Tải bản đầy đủ (.pdf) (153 trang)

Không gian văn hóa làng Tam Á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.02 MB, 153 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
VIỆN VIỆT NAM HỌC & KHOA HỌC PHÁT TRIỂN
========================





HÀ THỊ LOAN



KHÔNG GIAN VĂN HOÁ LÀNG TAM Á


LUậN VĂN THạC Sỹ
Ngành Việt Nam học





Hà Nội – 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
VIỆN VIỆT NAM HỌC & KHOA HỌC PHÁT TRIỂN
========================







HÀ THỊ LOAN



KHÔNG GIAN VĂN HOÁ LÀNG TAM Á


Luận văn Thạc sĩ ngành Việt Nam học
Mã số: 60 22 01 13

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thị Huế



Hà Nội – 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu khoa học “Không gian văn
hóa làng Tam Á” dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Thị Huế là hoàn
toàn mới, không có sự trùng lặp với các công trình nghiên cứu khoa học
khác.
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, các kết quả nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học

của luận văn chưa từng được công bố trong bất kì công trình nghiên cứu
khoa học nào.


Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2014

TÁC GIẢ


Hà Thị Loan










LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chương trình cao học và viết luận văn này, tôi nhận được sự
hướng dẫn, giúp đỡ và góp ý nhiệt tình của quý Thầy Cô ở Viện Việt Nam học và
Khoa học phát triển – Đại học Quốc gia Hà Nội.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn tới tất cả các Thầy Cô đã giảng dạy các
chuyên đề cao học cho lớp Việt Nam học khóa 8 niên khóa 2012 – 2014, cùng toàn
thể các cán bộ, giảng viên Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển đã tận tình
giảng dạy và giúp đỡ tôi hoàn thành khóa học thạc sỹ này trong suốt quá trình học
tập vừa qua.
Thứ hai, Tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Nguyễn Thị Huế đã

dành nhiều thời gian, tâm huyết, nhiệt tình hướng dẫn, nghiên cứu giúp tôi hoàn
thành luận văn này.
Thứ ba, trong thời gian làm luận văn, tôi cũng nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ
nhiệt tình của cán bộ, nhân dân thôn Tam Á, đặc biệt là cụ Dương An Khang. Đồng
thời, tôi cũng luôn nhận được sự động viên, tin tưởng và giúp đỡ của người thân, gia
đình và bạn bè. Đó là sự giúp đỡ và nguồn cổ vũ quý giá giúp tôi vượt qua khó khăn
để hoàn thành khóa học và luận văn này. Vậy nên, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn và
biết ơn chân thành nhất đến tất cả mọi người!
Mặc dù, tôi đã cố gắng hết sức, song do hạn chế về khả năng, trình độ, thời
gian… khiến luận văn này không tránh khỏi những thiếu sót. Vì thế nên, tác giả kính
mong được sự góp ý của các quý Thầy Cô, gia đình, nhân dân thôn Tam Á và bạn bè
giúp tôi khắc phục những hạn chế, tiếp tục phát triển đề tài của mình trong các công
trình tiếp theo.
Một lần nữa, tôi xin gửi lời cảm ơn, biết ơn sâu sắc và chân thành nhất đến
tất cả mọi người!
Tác giả luận văn

Hà Thị Loan



DANH MỤC VIẾT TẮT

CNH, HĐH
: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNXH
: Chủ nghĩa xã hội
GS
: Giáo sư
GS.TS

: Giáo sư, Tiến sĩ
NXB
: Nhà xuất bản
TS
: Tiến sĩ
Ths
: Thạc sĩ
















1
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU 4
1. Lý do chọn đề tài 4
2. Lịch sử vấn đề 6
3. Mục đích nghiên cứu 10
4. Nhiệm vụ của luận văn 11

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 11
6. Phương pháp nghiên cứu 11
7. Đóng góp của đề tài 11
8. Bố cục của đề tài 12
B. PHẦN NỘI DUNG 13
Chƣơng 1: TỔNG QUAN NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI 13
1.1. Cơ sở lý luận 13
1.1.1. Khái niệm văn hóa 13
1.1.2. Di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể 15
1.1.3. Khái niệm không gian văn hóa 16
1.1.4. Lý luận về văn hóa làng và làng văn hóa 17
1.2. Làng văn hóa và văn hóa làng ở Bắc Ninh 28
Tiểu kết chƣơng 1 30
Chƣơng 2: LÀNG TAM Á VÀ NHỮNG YẾU TỐ CẤU THÀNH
KHÔNG GIAN VĂN HÓA LÀNG TAM Á 31
2.1. Điều kiện tự nhiên của làng Tam Á 31
2.1.1. Vị trí địa lý 31
2.1.2. Giao thông 32
2.1.3. Địa hình 32
2.1.4. Khí hậu 34
2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội 34

2
2.2.1. Điều kiện kinh tế 34
2.2.2. Điều kiện xã hội 44
2.3. Truyền thống khoa bảng và truyền thống hiếu học 55
2.3.1. Truyền thống khoa bảng xưa 55
2.3.2. Truyền thống hiếu học hiện nay 56
2.4. Truyền thống yêu nước, đấu tranh chống ngoại xâm của Tam Á 57

