ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
TRẦN THỊ PHƢƠNG NHUNG
QUN L HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC TIẾNG ANH CHUYÊN NGÀNH
TẠI ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
LUÂ
̣
N VĂN THA
̣
C S QUN L GIÁO DỤC
HÀ NỘI - 2010
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
TRẦN THỊ PHƢƠNG NHUNG
QUN L HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC TIẾNG ANH CHUYÊN NGÀNH
TẠI ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
LUÂ
̣
N VĂN THA
̣
C SI
̃
QUA
̉
N LÝ GIÁO DỤC
Chuyên nga
̀
nh: QUN L GIÁO DỤC
M s: 60 14 05
Ngƣời hƣơ
́
ng dâ
̃
n khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Phƣơng Hoa
HÀ NỘI - 2010
HÀ NỘI - 2010
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BD
:
Bồi dưỡng
CM
:
Chuyên môn
CSVC
:
Cơ sở vật chất
ĐG
:
Đánh giá
DH
:
Dạy học
ĐH
:
Đại học
ĐHCN
:
Đại học Công nghệ
ĐHKT
:
Đại học Kinh tế
ĐHNN
:
Đại học Ngoại ngữ
ĐHQGHN
:
Đại học Quốc gia Hà Nội
ĐT
:
Đào tạo
GD
:
Giáo dục
GV
:
Giảng viên
HĐ
:
Hoạt động
KH
:
Kế hoạch
KT
:
Kiểm tra
ND
:
Nội dung
NN
:
Ngoại ngữ
NNCN
:
Ngoại ngữ chuyên ngành
PP
:
Phương pháp
QL
:
Quản lý
SV
:
Sinh viên
TACN
:
Tiếng Anh chuyên ngành
DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ
Trang
Sơ đồ 1.1:
Quan hệ chủ thể, khách thể và mục tiêu quản lý
10
Sơ đồ 1.2:
Mối quan hệ giữa thông tin với các chức năng trong chu trình
quản lý
11
Biểu đồ 2.1:
Thực trạng chương trình dạy NNCN
38
Biểu đồ 2.2:
Thực trạng giáo trình
38
Biểu đồ 2.3:
Mức độ sử dụng tài liệu tham khảo trong giảng dạy NNCN
39
Bảng 2.1:
Mức độ thực hiện các HĐ của GV trong giờ dạy NNCN
40
Biểu đồ 2.4:
Yêu cầu đối với SV sau giờ học NNCN
41
Biểu đồ 2.5:
Nhận thức về vai trò của môn NNCN
42
Biểu đồ 2.6:
Mức độ hứng thú của SV
44
Biểu đồ 2.7:
Thói quen học NNCN của SV
44
Biểu đồ 2.8:
Những hoạt động trong quá trình dạy học NNCN
46
Bảng 2.2:
Mức độ thực hiện các HĐ trong giờ học NNCN của SV
47
Biểu đồ 2.9:
Mô hình học tập hiệu quả
48
Biểu đồ 2.10:
Trình độ tiếng Anh của SV khi ra trường
49
Biểu đồ 2.11:
Mức độ nghiêm túc trong công tác coi thi
50
Biểu đồ 2.12:
Mức độ nghiêm túc trong thi cử của SV
51
Biểu đồ 2.13:
Nội dung kiểm tra, đánh giá sau mỗi học phần
51
Biểu đồ 2.14:
Chất lượng học tập của SV qua kết quả thi
52
Biểu đồ 2.15:
Tỷ lệ giảng viên tham gia khóa học bồi dưỡng chuyên môn
53
Biểu đồ 2.16:
Hoạt động nâng cao chuyên môn của giảng viên NNCN
54
Bảng đồ 2.17:
Thực trạng quản lý việc lập kế hoạch của giảng viên
55
Biểu đồ 2.18:
Quản lý nhiệm vụ soạn bài và chuẩn bị lên lớp
56
Biểu đồ 2.19:
Thực trạng quản lý việc thực hiện KH và chương trình giáo dục
58
Biểu đồ 2.20:
Thực trạng quản lý hoạt động cải tiến nội dung, phương
pháp, hình thức tổ chức dạy học và đánh giá giờ dạy
59
Biểu đồ 2.21:
Tổ chức, tạo điều kiện cho giảng viên tham gia bồi dưỡng
kiến thức và chuyên ngành giảng dạy
61
Biểu đồ 2.22:
Thực trạng quản lý hoạt động học NNCN
62
Biểu đồ 2.23:
Thực trạng quản lý việc KT – ĐG kết quả học tập của SV
64
Bảng 3.3:
Kết quả khảo sát tính cần thiết và khả thi của các biện pháp
79
MỤC LỤC
Tr
ang
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục đích nghiên cứu 2
3. Đối tượng, khách thể và giới hạn phạm vi nghiên cứu 3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 3
5. Giả thuyết khoa học 3
6. Phương pháp nghiên cứu 3
7. Cấu trúc luận văn 4
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC
NGOẠI NGỮ CHUYÊN NGÀNH 5
1.1. Một số nét về lịch sử nghiên cứu của đề tài 5
1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài 7
1.2.1. Quản lý và các khái niệm liên quan đến quản lý 7
1.2.2. Quản lý giáo dục và quản lý nhà trường 16
1.2.3. Các khái niệm liên quan đến quản lý hoạt động dạy học ở bậc đại học 18
1.3. Các vấn đề liên quan đến hoạt động dạy học ngoại ngữ chuyên ngành
ở bậc đại học 21
1.3.1. Hoạt động dạy học ngoại ngữ 21
1.3.2. Quản lý hoạt động dạy học ở bậc đại học 24
1.3.3. Tiếng Anh chuyên ngành 28
1.3.4. Mục tiêu, nội dung, hình thức của hoạt động dạy học
ngoại ngữ chuyên ngành ở bậc đại học 29
1.3.5. Vai trò, ý nghĩa của hoạt động dạy học ngoại ngữ chuyên ngành
trong việc nâng cao chất lượng dạy học ở bậc đại học 31
1.4. Vai trò của giảng viên và nhà quản lý trong việc dạy
ngoại ngữ chuyên ngành ở bậc đại học 33
1.4.1. Vai trò của giảng viên 33
1.4.2. Vai trò của nhà quản lý 33
Tiểu kết chương 1 34
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC
TIẾNG ANH CHUYÊN NGÀNH Ở ĐHQGHN 35
2.1. Một số nét về Khoa tiếng Anh – Trường ĐHNN – ĐHQGHN 35
2.1.1. Khái quát về Khoa tiếng Anh – Trường ĐHNN – ĐHQGHN 35
2.1.2. Đặc điểm của sinh viên các trường thành viên do Khoa tiếng Anh
đảm nhận việc giảng dạy ngoại ngữ chuyên ngành 37
2.2. Thực trạng dạy học tiếng Anh chuyên ngành ở Trường Đại học
Công nghệ và Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN 37
