Hàn Quốc giáp với biển Nhật Bản,
phía Tây là Hoàng Hải. Thủ đô của Hàn Quốc là Seoul, một trung tâm đô thị lớn thứ hai
trên thế giới và là thành phố toàn cầu quan trọng. Hàn Quốc có khí hậu ôn đới và địa hình
chủ yếu là đồi núi. Lãnh thổ Hàn Quốc trải rộng 100,032 km vuông. Với dân số 48 triệu
người, Hàn Quốc là quốc gia có mật độ dân số cao thứ ba trên thế giới (sau Bangladesh
và Đài Loan)
Tổng diện tích của bán đảo Triều Tiên là 222.154 km2, gần bằng diện tích của Anh
hay Romania. Không kể diện tích đất khai hoang, diện tích đất canh tác là 99.617 km2,
chiếm 45% tổng diện tích.
 Địa hình
Địa hình núi non chiếm khoảng hai phần ba diện tích lãnh thổ. Bán đảo nổi bật với
nhiều ngọn núi và dòng sông kỳ vĩ, vì vậy người Hàn thường ví đất nước mình như một
tấm gấm thêu đẹp đẽ.
Núi Baekdusan ở miền bắc bán đảo là ngọn núi cao nhất với độ cao 2.744m so với
mực nước biển và trải dài theo đường biên giới phía bắc tiếp giáp với Trung Quốc.
Baekdusan là ngọn núi lửa đã ngừng hoạt động nơi một hồ nham thạch rộng đã được hình
thành với cái tên Cheonji. Ngọn núi này được coi là một biểu tượng đặc biệt của tinh thần

Hàn Quốc và được nhắc đến trong bài quốc ca.
So với quy mô lãnh thổ, bán đảo Triều Tiên có số lượng sông suối tương đối lớn.
Hệ thống đường thủy này đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc hình thành lối
sống của người Hàn và trong cả công cuộc công nghiệp hóa đất nước. Hai con sông dài
nhất ở bắc bán đảo là Amnokgang (Yalu, 790km) và Dumangang (Tumen, 521km). Hai
con sông này đều bắt nguồn từ ngọn núi Baekdusan rồi lần lượt đổ xuống theo hướng tây
và đông, tạo nên biên giới phía bắc của bán đảo.
Ở nam bán đảo, sông Nakdonggang (525km) và sông Hangang (494 km) là hai
đường thủy chủ yếu. Sông Hangang chảy ngang qua Seoul, thủ đô của Hàn Quốc, được
coi là con đường sinh mệnh cho dân cư tập trung đông đúc ở khu vực trung tâm của đất
nước Hàn Quốc ngày nay, như nó đã giúp cho dân cư các vương quốc cổ đại phát triển
dọc theo hai bờ sông.
Bao quanh ba mặt của bán đảo, đại dương đóng một vai trò quan trọng đối với cuộc
sống của người Hàn từ ngàn xưa và đã góp phần vào sự phát triển ngành công nghiệp
đóng tàu và kỹ năng hàng hải.
 Khí hậu
Hàn Quốc có bốn mùa rõ rệt. Mùa xuân và mùa thu khá ngắn, mùa hè nóng và ẩm
ướt, mùa đông thì lạnh, khô và tuyết rơi nhiều, đặc biệt là ở các khu vực miền núi
Khí hậu cũng khác nhau tại các vùng trên đất nước, với nhiệt độ trung bình từ 6C
đến 16C. Nhiệt độ trung bình vào tháng Tám, tháng nóng nhất trong năm là từ 19C đến
27C , trong khi đó nhiệt độ vào tháng Giêng, tháng lạnh nhất trong năm từ -8C đến 7C.
Vào đầu xuân, Bán đảo Triều Tiên thường có "cát/ bụi vàng" do gió cuốn về từ các
sa mạc phía bắc Trung Quốc. Nhưng vào giữa tháng Tư, đất nước được hưởng một thời
tiết êm dịu với núi và cánh đồng ngập trong màu sắc rực rỡ của các loài hoa dại. Đây là
lúc người nông dân chuẩn bị gieo mạ cho vụ lúa hàng năm.
Với không khí khô và bầu trời trong xanh như pha lê, mùa thu là mùa mà tất cả
người Hàn đều yêu thích. Phong cảnh nông thôn đẹp khác thường với những màu sắc đa
dạng. Mùa thu là mùa gặt hái, cũng là mùa của những lễ hội dân gian bắt nguồn từ phong
tục tập quán của nhà nông từ thời xa xưa.


2.
Con người
Tất cả người Hàn Quốc đều nói chung 1 ngôn ngữ, đây được coi là nhân tố
quyết định trong việc tạo nên bản sắc dân tộc mạnh mẽ của họ . Với những đặc tính riêng
về thể chất, người Hàn được coi là con cháu của một vài bộ lạc Mông Cổ từ vùng Trung
Á di cư đến bán đảo Triều Tiên.
Vào thế kỷ thứ 7, rất nhiều quốc gia của Bán đảo lần đầu tiên đã được thống nhất
dưới thời vương quốc Silla (57 tr.CN - 935 s.CN). Sự đồng nhất như vậy đã làm cho
người Hàn hầu như không bị vướng vào những vấn đề dân tộc và duy trì được tình đoàn
kết vững chắc.
Cũng giống như Việt Nam, người Hàn Quốc vẫn đề cao cuộc sống gia đình, hiếu
nghĩa với tổ tiên, cha mẹ, phục tùng người lãnh đạo. Trong bữa ăn, thứ tự chỗ ngồi là
không được lẫn. Người đàn ông cao tuổi nhất sẽ ngồi ở vị trí trung tâm và là người mời
khách hoặc bắt đầu bữa ăn. Mỗi người có bát cơm và bát canh riêng, còn những món
khác được đặt chung ra giữa bàn để cùng ăn. Phần lớn các món ăn được tẩm rất nhiều gia
vị. Đặc biệt, người Hàn Quốc rất thích ăn cay, nên ớt là thứ gia vị không thể thiếu trong
các
(từ tài liệu Đai sứ quán Hàn Quốc tại VN)