Tiểu kết chƣơng 2 61
Chƣơng 3: NHỮNG YẾU TỐ VĂN HÓA VẬT THỂ, PHI VẬT THỂ
VÀ PHƢƠNG HƢỚNG BẢO TỒN, PHÁT TRIỂN KHÔNG GIAN
VĂN HÓA LÀNG TAM Á 62
3.1. Di sản văn hóa vật thể của làng Tam Á 62
3.1.1. Lăng và tẩm thờ Sĩ Nhiếp 62
3.1.2. Đình Tam Á 68
3.1.3. Chùa Tam Á 69
3.1.4. Ẩm thực Tam Á 70
3.1.5. Nhà ở 72
3.1.6. Mặc 75
3.1.7. Đi lại và vận chuyển 77
3.2. Một số di sản văn hóa phi vật thể 77
3.2.1. Lễ hội làng Tam Á 77
3.2.2. Phong tục, tôn giáo và tín ngưỡng 82
3.2.3. Văn học dân gian làng Tam Á 90
3.2.4. Dân ca 93
3.3. Phƣơng hƣớng bảo tồn, phát triển không gian văn hóa làng Tam Á 96
Tiểu kết chƣơng 3 98
C. KẾT LUẬN 100
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO 102
E. PHỤ LỤC 107

3
DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1. Tô thuế áp dụng cho làng xã ở Bắc Hà thời Tự Đức. 35
Bảng 2.2. Bảng thống kê các hộ gia đình làm nghề phụ ở làng Tam Á 44
Bảng 2.3. Số lượng hội viên các đoàn thể chính trị xã hội của thôn Tam Á
năm 2014 50

Bảng 2.4. Số học sinh đỗ Đại học và Cao đẳng của làng Tam Á từ năm 57


DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 2.1. Suy nghĩ của người dân Tam Á về vấn đề diện tích đất nông
nghiệp ngày càng bị thu hẹp 36
Biểu đồ 2.2. Cơ cấu thành phần kinh tế ở làng Tam Á hiện nay 39
Biểu đồ 2.3. Cơ cấu diện tích trồng trọt của làng Tam Á 40
Biểu đồ 2.4. Tình hình chăn nuôi ở làng Tam Á hiện nay 41
Biểu đồ 2.5. Cơ cấu nguồn thu nhập chính của người dân làng Tam Á 42
Biểu đồ 3.1. Các điểm thờ tự được người dân Tam Á lựa chọn. 70
Biểu đồ 3.2. Đồ nội thất trong các gia đình ở làng Tam Á 74
Biểu đồ 3.3. Cơ cấu phương tiện đi lại của làng Tam Á hiện nay 77

4
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Với bề dày lịch sử hàng nghìn năm, làng Tam Á, xã Gia Đông,
huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh không chỉ là vùng đất cổ lưu giữ những
giá trị truyền thống và bản sắc văn hoá của dân tộc mà còn là quê hương
của đình, chùa, đền, xứ sở của lễ hội và những nghề phụ. Không chỉ thế,
nơi đây còn là cái nôi sinh thành những ông nghè, ông cống nổi tiếng khoa
bảng. Ngày nay, những truyền thống ấy ngày càng được gìn giữ và phát
huy. Từ khi thành lập đến nay, trong chiều dài lịch sử, người Tam Á đã
phải gian khổ và anh dũng lao động, đấu tranh với thiên nhiên và xã hội để
tồn tại và phát triển. Vì vậy, nghiên cứu về Không gian văn hoá làng Tam
Á chính là nghiên cứu về một làng cổ điển hình ở Kinh Bắc nói riêng và
đồng bằng Bắc Bộ nói chung.
Nét nổi bật trong những giá trị văn hoá của Tam Á là tinh thần cộng

đồng gia tộc – làng xã. Con người (hiện tại) đặt trong mối quan hệ với tổ
tiên (quá khứ) và con cháu (tương lai). Họ gắn chặt thế giới bên này với thế
giới bên kia. Đó là mạch nguồn của thuần phong mĩ tục lâu đời, đồng thời
cũng là cơ sở cho nhiều giá trị tinh thần về tình yêu quê hương đất nước,
trọng đạo nghĩa và lối sống cần cù, chịu khó, giản dị. Tinh thần sâu rễ bền
gốc ấy đã cố kết các thành viên trong gia đình, dòng họ, trong làng lại với
nhau và họ cùng nhau tự giác tôn trọng lệ làng, phép nước tạo nên sức
mạnh giúp Tam Á trụ vững, vượt qua những thử thách của thiên tai địch
hoạ và chiến tranh. Những nét văn hoá tốt đẹp này cần được nghiên cứu,
bảo tồn và phát triển.
Đặc biệt, nơi đây có đền thờ Sĩ Nhiếp - người có công rất lớn trong
việc truyền việc học vào nước ta và được nhân dân coi là vị Tiên Nho ghi
tên vào Văn Tế tiên hiền với các tôn hiệu và mỹ tự cao quý: “Sĩ Vương đem