2.2.1. Thực trạng chương trình, giáo trình 37
2.2.2. Thực trạng hoạt động dạy tiếng Anh chuyên ngành 39
2.2.3. Thực trạng hoạt động học tiếng Anh chuyên ngành 42
2.2.4. Thực trạng kiểm tra, đánh giá 49
2.2.5. Thực trạng chuyên môn của giảng viên dạy ngoại ngữ chuyên ngành 52
2.3. Thực trạng quản lý hoạt động dạy học tiếng Anh chuyên ngành ở
Trường Đại học Công nghệ và Trường Đại học Kinh tế 54
2.3.1. Thực trạng quản lý hoạt động dạy ngoại ngữ chuyên ngành 54
2.3.2. Thực trạng quản lý hoạt động học ngoại ngữ chuyên ngành 62
2.3.3. Thực trạng quản lý hoạt động kiểm tra đánh giá trong dạy học NNCN 63
Tiểu kết chương 2 65
Chương 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
DẠY HỌC TIẾNG ANH CHUYÊN NGÀNH Ở ĐHQGHN 66
3.1. Các cơ sở và nguyên tắc đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động
dạy học tiếng Anh chuyên ngành ở Đại học Quốc gia Hà Nội 66
3.1.1. Các cơ sở xây dựng các biện pháp quản lý 66
3.1.2. Các nguyên tắc xây dựng các biện pháp quản lý 67
3.2. Một số biện pháp quản lý hoạt động dạy học tiếng Anh chuyên ngành
ở ĐHQGHN 68
3.2.1. Nhóm biện pháp quản lý hoạt động dạy của giảng viên 68
3.2.2. Nhóm biện pháp quản lý hoạt động học của sinh viên 74
3.2.3. Mối liên quan giữa các biện pháp 78
3.3. Khảo sát tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp 78
Tiểu kết chương 3 80
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 81
1. Kết luận 81
1.1. Về lý luận 81
1.2. Về thực trạng 81
1.3. Đề xuất các biện pháp quản lý 82
2. Khuyến nghị 82
2.1. Đối với Đại học Quốc gia Hà Nội 83
2.2. Đối với Trường Đại học Ngoại ngữ 83
2.3. . Đối với Khoa tiếng Anh 83
TÀI LIỆU THAM KHẢO 84
PHỤ LỤC
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngoại ngữ đóng một vai trò hết sức quan trọng trong cuộc sống hàng ngày của
chúng ta, và ngày nay, tiếng Anh đã trở thành một công cụ ngôn ngữ phổ biến đối
với hầu hết tất cả mọi người và là một trong những yếu tố không thể thiếu đối với
bất kỳ một quốc gia nào.
Ở nước ta, hơn bao giờ hết, NN, đặc biệt là tiếng Anh, đã thực sự là một
phương tiện giao tiếp, một công cụ làm việc, góp phần to lớn trong công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giúp chúng ta vững bước trên con đường hội
nhập quốc tế.
Yêu cầu đặt ra cho ngành GD đối với việc dạy và học NN là phải ĐT ra nguồn
nhân lực lao động có chất lượng cao, trong đó có khả năng sử dụng NN như là một
công cụ để giao tiếp, nghiên cứu và học tập. Việc giảng dạy và học tiếng Anh không
đơn thuần là dừng lại ở tiếng Anh giao tiếp, tiếng Anh ngữ pháp hàng ngày, hầu hết
mọi nơi người ta đang quan tâm nhiều hơn tới TACN – tiếng Anh sử dụng trong
công việc. Tại các trường ĐH, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, chương trình
TACN đã và đang được áp dụng rộng rãi và các HĐ nghiên cứu, xây dựng chương
trình, giáo trình TACN đang được hết sức quan tâm với mục tiêu đi sâu vào mỗi
chuyên ngành cụ thể.
Việc giảng dạy TACN ít nhiều có đặc thù riêng và khác ít nhiều so với tiếng
Anh phổ thông và các PP giảng dạy TACN hiệu quả đã được bàn tới rất nhiều. Mặc
dù, có nhiều PP giảng dạy TACN được nghiên cứu và bàn luận trong các cuốn sách
của nhiều tác giả nước ngoài, nhưng việc vận dụng các PP đó với người học tại Việt
Nam đòi hỏi phải có sự điều chỉnh và thay đổi cho phù hợp với trình độ, kiến thức
của người học và các điều kiện của môi trường học tập Việt Nam.
QL việc dạy và học NN có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với việc nâng cao
hiệu quả ĐT. QL tốt sẽ giúp GV và SV có những bước đi đúng đắn trong từng khâu
của quá trình dạy và học, như việc xây dựng KH năm học của từng tổ bộ môn, của
2
cá nhân, KH dự giờ, chỉ đạo ra đề thi, KT; các hình thức hội thảo, BD chuyên
đề…Các biện pháp này nhằm tác động trực tiếp đến người dạy và người học để họ
kịp thời điều chỉnh PP dạy và học, thực hiện đầy đủ và khoa học quá trình KT, ĐG
trên cơ sở công bằng, khách quan đáp ứng ngày càng đầy đủ và vững chắc các yêu
cầu do mục tiêu GD đề ra.
Trường ĐHNN là một trong những trường thành viên của ĐHQGHN, ngoài
những nhiệm vụ chính là ĐT ra các cử nhân NN, những giáo viên NN giỏi cho cả
nước, trường còn có một nhiệm vụ là ĐT NN cho SV của các trường thành viên
trong ĐHQGHN như Trường ĐHCN, Trường ĐHKT, Trường ĐH Khoa học xã hội
và Nhân văn, Trường ĐH Khoa học Tự nhiên và Khoa Luật. Và nhiệm vụ này Nhà
trường đã giao cho Khoa tiếng Anh của Trường đảm nhiệm.
Những SV của các đơn vị này sẽ được học NN giao tiếp trong một năm đầu, đến
năm thứ 2 các em sẽ học môn NNCN liên quan đến chuyên ngành ĐT của mình. Khi
đảm nhiệm việc giảng dạy NNCN, các GV đã luôn luôn tìm tòi, áp dụng các PP và kỹ
thuật mới trong HĐ giảng dạy để nâng cao chất lượng DH, giúp SV sử dụng NNCN
trong việc học tập, nghiên cứu các môn chuyên ngành bằng NN cũng như áp dụng
trong công việc sau này một cách hiệu quả.
