Tải bản đầy đủ (.pdf) (147 trang)

Làng tranh dân gian Đông Hồ, xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh Hiện trạng và hướng phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.84 MB, 147 trang )


1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
VIỆN VIỆT NAM HỌC VÀ KHOA HỌC PHÁT TRIỂN




NGUYỄN THỊ HẠNH




LÀNG TRANH DÂN GIAN ĐÔNG HỒ, XÃ SONG HỒ,
HUYỆN THUẬN THÀNH, BẮC NINH:
HIỆN TRẠNG VÀ HƢỚNG PHÁT TRIỂN





LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: VIỆT NAM HỌC







Hà Nội-2012



2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
VIỆN VIỆT NAM HỌC VÀ KHOA HỌC PHÁT TRIỂN




NGUYỄN THỊ HẠNH



LÀNG TRANH DÂN GIAN ĐÔNG HỒ, XÃ SONG HỒ,
HUYỆN THUẬN THÀNH, BẮC NINH:
HIỆN TRẠNG VÀ HƢỚNG PHÁT TRIỂN



Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: VIỆT NAM HỌC
Mã số: 60 31 60



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Chí Bền







Hà Nội-2012

3

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
8

1. Tính cấp thiết của đề tài
8

2. Mục đích, phạm vi nghiên cứu
10

2.1 Mục đích nghiên cứu
10
2.2 Phạm vi nghiên cứu 11
3. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
11

4. Phƣơng pháp nghiên cứu
14

5. Đóng góp của đề tài
15
6. Bố cục luận văn
15
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KHÁI QUÁT LÀNG TRANH
DÂN GIAN ĐÔNG HỒ

17

1.1. Một số khái niệm cơ bản
17

1.1.1 Khái niệm “làng nghề”
17

1.1.2 Khái niệm “nghề thủ công truyền thống”
19

1.1.3 Khái niệm “làng nghề truyền thống”
20

1.1.4 Khái niệm “tranh dân gian”
21

1.1.5 Khái niệm “du lịch làng nghề”
21
1.2 Khái quát làng Đông Hồ
22

1.2.1 Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên
22

1.2.2 Cơ cấu dân cư
25

1.2.3


Lịch sử hình thành làng Đông Hồ
26

1.2.3.1 Lịch sử và tên gọi làng Đông Hồ
26

1.2.3.2 Lịch sử nghề làm tranh dân gian Đông Hồ
28

1.2.4 Di tích lịch sử văn hoá
32

1.2.4.1 Đình làng
32


4
1.2.4.2 Nghè
34
1.2.4.3 Đền
35

1.2.5 Đời sống văn hóa tinh thần làng Đông Hồ
36

1.2.5.1 Giai thoại, truyền thuyết về vị thần Thành hoàng làng Đông Hồ
36

1.2.5.2 Giai thoại, truyền thuyết về một số nhân vật ở Đông Hồ
36


1.2.5.3 Hoạt động lễ hội truyền thống
38

1.2.5.4 Phong tục tập quán
42

Tiểu kết chƣơng 1:
45

CHƢƠNG 2: TRANH DÂN GIAN ĐÔNG HỒ
46

2.1 Một số đặc điểm nội dung tranh dân gian Đông Hồ
46

2.1.1 Về đề tài phong phú
46

2.1.2 Đặc điểm nội dung tranh dân gian Đông Hồ
48

2.1.2.1 Tranh Đông Hồ mang nội dung chúc tụng, thể hiện ước mơ tốt đẹp
của người lao động
49

2.1.2.2 Tranh Đông Hồ ca ngợi truyền thống “tôn sư trọng đạo”
52

2.1.2.3 Tranh Đông Hồ ca ngợi những anh hùng dân tộc, phản ánh

cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc
55

2.1.2.4 Tranh dân gian Đông Hồ mang nội dung phê phán, đả kích
những thói hư, tật xấu
57

2.2 Một số đặc điểm nghệ thuật tranh dân gian Đông Hồ
61

2.2.1 Chất liệu
61

2.2.2 Bố cục
61

2.2.3 Đường nét
62
2.2.4 Màu sắc dân gian 63
2.2.5 Tính dị bản của tranh dân gian Đông Hồ
64

2.3 Quy trình kỹ thuật làm tranh dân gian Đông Hồ
66

2.3.1 Chuẩn bị về nhà xưởng, thiết bị và nguyên liệu
66

2.3.1.1 Về nhà xưởng
66



5
2.3.1.2 Về thiết bị
66

2.3.1.3 Về nguyên liệu in tranh
68

2.3.2 Kĩ thuật làm tranh dân gian Đông Hồ
70
2.3.2.1 Khâu vẽ mẫu - hay sáng tác mẫu tranh 68
2.3.2.2 Khắc ván
71

2.3.2.3 In tranh
73

Tiểu kết chƣơng 2:
75

CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG BIẾN ĐỔI VÀ
ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN LÀNG TRANH DÂN GIAN
ĐÔNG HỒ ĐẾN NĂM 2020
76

3.1 Thực trạng biến đổi của làng tranh dân gian Đông Hồ
76

3.1.1 Hoạt động sản xuất và tiêu thụ tranh dân gian Đông Hồ

76

3.1.1.1 Lao động và phân công lao động
76

3.1.1.2 Hình thức tổ chức sản xuất
81

3.1.1.3 Sản phẩm và tiêu thụ sản phẩm
83

3.1.2 Những biến đổi của tranh dân gian Đông Hồ
85

3.1.2.1 Thay đổi về hình thức nghệ thuật
85

3.1.2.2 Thay đổi về nội dung
86
3.1.3 Thực trạng nghề làm hàng mã phát triển” phi mã”, nghề làm
tranh dân gian Đông Hồ đang đứng trước nguy cơ bị mai một và
thất truyền
87

3.1.4 Thực trạng môi trường sống bị ảnh hưởng từ nghề nghiệp
94

3.1.5 Thực trạng khai thác du lịch tại làng nghề Đông Hồ
98


3.2 Một số giải pháp, kiến nghị để bảo tồn và phát triển làng
tranh dân gian Đông Hồ đến năm 2020
101

3.2.1 Phát triển mô hình du lịch cộng đồng tại làng tranh
dân gian Đông Hồ
101

3.2.2 Giải pháp tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức trong

6
cộng đồng, nhất là thế hệ trẻ về giá trị văn hóa làng nghề
truyền thống của dân tộc
107

3.2.3 Nhóm giải pháp cho nghệ nhân và đào tạo họa sĩ,
chuyên gia trong lĩnh vực vẽ tranh, thẩm định và quảng bá tranh
Đông Hồ
110