5
thi thư đến hoá tục nước ta, đem lễ nhạc đến cảm hoá lòng người, văn hiến
của cả nước bắt đầu từ đây”. Thông qua lòng biết ơn đối với công lao của
Sĩ Vương, người dân nơi đây đã có những tín ngưỡng sinh hoạt văn hoá
phong phú như lễ hội (7/1 Âm lịch), các tục lệ liên quan đến việc thờ cúng
Ngài. Vì thế, nét văn hoá đặc sắc này cũng cần được nghiên cứu để mọi
người biết đến văn hoá của làng Tam Á nói riêng và văn hoá vùng Kinh
Bắc nói chung.
Ngày nay, Tam Á đang trên con đường phát triển kinh tế nông thôn
mới theo hướng CNH, HĐH. Diện mạo của làng quê này ngày càng thay
đổi rõ rệt. Song sự thay đổi đó không làm mất đi những giá trị văn hoá
truyền thống mà những giá trị ấy ngày càng được bảo lưu và phát triển trên
cơ sở kế thừa những giá trị văn hoá truyền thống và tiếp thu tinh hoa văn
hoá của nhân loại. Bởi thế, nghiên cứu Không gian văn hoá làng Tam Á để
thấy được xu hướng phát triển, vận động không ngừng của người dân nơi
đây đồng thời thấy được những yếu tố văn hoá truyền thống vẫn còn rõ nét

trong đời sống của nhân dân. Hơn nữa, trong chiến lược phát triển của đất
nước, vấn đề nông nghiệp - nông thôn - nông dân có vị trí đặc biệt. Các Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX của Đảng đều xác định quá
trình thực hiện CNH, HĐH đất nước phụ thuộc rất lớn vào quá trình CNH,
HĐH nông nghiệp - nông thôn. Giải quyết tốt vấn đề nông nghiệp - nông
thôn và nông dân đã, đang và sẽ là bài toán then chốt tạo tiền đề cơ bản cho
chúng ta thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH. Trong bối cảnh này,
nếu giải quyết tốt các vấn đề văn hóa ở nông thôn chúng ta sẽ có những tiền
đề và điều kiện cơ bản để giải quyết các vấn đề về phát triển kinh tế - xã
hội và văn hóa khu vực, bởi phát triển văn hóa vừa là mục tiêu vừa là động
lực của sự phát triển kinh tế - xã hội ở từng địa phương, khu vực và cả
nước.

6
Tác giả luận văn là người được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất
Thuận Thành, từng được tai nghe mắt thấy nhiều sự kiện về làng Tam Á.
Sự gắn bó, thân quen cùng tình yêu và niềm tự hào đối với mảnh đất và con
người nơi đây đã là lý do thôi thúc tác giả lựa chọn đề tài nghiên cứu này.
Tìm hiểu về làng Tam Á còn có ý nghĩa lí luận - thực tiễn quan trọng
đối với một học viên ngành Việt Nam học. Đặc biệt, khi nghiên cứu đề tài
Không gian văn hoá làng tam Á là một việc làm thiết thực và có ý nghĩa
cho sự nghiệp nghiên cứu văn hóa của tác giả sau này.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về làng xã Việt Nam
Làng xã ở Việt Nam là đề tài đã thu hút sự quan tâm ghiên cứu của
nhiều học giả không chỉ trong nước mà cả ở nước ngoài. Điển hình là công
trình nghiên cứu về làng Bách Cốc của GS. Sakurai (Nhật Bản) và nhiều
công trình nghiên cứu về làng xã ở Việt Nam, có thể kể đến một số công
trình chủ yếu như:
Năm 1984, tác giả Trần Từ cho ra đời cuốn sách Cơ cấu tổ chức của

làng Việt cổ truyền ở Bắc bộ, do nhà xuất bản Khoa học Xã hội xuất bản,
tác giả nghiên cứu cơ cấu tổ chức làng xã cổ truyền ở Bắc Bộ. Ảnh hưởng
của cơ cấu đó trong sự hình thành, phát triển nền kinh tế tiểu nông nghiệp,
sự ra đời của phường hội, chế độ công điền, công thổ và sự phân hoá giai
cấp ở nông thôn Bắc Bộ Việt Nam trong lịch sử.
Năm 1992, tác giả Phan Đại Doãn cho ra đời cuốn sách Làng xã Việt
Nam - Một số vấn đề kinh tế, văn hoá, xã hội, nhà xuất bản Khoa học xã
hội. Cuốn sách này nói về kinh tế - xã hội làng Việt Nam trải qua những
thời đại lịch sử. Vấn đề ruộng đất, kinh tế tiểu nông, hàng hoá nông thôn
truyền thống. Cơ cấu xã hội học của làng. Những nét chính về văn hoá
truyền thống, tôn giáo của làng xã Việt Nam.

7
Năm 1992, các tác giả Dương Kinh Quốc, Nguyễn Cảnh Minh, Đào
Tố Uyên cho ra đời cuốn sách với nhan đề Nông dân và nông thôn Việt
Nam thời cận đại, Nhà xuất bản Khoa học xã hội. Cuốn sách nghiên cứu về
việc sử dụng đất nông nghiệp và phương thức canh tác phân bố ruộng đất,
công cuộc khẩn hoang thời cận đại Việt Nam. Một số nghề thủ công, dân
số ở vùng nông thôn Việt Nam trong thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Năm 1993, các tác giả Phan Huy Lê, Từ Chi, Nguyễn Đức Nghinh
nhan đề The traditional village in Vietnam, Nhà xuất bản Thế giới. Đây là
tuyển tập các bài viết về đặc điểm văn hoá truyền thống của làng thôn Việt
Nam: Cơ cấu tổ chức chế độ ruộng đất, thị trường, quan hệ xã hội, sinh
hoạt văn hoá…
Năm 2005, hai tác giả Nhất Thanh, Vũ Văn Khiếu cho ra đời cuốn
sách với mhan đề Phong tục làng xóm Việt Nam : Đất lề quê thói, Nhà xuất
bản Phương Đông. Cuốn sách nghiên cứu đời sống văn hoá phong tục tập
quán làng xóm của người Việt Nam như: Sinh con; tục xăm mình; nhuộm
răng; đồ uống; thuốc thang; y phục
Năm 2006, cuốn sách Làng Việt Nam đa nguyên và chặt của các tác

giả Phan Đại Doãn, Yu Insun, Nguyễn Đăng Dung… do Đại học Quốc gia
Hà Nội xuất bản. Cuốn sách này tuyển chọn một số bài viết tiêu biểu và
tâm huyết của giáo sư Phan Đại Doãn cùng các đồng nghiệp, bạn bè và học
trò của ông ở cả trong nước và ngoài nước về cấu trúc xã hội, phong tục tập
quán làng xã Việt Nam.
Năm 2009, cuốn sách Một số vấn đề làng xã Việt Nam của tác giả
Nguyễn Quang Ngọc, nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội xuất bản, đã
nghiên cứu về lịch sử hình thành và những biến đổi của làng xã Việt Nam