Để thực hiện tốt được việc DH NN nói chung và NNCN nói riêng, một phần
quyết định không kém phần quan trọng đó là có một cơ chế QL tốt HĐ này.
Thực tiễn này đang là mối quan tâm của các nhà QL GD. QL như thế nào?
Cần có những cải tiến gì để khắc phục những yếu kém trên? Đây là vấn đề được đặt
ra và cần phải giải quyết trong thực tiễn QL dạy và học NN hiện nay.
Bản thân tôi là một người làm công tác QL, tôi thấy mình cần nghiên cứu để
tìm ra những biện pháp nhằm QL tốt hơn việc dạy và học NN, góp phần nâng cao
chất lượng dạy và học NNCN. Vì những lý do trên, tôi đã chọn đề tài “Quản lý hoạt
động dạy học tiếng Anh chuyên ngành tại Đại học Quốc gia Hà Nội” làm đề tài
nghiên cứu luận văn của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng hoạt động dạy học TACN tại ĐHQGHN, đề
xuất một số biện pháp QL nhằm nâng cao chất lượng dạy - học TACN.
3
3. Đối tƣợng, khách thể và giới hạn phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Quản lý hoạt động dạy học tiếng Anh chuyên ngành
ở Đại học Quốc gia Hà Nội.
3.2. Khách thể nghiên cứu: Hoạt động dạy học tiếng Anh chuyên ngành ở Đại
học Quốc gia Hà nội.
3.3. Giới hạn phạm vi nghiên cứu: Quản lý hoạt động dạy học tiếng Anh chuyên
ngành ở Trường Đại học Công nghệ, Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia
Hà Nội.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài
- Khảo sát thực trạng quản lý dạy học TACN ở ĐHQGHN hiện nay
- Đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động dạy học TACN ở ĐHQGHN.
5. Giả thuyết khoa học
Hoạt động dạy học TACN còn nhiều hạn chế do nhiều nguyên nhân khác nhau
trong đó có cả nguyên nhân từ khâu QL. Nếu có những biện pháp phù hợp, nhà QL
sẽ giúp người học có hứng thú học tập và đạt kết quả cao, phát huy được khả năng
truyền thụ kiến thức của người dạy và khả năng tiếp thu của người học.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
6.1 . Các phương pháp nghiên cứu lý luận:
- Phương pháp phân tích tổng hợp lý thuyết
- Phương pháp xây dựng lý thuyết
6.2 . Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Phương pháp điều tra viết
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
- Phương pháp chuyên gia
6.3 .Các phương pháp bổ trợ
4
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, khuyến nghị, luận văn được trình bày trong
3 chương cụ thể như sau:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động dạy học ngoại ngữ chuyên ngành
- Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động dạy học ngoại ngữ chuyên ngành ở
ĐHQGHN
- Chương 3: Một số biện pháp quản lý hoạt động dạy học tiếng Anh chuyên
ngành ở ĐHQGHN
Cuối luận văn là phần danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục.
5
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
DẠY HỌC NGOẠI NGỮ CHUYÊN NGÀNH
1.1. Một số nét về lịch sử nghiên cứu của đề tài
Quản lý hoạt động dạy và học ngoại ngữ là một phần quan trọng trong chương
trình phát triển GD ở nhiều nước trên thế giới. Các hình thức HĐ dạy và học NN
diễn ra phong phú, đa dạng và đều nhằm mục đích thúc đẩy quá trình hội nhập của
các nước, phục vụ cho việc phát triển kinh tế đất nước. Xin nêu một số điển hình về
HĐ dạy và học NN:
Tại Singapore việc học từ bậc tiểu học lên ĐH cũng đều bằng tiếng Anh.
Việc QL dạy và học NN đặc biệt là tiếng Anh được thực hiện chặt chẽ không chỉ
trong hệ thống GD nhà trường mà còn được thể hiện ở các trung tâm. Sau khi nhận
chức Thủ tướng Goh Chok Tông đã phê duyệt chiến lược phát triển GD lâu dài của
Bộ GD trong đó có điểm nhấn là toàn bộ hệ thống GD phổ thông tại Singapore phải
sử dụng tiếng Anh như là ngôn ngữ bắt buộc bên cạnh tiếng Trung được sử dụng
như một ngôn ngữ thứ 2 “used as a second language’’.
Tại Trung Quốc việc dạy và học NN cũng được hết sức chú trọng. Chính phủ
Trung Quốc cho rằng cần xem các HĐ này là một phần quan trọng trong chương
trình GD chung của quốc gia. Để nâng cao chất lượng và tăng cường số lượng
người học NN, chính phủ đã đưa ra các quy định về trách nhiệm của GV và nhà
trường, tăng cường các nguồn lực và các điều kiện cho việc tổ chức các HĐ dạy và
học NN. Đối với hệ thống GD quốc dân, sau một loạt các cuộc cải cách nhỏ tháng 2
năm 1993 “Đề cương về cải cách và phát triển GD” của TW Đảng Cộng sản Trung
Quốc chính thức ra đời bắt đầu cuộc cải cách đổi mới sâu rộng trong GD, quy định
tiếng Anh phải được đưa vào dạy chính thức từ bậc tiểu học nhằm phục vụ thiết
thực cho việc hội nhập mạnh mẽ trong mọi lĩnh vực. Trung Quốc trở thành thị
trường khổng lồ cho việc “xuất khẩu ngôn ngữ” của nước Anh.
6
Tại Nhật Bản, Chính phủ thể hiện rõ quyết tâm đẩy mạnh HĐ dạy và học
tiếng Anh ứng dụng ở quy mô toàn bộ nền GD. Cụ thể: trong vài năm gần đây tiếng
Anh bắt đầu được đưa vào tiểu học, mục đích rèn kỹ năng giao tiếp đơn giản bước
đầu cho học sinh, tránh gò ép về ngữ pháp và từ vựng. Đối với bậc trung học cơ sở,
tiếng Anh được coi là 1 trong 5 môn chính, được ĐG quan trọng ngang với môn
Quốc ngữ, Toán, Xã hội, Lý, Hóa. Ở bậc trung học phổ thông, tiếng Anh được coi
như GD phổ cập với tỷ lệ theo học lên đến 95%. Tiếng Anh được dạy như một NN
duy nhất, rất ít trường dạy thêm các NN khác. Tại Nhật Bản nhiều trường đang áp
dụng mô hình thí điểm dạy các môn chính bằng tiếng Anh gọi là Super English
Language High School. Việc dạy và học tiếng Anh được tiến hành liên thông lên
bậc ĐH và cao đẳng. Tiếng Anh được sử dụng làm ngôn ngữ chính trong nghiên
cứu và GD (nhiều trường ĐH liên kết ĐT với các trường ĐH danh tiếng của Mỹ và
Anh, các GV sử dụng tiếng Anh để giảng bài nên rất ít trường sử dụng các ngôn
ngữ khác). Bộ Khoa học đã triển khai KH HĐ để ĐT những người Nhật biết sử
dụng Tiếng Anh, trong đó có nêu: “Tiếng Anh với vai trò ngôn ngữ quốc tế, giữ vị
trí trung tâm trong việc kết nối các dân tộc khác ngôn ngữ. Để con em chúng ta
vững bước vào thế kỷ 21, chúng ta không thể bỏ qua việc nâng cao vai trò giao tiếp
bằng tiếng Anh với vai trò là một ngôn ngữ chung quốc tế”.