3.2.3.1 Giải pháp cho nghệ nhân tranh dân gian Đông Hồ
110

3.2.3.2 Giải pháp trong việc đào tạo họa sĩ, chuyên gia trong
lĩnh vực vẽ tranh, thẩm định và quảng bá tranh Đông Hồ
111

3.2.4 Nhóm giải pháp quảng bá tranh dân gian Đông Hồ ở
trong và ngoài nước
112


3.2.4.1 Tăng cường quảng bá hình ảnh tranh dân gian Đông Hồ
và hình ảnh của làng tranh đến với bạn bè trong và ngoài nước
112

3.2.4.2 Hợp tác quốc tế về nhiều mặt
113

3.2.4.3 Mở rộng và phát triển đồng bộ các loại thị trường cho
làng nghề Đông Hồ
114

3.2.5 Giải pháp tạo vốn và xuất khẩu tranh cho Trung tâm
giao lưu văn hóa dân gian tranh Đông Hồ và làng tranh Đông Hồ
116

Tiểu kết chƣơng 3:
119

KẾT LUẬN
121
TÀI LIỆU THAM KHẢO 124


7
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT
Chữ viết tắt
Chú giải

1.
BNN
Bộ Nông nghiệp
2.
BOD
5
Thông số biểu hiện hàm lượng chất hữu cơ có mặt
trong nguồn nước
3.
C
Max
Giá trị hàm lượng chất ô nhiễm tối đa cho phép xả
thải vào môi trường
4.
COD
Thông số biểu hiện hàm lượng chất hữu cơ có mặt
trong nguồn nước
5.
CP
Chính phủ
6.
GS
Giáo sư
7.
HTX
Hợp tác xã
8.

Nghị định
9.

NXB
Nhà xuất bản
10.
PGS
Phó giáo sư
11.
Tr
Trang
12.
TS
Tiến sĩ
13.
TT
Thông tư
14.
USD
Đô la Mỹ
15.
Vnđ
Việt Nam đồng









8

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tranh dân gian - di sản văn hóa quý giá được hình thành qua nhiều thế
hệ, nó không chỉ đáp ứng nhu cầu về tinh thần, tâm linh và cảm thụ mỹ thuật
của nhân dân lao động mà còn chứa đựng những nội dung nhằm giáo dục đạo
đức, nhân cách trong cuộc sống đời thường. « Con đường » của tranh dân
gian cũng giống như những nẻo đường cổ tích, đoạn kết bao giờ cũng an ủi
được người xem, bao giờ cũng là sự chiến thắng của cái đẹp, dù chủ thể có
trải qua biết bao khốn khó trầm luân. Tranh dân gian ở miền Bắc có ba dòng
chính: tranh điệp Đông Hồ (Bắc Ninh), tranh thờ Hàng Trống (Hà Nội),
tranh đỏ Kim Hoàng (Hà Tây cũ), từ bao thế kỷ qua đã góp vào dòng chảy
chung của mỹ thuật dân gian Việt Nam, tạo nên một vẻ đẹp không thể thiếu
được cho lịch sử văn hóa dân tộc.
Đã có những mất mát không cứu lại được đối với từng dòng tranh.
Nhưng trong thực tế, dù khó khăn đến đâu, vẫn có những người nơi này hay
nơi khác, lúc này hay lúc khác, lặng lẽ nhẫn nại gìn giữ nghề làm tranh truyền
thống, và những bức tranh dân gian vẫn còn như sự nối tiếp âm thầm của một
nền văn hóa lâu đời. Đó là làng tranh dân gian Đông Hồ, vẫn đang lưu giữ và
phát huy một dòng tranh dân gian có vài trăm năm tuổi không hề thuộc về quá
khứ, mà vẫn vươn lên bám sát thời cuộc, để lại những thành tựu nhất định
trong mỗi thời kỳ, từ thời Bắc thuộc đến thời chống Pháp và chống Mỹ. Các
bức tranh Đông Hồ thời cận - hiện đại này ít nhiều đã ghi đậm dấu ấn cá nhân
của những người sáng tác chúng - những nghệ nhân không còn khuyết danh,
mà đã có tên tuổi.
Làng Đông Hồ xưa còn gọi là làng Mái. Các cụ làng Đông Hồ vẫn
truyền lại mấy câu ca rằng: Hỡi cô thắt lưng bao xanh
Có về làng Mái với anh thì về
Làng Mái có lịch có lề
Có sông tắm mát có nghề làm tranh.


9
Làng Đông Hồ nằm sát bờ sông Đuống, ngày xưa chỉ cách sông một
con đê, đó là ý trong câu "Có sông tắm mát có nghề làm tranh". Ngày nay, do
sự bồi lấp của phù sa sông nên từ đê ra đến mép nước khá xa. Còn "làng Mái
có lịch có lề" có ý nghĩa như câu tục ngữ Việt Nam: giấy rách phải giữ lấy lề.
Chữ lề ở đây tượng trưng cho những quy tắc đạo đức của người xưa, rất trọng
danh dự, khí tiết. Vì dân làng Mái, dân nghệ thuật rất trọng lời ăn tiếng nói.
Không như nhiều làng quê khác, người dân làng Hồ, nhất là phụ nữ, ăn nói rất
lịch lãm, trên dưới thưa gửi rất rõ ràng.
Làng Đông Hồ từ lâu đã nổi tiếng vùng Kinh Bắc bởi những sắc thái
văn hóa rất riêng và độc đáo như thế. Đồng thời, Đông Hồ còn được biết đến
bởi đó là một trung tâm sản xuất tranh dân gian lớn, là làng nghệ thuật dân
gian lâu đời. Tranh khắc gỗ Đông Hồ là loại hình nghệ thuật tranh dân gian,
xuất hiện khá sớm, theo nguồn cơ sở đáng tin cậy thì ít nhất cũng hơn năm thế
kỷ tồn tại. Suốt bề dày lịch sử, cùng với tranh Hàng Trống và Kim Hoàng,
Đông Hồ là một trong ba trung tâm sản xuất tranh dân gian lớn vào bậc nhất
của cả nước. Tranh Đông Hồ đã tồn tại thực sự trong đời sống văn hóa tinh
thần của nhân dân ta, là món ăn tinh thần không thể thiếu được của người
nông dân Việt Nam qua nhiều thế kỷ.
Trong quá trình phát triển của mỹ thuật hiện đại Việt Nam, tranh Đông
Hồ chiếm một vị trí đáng kể, là nguồn cảm hứng sáng tác của nhiều họa sỹ và
nhà điêu khắc. Mặc dù Đông Hồ nổi tiếng về sản xuất tranh dân gian và làm
hàng mã, song từ trước đến nay các nhà nghiên cứu thường quan tâm đến
nghề làm tranh, ít quan tâm đến nghề làm mã, hoặc chỉ quan tâm một cách sơ
lược, không đặt nó trong bối cảnh chung hay tương quan với nghề tranh.
Không có nhiều công trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này.
Hiện nay, nghề làm tranh ở Đông Hồ đang có nguy cơ mai một. Do thị trường
và công nghệ phát triển nhanh, tranh dân gian làng Hồ bây giờ không tiêu thụ
nhiều như trước. Qua nhiều thế kỷ, 17 dòng họ đã quy tụ về làng, vốn xưa tất
cả đều làm tranh. Nhưng đến nay, dân làng Hồ hiện chủ yếu sống bằng nghề