8
trong tiến trình lịch sử, phân tích kết cấu kinh tế - xã hội, văn hoá của làng
Việt cổ truyền và hiện nay. Sự trở lại vị trí của thôn làng truyền thống trong
nông thôn Việt Nam hiện nay qua nghiên cứu trường hợp làng Đan Loan.
Năm 2012, Phan Thanh Tá với công trình Văn hoá cổ truyền trong
làng - xã Việt Nam hiện nay do nhà xuất bản Lao Động xuất bản, là sự
nghiên cứu tổng quan về văn hoá cổ truyền, nền tảng và đặc điểm của văn
hoá cổ truyền, văn hoá làng - xã. Đồng thời công trình giới thiệu không
gian tự nhiên - xã hội và sinh hoạt văn hoá cổ truyền ở một số xã vùng
đồng bằng Bắc Bộ như xã Đa Tốn, xã Ninh Hiệp, xã Bát Tràng và những
xu hướng biến đổi văn hoá cổ truyền trong đời sống xã hội hiện nay.
2.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về văn hoá Bắc Ninh
Ngoài những công trình tiêu biểu nghiên cứu về làng xã Việt Nam
nói trên thì có thể kể đến một số cuốn sách viết về văn hoá Kinh Bắc và
làng xã ở nơi đây, có một số công trình như:
Năm 1988, Hội xứ Bắc: Kỷ yếu Nơi xuất bản Hà Bắc. Nhà xuất bản
Sở Văn hoá thông tin Hà Bắc. Tập kỷ yếu của Hội thảo khoa học Hội ở
Kinh Bắc (Hà Bắc) nói về lễ hội truyền thống, kịch bản lễ hội, kinh nghiệm
lịch sử về chỉ đạo tổ chức lễ hội….
Năm 1997, Nguyễn Hữu Kim, Lê Doãn Cấp, Lê Nho Bảo… cho ra
đời cuốn sách với nhan đề Đại Mão làng quê văn hiến do nhà xuất bản Văn

hoá dân tộc xuất bản, cuốn sách nói về truyền thống và phong tục, làng
nghề dệt nổi tiếng Đại Mão, những trang sử cách mạng và câu đối, thơ ca,
sáng tác về quê hương.
Cũng trong năm 1997, nhà xuất bản Hội Nhà văn cho xuất bản cuốn
sách Văn hoá Luy Lâu và Kinh Dương Vương của Đặng Văn Lung, Trần
Gia Linh, Nguyễn Thị Huế. Cuốn sách nghiên cứu về văn hoá Luy Lâu và

9
Kinh Dương Vương, Họ Hồng Bàng trong lịch sử, về tổ tiên Vua Hùng và
Lạc Long Quân - Âu Cơ. Đồng thời giới thiệu những câu chuyện tham
khảo về nguồn gốc dân tộc.
Năm 1997, tác giả Trần Đình Luyện với công trình Văn hiến Kinh
Bắc, do Sở Văn hoá Thông tin Bắc Ninh xuất bản, cuốn sách giới thiệu một
số di tích lịch sử văn hoá, làng quê tiêu biểu và các danh nhân khoa bảng
của tỉnh Bắc Ninh.
Năm 1999, hai tác giả Huy Cờ và Trần Đình Luyện Danh nhân Kinh
Bắc do nhà xuất bản Văn hoá dân tộc xuất bản, cuốn sách giới thiệu về các
vị nhanh nhân nổi tiếng của xứ Kinh Bắc.
Năm 2001, Nguyễn Duy Hợp cho ra đời cuốn sách Phong thổ Mão
Điền do nhà xuất bản Văn hoá dân tộc xuất bản. Cuốn sách nói về những
nét đẹp văn hoá của Mão Điền (Bắc Ninh) qua mảnh đất, con người, truyền
thống văn hoá, phong tục tập quán làm nên bản sắc làng quê Việt Nam.
Năm 2004, Vương Xuân Tình với công trình Tập quán ăn uống của
người Việt vùng Kinh Bắc do Hội Khoa học Xã hội xuất bản. Cuốn sách nói
về tập quán ăn uống của người Việt vùng Kinh Bắc, xem xét món ăn và kỹ
thuật chế biến và nhìn nhận thế ứng xử của một cộng đồng dân cư trong ăn
uống, kể từ kiếm tìm nguồn lương thực đến đặc điểm chế biến, cung cách
thụ hưởng món ăn và vị thế con người qua ăn uống.
Năm 2007, Nguyễn Sĩ với nhan đề Quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp nông thôn tỉnh Bắc Ninh từ năm 1986 đến nay: thực

trạng, kinh nghiệm và giải pháp. Nơi xuất bản Luận văn, luận án Đại học
Kinh tế Quốc dân Phụ chú thư mục Thư mục: tr. 188-191. Nghiên cứu lí
luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và kinh
nghiệm trong và ngoài nước. Thực trạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp nông thôn tỉnh Bắc Ninh từ 1986 đến nay. Phương hướng và