Việc QL dạy và học NN cũng được đề cập tới trong một số tài liệu. Công trình
nghiên cứu được nhiều người biết đến là của giáo sư James.G.Clauson trường ĐH
Virginia xuất bản năm 2004. Ông đã đưa ra một hệ thống các biện pháp QL GD nói
chung và QL việc dạy và học NN nói riêng, trong đó nhấn mạnh đến yếu tố đổi mới
PP giảng dạy – ĐG cao việc sử dụng các PP “Động não”; “Làm việc nhóm” và sử
dụng hình thức trắc nghiệm khách quan trong KT, thi cử. Theo ông “bản thân NN là
rất phong phú, thú vị vì nó cung cấp cho ta những hiểu biết về con người, văn hóa,
địa lý, chính trị của một dân tộc. NN không hề khô cứng, nó khô cứng do chính
cái cách mà người dạy truyền tải nó”.
Ở nước ta hiện nay, việc QL dạy và học NN đã dần được chú trọng nhằm đáp
ứng nhu cầu học tập ngày càng cao của toàn xã hội, song chất lượng đạt được chưa
7
cao. Muốn HĐ dạy và học NN đạt kết quả tốt thì khâu QL phải chặt chẽ, thống nhất
từ trên xuống. Muốn dạy và học NN đem lại kết quả thực sự cần hội đủ các yếu tố
như số lượng và chất lượng đội ngũ GV, chương trình, sách giáo khoa, trang thiết
bị, PP dạy và học, cách thức KT ĐG, tất cả được đặt trong một cơ chế QL khoa học,
hiệu quả.
Qua quá trình nghiên cứu, đã có rất nhiều đề tài, báo cáo khoa học và luận
văn thạc sỹ của Trường ĐHNN nói về HĐ DH NN hay HĐ DH NNCN như: Báo
cáo khoa học cấp khoa “Dạy - học ngoại ngữ chuyên ngành tại các cơ sở đào tạo
trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội: Những rào cản và giải pháp” của ThS. Kim
Văn Tất, nguyên Trưởng Khoa NNCN; hay đề tài khoa học cấp trường “Tạo ra và
duy trì hứng thú học ngoại ngữ chuyên ngành cho sinh viên của Đại học Quốc gia
Hà Nội” do ThS. Kim Văn Tất làm chủ nhiệm đề tài; và còn rất nhiều luận văn thạc
sỹ của Trường như “Đánh giá tác động của bài kiểm tra tiếng Anh Thương mại cuối
kỳ dành cho sinh viên năm thứ 2 trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội
đến việc giảng dạy của giáo viên bộ môn tiếng Anh Kinh tế - Trường Đại học Ngoại
ngữ – Đại học Quốc gia Hà Nội” của học viên Phạm Thu Hà hay “Nghiên cứu
chiến lược đọc hiểu tiếng Anh của sinh viên năm thứ hai chuyên ngành Cầu đường,
Trường Đại học Giao thông Vận tải” của học viên Nguyễn Thị Thu Hà Tuy
nhiên, về QL HĐ DH TACN chúng tôi chưa thấy công trình chuyên biệt nào hướng
dẫn hoặc chỉ ra cụ thể cách thức tiến hành. Việc xây dựng cơ sở lý luận cho QL HĐ
dạy và học NN sẽ giúp cho nhà QL có cơ sở điều hành công việc CM của nhà
trường nói chung và HĐ dạy và học NN nói riêng đạt kết quả tốt.
1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Quản lý và các khái niệm liên quan đến quản lý
1.2.1.1. Quản lý
Khoa học QL xuất hiện cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Nó là
một phạm trù tồn tại khách quan, được ra đời một cách tất yếu do nhu cầu của mọi
chế độ xã hội, mọi tổ chức, mọi quốc gia, mọi thời đại. Lao động QL là một lĩnh
vực lao động trí tuệ và thực tiễn phức tạp nhất của con người nhằm điều khiển lao
động thúc đẩy xã hội phát triển trên tất cả các bình diện, khoa học QL gắn liền với
8
tiến trình phát triển của xã hội loài người, mang tính lịch sử, giai cấp, dân tộc, thời
đại. QL là một khoa học sử dụng tri thức của nhiều môn khoa học xã hội, đồng thời
QL còn là một nghệ thuật đòi hỏi sự khôn khéo và tinh tế cao độ để đạt được mục
đích. Chính vì vậy, người ta có thể tiếp nhận khái niệm QL theo nhiều cách khác
nhau phụ thuộc vào cái nhìn chủ quan và tính mục đích HĐ. Chúng ta có thể điểm
qua một số khái niệm:
Theo K.Marx: QL là chức năng được sinh ra từ tính chất xã hội hóa lao
động. Nó có tầm quan trọng đặc biệt vì mọi sự phát triển của xã hội đều thông qua
HĐ của con người và thông qua QL. Người viết: “Tất cả mọi lao động trực tiếp hay
lao động chung nào tiến hành trên qui mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến
sự chỉ đạo để điều hoà những HĐ cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát
sinh từ sự vận động của những khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm
tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần có nhạc trưởng” [21,tr.480].
Theo F.W.Taylo - người được mệnh danh là cha đẻ của lý luận QL khoa
học, đã cho rằng cốt lõi trong QL là: “Mỗi loại công việc dù nhỏ nhất đều phải CM
hoá và phải QL chặt chẽ”. “QL là nghệ thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần làm
và làm cái đó như thế nào bằng PP tốt nhất và rẻ nhất” [16,tr.1].
Theo Henri Fayol, ông nói về nội hàm của khái niệm QL như sau: “QL tức là
lập KH, tổ chức, chỉ huy, phối hợp và KT” [14,tr.59]. Năm yếu tố trên đã tồn tại như
những chuẩn mực được tuân theo một cách phổ biến trong QL hiện đại.