II. ĐẶC ĐIỂM CHUNG VỀ VĂN HÓA HÀN QUỐC.

Mang đậm nét truyền thống phương Đông, gần gũi hai nền văn hóa lớn Nhật Bản và
Trung Quốc, người Hàn Quốc đã đặt dấu ấn độc đáo của mình lên phần văn hóa vay
mượn làm cho chúng trở nên khác biệt so với văn hóa gốc. Từ đó tạo ra một nền văn hóa
đặc trưng mang đậm bản sắc dân tộc và giàu truyền thống của một đất nước Đông Bắc Á.
1. Ngôn ngữ và hệ thống chữ cái:
Người Hàn Quốc có ngôn ngữ và hệ thống chữ cái duy nhất gọi là Hangeul. Hệ
thống chữ cái này được xây dựng từ năm 1446 bởi vị vua anh minh của triều đại Joseon –
vua Sejong. Là mẫu chữ duy nhất của hệ thống chữ viết mà không bị ảnh hưởng bởi các

mẫu chữ khác. Với 14 phụ âm và 10 nguyên âm cho phép việc ghi lại bất kỳ một chữ viết
hay một âm nào của tiếng Hàn. Vì tương đối đơn giản và có số lượng giới hạn, hệ thống
chữ cái này rất dễ học, nạn mù chữ hầu như không tồn tại ở Hàn Quốc. Hangeul nổi tiếng
thế giới như một hệ thống chữ viết chuẩn, hoàn hảo và rất phù hợp với thời đại giao tiếp
như ngày nay.
2. Gia đình:
Gia đình được coi là nên tảng xã hội ở Hàn Quốc. Một gia đình tiêu biểu bao gồm
nhiều thế hệ chung sống dưới một mái nhà. Theo người Hàn Quốc, để đảm bảo sự ổn
định và an toàn thì số lượng người trong nhà là 11, 12 thành viên hoặc hơn. Tuy nhiên
theo xu hướng ngày nay, các cặp vợ chồng sau khi cưới thường tách ra ở riêng nên kiểu
gia đình truyền thống này đang dần biến mất. Trong nhà, người chủ gia đình được coi
như là người nắm giữ quyền lực, là người đưa ra mệnh lệnh và những người khác phải
thực hiện không được bàn cãi. Việc tuân lệnh được coi như là một điều hiển nhiên, như là
đạo đức xã hội đáng được coi trọng, con cái phải vâng lời cha mẹ, vợ phải nghe chồng.
Cuộc sống gia đình ngày nay đã có nhiều biến đổi, sự bình đẳng giữa nam và nữ đã được
tôn trọng
3. Đặc điểm chung trong giao tiếp
Người Hàn Quốc không thích bày tỏ tình cảm, cảm xúc thái quá trước đám đông.
Họ cho như vậy là không lịch sự. thậm chí những cử chỉ thể hiện tình cảm rất nhẹ nhàng.
Trong giao tiếp với người khác họ thường có cách chào đặc biệt, trước hết họ đứng
im tại chỗ, sau đó cúi gập lưng, gập lưng càng thấp thì càng tỏ ra cung kính, gập lưng đến
khi nào người kia đi thì thôi.
4. Trang phục:
Hanbok là biểu tượng trang phục truyền thống của người Hàn Quốc.Trải qua thời
gian dài tồn tại, Hanbok rất đa dạng về màu sắc, chất liệu vải cũng như cách may phù hợp
với từng mùa và vị trí của người mặc. Vẻ đẹp của Hanbok thể hiện ở cái đẹp của sự đơn
giản của các motif trang trí trên áo và ở váy cũng như sự hài hòa về đường nét và màu
sắc. Áo hanbok của phụ nữ gồm có một váy dài "china" và một áo vét theo kiểu bôlêrô
"Jeogori". Áo của đàn ông gồm có một áo khoác ngắn "Jeogori" và quần "baji". Cả hai bộ
hanbok này đều có thể mặc với một áo choàng dài theo kiểu tương tự gọi là "durumagi" .

Ngày nay, người Hàn Quốc chủ yếu mặc Hanbok vào các dịp lễ tết hoặc các lễ kỉ niệm
như ngày cưới hoặc tang lễ.
5. Teakwondo:
Môn thể thao có từ lâu đời của người Hàn Quốc ngày nay đã được cả thế giới biết
đến và được công nhận là môn thể thao quốc tế. Đó là một môn thể thao có mối liên hệ
với tư tưởng và tinh thần của người Hàn Quốc, các động tác của Teakwondo đặt việc
luyện tập về mặt tinh thần lên trên cả sự khéo léo, đó là một nghệ thuật phòng thủ chứ
không có tấn công. Với những ưu điểm của mình, Teakwondo giờ đây đã trở thành một
trong những môn thể thao được yêu thích và tập luyện nhiều nhất trên thế giới và là môn
thể thao nằm trong thể thức thi đấu của Thế vận hội.