10
làm vàng mã. Hiện nay chỉ còn hai gia đình nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế và
nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam cùng con cháu theo nghề tranh, gìn giữ di sản
tranh dân gian Đông Hồ. Việc khôi phục và duy trì một làng nghề cổ truyền là
vấn đề quan trọng, cấp thiết, vừa có ý nghĩa bảo tồn các giá trị truyền thống,
vừa là mặt hàng xuất khẩu quan trọng.
Vì thế, đề tài của luận văn xuất phát từ chủ trương bảo tồn, gìn giữ giá
trị văn hoá phi vật thể của Nhà nước ta những năm gần đây. Hơn nữa, từ trước
đến nay tuy đã có nhiều bài viết về tranh dân gian Đông Hồ, song chưa có
nhiều công trình nghiên cứu trên diện rộng và sâu về làng Đông Hồ, nhất là từ
góc độ văn hóa dân gian với ý nghĩa là một làng nghề truyền thống với những
biến đổi gần đây của một dòng tranh dân gian. Từ những nội dung khách quan
đó, chúng tôi chọn đề tài: Làng tranh dân gian Đông Hồ, xã Song Hồ,
huyện Thuận Thành, Bắc Ninh: Hiện trạng và hướng phát triển làm luận
văn tốt nghiệp cao học của mình.
2. Mục đích, phạm vi nghiên cứu
2.1 Mục đích nghiên cứu

Dựa trên những tư liệu thu thập được qua các ấn phẩm đã xuất bản,
cùng các tư liệu điền dã, chúng tôi sẽ đi sâu khảo sát mối quan hệ tương tác
giữa làng và nghề. Tìm hiểu các nhân tố tự nhiên và xã hội trong quá trình
hình thành và phát triển làng nghề tranh dân gian Đông Hồ. Tìm hiểu những
đóng góp của nghề làm tranh trong việc hình thành sắc thái diện mạo văn hóa
làng và giá trị văn hóa nghệ thuật của nó trong nền văn hóa hiện đại Việt
Nam. Đồng thời, nghiên cứu để tìm ra nguồn gốc lịch sử làng cũng như các
nét đặc trưng trong sinh hoạt, phong tục và hội hè, lễ thức ở Đông Hồ.
Luận văn chúng tôi cũng đi sâu, tập trung làm rõ thực trạng làng nghề
làm tranh hiện nay trước thay đổi của hoàn cảnh.
Chúng tôi còn tập trung vào một số định hướng hay những khuyến nghị

để bảo tồn và phát triển làng Đông Hồ trong giai đoạn hiện nay.


11
2.2 Phạm vi nghiên cứu
Dưới góc độ văn hóa và nghệ thuật, làng tranh Đông Hồ sẽ được
nghiên cứu và khảo sát từ nhiều bình diện khác nhau.
Phần làng: Chúng tôi tập trung tìm hiểu về vị trí địa lý, địa hình, lịch
sử, dân cư, truyền thống văn hóa, di tích lịch sử, hội hè, phong tục tập quán.
Phần nghề: Tìm hiểu quá trình phát triển của nghề làm tranh qua các
thể loại, đề tài, quy trình kỹ thuật,…Trong đó, luận văn đặc biệt nhấn mạnh
về nghề làm tranh dân gian, về lịch sử ra đời cũng như giá trị nghệ thuật và
nội dung của tranh dân gian Đông Hồ.
Bên cạnh đó, chúng tôi khảo sát hiện trạng biến đổi của làng tranh và
nghề làm tranh dân gian trong giai đoạn hiện nay. Từ đó, chúng tôi bước đầu
đưa ra một số khuyến nghị, giải pháp để bảo tồn và phát triển nghề làm tranh
dân gian trong tương lai không xa, đến năm 2020.
3. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Làng nghề là một đề tài khoa học khá hấp dẫn về mặt lý thuyết và thực
tiễn nên từ lâu đã được đề cập dưới nhiều góc độ khác nhau. Ở nước ta đã và
đang có rất nhiều hoạt động nghiên cứu cũng như có nhiều dự án khoa học, ấn
phẩm về các làng nghề thủ công nghiệp của các cá nhân, các nhà khoa học…
Trước hết phải kể đến các cuốn sử thời phong kiến, như Đại Việt sử ký toàn
thư của Sử quán triều Lê [15], Khâm định Việt sử thông giám cương mục của
Quốc sử quán triều Nguyễn [42], hay các sách địa chí (quốc chí, tỉnh chí, xã
chí), như Dư địa chí của Nguyễn Trãi [56], Đại Nam nhất thống chí của Quốc
sử quán triều Nguyễn [43], Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú
[11]; các cuốn tỉnh chí, xã chí… đều nói đến các làng nghề và các sản phẩm
nghề ở từng vùng quê trong cả nước. Đây là nguồn sử liệu quan trọng khi tìm
hiểu, nghiên cứu về nghề và làng nghề truyền thống nói chung.