10
giải pháp đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
tỉnh Bắc Ninh đến năm 2015.
Năm 2012, Nguyễn Đình Chế với nhan đề Làng quê yêu dấu: Sưu
tầm và sáng tác do nhà xuất bản Dân trí in ấn. Cuốn sách trình bày một số
nét khái quát về lịch sử xây dựng và phát triển của làng Mỹ Duệ, xã Phú
Hoà, huyện Lương Tài - Bắc Ninh. Giới thiệu các sáng tác thơ ca về làng
quê Mỹ Duệ và các bản chữ Hán về thần tích, sắc phong của địa phương.
Ở những công trình trên, các tác giả đã bàn về văn hóa tinh thần và
văn hóa vật chất ở các làng xã. Nhiều tác giả đã đề cập đến hội làng, nếp
sống, phong tục, tôn giáo, sân khấu dân gian, văn hóa nghệ thuật dân gian
Một số chuyên luận không những có ý kiến nhận xét về di sản của làng xã, về
các mặt kinh tế - xã hội, văn hóa; mà còn nêu lên những điểm tích cực và cả
những tiêu cực của làng xã trong quá trình dựng nước và giữ nước.
Trong những công trình kể trên và một số công trình khác thì chưa
có một công trình tổng hợp nào nghiên cứu về làng Tam Á. Nhưng những
công trình ấy đã giúp ích cho tác giả rất nhiều trong quá trình thực hiện đề
tài Không gian văn hoá làng Tam Á.
3. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu các giá trị văn hoá của Làng Tam Á nhằm thông qua đó
để thấy được văn hoá của một làng điển hình trong văn hoá làng xã Kinh
Bắc nói riêng và đồng bằng Bắc Bộ nói chung.
- Khẳng định được những nét văn hoá tiểu biểu của làng Tam Á so
với các làng xã khác.

- Góp phần bảo tồn, gìn giữ và phát triển những giá trị văn hoá
truyền thống trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở làng
Tam Á hiện nay.

11
- Cung cấp những thông tin, số liệu cơ bản về làng Tam Á: về dân
số, diện tích, nghề nghiệp, đặc điểm cư trú, các dòng họ, về số lượng đền
miếu, đình, chùa; về các vị thần, thành hoàng, các vị khoa bảng và danh
nhân thời cổ; về các số liệu về văn hoá giáo dục, xã hội; về quá trình hình
thành làng và xuất xứ tên gọi của làng.
4. Nhiệm vụ của luận văn
- Xác định rõ khái niệm văn hóa làng và làng văn hóa, khái niệm
không gian văn hóa và không gian văn hóa làng làm cơ sở lý luận chung
cho việc nghiên cứu đề tài.
- Khảo sát, nghiên cứu không gian văn hóa làng Tam Á thông qua
các thành tố cấu thành (trong điều kiện cho phép có thể sẽ có so sánh với
không gian văn hóa các làng phụ cận trong khu vực), chỉ ra những nét đặc
trưng của không gian văn hóa làng Tam Á.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm phát triển và bảo tồn
không gian văn hóa làng Tam Á, hướng tới công cuộc vận động xây dựng
làng văn hóa hiện nay.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn xác định đối tượng và phạm vi nghiên cứu là làng Tam Á,
xã Gia Đông, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn áp dụng một số phương pháp nghiên cứu sau đây: Phương
pháp nghiên cứu khu vực học, phương pháp điều tra, điền dã, phương pháp
phỏng vấn sâu, phương pháp tổng hợp và phân tích tư liệu,…
7. Đóng góp của đề tài
- Chỉ ra một cách hệ thống, toàn diện về không gian văn hóa làng Tam Á.

- Đề tài nhằm đáp ứng nhu cầu của những ai quan tâm, tìm hiểu văn
hoá truyền thống cũng như hiện đại của làng Tam Á.

12
- Đề tài nhằm góp phần bảo tồn, gìn giữ và phát triển các giá trị văn
hoá của làng quê Tam Á nói riêng và làng quê của Việt Nam nói chung.
8. Bố cục của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội
dung luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Tổng quan những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài
Chương 2: Làng Tam Á và những yếu tố cấu thành không gian văn
hóa làng Tam Á
Chương 3: Những yếu tố văn hóa vật thể, phi vật thể và phương
hướng bảo tồn, phát triển không gian văn hóa làng Tam Á




13
B. PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
TỔNG QUAN NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm văn hóa
Văn hóa đã và đang trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều
ngành khoa học xã hội và nhân văn. Vì thế, đã có rất nhiều định nghĩa về
“Văn hóa”. Ở đây, tác giả chỉ xin đưa ra một số định nghĩa cơ bản về văn
hóa như sau:
Thứ nhất, theo cách hiểu rộng nhất: Văn hóa là toàn bộ những giá trị

vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra. Theo khái niệm này, có thể
thấy văn hóa bao gồm cả vật chất và tinh thần, cả kinh tế lẫn xã hội.
Thứ hai, trong bản tuyên bố chung tại Hội nghị quốc tế ở Mêhicô do
UNESCO chủ trì họp từ 26/7 đến 6/8 năm 1982, người ta chấp nhận một
quan niệm về văn hóa như sau: "Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hóa là tổng
thể những nét riêng biệt về tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết
định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn
hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ
bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và tín
ngưỡng" [58]. Theo Tổng giám đốc UNESCO F.May-ơ (Federico Mayor
Zaagoza) cũng có quan niệm về văn hóa nêu ra trong một bài viết của ông
như sau: "Văn hóa là tổng thể sống động của các hoạt động sáng tạo trong
quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình
thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu - những
yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc" [7].