6. Ẩm thực:
Đặc điểm nổi bật của ẩm thực Hàn quốc là mỗi vùng, miền và mỗi mùa xuân, hạ,
thu, đông đều có những món ăn riêng, độc đáo. Nguyên liệu món ăn đa dạng: các loại
nhân sâm, nấm, đậu, rong biển, con trai, cá, các loại rễ cây, rau ; nhiều màu sắc: màu
vàng của trứng rán, màu đỏ của tương ớt, màu xanh của rau, màu đen của rong biển, màu
trắng của nấm kim châm Vì thế, việc chế biến, trình bày cũng lắm công phu, tinh tế và
mang tính thẩm mỹ cao. Dường như người Hàn ăn bằng mắt. Rất nhiều món, nhiều kiểu
chén đĩa, nhiều sắc màu được bày trên bàn ăn, nhưng mỗi thứ chỉ một ít. Hầu hết các món
ăn Hàn Quốc đều sử dụng gia vị như: xì dầu, hành, tỏi, muối, dầu ăn, dầu vừng, bột tiêu,
tương ớt, ớt khô Ngoài ra, kim chi và tương đậu là hai món không thể thiếu trong bữa
cơm truyền thống của người dân xứ Hàn.
Phong cách ẩm thực Hàn Quốc
Bữa ăn tại nhà là thời điểm tụ tập cả gia đình. Theo truyền thống, người lớn tuổi
nhất trong nhà cầm đũa bắt đầu bữa ăn thì những người khác mới lần lượt làm theo. Khi
ăn phải ngồi ngay ngắn, nhai từ tốn, kín đáo và không nhấc bát lên khỏi bàn. Trên bàn ăn,
cơm và canh được đặt lên trước, canh đặt bên phải bát cơm, thức ăn khác và món chấm
được đặt ở giữa. Món ăn nóng và thịt ở bên phải, món ăn lạnh được làm từ rau được đặt
bên trái. Đũa, thìa đặt bên phải bàn.
Các món ăn đặc trưng:

Ẩm thực: Người Hàn Quốc chủ yếu ăn những món quấn như: gỏi quấn, bì quấn,
món cá nướng cuốn bánh tráng,
Kim chi:
Kim Chi là một trong những món ăn điển hình của ẩm thực Hàn Quốc; ra đời vào
khoảng thế kỷ thứ VII chỉ là một loại rau cải muối và cho tới ngày nay đã có hàng trăm
loại khác nhau. Thành phần nguyên liệu để chế biến kim chi gồm: cải thảo, củ cải, ớt, tỏi,
hành, cá mực, tôm, sò hoặc các loại hải sản khác, gừng, muối ăn và đường. Kim chi từng
được coi là một trong năm thực phẩm có lợi cho sức khỏe nhất của thế giới. Nó được
thưởng thức với nhiều mức độ đậm đà khác nhau, tuy nhiên nó vẫn thường được dọn trên
một cái đĩa phẳng. Kim Chi là món ăn không thể thiếu của người Hàn Quốc, nó là niềm
tự hào của người dân xứ Hàn.
Kimbap:
Còn gọi là cơm cuốn Hàn Quốc, Kimbap là một trong những đặc sản nổi tiếng nhất
của người Hàn Quốc. Kimbap gần giống với món Sushi truyền thống của người Nhật,
nhưng kimbap không ăn với cá sống mà nguyên liệu của nó bao gồm thịt, trứng, rau đã
được xào chín. Cơm được trộn với chút muối và dầu mè. Thịt có thể là thịt bò xay, xúc
xích, trứng chiên, mực xào cay, cá ngừ. Rau thì thường là spinach, cà rốt, cải ngọt, kim
chi hoặc dưa chuột. Kimbap thường được làm trong các dịp đi picnic hoặc trong các lễ
hội ngoài trời của người Hàn Quốc. Là món ăn nguội dễ bảo quản và cách làm đơn giản.
Cơm trộn Bibimbap:
Trên thế giới có những loại thức ăn fastfood như sandwich ở Anh, hamburger và
xích ở Mỹ thì với người Hàn Quốc món bibimbap hay còn gọi là cơm trộn được ưa
chuộng nhất. Bibimbap có nguồn gốc tại Jeonju tỉnh Jeolla ở phía tây nam Hàn Quốc từ
những năm 1800. Một tô cơm babimbap bao gồm cơm trắng, các loại rau, trứng và thịt.
Rau thường là dưa chuột thái nhỏ, cà rốt, rau bina, giá, rau diếp. Trứng thì được tráng qua
hoặc rán chín cùng với thịt bò thái nhỏ được ướp gia vị. Tất cả được trộn đều cùng với
nước xốt làm từ ớt trước khi ăn. Bibimbap ngoài cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng hoàn
hảo còn hấp dẫn bời màu sắc và cách trình bày bắt mắt.
Mì lạnh Naengmyeon:
Naengmyeon hay còn gọi là mì lạnh với sợi mì mỏng làm từ bột kiều mạch chan

nước hầm thịt bò nêm nếm cùng nước ướp quả lê ướp lạnh. Mì lạnh thường được dùng
trong bát lớn, có mùi nồng, vị thanh thanh ngọt mát như làm tan biến bầu không khí oi
bức của mùa hè. Tuy nhiên, không phải là không dùng được mì lạnh vào mùa lạnh,vẫn có
thể thay nước dùng thịt bằng nước kim chi và để món mì ngon hơn nên cân bằng giữa
nước kim chi với nước dùng.
Nhân sâm
Nhân sâm được trồng rộng rãi ở Hàn Quốc vì điều kiện khí hậu đất đai ở đây rất
thích hợp. Để phân biệt nhân sâm trồng tại Hàn Quốc với sản phẩm có xuất xứ khác trên
thế giới, nhân sâm Hàn Quốc được đặt tên là "Goryeong Ginseng" theo tên triều đại
Goryeo - triều đại đã hình thành tên Hàn Quốc trong tiếng Anh là Korea
Nhân sâm được sử dụng như là liều thuốc tăng cường sinh lực và phục hồi sức khỏe.
Người ta tin rằng nhân sâm giúp tăng cường chức năng của các của các cơ quan quan
trọng trong cơ thể, ổn định tim, bảo vệ dạ dầy, tăng cường chịu đựng và sự ổn định của
hệ thần kinh. Nhân sâm là một yếu tố cốt lõi trong Đông y, nhưng người Hàn Quốc
thường dùng nhân sâm theo cách đơn giản hơn là uống trà hay rượu.