- Theo Đại từ điển tiếng Việt: QL là “tổ chức, điều khiển HĐ của một đơn
vị, một cơ quan”, là “trông coi, gìn giữ và theo dõi việc gì” [24,tr1363]. Nghĩa Hán
Việt của “Quản” là trông coi và gìn giữ theo những yêu cầu nhất định, duy trì sự vật
ở trạng thái ổn định; quá trình “Lý” bao gồm sửa sang, sắp đặt công việc, đổi mới,
đưa hệ thống đó vào phát triển. Trong “quản” phải có “lý” thì toàn hệ mới có thể
phát triển, trong “lý” phải có “quản” thì sự phát triển của hệ mới ổn định, bền vững
[16,tr.2]. Hai quá trình này phải được gắn bó chặt chẽ với nhau thì mới đạt được thế
cân bằng động, tồn tại và phát triển phù hợp trong mối tương tác với các yếu tố bên
trong và bên ngoài.
9
- Theo tác giả Đặng Quốc Bảo: “Bản chất của HĐ QL nhằm làm cho hệ thống
vận hành theo mục tiêu đặt ra và tiến đến các trạng thái có tính chất lượng mới” [6]
QL = Quản + Lý
Trong đó : - Quản là chăm sóc, giữ gìn sự ổn định .
- Lý là sửa sang, sắp xếp, đổi mới phát triển.
Hệ ổn định mà không phát triển thì tất yếu dẫn đến suy thoái. Hệ phát triển
mà không ổn định tất yếu dẫn đến rối ren.
Vậy: QL = ổn định + phát triển
Các nhà nghiên cứu về QL ở Việt nam cũng đã đưa ra những quan niệm về
QL. Tại giáo trình “ QL hành chính nhà nước,1996” của Viện hành chính Quốc gia
đã viết “ HĐ QL là một dạng lao động đặc biệt của người lãnh đạo mang tính tổng
hợp của các HĐ trí óc liên kết các bộ máy QL thành một chỉnh thể thống nhất điều
hoà, phối hợp các khâu, các cấp HĐ nhịp nhàng để đưa đến hiệu quả cao”.
Như vậy, có nhiều cách tiếp cận QL, song các định nghĩa đều đề cập tới bản
chất chung của HĐ QL đó là:
- QL bao giờ cũng là một tác động hướng đích, có mục tiêu xác định.
- QL là sự tác động tương hỗ, biện chứng giữa chủ thể và khách thể QL.
- QL xét cho đến cùng, bao giờ cũng là QL con người.
- QL là sự tác động mang tính chủ quan nhưng phải phù hợp quy luật khách quan.
Bản chất của QL là sự tác động qua lại giữa chủ thể QL thông qua các HĐ
chuyên biệt. Do vậy, QL vừa là một khoa học vừa là một nghệ thuật. QL mang tính
khoa học vì HĐ của nó có tổ chức, có định hướng, dựa trên những qui luật, những
nguyên tắc và PP HĐ cụ thể. QL mang tính nghệ thuật vì HĐ của nó cần được vận
dụng một cách sáng tạo vào những điều kiện cụ thể, đối tượng cụ thể, trong sự kết
hợp và tác động nhiều mặt của các yếu tố khác nhau trong đời sống xã hội. Đặc biệt, trong
QL thì QL con người là QL bậc cao, là cơ sở của QL xã hội.
Từ những khái niệm về QL theo các góc độ khác nhau nêu trên, chúng ta có thể
khái quát như sau: QL là một HĐ nhằm thực hiện những tác động hướng đích của chủ thể
QL nhằm sử dụng có hiệu quả những tiềm năng, các cơ hội của tổ chức nhằm đạt đến mục
tiêu của tổ chức đặt ra trong một môi trường luôn luôn thay đổi.
10
Xã hội ngày càng phát triển, vai trò của QL càng được nhấn mạnh và ND của
HĐ QL càng phức tạp. QL luôn gắn với tổ chức cụ thể và là nhân tố quyết định sức
sống và sự thành công của tổ chức. Mỗi lĩnh vực HĐ QL xây dựng riêng cho mình
một hệ thống lý luận QL riêng. Mỗi cấp QL cũng cần ứng dụng lý luận chung và lý
luận riêng cho phù hợp với quy mô tổ chức và đặc thù HĐ của mình thì những quy
luật trong QL mới phát huy tác dụng. Tác động QL thường mang tính tổng hợp gồm
nhiều biện pháp khác nhau. Vì vậy, trong QL không thể tuân thủ theo những quy
định cứng nhắc mà phải linh hoạt, mềm dẻo.
Quá trình tác động này được thể hiện qua hình sau:
Sơ đồ 1.1: Quan hệ chủ thể, khách thể và mục tiêu QL
1.2.1.2. Bản chất của quản lý:
Bản chất của HĐ QL là sự tác động có mục đích của người QL đến đối
tượng QL nhằm đạt được mục tiêu QL.
Trong GD và ĐT đó là tác động của nhà QLGD đến tập thể GV, HS – SV
và các lực lượng GD khác nhau trong xã hội nhằm thực hiện hệ thống các mục tiêu
QLGD.
QLGD có bản chất vì lợi ích phát triển GD nhằm hình thành và phát triển
nhân cách người được GD, đối tượng GD và chủ thể GD đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội.
1.2.1.3. Các chức năng của quản lý:
Chức năng QL là hình thái biểu hiện sự tác động có mục đích của chủ thể
QL đến đối tượng QL. QL là hệ thống gồm 4 chức năng cơ bản:
CÔNG CỤ
PHƢƠNG PHÁP
KHÁCH THỂ
QUẢN LÝ
CHỦ THỂ
QUẢN LÝ
MỤC TIÊU
11
- Kế hoạch: có nghĩa là xác định mục tiêu, mục đích đối với những thành
tựu tương lai của tổ chức và các con đường, biện pháp, cách thức để đạt mục tiêu,
mục đích đó.
- Tổ chức: là quá trình hình thành nên cấu trúc các quan hệ giữa các thành
viên, giữa các bộ phận trong một tổ chức nhằm làm cho họ thực hiện thành công các
KH và đạt được mục tiêu tổng thể của tổ chức.
- Lãnh đạo: bao hàm việc liên kết, liên hệ với người khác và động viên họ
hoàn thành những nhiệm vụ nhất định để đạt được mục tiêu của tổ chức.
- Kiểm tra: cũng là một chức năng QL, thông qua đó một cá nhân, một
nhóm hoặc một tổ chức theo dõi giám sát các thành quả HĐ và tiến hành những HĐ
sửa chữa, uốn nắn nếu cần thiết.