Thứ hai là các công trình nghiên cứu về lịch sử các ngành nghề, về các
làng nghề và vùng nghề khác nhau, như ba tập Nghề cổ truyền do Sở Khoa
học công nghệ và Môi trường và Sở Văn hóa Thể thao Hải Hưng biên soạn và

12
xuất bản [47], Quê gốm Bát Tràng của Đỗ Thị Hảo [22], Nghề thủ công
truyền thống Việt Nam và các vị tổ nghề; Làng nghề, phố nghề Thăng Long-
Hà Nội của hai tác giả Trần Quốc Vượng, Đỗ Thị Hảo (2000), Làng nghề thủ
công truyền thống Việt Nam của Bùi Văn Vượng [67],… Các nghề và làng
nghề thủ công còn được đề cập trong hầu hết các cuốn địa chí cấp tỉnh, cấp
huyện, các công trình khảo cứu về làng, về các tộc người trong thời gian
gần đây. Nghề và làng nghề cũng là đề tài hấp dẫn cho nhiều Luận văn
Tiến sĩ, Thạc sĩ của các chuyên ngành Dân tộc học, Văn hoá dân gian và
Văn hoá học, như Nghề dệt cổ truyền ở đồng bằng Bắc Bộ của Lâm Bá
Nam [37], Làng nghề sơn quang Cát Đằng của Nguyễn Lan Hương [28];
Làng thêu Quất Động của Nguyễn Thị Sáu [45]; Làng nghề chạm bạc
Đồng Sâm ở Thái Bình của Đỗ Thị Tuyết Nhung [40], Làng Cự Đà, quá
trình hình thành và phát triển của Huỳnh Phương Lan [32], Làng Nhị Khê
với nghề tiện truyền thống của Vũ Thanh Hà [20].
Tác giả Chu Quang Trứ với cuốn sách Tìm hiểu các nghề thủ công điêu
khắc cổ truyền [60]. Tác giả tập trung giới thiệu các nghề thủ công nghệ thuật
hay còn gọi là thủ công mỹ nghệ, với vấn đề đặt ra là giữ gìn và nâng cao bản
sắc văn hoá trong các nghề truyền thống đó. Tác giả Bùi Xuân Đính (chủ
biên), Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Dân tộc học, với cuốn sách Làng
nghề thủ công huyện Thanh Oai (Hà Nội)- truyền thống và biến đổi [16]. Gần
đây có các công trình sách và bài viết trên các báo, tạp chí về làng nghề như:
36 làng nghề Thăng Long - Hà Nội của Lam Khê, Khánh Minh [30]; Nghệ
nhân làng nghề Thăng Long Hà Nội của Nguyễn Thọ Sơn, [48]; 36 nghệ
nhân Hà [62]; Các ngành nghề Việt Nam của Vũ Ngọc Khánh, 2010 [29];
Nghề chổi đót ở Phổ Phong của Tạ Doãn Cường, [13].

Đặc biệt đã có rất nhiều bài viết trên các trang báo điện tử hàng ngày
luôn cập nhật về hiện trạng làng nghề truyền thống, về những đổi thay hay xu
hướng vận động, phát triển của làng nghề nói chung và làng tranh Đông Hồ
nói riêng như: Bài “Tranh xuân, mời đến Đông Hồ” trên trang điện tử

13
Vietbao.vn, đăng ngày 11/2/2005. Bài “Chơi tranh và sống bằng tranh” cũng
trên trang điện tử Vietbao.vn – Mạng thông tin Việt Nam ra thế giới - đăng
ngày 21/5/2007. Bài “Dung dị làng tranh Đông Hồ” đăng trên báo điện tử
Thanh Niên online- diễn đàn của Hội liên hiệp Thanh niên Việt Nam, ngày
17/2/2010, chuyên mục « Văn hóa- nghệ thuật »…. Các bài viết này có khen,
có chê và đều mang tính thời sự cao. Tuy nhiên, vấn đề tìm hiểu chưa được
sâu sát và có phần hạn chế về dung lượng trình bày nên chưa thể hiện được
chiều sâu nghiên cứu, như về hướng đi cho làng nghề hay những giải pháp cụ
thể liên quan đến chính sách phát triển cho làng nghề đó. Cần có một công
trình sát hợp và cụ thể hơn nữa.
Thời Pháp thuộc, tranh dân gian đã được các học giả nước ngoài quan
tâm, tìm hiểu, nghiên cứu, đặc biệt là các học giả người Pháp, Đức, Nga.
Trong số đó, phải kể đến công lao đóng góp của học giả người Pháp là
Maurice Durand. Sau nhiều năm nghiên cứu, ông tập hợp tư liệu để in thành
cuốn sách lấy tiêu đề là Tranh dân gian Việt Nam (Imagerie populaire
Vietnamienne, Paris, 1960), sách dầy gần 500 trang. Một cuốn sách đặc biệt
quan trọng khác của tác giả Henri Oger (tái bản 2009)- Technique du people
annamite- Mechanics and Crafts of the Annamites - Kỹ thuật của người An
Nam, tập I, II, III, [19]. Đây là công trình vĩ đại nhất bằng tranh khắc và in ở
nước ta cho đến nay, cuốn sách tập hợp hơn 7000 bức tranh đen trắng vẽ và
in, miêu tả đời sống văn hóa, sinh hoạt của người An Nam thế kỷ 19, đầu thế
kỷ 20 của một người lính Pháp, một nhà nghiên cứu văn hóa, một cán bộ quản
lý hành chính ở xứ An Nam hồi đó - Henri Oger. Cuốn sách không chỉ cho
chúng ta thấy được toàn cảnh đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị của

khu vực Đông Nam Á nói chung và nước Việt Nam lúc bấy giờ, mà tác giả
còn nhằm giới thiệu cả những tài hoa về nghệ thuật của người dân An Nam
thật đáng trân trọng và kính phục. Trong đó đáng kể nhất phải kể đến nghệ
thuật chạm khắc gỗ tinh xảo, hay nghề truyền thống khắc gỗ, đã góp công lớn

14
làm nên những bức tranh thành công, cũng chính là thành công chung của
cuốn sách.
Từ khi hòa bình lập lại (1954) đến nay, tranh dân gian Việt Nam được
giới thiệu rộng rãi ở trong và ngoài nước. Hơn 40 năm qua, đã có rất nhiều bài
viết, các cuốn sách về tranh dân gian nói chung, tranh dân gian Đông Hồ nói
riêng. Nhà nghiên cứu Nguyễn Bá Vân có công sưu tầm một hệ thống thư
mục các sách, báo, tạp chí nói về tranh dân gian, với số lượng khá lớn. Cuốn
Tranh dân gian Việt Nam của hai tác giả Nguyễn Bá Vân và Chu Quang Trứ
xuất bản năm 1984 [63], là cuốn sách đầu tiên mang tính hệ thống về đề tài
này do người Việt Nam biên soạn, sách dầy 120 trang. Nội dung các công
trình, bài viết đã công bố đề cập nhiều vấn đề khác nhau như: nguồn gốc, đặc
điểm, ý nghĩa, các thể loại, tinh thần dân tộc,… Tuy nhiên, hầu như chưa có
cuốn sách nào khảo sát chuyên sâu về Đông Hồ từ góc nhìn văn hóa dân gian
với tư cách là một làng nghề truyền thống đang trên đà biến đổi.
Như vậy, thực tế nghiên cứu về làng xã, làng nghề nói chung và làng
nghề tranh dân gian Đông Hồ nói riêng đa dạng, phong phú về đề tài, thể
loại. Điểm qua một cách khái quát những công trình đi trước có thể giúp cho
luận văn có được tính hệ thống và sự kế tục lịch sử nghiên cứu. Tiếp nối
truyền thống quý báu đó, luận văn sẽ vừa kế thừa những kết quả nghiên cứu
trước đó làm nguồn tư liệu quý, đồng thời vừa có đóng góp mới cho tư liệu
nghiên cứu nói chung.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Chúng tôi sử dụng nhiều phương pháp trong nghiên cứu khoa học xã
hội bao gồm các phương pháp cụ thể và phương pháp liên ngành.