7. Nghệ thuật:
Phim Hàn Quốc
Từ lâu, Hàn Quốc đã nổi tiếng trên thế giới về nghệ thuật làm phim cũng như về kỹ
năng diễn xuất của các diễn viên Hàn. Với những bộ phim kinh điển trong những
thập kỷ qua, các sao Hàn còn được vinh danh trên thảm đỏ Hollywood. Ngày nay,
các sao Hàn đi đến đâu cũng có những đội ngũ các fan đón tiếp rất nồng hậu và
hoành tráng. Bấy nhiêu thôi, cũng đủ thấy được sức ảnh hưởng cũng như mức độ
thành công trong nghệ thuật làm phim của người Hàn.
Nghệ thuật gấp giấy thủ công
Người Hàn Quốc có truyền thống lâu đời trong nghệ thuật gấp giấy thủ công và
cũng đã từ lâu sử dụng những loại giấy chất lượng tốt để gấp nên những chiếc hộp, chiếc
bát có nắp đậy, những chiếc bát lớn, giỏ, túi lưới, bình và gạt tàn.
Những sản phẩm giấy thủ công khác du khách tham quan thường gặp là đồ văn

phòng phẩm, thảm chân, đệm, rèm, bao đựng ống tên, bát mài mực, hộp thuốc súng, giày
dép, chậu rửa, ấm trà. Hầu hết các sản phẩm làm từ giấy đều được sơn bóng trên bề mặt
làm tăng tính thẩm mỹ và độ bền đồng thười làm cho chúng có khả năng chống thấm.
Loại sơn phủ thường được dùng là hỗn hợp nước quả hồng xanh và hồ gạo và dầu tía tô.
Nhạc tế lễ Jongmyo
Vào ngày Chủ nhật đầu tiên của thángNăm trong năm, hậu duệ của dòng tộc Jeonju
Yi, hoàng tộc thười Joseon (1392-1910), làm lễ thờ cúng tổ tiên tại đền Jongmyo ở trung
tâm Seoul. Mặc dù nghi lễ này được cử hành theo một nghi thức ngắn gọn rất nhiều so
với trước, nhưng có tới 19 loại nhạc cụ cổ điển, bao gồm chùm chuông đá, chuông đồng,
các loại trống, hòa nên âm thanh đặc biệt cho buổi lễ truyền thống.
Talchum - Mặt nạ và múa mặt nạ
Mặt nạ, thường được gọi là "tal" trong tiếng Hàn Quốc, được làm từ giấy, gỗ, quả
bầu khô, và lông. Hầu hết các loại mặt nạ đều phản ánh sắc thái và cấu trúc xương của
gương mặt người Hàn nhưng cũng có một số loại mặt nạ thể hiện khuôn mặt của các vị
thần và con vật, bao gồm cả tả thực và tưởng tượng. Hình dáng của các loại mặt nạ
thường kì lạ và đã được cách điệu, vì "talchum " - loại hình múa mặt nạ -thường được
biểu diễn vào đêm dưới ánh sáng của các đống lửa.
Múa mặt nạ về cơ bản là loại hình nghệ thuật dân gian phát triển tự nhiên trong nhân
dân thời kỳ Joseon, thời kỳ mà có ít sự phân biệt giữa giai cấp thống trị và thượng lưu
trong xã hội với người dân thường. Các nghệ sĩ diễn viên và khán giả cùng hoà nhập vào
các điệu múa tưng bừng ở cuối mỗi buổi biểu diễn.
Tranh dân gian
Tranh dân gian gồm những tác phẩm mà thường dân Hàn Quốc thời xa thường dùng
để trang trí nhà ở hoặc để thể hiện những mong ước của họ về đời sống hạnh phúc bền
lâu. Không giống như những tác phẩm hội hoạ cổ điển cao sang thường tập trung mô tả
phong cảnh, hoa và chim, tranh dân gian thường thể hiện những ý tưởng hài hước, đơn
giản và ý nghĩ chất phác về cuộc sống bình dân và về thế giới.

Dangcheong: Hình trang trí trên các tòa nhà
Dangcheong là hình trang trí màu sắc theo kiểu Hàn Quốc trên nóc các tòa nhà và

những hình trang trí thể hiện vẻ đẹp và giá trị nghệ thuật đích thực. Dangcheong gồm có
năm màu: đỏ, xanh, vàng, đen và trắng. Bên cạnh chức năng trang trí, dangcheong còn
được dùng vào nhữngmục đích thực tế. Dangcheong được dùng để bảo vệ bề mặt tòa nhà
và che đi những vết thô ráp trong chất liệu được sử dụng, đồng thời nhấn mạnh đặc điểm
và thể hiện phẩm cấp của tòa nhà hay đối tượng nào đó. Dancheong có ở hầu hết mọi tòa
nhà truyền thống, bao gồm cả đền chùa bất kể chúng nằm ở Seoul hay các tỉnh khác.
Hoa văn
Các hoa văn họa tiết thường bắt nguồn từ những chữ viết cổ. Ban đầu chúng là công
cụ để thể hiện những nhu cầu tình cảm về môi trường xung quanh con người, sau đó được
phát triển thành một hình mẫu trang trí nghệ thuật.
Trong số các hoa văn thường thấy được sử dụng một cách truyền thống ở Hàn Quốc
có hình con rồng và con phượng hoàng, và "taegeuk" dùng trong quốc kỳ Hàn Quốc
Taegeuki, gồm có hai hình đối lập tượng trưng cho âm và dương, tượng trưng cho hai sức
mạnh của vũ trụ, cho tĩnh và động, cho thế yếu và thế mạnh, bóng tối và ánh sáng, nam
và nữ. Ngoài ra còn có những họa tiết tượng trưng cho sự trường tồn, như đá, núi, nước,
mây, cây thông, con rùa, con hươu, con sếu, và mặt trời.