Tóm lại, các chức năng của QL có mối liên hệ mật thiết với nhau, người
QL phải luôn nắm bắt mọi thông tin để tiến hành QL, dẫn dắt tổ chức đến mục tiêu
cần đạt được.
Ngoài bốn chức năng trên trong hệ thống QL, yếu tố thông tin luôn có mặt ở tất
cả các giai đoạn với vai trò là điều kiện phương tiện không thể thiếu đối với việc thực
hiện các chức năng QL. Hệ thống thông tin QL có vai trò đặc biệt quan trọng, nếu
thiếu thông tin hoặc thông tin sai lệch thì công tác QL sẽ gặp khó khăn, dễ dẫn đến
những quyết định sai lầm.
Mối quan hệ giữa các chức năng QL với hệ thống thông tin QL được thể hiện qua
hình sau:
Sơ đồ 1.2: Mối quan hệ giữa thông tin với các chức năng trong chu trình QL
KT
Tổ chức
Lãnh đạo/Chỉ đạo
Lập KH
Thông tin
12
1.2.1.4. Các nguyên tắc quản lý:
Các nguyên tắc QL là các quy tắc chỉ đạo, những tiêu chuẩn, hành vi mà các
cơ quan QL, các nhà lãnh đạo phải tuân thủ trong quá trình QL theo đúng KH của
mục tiêu QL đã định.
- Nguyên tắc tập trung dân chủ
Đây là nguyên tắc quan trọng tạo khả năng QL một cách khoa học, có sự kết
hợp chặt chẽ sức mạnh của cơ quan quyền lực với sức mạnh sáng tạo của quảng đại
quần chúng trong việc thực hiện mục tiêu QL. Tập trung trong QL được hiểu là toàn
bộ các HĐ của hệ thống được tập trung vào cơ quan quyền lực cao nhất, cấp này có
nhiệm vụ vạch đường lối, chủ trương, phương hướng mục tiêu tổng quát và đề xuất
các giải pháp cơ bản, chủ yếu để tiến hành thực hiện.
Nguyên tắc tập trung dân chủ thể hiện thông qua chế độ một thủ trưởng -
người chịu trách nhiệm trước tập thể cán bộ công nhân viên về toàn bộ HĐ của đơn
vị, tổ chức mình. Dân chủ trong QL được hiểu là sự huy động trí lực của mọi thành
viên trong tổ chức để tiến hành QL. Dân chủ được thể hiện ở chỗ: các chỉ tiêu,
phương hướng hành động đều được tập thể tham gia bàn bạc, kiến nghị các biện
pháp thực thi trước khi đi đến quyết định. Các tổ chức quần chúng, người Lao động
còn được tham gia thực hiện các chức năng QL: tham gia xây dựng KH, KT, ĐG,
giám sát.
Tập trung và dân chủ có quan hệ hữu cơ, gắn bó mật thiết với nhau, có dân
chủ thì mới phát huy tốt sức sáng tạo của quần chúng, động viên quần chúng tích
cực lao động và tham gia bàn bạc thống nhất hành động thì tập trung càng cao và
ngược lại. Tuy nhiên, trong thực tiễn, nguyên tắc này thường nảy sinh hai thái cực:
tập trung quá dẫn đến quan liêu, độc đoán chuyên quyền và dân chủ thái quá dẫn
đến vô chính phủ. Cả hai thái cực này dẫn đến làm suy yếu hiệu lực QL. Bởi vậy, để
thực hiện chức năng lãnh đạo, người QL phải phối hợp hài hoà nguyên tắc tập trung
dân chủ.
- Nguyên tắc kết hợp hài hoà các lợi ích xã hội
QL trước hết là QL con người, con người có những lợi ích, những nguyện
vọng và những nhu cầu nhất định, do đó một trong những nhiệm vụ quan trọng của
13
QL là phải chú ý đến lợi ích của con người để khuyến khích, động viên tính tích cực
của họ. Lợi ích là một động lực to lớn nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của
con người, vì vậy trong QL phải kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể
và lợi ích của toàn xã hội.
-Nguyên tắc hiệu quả
Hiệu quả là cơ sở kinh tế cho sự tồn tại và phát triển của một tổ chức. Vấn đề
đặt ra là làm thế nào để một CSVC – kỹ thuật, một nguồn tài sản, một lực lượng lao
động hiện có của tổ chức có thể tạo ra được một thành quả lớn nhất, chất lượng tốt
nhất và hiệu quả cao nhất. Hiệu quả không những là nguyên tắc QL mà còn là thước
đo trình độ tổ chức, lãnh đạo và tài năng QL.
- Nguyên tắc nắm khâu trọng yếu
Nguyên tắc này đòi hỏi người QL phải có khả năng phân tích chính xác các
tình thế của hệ thống trong quá trình xây dựng và phát triển để tìm ra các khâu, các
việc chủ yếu, những vấn đề then chốt có ý nghĩa quan trọng trong sự thành bại của
tổ chức. Nắm vững nguyên tắc này người QL khắc phục được tình trạng dàn trải
chung chung, tập trung vào những vấn đề then chốt quyết định trong việc QL tổ
chức thực hiện mục tiêu.
- Nguyên tắc kiên định mục tiêu
Đây là nguyên tắc đòi hỏi người QL các tổ chức phải có ý chí kiên định thực
hiện cho được mục tiêu đã xác định. Bởi vì một tổ chức dù mục tiêu đúng đắn
nhưng không phải lúc nào cũng được xã hội chấp nhận, đồng tình ủng hộ. Nếu
người QL thiếu tự tin, không quyết tâm thì mục tiêu không thể đạt được.
1.2.1.5. Các biện pháp quản lý:
Biện pháp, theo Đại từ điển tiếng Việt (1999) do Nguyễn Như Ý chủ biên,
được xác định là: “Cách làm, cách thức tiến hành, giải quyết một vấn đề cụ thể, một
công việc cụ thể nào đó” [24,tr.161].
Trong QL, biện pháp QL là tổ hợp nhiều cách thức tác động của chủ thể QL
lên đối tượng QL nhằm tác động đến đối tượng QL để giải quyết những vấn đề
trong công tác QL, làm cho hệ QL vận hành đạt mục tiêu mà chủ thể QL đã đề ra và
phù hợp với quy luật khách quan, nâng cao khả năng hoàn thành có kết quả các mục
14
tiêu đã đặt ra. Biện pháp QL đòi hỏi sự tác động tương hỗ, biện chứng giữa chủ thể
và khách thể QL.