Các phương pháp khoa học cụ thể được sử dụng trong luận văn bao
gồm: Phương pháp tiếp cận thu thập thông tin; Phương pháp nghiên cứu tài
liệu: Tác giả đi vào phân tích tài liệu dựa trên các kết quả, công trình nghiên
cứu của đồng nghiệp đi trước, như các tài liệu từ nguồn tạp chí và báo cáo
khoa học trong ngành, tác phẩm khoa học, tạp chí và báo cáo khoa học ngoài

15
ngành, tài liệu lưu trữ, thông tin đại chúng v v; Phương pháp thực nghiệm:
quan sát, điều tra tại cộng đồng làng xóm của Đông Hồ.
Phương pháp liên ngành được sử dụng đó là sự kết hợp giữa phương
pháp địa văn hóa và phương pháp vùng văn hóa. Kết quả thu được từ những
phương pháp độc lập như điền dã, khảo sát thực địa, phỏng vấn sâu. Chúng
tôi sử dụng tư duy lô gic và phương pháp tổng hợp để nghiên cứu, mong
muốn làm rõ làng Đông Hồ là một đối tượng nghiên cứu thuộc vùng văn hóa
cụ thể, vùng Kinh Bắc, có lịch sử truyền thống lâu đời, trải qua bao biến đổi
thăng trầm, đến nay, làng Đông Hồ vẫn đứng vững và phát triển trong xu thế
chung của thời đại.
5. Đóng góp của đề tài
Luận văn đã phác thảo được diện mạo và lịch sử phát triển của một
làng nghề trong tương quan với các làng nghề khác. Bước đầu, luận văn trình
bày về lịch sử ra đời, phát triển của dòng tranh dân gian Đông Hồ trong bối
cảnh lịch sử của tranh dân gian Việt Nam, góp tiếng nói riêng trong nghiên
cứu tranh dân gian nước ta. Luận văn còn nêu rõ thực trạng làng nghề, nghề
làm tranh dân gian và đưa ra một số khuyến nghị, giải pháp nhằm khắc phục
tình trạng mai một của nghề làm tranh dân gian ở Đông Hồ hiện nay.
6. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, luận văn gồm có 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và khái quát làng tranh dân gian Đông Hồ: 28
trang
Chương 1 của luận văn nêu lên một số khái niệm cơ bản sử dụng trong

luận văn và điểm qua các nét cơ bản nhất về vị trí địa lý, điều kiện dân cư, xã
hội, cũng như lịch sử làng nghề, lịch sử nghề tranh và một số nét văn hóa dân
gian, văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của làng nghề Đông Hồ.
Chƣơng 2: Tranh dân gian Đông Hồ: 30 trang
Nội dung chính của chương này nêu khái quát một số đặc điểm về nội
dung, nghệ thuật và quy trình làm tranh dân gian Đông Hồ.

16
Chƣơng 3: Thực trạng biến đổi và định hƣớng phát triển làng tranh dân
gian Đông Hồ đến năm 2020: 46 trang
Chương 3 gồm hai phần, phần 1 nêu lên một số thực trạng của nghề
làm tranh và làng nghề Đông Hồ; phần 2, luận văn đi sâu phân tích một số
giải pháp, kiến nghị để bảo tồn và phát triển làng tranh dân gian Đông Hồ.

17
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KHÁI QUÁT LÀNG TRANH DÂN GIAN ĐÔNG HỒ

1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1 Khái niệm “làng nghề”
Khái niệm làng nghề thường được xuất hiện nhiều trên các sách báo
trung ương và địa phương. Có nhiều quan điểm và nhiều cách định nghĩa khác
nhau về làng nghề cả về ý tứ và câu chữ. Tác giả Bùi Viết Vượng cho rằng
“Làng nghề là làng cổ truyền làm nghề thủ công. Ở đấy, không nhất thiết tất
cả dân làng đều sản xuất hàng thủ công Khi nói đến một làng nghề thủ công
truyền thống, ta không chỉ chú ý các mặt đơn lẻ, mà phải chú trọng đến nhiều
mặt, trong cả không gian và thời gian, nghĩa là quan tâm đến tính hệ thống,
toàn diện của làng nghề đó, trong đó yếu tố quyết định là nghệ nhân, sản
phẩm, kỹ thuật sản xuất và thủ pháp nghệ thuật” [66; tr 13]. Theo tác giả Vũ
Từ Trang, “…làng nghề, phường nghề là nơi giữ nghề thủ công lâu đời. Nghề

thủ công đó, đã thu hút hầu hết lao động chính ở vùng đó tham gia và tạo ra
giá trị kinh tế chính cho khu vực nơi đó” [58; tr 11].
Một định nghĩa khác, “làng nghề Việt Nam là một thuật ngữ dùng để
chỉ các cộng đồng dân cư, chủ yếu ở các vùng ngoại vi thành phố và nông
thôn Việt Nam, có chung truyền thống sản xuất các sản phẩm thủ công cùng
chủng loại tại Việt Nam. Làng nghề thường mang tính tập tục truyền thống
đặc sắc, đặc trưng, không chỉ có tính chất kinh tế mà còn bao gồm cả tính văn
hóa, đặc điểm du lịch tại Việt Nam” [76]. Định nghĩa này đã nêu lên một điểm
mới, khá khác biệt với các định nghĩa khác ở chỗ, làng nghề không chỉ có tính
chất kinh tế mà còn bao gồm cả tính văn hóa, đặc điểm du lịch tại Việt Nam.
Điều này đúng với chương trình mục tiêu quốc gia của Chính phủ về phát
triển du lịch làng nghề truyền thống đó là: mỗi làng nghề một sản phẩm. Sản
phẩm ở đây chính là sản phẩm du lịch. Bởi trong hiện tại và tương lai, làng
nghề truyền thống cần đẩy mạnh việc tạo ra những sản phẩm thủ công thuần