8. Nghi lễ:
Các nghi lễ trưởng thành:
Ở Hàn Quốc, những giai đoạn mà mỗi người phải trải qua trong cuộc đười và đánh
dấu những thay đổi cơ bản thờng được gọi chung là "Gwanhongsangje" (Quan-Hôn-
Tang-Tế), bao gồm lễ trưởng thành, lễ thành hôn, tang lễ, và tế lễ tổ tiên
Lễ trưởng thành thường rất đơn giản. Các chàng trai trưởng thành cuộn mái tóc dài
thành búi trên đỉnh đầu và được tặng một chiếc mũ truyền thống của dân tộc Hàn Quốc
làm từ đuôi ngựa. Các cô gái trưởng thành tết tóc thành hai bím và cài vào tóc đồ trang
sức được gọi là binyeo .
Lễ thành hôn được tổ chức tại gia đình cô dâu và vợ chồng mới cưới thường nghỉ
hai hay ba ngày tại gia đình cô dâu trước khi trở về nhà chú rể.Tang lễ được cử hành theo
nghi thức truyền thống Hàn Quốc rất cầu kỳ. Thời gian để tang kéo dài trong hai năm,
sau hàng loạt các nghi lễ cầu khấn. Bên cạnh những nghi thức tang lễ cầu kỳ, người Hàn

Quốc còn thực hiện nhiều nghi lễ thờ cúng khác liên quan giữa sự sống và cái chết.

Sesi - Tập quán truyền thống
Tập quán Sesi bao gồm các nghi lễ được cử hành vào các thời điểm giao mùa trong
năm và ngày tết Nguyên Đán. Ví dụ, vào ngày tết năm mới, người Hàn Quốc cất bài vị tổ
tiên và thực hiện các nghi lễ tưởng niệm với các món đồ ăn và uống. Sau nghi lễ này, có
lễ "sebae" hay là quỳ lạy những người cao tuổi trong gia đình. Vào đêm ngày 15 tháng
Giêng - ngày trăng tròn đầu tiên trong năm, gọi là "daeboreum", một hình nộm làm bằng
rơm sẽ được ném xuống sông.
Nhiều nơi trong cả nước đã có tập tục này, nhưng việc chuẩn bị và thưởng thức các
món ăn với những loại rau đa dạng theo mùa vẫn được thực hiện ở khắp nơi. Ngày 15-8
âm lịch là ngày lễ Chuseok, một dạng lễ tạ ơn Trời cho vụ mùa bội thu, trong ngày này,
mọi người cũng thường đi thăm viếng mộ tổ tiên. Một trong những món ăn đặc biệt được
chuẩn bị cho ngày lễ này là "songpyeon" (송편), bánh có hình trăng khuyết làm từ bột
nếp trong có vừng, đậu xanh hạt dẻ và các loại ngũ cốc khác.
9. Di sản-Di tích lịch sử:
Di sản in
Nghệ thuật in trên phiến gỗ bắt đầu từ thế kỷ thứ 8 ở Hàn Quốc. Bộ chữ in kim loại
đầu tiên của thế giới được người Hàn Quốc phát triển trước phát minh của Gutenberg
(Đức) hơn 200 năm.Thường dân triều đại Goryeo (918-1392) đã làm ra Bộ kinh Phật
Koreana từ thế kỷ 13, và được công nhận là bản khắc gỗ kinh Phật còn tồn tại lâu đời
nhất. Bộ kinh Phật Koreana đã được xếp vào di sản văn hóa của UNESCO năm 1995.
Đền Bulguksa và Seokguram Grotto
Bulguksa, là một trong những ngôi Đền Phật giáo lớn nhất và đẹp nhất Hàn Quốc,
nằm ở Gyeongju, trước đây là thủ phủ của vương quốc Silla (57 trước CN -935 sau CN).
Bulguksa ban đầu là một ngôi đền nhỏ mà nhà vua Beop-heung (514 -540) triều đại Silla
đầu tiên sùng tín Phật giáo, đã xây dựng để cầu mong phồn thịnh và an bình cho vương
quốc của mình. Kiến trúc hiện nay của ngôi đền có từ năm 751 khi nó được được xây
dựng lại.
Trước kia, đền gồm có 80 toà nhà, nhiều gấp mười lần số lượng còn lại cho tới bây

giờ. Đền nằm trên núi cao, phía sau lưng là Seokguram, động bằng đá nhân tạo được biết
đến như là một trong những động đẹp nhất của đạo Phật. Seokguram bao gồm một tiền
sảnh hình chữ nhật, và một lễ đường hình tròn với vòm trần nối liền với hành lang cũng
xây theo hình chữ nhật. Seokguram và Bulguksa đã được đưa vào danh sách Di sản văn
hoá thế giới của UNESCO từ năm 1995
Núi Seoraksan
Bán đảo Triều Tiên có hai ngọn núi đẹp là núi Seoraksan ở Hàn Quốc và núi
Geu mgangsan ở CHDCND Triều Tiên. Seoraksan là rặng núi kéo dài theo hướng nam
của núi Geumgangsan, thường được biết đến với tên gọi núi Kim Cương thuộc CHDCND
Triều Tiên.
Rừng của núi Seoraksan với đỉnh cao nhất là 1708 mét so với mực nước biển, là khu
rừng hỗn hợp gồm các loại cây tán rộng với nhiều loại cây xuất xứ từ vùng núi Alpơ và
những cây quả hình nón, là nơi cư trú của 939 loài thực vật và 25 loài thú, 90 loài chim,
11 loài bò sát, 9 loài động vật lưỡng cực, 360 loài côn trùng và 40 loài cá nước ngọt.