Như vậy, biện pháp QL là việc người QL sử dụng các chức năng QL, công cụ
QL một cách phù hợp cho từng tình huống vào đối tượng mà mình QL để đưa đối
tượng, đơn vị mình QL đạt mục tiêu mà chủ thể QL xây dựng, đưa chất lượng QL lên
một vị trí mới, tình trạng mới tốt hơn hiện tại.
Các biện pháp QL rất đa dạng và phải luôn được nhà QL sử dụng linh hoạt,
sáng tạo để xử lý các tình huống cụ thể trong một môi trường luôn biến đổi. Do vậy,
đòi hỏi ở người QL phải có kiến thức sâu rộng, có kinh nghiệm để gắn kết những
biện pháp với nhau, giải quyết các mâu thuẫn giữa các biện pháp, biết tiên liệu trước
các hoàn cảnh, tình huống mà đối tượng QL đặt ra. Có biện pháp QL đúng đắn sẽ
giúp cho các tổ chức hạn chế được các nhược điểm của mình, liên kết gắn bó mọi
con người trong tổ chức, tạo niềm tin, sức mạnh và truyền thống của tổ chức. Biện
pháp QL cần được xây dựng trên cơ sở vận dụng những kinh nghiệm đã được đúc
kết, khái quát hoá thành những nguyên tắc, PP và kỹ năng QL cần thiết.
Biện pháp QL là yếu tố động, thường được thay đổi theo đối tượng và tình huống.
Mỗi biện pháp đặc trưng cho một thủ pháp, tạo động lực thúc đẩy đối tượng QL.
Từ đó, có thể hiểu biện pháp QL là tổng thể cách thức tác động của chủ thể QL
lên đối tượng QL trong quá trình tiến hành các HĐ nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
Căn cứ vào sự tác động của chủ thể QL đến đối tượng QL, biện pháp QL
được chia thành các nhóm cơ bản như sau:
- Biện pháp thuyết phục: là cách tác động vào nhận thức của con người
bằng lý lẽ làm cho con người nhận thức đúng đắn và tự nguyện thừa nhận các yêu
cầu của QL từ đó có thái độ và hành vi phù hợp với các yêu cầu đó. Đây là biện
pháp cơ bản để GD con người, nhà QL chỉ tác động đến đối tượng bằng lời lẽ của
mình để thay đổi nhận thức của đối tượng.
- Biện pháp tổ chức - hành chính: là cách tác động trực tiếp của hệ QL đến hệ
bị QL trên cơ sở quan hệ tổ chức và quyền lực hành chính bằng mệnh lệnh, chỉ thị,
quyết định. Biện pháp này dựa vào quyền uy tổ chức của người QL để bắt buộc người
dưới quyền phải thực hiện mệnh lệnh QL, đó là biện pháp mang tính mệnh lệnh và tính
15
KH, là quan hệ chỉ huy - thực hiện. Đây là biện pháp cưỡng bức đơn phương, một bên
ra quyết định, một bên phục tùng, mức độ cưỡng bức tuỳ theo từng trường hợp, tính
chất của bộ máy. Biện pháp này thể hiện sức mạnh của tổ chức, xác lập trật tự, kỷ
cương của bộ máy, giúp cho các quyết định QL được thi hành nhanh chóng và chính
xác, tăng hiệu quả HĐ QL.
- Biện pháp kinh tế: là cách tác động của chủ thể QL tới đối tượng QL
thông qua các lợi ích kinh tế tạo động lực thúc đẩy con người tích cực HĐ. Hay nói
cách khác, biện pháp kinh tế là sự tác động một cách gián tiếp lên đối tượng QL
không bằng cưỡng bức hành chính mà bằng cơ chế kích thích, con đường tự
nguyện, tạo ra sự quan tâm nhất định về lợi ích vật chất để người thực hiện tự mình
điều chỉnh hành động nhằm hoàn thành nhiệm vụ, cho đối tượng lựa chọn theo khả
năng của họ hoặc tạo ra những lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể phù hợp với lợi ích
chung.
Sử dụng biện pháp này có ưu điểm không hạn chế về quan hệ tổ chức và
không phụ thuộc về mặt hành chính, đồng thời biện pháp này tăng cường được tính
chủ động cho cá nhân và tập thể, giảm bớt được sự KT đôn đốc vụn vặt chi li của
nhà QL.
- Biện pháp tâm lý – GD: (còn được gọi là biện pháp tuyên truyền GD) là
cách tác động của chủ thể QL tới đối tượng QL thông qua đời sống tâm lý cá nhân,
các hệ tư tưởng, tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của họ. Biện pháp này dựa trên cơ
sở các chức năng quy luật tâm lý của con người và dựa vào uy tín của người QL để
lôi cuốn các thành viên trong tổ chức hăng hái, tích cực tham gia công việc. Biện
pháp tâm lý – GD có ý nghĩa to lớn trong QL vì đối tượng QL trước hết là con
người. Do vậy khi tác động tới con người trước hết phải sử dụng các tác động tâm
lý nhằm khai thác tiềm năng của con người, kích thích ý thức tự giác, sự say mê của
con người chủ động sáng tạo trong HĐ của mình. Biện pháp tâm lý – GD không tồn
tại tự thân mà thường phối hợp với các biện pháp khác, nhưng hướng chủ yếu là tác
động vào tâm lý con người, vào lòng tự trọng và lương tâm nghề nghiệp của người
lao động.
16
Trên đây là các biện pháp đặc thù của QL, trong thực tiễn QL cho thấy không
có biện pháp nào là vạn năng, biện pháp nào cũng có mặt ưu điểm, mặt nhược điểm.
Bởi vậy, chủ thể QL cần biết phối hợp các biện pháp một cách linh hoạt nhằm khai
thác được những mặt mạnh, hạn chế được những nhược điểm của từng biện pháp. Như
vậy, khi vận dụng các biện pháp, người QL phải biết sử dụng đúng người đúng việc,
tuỳ hoàn cảnh điều kiện, thời gian cụ thể để lựa chọn các biện pháp phù hợp, giúp cho
đối tượng QL thực hiện nhiệm vụ một cách tự giác và tích cực.
Vận dụng các biện pháp có thành công hay không phụ thuộc vào tài năng của
nhà QL, nghệ thuật sử dụng các biện pháp đòi hỏi nhà QL sự sáng tạo, còn bản thân
các biện pháp không phải là cái quyết định thành công của các nhà QL.