18
Việt nhất, đặc trưng nhất để tạo ra lợi thế cho sự phát triển du lịch làng nghề
bền vững, cũng như vực dậy một tiềm năng của du lịch Việt Nam.
Nhóm tác giả Mai Thế Hởn, GS. TS Hoàng Ngọc Hòa, PGS. TS Vũ
Văn Phúc đã tổng hợp ba quan niệm về làng nghề [26; tr 11,12]:
Quan niệm thứ nhất: Làng nghề là nơi mà hầu hết mọi người trong làng
đều hoạt động cho nghề ấy và lấy đó làm nghề sống chủ yếu.
Quan niệm thứ hai: Làng nghề là làng cổ truyền làm nghề thủ công, ở
đấy không nhất thiết tất cả dân làng đều sản xuất hàng thủ công. Người thợ
thủ công, nhiều khi cũng là người làm nghề nông. Nhưng do yêu cầu chuyên
môn hóa cao đã tạo ra những người thợ chuyên sản xuất hàng thủ công truyền
thống ngay tại làng nghề hay phố nghề ở nơi khác.
Quan niệm thứ ba: Làng nghề là trung tâm sản xuất thủ công, nơi quy
tụ các nghệ nhân và nhiều hộ gia đình chuyên tâm làm nghề truyền thống lâu
đời, có sự liên kết hỗ trợ trong sản xuất, bán sản phẩm theo kiểu phường hội,

kiểu hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ, và có cùng tổ nghề.
Từ ba quan niệm trên chúng ta có thể thấy khái niệm về làng nghề đều
liên quan đến các nghề thủ công cụ thể. Tên gọi của làng nghề gắn liền với
tên gọi của các nghề thủ công như nghề gốm sứ, đúc đồng, khảm trai, kim
hoàn, dệt vải, dệt tơ lụa. Trước đây khái niệm làng nghề chỉ bao hàm các nghề
thủ công nghiệp. Ngày nay, các nghề buôn bán dịch vụ trong nông thôn cũng
được xếp vào các làng nghề. Như vậy, trong làng nghề sẽ có loại làng chỉ có
một nghề và làng nhiều nghề, tùy theo số lượng ngành nghề thủ công nghiệp
và dịch vụ chiếm tỷ lệ ưu thế có trong làng.
Nhóm tác giả từ đó đã tóm lược bằng một định nghĩa, mà chúng tôi
cũng đồng tình với quan điểm này: Làng nghề là một cụm dân cư sinh sống
trong một thôn (làng) có một hay một số nghề được tách ra khỏi nông nghiệp
để sản xuất kinh doanh độc lập. Thu nhập từ các nghề đó chiếm tỷ trọng cao
trong tổng giá trị sản phẩm của toàn làng [26; tr 13].

19
Ngoài ra, theo Thông tư số 116/2006/TT-BNN, ngày 18 tháng 12 năm
2006 “Hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định số 66/2006/NĐ-
CP ngày 7/7/2006 của Chính phủ về phát triển ngành nghề nông thôn của Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn” [52] đã giải thích các từ ngữ, trong đó
có khái niệm “Làng nghề”: Làng nghề là một hoặc nhiều cụm dân cư cấp
thôn, ấp, bản, làng, buôn, phum, sóc hoặc các điểm dân cư tương tự trên địa
bàn một xã, thị trấn, có các hoạt động ngành nghề nông thôn, sản xuất ra một
hoặc nhiều loại sản phẩm khác nhau.
1.1.2 Khái niệm “nghề thủ công truyền thống”
Trước đây, có nhiều tên gọi khác nhau để chỉ nghề thủ công truyền
thống ở nước ta như: Nghề truyền thống, nghề cổ truyền, nghề thủ công, nghề
phụ, ngành tiểu thủ công nghiệp…Hiện nay, ngành nghề thủ công truyền
thống được gọi chung là “khối sản xuất ngoài quốc doanh”. Thuật ngữ ngoài
quốc doanh trước kia được hiểu là những hợp tác xã (HTX) tiểu thủ công

nghiệp, xây dựng và vận tải…. Nhưng ngày nay, ngoài các HTX, còn có các
hộ sản xuất cá thể, tiểu chủ, những doanh nghiệp tư nhân sản xuất và kinh
doanh các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp thủ công cổ truyền, các ngành
nghề mới xuất hiện.
Như vậy, nghề thủ công là nghề chủ yếu sản xuất bằng tay, hay công
nghệ truyền thống, với con mắt, bàn tay và bộ óc giàu sáng tạo của nghệ nhân.
Công nghệ truyền thống bao gồm cả tay nghề của nghệ nhân và thợ kỹ thuật
nói chung [66; tr 12].
Theo các tác giả Mai Thế Hởn, GS. TS Hoàng Ngọc Hòa, PGS. TS Vũ
Văn Phúc, “ngành nghề truyền thống là những ngành nghề tiểu thủ công
nghiệp đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử phát triển kinh tế của nước ta, còn
tồn tại đến ngày nay, bao gồm cả ngành nghề mà phương pháp sản xuất được
cải tiến hoặc sử dụng những máy móc hiện đại để hỗ trợ cho sản xuất, nhưng
vẫn tuân thủ công nghệ truyền thống” [26; tr 17].

20
Thông tư số 116/2006/TT-BNN, ngày 18/12/2006, mục giải thích từ
ngữ ghi rõ: Nghề truyền thống là nghề đã được hình thành từ lâu đời, tạo ra
những sản phẩm độc đáo, có tính riêng biệt, được lưu truyền và phát triển
đến ngày nay hoặc có nguy cơ bị mai một, thất truyền [52]. Chúng tôi đồng
tình với khái niệm này.
1.1.3 Khái niệm “làng nghề truyền thống”
Có ba quan niệm khác nhau về làng nghề truyền thống [26; tr13].
Quan niệm thứ nhất: Làng nghề truyền thống là một cộng đồng dân
cư, cư trú trong phạm vi một địa bàn tại các vùng nông thôn tách rời khỏi
sản xuất nông nghiệp, cùng làm một hoặc nhiều nghề thủ công có truyền
thống lâu đời, để sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản phẩm bán ra thị trường
để thu lợi.
Quan niệm thứ hai: Làng nghề truyền thống là những làng nghề làm
nghề thủ công có truyền thống lâu năm, thường là qua nhiều thế hệ.