III. ĐẶC ĐIỂM TRONG VĂN HÓA GIAO TIẾP.
Để tìm hiểu về văn hóa trong giao tiếp của bất kỳ một quốc gia, dân tộc nào có rất
nhiều vấn đề cần xem xét. Khi tiếp cận văn hóa giao tiếp của đất nước Hàn Quốc, chúng
tôi tập trung vào những vấn đề trọng yếu sau đây: cách thức thái độ trong giao tiếp và quy
tắc ứng xử xã hội.
1.Cách thức và thái độ trong giao tiếp
Người Hàn Quốc rất coi trọng chức đanh, tước hiệu và địa vị xã hội, thường để ý
đến cách thức làm quen và xưng hô. Trong xưng hô họ thường không sử dụng tên gọi và
muốn được nhắc đến chức tước hay phẩm hàm mà họ có. Trong các công sở Hàn Quốc,
người ta gọi nhau bằng các chức vụ nghề nghiệp. Cấp trên gọi cấp dưới bằng họ của
người đó kèm với chức danh công việc, còn cấp dưới gọi cấp trên vẫn giống vậy nhưng

cộng thêm hậu tố “lim” để thể hiện sự tôn trọng. (Điểm chú ý là vai trò của nhân viên nữ
thường bị xem nhẹ hơn nhân viên nam). Khi một người Hàn Quốc muốn giới thiệu ai đó
với người thứ ba họ thường dắt người đó đến gặp một người lớn tuổi hơn hay chức vị cao
hơn. Khi gặp nhau, họ có thể thay cái bắt tay bằng cách cuối đầu chào. Trong lúc bắt tay
họ thường lấy tay trái đỡ dưới cánh tay phải và không bắt quá chặt. Nếu một nhân viên
gặp cấp trên của mình, người nhân viên sẽ cuối đầu chào trước, người cấp trên sẽ đưa tay
ra bắt tay nhân viên của mình.
Người Hàn Quốc đặt nặng danh dự, lòng tự trọng của mình. Họ cảm thấy hãnh diện
khi lòng tự trọng được đánh giá cao, sẽ dễ dàng hơn để tạo được sự hòa hợp với họ
(không có nghĩa là họ thích tâng bốc). Ngoài ra, họ đề cao tính tôn ti trật tự, phân biệt vai
vế trên dưới một cách rõ ràng giữa cấp trên cấp dưới, ông bà cha mẹ với con cháu. Những
người lớn tuổi, có nhiều quyền lực và địa vị xã hội sẽ được mọi người kính trọng và đối
thoại bằng ngôn ngữ trang trọng. Khi muốn bắt chuyện với một người phải đoán biết địa
vị xã hội, tuổi tác của họ để giao tiếp cho đúng nguyên tắc, luật lệ
Trong giao tiếp, người Hàn Quốc không tỏ thái độ vồn vã hay quá thân thiết, nhất là
với những người họ chưa thật sự tin tưởng. Nhưng khi đã tạo lập được mối quan hệ gắn
bó thì họ đối với nhau rất thân tình, nồng hậu. Lúc đối thoại người Hàn Quốc rất thích đối
phương cũng sử dụng ngôn ngữ của họ, đánh giá cao những người bày tỏ thiện chí, lời
cảm ơn hay câu chào bằng chính tiếng Hàn Quốc (tuyệt nhiên đối phương không nên sử
dụng tiếng Nhật Bản). Mặc khác, chữ tín cũng là một nguyên tắc được người Hàn Quốc
đề cao. Họ coi trọng các cuộc hẹn và thường đến rất đúng giờ, điều này đã ăn sâu vào nếp
sống của họ.
Với người Hàn Quốc, không nên vô ý động chạm vào người khác. Họ quan niệm
bàn chân là một bộ phận không sạch sẽ nên rất tránh chạm bàn chân vào người khác. Bên
cạnh đó, họ xem việc đung đưa ngón tay cái hướng về phía mình là một hành động thô lỗ
hay việc nhìn thẳng vào mắt nhau là một việc làm suồng sã bất lịch sự.
2.Quy tắc trong ứng xử xã hội
Muốn thiết lập quan hệ làm ăn với đối tác người Hàn Quốc không nên tiếp xúc trực
tiếp mà cần sử dụng dịch vụ trung gian làm môi giới, người trung gian có quyền chức
hoặc điạ vị xã hội càng cao thì càng có cơ hội tiếp xúc được với lãnh đạo cấp cao của đối

tác người Hàn Quốc. Mối quan hệ cá nhân đóng vai trò quyết định, câu hỏi mà họ muốn
được trả lời là “Tôi có thể tin tưởng vào bạn hay không?” chứ không phải ‘Sản phẩm của
bạn như thế nào?”. Bên cạnh đó cần lưu ý đến đối thủ cạnh tranh của họ.Với người Hàn
Quốc, tình cảm và lý trí trong kinh doanh thường chi phối lẫn nhau. Ngoài ra, khi đàm
phán, họ thường nói đến những vấn đề lớn lao to tát còn chuyện cụ thể họ để cho người
cấp dưới đảm nhận. Khi lần đầu gặp mặt người ta hay trao cho nhau danh thiếp. Khi trao
hoặc nhận danh thiếp phải dùng cả hai tay. Nên nhớ không dùng danh thiếp kinh doanh
bằng tiếng Nhật.
Người Hàn Quốc thích được nhận quà tặng là vật phẩm truyền thống từ quốc gia của
người tặng. Thực phẩm cũng là quà tặng được đánh giá cao. Một điều lưu ý là khi được
người Hàn Quốc tặng quà, lúc đầu tốt nhất nên từ chối, chỉ khi người tặng cứ nhất định
tặng thì mới nên nhận. Quà tặng cho nhân viên cấp dưới không bao giờ được có giá trị
lớn hơn quà tặng cho người cấp trên. Nếu họ là người đi làm ở các công ty thì món quà
đầu tiên có thể tặng là các vật dụng trên bàn làm việc. Họ rất kiêng kỵ những quà tặng là
dao hay kéo. Lần đầu tới nhà người Hàn Quốc chơi, theo thói quen ứng xử nên đem đến
cho họ một món quà nhưng chủ nhà sẽ không mở quà ra ngay hay nói gì về nó vì họ cho
rằng việc làm đó trẻ con.
Các bữa ăn trong ngày là thành phần quan trọng trong lối sống của người Hàn Quốc.
Đối với lối sống trong các gia đình người Hàn hay hợp tác công việc làm ăn với họ đều
không thể xao nhãng các bữa ăn. Không đem công việc vào các bữa ăn để bàn bạc, chỉ có
ăn uống và nói chuyện vui. Đặc biệt, họ rất thích khi được khen về các món ăn truyền
thống như kim chi, thịt nướng. Họ uống nhiều rượu nhưng không phiền nếu khách mời
không uống được, tuy nhiên khách mời nên để cho họ rót chút rượu vào cốc. Với họ,
trong các bữa ăn hay tiệc rượu là cơ hội tốt để tạo dựng mối quan hệ thêm thân thiết. Chủ
đề trong các câu chuyện ít khi đề cập đến các vấn đề về chính trị.
IV. NHU CẦU ĐI DU LỊCH CỦA NGƯỜI HÀN QUỐC.
1. Những nhu cầu chung khi đi du lịch nước ngoài của người Hàn Quốc
Sống trong một nước công nghiệp phát triển, mức sống cao, nhịp sống khẩn trương,
sử dụng thời gian làm việc hiệu quả và ít có thời gian rảnh rỗi. Du khách Hàn Quốc thích
thực hiện các tour du lịch xuyên quốc gia, trong chuyến du lịch đến Việt Nam họ thường