1.2.2. Quản lý giáo dục và quản lý nhà trường
1.2.2.1. Quản lý giáo dục
QLGD là những tác động có hệ thống, có KH, có ý thức và hướng đích của
chủ thể QL tới mọi cấp độ khác nhau, đến tất cả các mắt xích của toàn bộ hệ thống
nhằm mục đích đảm bảo sự hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở nhận
thức và vận dụng những quy luật của xã hội cũng như các quy luật của quá trình GD
về sự phát triển thể lực, trí tuệ, tâm lực của con người. Chất lượng của GD chủ yếu
do nhà trường tạo nên, bởi vì khi nói đến QLGD phải nói đến QL nhà trường cùng
với hệ thống QLGD.
Tác giả Phạm Viết Vượng đã viết trong cuốn GD học của ông: “Mục đích
cuối cùng của QLGD là tổ chức GD có hiệu quả để ĐT ra lớp thanh niên thông
minh, sáng tạo, năng động, tự chủ, biết sống và phấn đấu vì hạnh phúc của bản thân
và của xã hội”[23,tr.206].
Theo Nguyễn Ngọc Quang: “QLGD là hệ thống có mục đích, có KH, hợp
quy luật của chủ thể QL nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối, nguyên lý của
Đảng, thể hiện tính chất của nhà trường Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam mà tiêu điểm
hội tụ là quá trình DH – GD thế hệ trẻ, đưa hệ GD tới mục tiêu dự kiến, tiến tới
trạng thái mới về chất” [21,tr.35].
Theo tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc: “QLGD là HĐ có ý thức bằng cách vận
dụng các quy luật khách quan của các cấp QLGD tác động đến toàn bộ hệ thống GD
17
nhằm làm cho hệ thống đạt được mục tiêu của nó” [16,tr.25]. Trong thời đại “GD
cho tất cả mọi người” như hiện nay, mục tiêu của GD được cụ thể hóa là nâng cao
dân trí, ĐT nhân lực, BD nhân tài. Đối tượng của QLGD là toàn thể đội ngũ cán bộ,
GV, học sinh, SV và các CSVC – kỹ thuật như trường, lớp, các trang thiết bị
DH,…và các HĐ có liên quan đến việc thực hiện chức năng của GD.
Tóm lại, QLGD là quá trình tác động có tính định hướng của chủ thể QL
lên các thành tố tham gia vào quá trình HĐ GD nhằm thực hiện có hiệu quả mục
tiêu GD.
1.2.2.2. Quản lý nhà trường
QLGD trên cơ sở QL nhà trường là một PP QLGD nhằm mục đích tăng cường
phân cấp QL nhà trường cho các chủ thể QL bên trong nhà trường với những quyền
hạn và trách nhiệm rộng rãi hơn để thực hiện nguyên tắc giải quyết vấn đề tại chỗ.
Bản chất của việc QL nhà trường là QL HĐ GD, QL HĐ học tập và các HĐ
GD khác trong nhà trường. Thông qua quá trình QL làm sao đưa các HĐ từ trạng
thái này sang trạng thái khác để dần đạt các mục tiêu GD. Các HĐ trong nhà trường
bản thân nó đã có tính GD song cần có sự QL, tổ chức chặt chẽ mới phát huy được
hiệu quả của bộ máy.
Các ND chủ yếu của QLGD trên cơ sở QL nhà trường bao gồm:
- Nhà trường là thực thể trung tâm của bất kỳ sự biến đổi nào trong hệ thống GD.
- Nhà trường tự chủ giải quyết những vấn đề sư phạm - kinh tế - xã hội của
mình với sự tham gia tích cực và trách nhiệm của những thực thể hữu quan ngoài
nhà trường.
- Nâng cao trách nhiệm và tính tự quản của một giáo viên.
- Hình thành các cơ cấu cần thiết để các thực thể hữu quan ngoài nhà trường
có thể thực sự tham gia vào việc điều phối công việc nhà trường. Đồng thời tăng
cường trách nhiệm và quyền hành của giáo viên tham gia quá trình ra quyết định
QL trong nhà trường.
- Hình thành các thiết chế hỗ trợ về tài chính và các nguồn lực cần thiết khác
để giáo viên thực sự tham gia công việc QL nhà trường. Hình thành cơ chế phân cấp
18
QL tài chính, nhân sự, thực hiện cải tiến thích hợp ND và PP giảng dạy phù hợp với
đặc điểm cụ thể của nhà trường.
- Xây dựng môi trường sư phạm trong nhà trường và xây dựng nhà trường
thành một hệ thống mở nhằm công khai hoá các HĐ của nhà trường.
- Hình thành thiết chế ĐG kết quả HĐ sư phạm của nhà trường dựa trên
những thực thể trực tiếp tham gia quá trình sư phạm và quá trình QL nhà trường.
Nhà trường là nơi trực tiếp, cửa mở đầu tiên tạo nên chất lượng GD, do vậy
khi nói đến QLGD là nghĩ đến QL nhà trường cũng như hệ thống nhà trường.
Ông Phạm Minh Hạc cho rằng: “QL nhà trường ở Việt Nam là thực hiện
đường lối GD của Đảng trong phạm vi trách nhiệm, đưa nhà trường vận hành theo
nguyên lý GD để tiến tới mục tiêu GD, mục tiêu ĐT với thế hệ trẻ và với từng học
sinh”. [12,tr.12].
Mục tiêu QL của nhà trường được cụ thể hóa trong KH, nhiệm vụ năm học,
tập trung vào việc phát triển toàn diện nhân cách của học sinh. Để thực hiện mục
tiêu này, người hiệu trưởng phải tiến hành các HĐ QL: xây dựng môi trường GD,
xây dựng CSVC nhà trường và các điều kiện phục vụ cho việc dạy và học, BD đội
ngũ GV, tạo lập và duy trì tốt mối quan hệ nhà trường - gia đình – xã hội, thực hiện
dân chủ hóa trong QL nhà trường và các HĐ khác.
Như vậy, QL nhà trường là việc người hiệu trưởng xây dựng mục tiêu,
KH, tổ chức, chỉ đạo thực hiện và KT ĐG các kết quả đạt được so với yêu cầu và
chuẩn mực đề ra trong chương trình GD và nhiệm vụ năm học về chất lượng
phát triển toàn diện nhân cách của học sinh.
1.2.3. Các khái niệm liên quan đến quản lý hoạt động dạy học ở bậc đại học
1.2.3.1. Hoạt động dạy học
DH là khái niệm chỉ HĐ chung của người dạy và người học, hai HĐ này song
song tồn tại và phát triển trong cùng một quá trình thống nhất. Quá trình DH là bộ
phận hữu cơ của quá trình GD tổng thể, trong đó vai trò của nhà sư phạm là định
hướng tổ chức, thực hiện việc truyền thụ tri thức, kỹ năng, kỹ xảo đến người học
một cách hợp lí, khoa học do đó nhà sư phạm có vai trò và tác dụng chủ đạo.