Quan niệm thứ ba: Làng nghề truyền thống là những làng có tuyệt đại
bộ phận dân số làm nghề cổ truyền. Nó được hình thành, tồn tại và phát triển
lâu đời trong lịch sử, được nối tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác kiểu cha
truyền con nối hoặc ít nhất cũng tồn tại hàng chục năm.
Từ cách tiếp cận và nghiên cứu trên, nhóm tác giả Mai Thế Hởn, GS.
TS Hoàng Ngọc Hòa, PGS. TS Vũ Văn Phúc đã nêu ra định nghĩa: “Làng
nghề truyền thống là những thôn làng có một hay nhiều nghề thủ công truyền
thống được tách ra khỏi nông nghiệp để sản xuất kinh doanh và đem lại nguồn
thu nhập chiếm phần chủ yếu trong năm. Những nghề thủ công đó được
truyền từ đời này qua đời khác, thường là nhiều thế hệ. Cùng với thử thách
của thời gian, các làng nghề thủ công này đã trở thành nghề nổi trội, một nghề
cổ truyền, tinh xảo, với một tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay bán
chuyên nghiệp đã chuyên tâm sản xuất, có quy trình công nghệ nhất định và
sống chủ yếu bằng nghề đó. Sản phẩm làm ra có tính mỹ nghệ và đã trở thành

21
hàng hóa trên thị trường” [26; tr 15]. Chúng tôi đồng tình với định nghĩa này
về làng nghề truyền thống.
1.1.4 Khái niệm “tranh dân gian”
Có nhiều cách hiểu khác nhau về tranh dân gian Việt Nam. Theo định
nghĩa của vi.wikipedia.org [76]: Tranh dân gian Việt Nam là một loại hình
mỹ thuật cổ truyền của dân gian Việt Nam… Tranh ra đời để đáp ứng nhu
cầu văn hóa tinh thần của người dân, gắn bó chặt chẽ với đời sống thường
nhật của người dân nơi thôn dã. Tranh dân gian cũng phản ánh những gì gần
gũi, thân thiết với người dân hay cả những điều thiêng liêng cao quý trong
các tranh thờ. Có cách hiểu khác khá đơn giản: tranh dân gian là loại tranh
được lưu hành rộng rãi trong dân gian…[77]. Một định nghĩa khác của ông
Philippe Le Failler, “Tranh dân gian Việt Nam được hiểu là những tranh
khắc làm từ những bản khắc gỗ được trang trí và đôi khi được tô điểm thêm
những câu chú giải viết tay để tạo ra nhiều tranh có đề tài khác nhau” [41,

tr 28, 29].
Theo Từ điển Bách khoa Văn hóa học, “tranh và tác phẩm đồ họa nói
chung (chủ yếu được in ra) có đặc điểm dễ hiểu và đến được với đại chúng
đông đảo. Tranh dân gian có đặc điểm kỹ thuật đơn giản, tiết kiệm thủ pháp
thể hiện, thiên về hướng trang trí, đường nét thô thiển, màu sắc sặc sỡ, thiên
về kể chuyện, nhiều khi có thêm lời phụ đề thêm. Nói chung, tranh dân gian
do những họa sĩ không chuyên thực hiện, do đó đích thực là “dân gian”. Tuy
nhiên, vào thế kỷ XIX, ngày càng nhiều họa sĩ chuyên nghiệp cũng vẽ tranh
dân gian” [1; tr 527, 528].
1.1.5 Khái niệm “du lịch làng nghề”
Du lịch làng nghề trong những năm gần đây đang được xem là một
loại hình du lịch “homestay” được nhiều nước trên thế giới và một số điểm
trong nước áp dụng rất hiệu quả. Ông Nguyễn Anh Tuấn, Phó vụ trưởng, Vụ
Lữ hành, Tổng cục Du lịch cho rằng: Làng nghề truyền thống được xem như
một dạng tài nguyên du lịch nhân văn có ý nghĩa đặc biêt quan trọng, bởi

22
các sản phẩm của nó luôn bao hàm cả giá trị vật thể và phi vật thể
[74].
Như vậy, du lịch làng nghề là một dạng tài nguyên du lịch nhân văn, có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi các sản phẩm của nó luôn bao hàm cả giá trị
vật thể và phi vật thể. Ở đó, du khách không chỉ đến xem, tham quan, mua
sắm, mà còn được trực tiếp tham gia các công đoạn sản xuất thủ công và tự
trải nghiệm, khám phá.
Du lịch làng nghề là loại hình du lịch văn hoá tổng hợp đưa du khách
tới tham quan, cảm nhận các giá trị văn hoá và mua sắm những hàng hoá đặc
trưng của các làng nghề truyền thống trên khắp miền đất nước.
1.2 Khái quát làng Đông Hồ
1.2.1 Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên



Làng Đông Hồ cách trung tâm Hà Nội khoảng 35km. Theo đường
Quốc lộ 5 khoảng 14km rẽ trái, đi qua các phố Sủi, phố Keo, phố Dâu, đến
ngã tư Đông Côi rẽ trái, đi thẳng, khoảng 3km sẽ tới phố Hồ (thị trấn Hồ),
tiếp tục rẽ trái khoảng 1km là tới làng Đông Hồ.
Đông Hồ là một làng nhỏ, nằm bên sông Thiên Đức (sông Đuống)
1
,
bên cạnh đường giao thông nối xứ Bắc (Hà Bắc cũ) với xứ Đông (Hải
Dương), là hai vùng đất cổ trù phú của châu thổ sông Hồng. Làng Đông Hồ
cách bến phà Hồ 500m theo đường chim bay về phía Đông, thuyền bè xuôi
ngược cập bến thuận tiện. Phía Đông giáp thị trấn Hồ, phía Tây giáp xã Đại
Đồng Thành, phía Nam giáp xã Gia Đông, phía Bắc nằm dọc theo đê sông
Đuống. Vị trí này của làng Đông Hồ khá thuận lợi cho việc giao thông, giao
thương với những vùng xung quanh, trong đó có thủ đô Hà Nội.
Địa hình của làng Hồ tương đối bằng phẳng. Đất đai gồm hai loại cơ
bản là đất phù sa cổ và đất phù sa mới bồi đắp. Đất phù sa cổ - tức là đất trong
đồng, chiếm phần lớn trong tổng diện tích đất canh tác của làng. Qua các công
trình nghiên cứu về khảo sát địa chất, làng Đông Hồ nói riêng và các làng


1
Sông Đuống là một nhánh của sông Hồng nối với sông Thái Bình, chia tỉnh Bắc Ninh làm hai
phần: Nam và Bắc

23
khác trong xã Song Hồ nói chung đã được xác định là vùng đất hình thành từ
trước công nguyên (cách đây hơn 2000 năm), trong quá trình biển lùi. Trên
loại đất này, cây trồng được canh tác chủ yếu là lúa nước. Ngoài ra, ở một số
khu đồng cao còn trồng được hoa màu, chủ yếu là khoai lang, đỗ, lạc [6, tr 7,