14
Thứ ba, ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh có quan niệm về văn
hóa như sau: "Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người
mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa
học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày
về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng - Toàn bộ những sáng tạo và
phát minh đó tức là văn hóa" [32; tr. 431]
Dưới góc độ tiếp cận xem lao động sáng tạo là cội nguồn, khởi điểm
của văn hóa hướng về các giá trị nhân bản nhằm hoàn thiện con người, nhà
nghiên cứu Hoàng Vinh đã có quan niệm xác đáng rằng: "Văn hóa là toàn
bộ sáng tạo của con người, tích lũy lại trong quá trình hoạt động thực tiễn
xã hội, được đúc kết thành hệ giá trị và chuẩn mực xã hội, biểu hiện thông
qua vốn di sản văn hóa và hệ ứng xử văn hóa của cộng đồng người. Hệ giá
trị xã hội là một thành tố cốt lõi làm nên bản sắc riêng của một cộng đồng

xã hội, nó có khả năng chi phối đời sống tâm lý và một họat động của
những con người sống trong cộng đồng xã hội ấy" [64; tr. 43].
Tóm lại, hoạt động sáng tạo văn hóa vật chất và tinh thần của con
người là nhằm hình thành nên các giá trị văn hóa để từ đó cộng đồng người
nói chung và mỗi con người nói riêng soi vào nó để chiêm nghiệm, đối
chiếu và phấn đấu để đạt được những chuẩn mực giá trị cần thiết mà mỗi cá
nhân, gia đình, xã hội đòi hỏi. Vì vậy, có thể hiểu: Văn hóa là quá trình vận
động đặc biệt làm biến đổi liên tục và sâu sắc đến năng lực sáng tạo của cá
nhân và cộng đồng nhằm ngày càng hoàn thiện nhân cách và xã hội, vươn
tới sự thống nhất cao giữa mỗi cá nhân - gia đình - cộng đồng làng xã và
toàn xã hội vì sự tồn tại và phát triển tiến bộ của con người và xã hội.
Đồng thời, văn hóa không phải là một lĩnh vực riêng biệt. Văn hóa là tổng
thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra.
Văn hóa là chìa khóa của sự phát triển.

15
1.1.2. Di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể
1.1.2.1. Di sản văn hóa vật thể
Là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học bao gồm cả
di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.
1.1.2.2. Di sản văn hóa phi vật thể
Theo Khoản 1 Điều 2 Mục 1 Công ước bảo vệ di sản văn hóa phi vật
thể của UNESSCO năm 2003 đã ghi nhận “Di sản văn hóa phi vật thể được
hiểu là các tập quán, các hình thức thể hiện, biểu đạt, tri thức, kĩ năng và
kèm theo đó là những công cụ đồ vật, đồ tạo tác và các không gian văn hóa
có liên quan mà các cộng đồng, các nhóm người và trong một số trường
hợp là các cá nhân, công nhận một phần di sản văn hóa là của họ. Được
chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác, di sản văn hóa phi vật thể được
các cộng đồng, các nhóm người không ngừng tái tạo để thích nghi với môi
trường và quan hệ qua lại giữa cộng đồng với tự nhiên và lịch sử của họ,

đồng thời hình thành trong họ ý thức về bản sắc và sự kế tục, qua đó khích
lệ thêm sự tôn trọng đối với đa dạng văn hóa và tính sáng tạo của con
người ”. [61; tr.3]. Theo khái niệm này ta có thể hiểu văn hóa phi vật thể là
sự gắn bó chặt chẽ về đời sống tinh thần trong mỗi cộng đồng. Nó được lưu
truyền, tái tạo để tạo nên bản sắc của mỗi cộng đồng và sự đa dạng văn hóa
trên thế giới.
Chúng ta tiếp thu quan điểm văn hóa phi vật thể của UNESSCO, tại
Điều 1 của Luật di sản văn hóa năm 2001 (sửa đổi, bổ sung năm 2009): “Di
sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với mỗi cộng đồng hoặc
cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn
hóa, khoa học, thể hiện sâu sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo
và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng,
truyền nghề, diễn trình và các hình thức khác” [44; tr.18]. Ở khái niệm này

16
không liệt kê các hình thức của di sản văn hóa phi vật thể nhưng đến Nghị
định số 98/2010/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 21/9/2010 quy định
chi tiết một số điều của Luật đã được sửa đổi và bổ sung, cụ thể hóa các hình
thức biểu hiện của di sản văn hóa phi vật thể: Tiếng nói chữ viết; Ngữ văn dân
gian; Nghệ thuật trình diễn dân gian; Tập quán xã hội và tín ngưỡng; Lễ hội
truyền thống; Nghề thủ công truyền thống; tri thức dân gian.
1.1.3. Khái niệm không gian văn hóa
Theo quan điểm của GS.TS. Ngô Đức Thịnh, không gian văn hóa
được hiểu theo hai nghĩa: Cụ thể và trừu tượng.
Theo nghĩa cụ thể: “Không gian văn hóa là không gian địa lý xác
định, mà ở đó một hiện tượng hay một tổ hợp hiện tượng văn hóa nảy sinh,
tồn tại, biến đổi và chúng liên kết với nhau như một hệ thống. Trong đời
sống xã hội của con người, ít khi một hiện tượng văn hóa nảy sinh, tồn tại
và biến đổi một cách độc lập, mà chúng thường liên kết với nhau thành
những tổ hợp. Có thể hiểu tổ hợp văn hóa như một hệ thống lớn nhỏ khác