kết hợp du lịch Lào, Campuchia, Thái Lan. Du khách Hàn Quốc đi du lịch thường có khả
năng chi trả cao, họ thích sử dụng những dịch vụ sang trọng, các phương tiện công nghệ
hiện đại, sản phẩm đảm bảo tốt về chất lượng và mấu mã. Cùng với tâm lý ưa thích sự
sạch sẽ, gọn gàng nên họ thường sử dụng các khách sạng sang trọng làm nơi lưu trú.
% và nơi mà họ đến cũng phải đáp ứng được nhu cầu cơ bản đó của họ.
Bên cạnh đó, việc chọn lựa quốc gia đến cũng được du khách Hàn Quốc cân nhắc
kỹ. những nơi họ đến phải là những quốc gia có nền chính trị ổn định, hòa bình để đảm
bảo tính an toàn, thoải mái trong chuyến đi.
Đó là những tiêu chuẩn cơ bản của một quốc gia mà du khách Hàn yêu cầu. Mặc
khác, quốc gia đó phải có những nét đặc trưng là của riêng quốc gia đó, cho thấy sự khác
biệt với quốc gia khác. Người Hàn rất thích được tìm hiểu văn hóa các dân tộc trên thế
giới để so sánh với văn hóa đất nước họ cũng như họ muốn đi nhiều biết nhiều điều đặc
biệt ở các quốc gia trên thế giới, nhằm nâng tầm hiểu biết của mình.
Tóm lại, một điểm đến sẽ là lựa chọn của du khách Hàn khi nó đảm bảo tinh an
toàn, đáp ứng nhu cầu với dịch vụ tốt và đặc biệt là nét đặc biệt trong bản chất văn hóa
của quốc gia đó.



2. Những nhu cầu khi đi du lịch tại Việt Nam của người Hàn Quốc:

Du khách Hàn Quốc xem Việt Nam như điểm du lịch mới nổi trong khu vực Đông
Nam Á, bên cạnh những điểm du lịch nổi tiếng ở Thái Lan, Singapore, Malaysia hay
Indonesia. Không gian du lịch mới mẻ này đã sức hấp dẫn mạnh với du khách Hàn Quốc.
Kết quả Hàn Quốc là nước đứng thứ 5 về số lượng khách du lịch đến Việt Nam, sau
Trung Quốc, Mỹ, Đài Loan và Nhật Bản. Điều đó tạo động lực cho du lịch Việt Nam
phấn đấu trong năm 2011 này Việt Nam sẽ tiếp tục đón 1 triệu lượt khách Hàn (công bố
của Tổng cục du lịch).
Vì mỗi quốc gia với chế độ chính trị và tình hình an ninh khác nhau nên điều đầu
tiên mà bất cứ du khách nào đi du lịch nước ngoài luôn mong muốn không gì khác đó là

sự đảm bảo an toàn trong chuyên đi. Tại Việt Nam mặc dù có trên 50 dân tộc, thành
phần dân tộc phức tạp nhưng cùng chung sống chan hòa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
Sản Việt Nam. Môi trường du lịch hòa bình này đã tạo được cảm giác an toàn, tin tưởng
cho du khách đến Việt Nam. Bên cạnh đó, mỗi dân tộc có những nét đặc trưng trong đời
sống kinh tế văn hóa xã hội, phong tục tập quán… kích thích sự hứng thú tìm hiểu, khám
phá ở khách Hàn nói riêng cũng như du khách các nước nói chung.
Du khách Hàn Quốc thích các loại hình du lịch biển, sông nước (đặc biệt là vùng
Đồng Bằng Sông Cửu Long) và tìm hiểu đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng người
Hàn ở thành phố Hồ Chí Minh. Khách du lịch Hàn Quốc bị chinh phục bởi vẻ đẹp của
các danh lam thắng cảnh Kinh Thành Huế, Phố Cổ Hội An, thích thú nhất nét văn hóa du
lịch đi tàu trên vịnh Hạ Long ngắm nhìn khung cảnh và thưởng thức rượu… Hay mê hoặc
với cảnh sông nước hữu tình, vườn cây trái sum suê vùng Tây Nam Bộ. Đó là cái đẹp mà
ở đất nước họ ko có, là cái họ muốn nhìn tận mắt, cảm nhận bằng chính cảm giác thực
chứ ko đơn thuần như khi nhìn qua sách báo, phim ảnh. Phong cảnh Việt Nam đẹp, còn
nhiều vùng tự nhiên, hoang sơ, bên cạnh đó văn hoá Việt Nam và văn hóa Hàn Quốc có
nhiều điểm tương đồng là những điều vừa mới lạ, vừa gần gũi cuốn hút du khách Hàn
Quốc đến. Sau khi Chính phủ VN miễn visa cho khách Hàn Quốc tới VN, lượng khách
tăng lên đáng kể. So với năm 2003, năm 2004 lượng khách Hàn tới VN của Asiana tăng
87%.
Là dân tộc coi trọng những giá trị truyền thống, khi đến Việt Nam người Hàn Quốc
còn có xu hướng thăm viếng các di tích lịch sử văn hóa như đình chùa hay tham gia các
lễ hội truyền thống, trò chơi dân gian của người Việt và các dân tộc cùng chung sống trên
đất nước Việt Nam, thưởng thức các loại hình đặc sắc của địa phương, tộc người. Chùa
Một Cột, thánh địa Mỹ Sơn, lễ hội Chùa Hương,… là những điểm dừng chân khó có thể
bỏ qua trong hành trình du lịch Việt Nam của du khách Hàn Quốc. Nhã nhạc cung đình
Huế, quan họ Bắc Ninh hay múa rối nước, đua ghe ngo,… cũng thu hút rất nhiều sự quan
tâm của khách Hàn.
Khi được hỏi về ”điều gì thú vị ở Việt Nam hấp dẫn bạn?“ các du khách vô tư kể rất
nhiều thứ từ ẩm thực đến con người Việt Nam. Ẩm thực Việt Nam hấp dẫn và phong
phú, 3 miền 3 khẩu vị khác nhau với muôn vàn món ăn đặc sản thơm ngon lôi cuốn du