8]. Địa hình của làng Đông Hồ cũng giống như nhiều dạng địa hình của các
tỉnh đồng bằng Bắc Bộ ở chỗ, địa hình khá bằng phẳng và có bề dày trầm tích
lâu đời, đất phù sa bồi đắp thuận lợi cho nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp
phát triển sớm.
Về giao thông, vùng đất làng Hồ nằm gần một mạng lưới giao thông
thủy - bộ quan trọng của vùng. Đó là quốc lộ 38, con đường chạy theo hướng
Bắc - Nam, từ Bắc Ninh xuống Hưng Yên. Đường giao thông bộ quan trọng
thứ hai là đường đê sông Đuống, chạy theo hướng Tây - Đông, từ phía Gia
Lâm (Hà Nội), vào hết địa phận Gia Lương (nơi tiếp giáp đê sông Thái Bình).
Đường thứ ba là từ bến Hồ đi cầu Cốc đến thành cổ Luy Lâu và chùa Dâu
(gọi là đường tỉnh lộ 282). Các trục đường bộ chính này hợp lại như một trục
ngang dọc, mà nơi gặp gỡ chính là ngã tư Hồ để rồi từ đó phong tỏa ra các
vùng phụ cận [6; tr 8]. Mạng lưới giao thông đường bộ này rất thuận lợi cho
Đông Hồ mở rộng giao lưu, buôn bán với những khu vực lân cận và các tỉnh
thành khác của miền Bắc, đặc biệt là thủ đô Hà Nội. Ngoài ra, giao thông
đường thủy cũng có một tầm quan trọng đối với Song Hồ nói chung và làng
Hồ nói riêng. Hoạt động giao thông này được diễn ra trên dòng sông Đuống-
một nhánh sông nối sông Hồng với sông Thái Bình. Nhờ hệ thống sông này
mà việc giao lưu giữa Đông Hồ với các làng trong xã, với Hà Nội, Hải Phòng
và nhiều vùng khác được dễ dàng [6, tr. 9].
Do sự bồi đắp của tự nhiên đã tạo cho vùng đất Đông Hồ vừa có sông,
có đường giao thông thủy bộ thuận tiện, đồng ruộng tương đối bằng phẳng,
tạo nên phong cảnh thật thơ mộng, hữu tình. Còn khí hậu nơi đây ôn hòa mát
mẻ, nhiệt độ trung bình hàng năm là 23,5
0
C, lượng mưa trung bình là 82,5%.

24



Xét về vị trí địa lý - lịch sử, Đông Hồ nằm trong một quần thể các di
tích lịch sử nổi tiếng vùng Kinh Bắc. Phía Bắc làng là sông Thiên Đức, tiếp
giáp với xã Đại Đồng Thành có đền thờ Kinh Dương Vương, cách đó khoảng
1km là chùa Bút Tháp. Phía Tây Nam có thành Luy Lâu và chùa Dâu, là trung
tâm Phật giáo lớn thời Bắc thuộc. Phía Nam giáp đồng ruộng, theo đường
chim bay hơn 3km nhìn thẳng sang là làng Tam Á, có lăng Sĩ Nhiếp, phía
Đông có núi Thiên Thai. Như vậy, Đông Hồ nằm ở trong quần thể di tích lịch
sử văn hóa có quy mô lớn và phong phú vào bậc nhất nước ta trong thiên niên
kỷ thứ nhất sau Công nguyên. Đó là khu di tích lịch sử - văn hóa Luy Lâu.
Luy Lâu đã từng là trung tâm kinh tế, chính trị, quân sự và thương mại của
quận Giao Chỉ và Châu Giang dưới thời Bắc thuộc. Luy Lâu cũng là một

25
trong ba trung tâm văn hóa, trung tâm Phật giáo lớn ở phương Đông trong
thời đế chế Hán
1.2.2 Cơ cấu dân cư
Theo địa giới hành chính hiện nay, xã Song Hồ gồm 4 thôn: Đông Khê,
Đạo Tú, Tú Tháp và Lạc Hoài. Thôn Đạo Tú còn gọi là làng Đạo Tú, thôn Tú
Tháp gọi là làng Tháp và thôn Lạc Hoài còn gọi là Ấp Hồ.
Thôn Đông Khê gồm 4 đội sản xuất (còn gọi là 4 xóm). Đội 1 và đội 2
thuộc làng Đông Hồ cũ. Đội 3 thuộc làng Khê cũ. Đội 4 thuộc làng Đạo Tú.
Tính đến cuối năm 1999, toàn xã Song Hồ có 4799 nhân khẩu- đều là
dân tộc Kinh- (ứng với 1078 hộ, trong đó có 2.032 lao động) và 464 mẫu diện
tích đất tự nhiên và đất canh tác. Trong đó Đông Hồ có 748 nhân khẩu (183
hộ) với diện tích đất canh tác là 224 000 m2. So sánh diện tích đất canh tác
với số nhân khẩu ở Đông Hồ có thể tính được bình quân diện tích đất canh
tác, chưa được 1 sào (gần 300m2/ người; 1 sào Bắc Bộ = 360m2) cho một đầu
người. Theo số liệu năm 2002, diện tích đất tự nhiên là 335,85 ha, trong đó
đất canh tác nông nghiệp là 215,86 ha, đất ở là 18,35 ha, các loại đất khác là
103,64 ha. Dân số của xã Song Hồ là 4.896 người, đều là dân tộc Kinh.

Vì diện tích ruộng canh tác ít nên theo quy luật tự nhiên, nghề phụ ở
Đông Hồ từ lâu đã phát triển và trở thành nguồn thu nhập chính của người
dân. Các cụ ở Đông Hồ kể rằng, dưới thời phong kiến làng Đông Hồ hầu như
chỉ sống bằng nghề in tranh và làm hàng mã. Cả làng chỉ có 4, 5 nhà làm
ruộng. Trước năm 1945, làng có 328 nhân khẩu với 81 hộ, có 289 mẫu Bắc
Bộ bao gồm đất canh tác và đất tự nhiên. Dân số ít nhưng lại thuộc tới 17
dòng họ khác nhau- có gốc từ Hải Dương, Thanh Hóa. Đó là họ Nguyễn
Đăng, Trần Văn (2 họ), họ Hà, họ Nguyễn Hữu, Nguyễn Nhân, Nguyễn Bá (2
họ), họ Dương, họ Lê, họ Lý, họ Nguyễn Thế, Nguyễn Ngọc (2 họ), họ
Vương, họ Nguyễn Đức, họ Nguyễn Văn. Sau cách mạng tháng Tám, có thêm
họ Nguyễn Khắc. Hiện nay hai dòng họ Nguyễn Đức và Nguyễn Văn không
còn ở làng. Nhưng có gia đình nghệ nhân Nguyễn Văn Đảng, người làng Đạo

×