nhau, bao gồm nhiều hiện tượng liên kết với nhau như một thực thể hữu
cơ… Với ý nghĩa như vậy, văn hóa tín ngưỡng tôn giáo, văn hóa vùng, văn
hóa làng, văn hóa nghề nghiệp, văn hóa đô thị, văn hóa nông thôn… đều là
những dạng khác nhau của tổ hợp văn hóa.” [52; tr.6]
Theo nghĩa trừu tượng: “Không gian văn hóa là một “trường” để chỉ
một hiện tượng hay tổ hợp các hiện tượng (một nền văn hóa của tộc người,
quốc gia hay khu vực) có khả năng tiếp nhận và lan tỏa (ảnh hưởng), tạo cho
nền văn hóa đó một không gian (trường) văn hóa rộng hay hẹp khác nhau.”
Như vậy, ta có thể hiểu không gian văn hóa như một tổ hợp văn hóa,
được cấu thành từ nhiều nhân tố, được hiểu cụ thể hơn thông qua các di sản
văn hóa vật thể và phi vật thể ở trong không gian ấy. Đồng thời ở đó có sự
giao thoa, tiếp xúc giữa không gian văn hóa này với không gian văn hóa

17
khác và giữa nền văn hóa bản địa và văn hóa ngoại sinh để hình thành nên
một nền văn hóa riêng.
Không gian văn hóa làng Tam Á chính là không gian để người Tam
Á tồn tại và phát triển. Làng Tam Á có không gian vị trí, địa lý xác định, có
nền kinh tế - xã hội ổn định, có quá trình lịch sử lâu dài, có truyền thống
yêu nước nồng nàn, có đặc trưng văn hóa riêng trên cơ sở giao lưu tiếp xúc
với các nền văn hóa khác.
1.1.4. Lý luận về văn hóa làng và làng văn hóa
1.1.3.1. Khái niệm về làng và làng văn hóa
* Khái niệm về làng
Trong đời sống xã hội Việt Nam cổ truyền, "làng xã có vị trí hết sức
đặc biệt: làng là đơn vị cơ bản hình thành quốc gia dân tộc. Nước (quốc
gia) chỉ là tổng số, là kết quả của sự liên kết các làng, xã, là "liên làng",
"siêu làng". Làng có vai trò gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc.
Làng là nhân tố giữ vai trò quyết định trong quá trình dựng nước và giữ
nước của dân tộc "còn làng thì còn nước” [15; tr. 7].

Theo GS. Phan Đại Doãn: “Làng là một cộng đồng dân cư tự nhiên
được tập hợp theo quan hệ huyết thống, quan hệ địa vực, quan hệ nghề
nghiệp…” [10; tr 18-19.]
Theo Bùi Xuân Đính: “Làng là đơn vị tụ cư truyền thống của người
nông dân Việt, có địa vực riêng, cơ cấu tổ chức, cơ sở hạ tầng, các tục lệ
(về cheo cưới, tang ma, khao vọng) thờ cúng riêng, tâm lý tính cách riêng
và cả “thổ ngữ” (tiếng làng) riêng, hoàn chỉnh và tương đối ổn định trong
quá trình lịch sử” [14; tr. 97].
Theo Từ điển văn hóa cổ truyền Việt Nam, làng là tiếng cổ của Việt
Nam dùng để chỉ đơn vị tụ cư của người Việt có từ lâu đời. Xã là từ Hán -
Việt dùng để chỉ đơn vị hành chính thấp nhất ở nông thôn Việt Nam [36; tr.

18
368-706]. Xã của người Việt có thể bao gồm từ một đến vài làng. Trong
trường hợp xã là một làng thì phần lớn tên xã trùng với tên làng. Trong
trường hợp xã bao gồm nhiều làng thì trong ngôn ngữ hành chính làng
được gọi là thôn. Trong ngôn ngữ dân gian và trong cuộc sống đời thường
từ làng được sử dụng phổ biến hơn cả với nhiều hàm nghĩa tình cảm, phi
hành chính "làng ta", "làng mình", "người làng", "sống ở làng, sang ở
nước", "một miếng giữa làng” Vì làng có nguồn gốc bản địa sâu xa và
bền vững nên trong lịch sử, xã có thể bị thu hẹp hay phình to ra tùy theo
các quyết định hành chính, nhưng làng là đơn vị khá ổn định không dễ thay
đổi. Bởi vì, theo nhà nghiên cứu Hà Văn Tấn: "Làng là một đơn vị cộng cư
có một vùng đất chung của cư dân nông nghiệp, một hình thức tổ chức xã
hội nông nghiệp tiểu nông tự cấp tự túc, mặt khác là mẫu hình xã hội phù
hợp, là cơ chế thích ứng với sản xuất tiểu nông, với gia đình - tông tộc gia
trưởng, đảm bảo sự cân bằng và bền vững của xã hội nông nghiệp ấy. Làng
được hình thành, được tổ chức chủ yếu dựa vào hai nguyên lý cội nguồn và
cùng chỗ. Một mặt, làng có sức sống mãnh liệt; mặt khác, xét về cấu trúc,
làng là một cấu trúc động, không có bất biến. Sự biến đổi của làng là do sự