khách, giữ chân du khách lại Việt Nam lâu hơn, cơ hội quay lại Việt Nam nhiều hơn. Viêt
Nam nổi tiếng với những làng nghề thủ công mỹ nghệ như: làng gốm sứ, làng dệt, làng
mây tre nứa, Tâm lý du khách thường thích mua đồ lưu niệm. Khách Hàn Quốc và du
khách các nước rất thích hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam, phong phú, đa dạng, nhiều
loại với nhiều màu sắc, kích cỡ, trong đó áo dài cũng là sản phẩm mà được người Hàn
Quốc thích. Con người Việt Nam vui vẻ, thân thiện và hiếu khách, am hiểu phong tục tập
quán và lịch sử của dân tộc mình. Các du khách nói rằng, người Việt Nam vui vẻ nhận lời
mỗi khi được mời chụp hình làm kỉ niệm.
Mặt khác như đã nói ở trên, du khách Hàn Quốc thường có nhu cầu sử dụng những
dịch vụ tốt, thuộc hạng khá tốt trở lên. Do đó, khi đến Việt Nam, họ thích chọn lựa
những sản phẩm dịch vụ sang trọng, tốt về chất lượng, đẹp về mẫu mã Theo Tổng cục
du lịch, phân khúc thị khách quốc tế vào Việt Nam cho thấy: Nhiều khách đến từ những
nước có mức sống cao nên chi tiêu của khách quốc tế tại Việt Nam đạt cao.
khách Đông Bắc Á (Nhật Bản, Hàn Quốc) chiếm tới 33%, châu Âu: 16%, Bắc Mỹ
13%, Úc và New Zealand chiếm 6%
Thói quen ăn uống của giới trẻ Hàn Quốc hình thành trong nhịp xã hội nhanh và gấp
nên khi du lịch Việt Nam cũng như các nước, thanh niên Hàn Quốc thường ăn các món
phương Tây cho đơn giản, tiện ích. Còn với đối tượng khách trung niên, họ thích thưởng
thức các món ăn truyền thống của Việt Nam.
Người Hàn Quốc khi đi du lịch đến Việt Nam cũng như đến các nước khác vẫn luôn
giữ bản sắc dân tộc mình, thường tỏ ra kín đáo, lễ nghi, khó tiếp xúc. Tuy nhiên, họ thích
đi khắp nơi, tìm hiểu văn hóa Việt Nam, tìm hiểu những điều mới lạ của Việt Nam rồi so
sánh với nền văn hóa đặc sắc và lâu đời của quê hương mình. Họ rất nhanh chóng thích
nghi với hoàn cảnh mới, có tính tự chủ khá cao. Một phần không nhỏ khách Hàn kết hợp
mục đích kinh doanh trong chuyến du lịch.
Nhìn chung khách du lịch Hàn Quốc cũng như các nước khi đến Việt Nam mong
muốn được tiếp cận với những đặc trưng mà chỉ ở Việt Nam mới có, điểm khác lạ đó tạo
sức hấp dẫn lớn để “kéo” chân và giữ chân du khách.

Bên cạnh đó, cũng như du khách các nước, khách Hàn cũng tỏ ra khó chịu khi du

lịch tại Việt Nam bởi những hiện tượng hét giá, chặt chém tại những điểm mua bán, hay
những gian hàng trong khu du lịch buôn bán chèo kéo khách đến mức quá đáng,… Giao
thông Việt Nam khá lộn xộn, nhất là tại các thành phố lớn như thành phố Hồ Chí Minh,
Hà Nội môi trường ô nhiễm, cảnh quan mất vệ sinh, Du khách Hàn mỗi khi qua đường
cảm giác không an toàn, họ phải đợi thật đông người rồi cùng đi qua đường.Trên đường
phố còn rất nhiều trẻ em lang thang hay đi theo làm phiền du khách.
Số lượng các khách sạn chất lượng cao chưa nhiều, chưa đủ phục vụ cho số đông
các du khách có khả năng chi trả cao, trong khi đội ngũ phục vụ còn thiếu tính chuyên
nghiệp. Sự không phong phú trong các loại hình hoạt động giải trí đã khiến cho khách
đến thường “không biết làm gì ngoài việc ngồi đánh bài cho hết thời gian”. Nhiều khu
mua sắm còn nghèo nàn, chủng loại hàng chưa phong phú. Tại các trung tâm thương mại
lớn, đội ngũ nhân viên còn chưa thông thạo tiếng Hàn nên còn gặp nhiều khó khăn trong
giao tiếp với khách. Những điều đó tạo cảm giác không hài lòng cho khách Hàn – những
du khách có yêu cầu cao trong du lịch.
Những hạn chế này gây sự cản trở với việc thu hút khách du lịch Hàn Quốc đến Việt
Nam, tạo ấn tượng không tốt về du lịch Việt Nam, nhiều du khách Hàn Quốc đã không
trở lại Việt Nam lần thứ hai.

×