biến đổi chung của đất nước qua tác động của những mối liên hệ làng và
siêu làng" [48; tr. 130].
* Làng văn hóa
Làng văn hóa là sự phát huy và phát triển những giá trị của văn hóa
làng trong thời đại mới. Văn hóa làng chính là nền tảng để chúng ta xây
dựng làng văn hóa một cách vững chắc trong bối cảnh hiện nay. Thực tế đã
chứng minh, trong quá khứ lịch sử cũng như hiện tại và tương lai, làng luôn
giữ một vị trí hết sức quan trọng trong đấu tranh dựng nước và giữ nước, là
nơi lưu giữ trường tồn những giá trị vật chất, tinh thần và bản sắc văn hóa
dân tộc.

19
Việc xây dựng làng văn hóa là nhằm phát huy cao độ những giá trị
vốn có của văn hóa làng theo định hướng XHCN, đáp ứng được ước mơ,
nguyện vọng chính đáng của mọi người dân. Đây là cơ sở để hạn chế đẩy
lùi những yếu kém đang tồn tại trong môi trường xã hội nói chung và môi
trường văn hóa ở làng quê nói riêng. Có thể nhất trí với quan niệm của nhà
nghiên cứu Hoàng Anh Nhân khi ông cho rằng: "Làng văn hóa được hiểu
như là một mô hình mang tính chủ quan, gắn bó với tính chủ quan của con
người mà nội dung của nó bao hàm sự toàn vẹn về mọi mặt trên cơ sở
những đặc điểm tích cực nhất. Về mặt lý thuyết, nếu như văn hóa làng còn
có thể tồn tại những mặt hạn chế thì làng văn hóa phải được hiểu hoàn
toàn ngược lại" [41; tr. 44].
Xây dựng nông thôn mới có kinh tế phát triển, đời sống văn hóa
phong phú, lành mạnh, có cơ sở hạ tầng vật chất và xã hội đáp ứng được nhu
cầu cơ bản của nông dân, có hệ thống chính trị vững mạnh, phát huy dân chủ,
bảo đảm công bằng xã hội, tăng cường đoàn kết và ổn định trong nông thôn,
giữ gìn trật tự xã hội, củng cố vững chắc quốc phòng an ninh cần phải đặc
biệt chú trọng đến nội dung xây dựng làng văn hóa. Bộ Văn hóa – Thể thao và
Du lịch mà trực tiếp là Cục văn hóa cơ sở đã đưa ra 4 tiêu chuẩn để công nhận

làng văn hóa là:
"Một làng (thôn, bản, ấp) được công nhận là làng văn hóa cần phải
phấn đấu thực hiện các tiêu chuẩn sau:
a) Có đời sống kinh tế ổn định và từng bước phát triển.
b) Có đời sống tinh thần lành mạnh, phong phú.
c) Có môi trường cảnh quan sạch đẹp.
d) Thực hiện tốt pháp luật và các chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước" [18; tr. 66].

20
1.1.3.2. Văn hóa làng
Văn hóa làng, hàm chứa nhiều nội dung rất phong phú và đa dạng,
tạo nên bức tranh đa sắc của văn hóa dân tộc. Có thể coi văn hóa dân tộc Việt
Nam là một đại lượng lớn được tạo nên bởi văn hóa làng - những đại lượng
nhỏ. "Văn hóa làng xã Việt Nam có vị trí quan trọng trong diễn trình lịch
sử phát triển của văn hóa dân tộc. Nó luôn luôn bảo tồn, giữ gìn bản sắc
văn hóa dân tộc, nuôi dưỡng sức sống trường tồn của văn hóa dân tộc"
[15; tr. 7].
Văn hóa làng Việt Nam qua hàng ngàn năm phát triển với các bản
sắc có giá trị thực sự là một nền văn hóa của nhân dân và trở thành bộ phận
ổn định nhất của văn hóa dân tộc.
Vậy, văn hóa làng là gì? Theo nhà nghiên cứu Hoàng Anh Nhân
trong công trình Văn hóa làng và làng văn hóa thì "Văn hóa làng có thể
hiểu một cách khái quát nhất là bản sắc riêng của làng, là toàn bộ cuộc
sống của làng với những đặc điểm mang tính truyền thống từ ăn, ở, đi lại,
mọi hoạt động, cách tổ chức, những quy ước, lối ứng xử, những phong tục,
tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng cho đến cả tâm lý của mọi thành viên trong
làng với những đặc trưng riêng của nó" [41; tr. 16].
Xét tổng thể ở nước ta không có sự đối lập văn hóa giữa làng với
làng, giữa làng với nước. Mặc dù, giữa làng này với làng khác có nhiều nét

khác nhau trong tập quán, cả giọng nói song đó chỉ là sắc thái. Giao lưu văn
hóa đã làm cho văn hóa làng có nét chung, đồng dạng về tư tưởng, về tín
ngưỡng, về kiến trúc, điêu khắc, giáo dục và thẩm mỹ Từng khu vực cư
trú có những yếu tố, những sắc thái văn hóa khác nhau, vùng Nam Bộ khác
vùng Bắc Bộ, nhưng cấu trúc tổng thể văn hóa làng tương đối giống nhau.
Chúng ta có thể tán thành quan điểm của nhà nghiên cứu Thu Linh, khi cho
rằng: "Văn hóa làng là một nền văn hóa thuộc về cộng đồng và mang tính

×