Đại học quốc gia hà nội
Khoa s- phạm
Lê văn tâm
quản lý hoạt động tự học của học viên tại
Trung tâm Giáo dục th-ờng xuyên
tỉnh vĩnh phúc
luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục
Hà nội 2009
Đại học quốc gia hà nội
Khoa s- phạm
Lê văn tâm
quản lý hoạt động tự học của học viên tại
Trung tâm Giáo dục th-ờng xuyên
tỉnh vĩnh phúc
Tóm tắt luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục
Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 60 14 05
Hà nội 2008
LỜI CẢM ƠN
Luận văn này là kết quả của quá trình học tập tại Khoa Sư phạm - Đại
học Quốc gia Hà Nội và quá trình công tác của tác giả ở trung tâm giáo dục
trường xuyên tỉnh Vĩnh Phúc.
Tác giả xin trân trọng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo, các nhà khoa học đã
hướng dẫn và giúp đỡ trong quá trình hình thành và hoàn chỉnh luận văn này,
đồng thời xin trân trọng cảm ơn các giảng viên trường Đại học liên kết, Ban
Giám đốc và các đồng nghiệp đang công tác tại trung tâm GDTX tỉnh Vĩnh
Phúc về sự giúp đỡ, góp ý và tạo điều kiện tốt nhất để luận văn được thực hiện.
Đặc biệt, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Phó Giáo sư -Tiến sỹ
Nguyễn Văn Lê - Người trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tác giả thực hiện luận văn.
Mặc dù đã cố gắng nhưng do khả năng và kinh nghiệm nghiên cứu khoa
học còn hạn chế nên luận văn không tránh khỏi thiếu sót. Tác giả kính mong
nhận được sự góp ý của các thầy giáo, cô giáo và đồng nghiệp.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2009
Tác giả
Lê Văn Tâm
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
ĐH
: ĐẠI HỌC
ĐHKHTN
: Đại học khoa học Tự nhiên
ĐHKHXH&NV
: ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI &
NHÂN VĂN
ĐHQGHN
: Đại học Quốc gia Hà Nội
ĐHSP
: ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
ĐV
: Đảng viên
BDNV
: BỒI DƯỠNG NGHIỆP VỤ
BTTHPT
: Bổ túc Trung học phổ thông
CĐ
: CAO ĐẲNG
CB
: Cán bộ
CC
: CÔNG CHỨC
CNH- HĐH
: Công nghiệp hóa - hiện đại hóa
CQ
: CHÍNH QUY
GD- ĐT
: Giáo dục - Đào tạo
GDKCQ
: GIÁO DỤC KHÔNG CHÍNH QUI
GDTX
: Giáo dục thường xuyên
GV
: GIÁO VIÊN
HTGDQD
: Hệ thống giáo dục quốc dân
KCQ
: KHÔNG CHÍNH QUY
KT
: Kinh tế
NV
: NHÂN VIÊN
QLĐT
: Quản lý đào tạo
QĐ
: QUYẾT ĐỊNH
THCN
: Trung học chuyên nghiệp
TH-NN
: TIN HỌC- NGOẠI NGỮ
THPT
: Trung học phổ thông
UBND
: UỶ BAN NHÂN DÂN
XH
: Xã hội
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1
2. Mục đích nghiên cứu
3
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
3
5. Giả thuyết khoa học
3
6. Phạm vi nghiên cứu
3
7. Phương pháp nghiên cứu
4
8. Cấu trúc của luận văn
4
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động tự học
1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề
5
1.2. Những vấn đề về tự học
8
1.2.1. Khái niệm "Tự học"
8
1.2.2. Đặc trưng của tự học
9
1.2.3. Hệ thống các kỹ năng tự học
9
1.2.4. Vị trí, vai trò của tự học
10
1.2.5. Các hình thức tự học
11
1.2.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tự học
15
1.3. Những vấn đề chung về quản lý, quản lý hoạt động tự học
19
1.3.1. Khái niệm và chức năng quản lý
19
1.3.2. Quản lý giáo dục, quản lý nhà trường
24
1.3.3. Quản lý hoạt động tự học
26
1. 4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý hoạt động tự học
31
1.4.1. Đặc điểm khác biệt của người lớn so với trẻ em
31
1.4.2. Đặc điểm học tập của người lớn
32
1.4.3. Một số nguyên tắc dạy học người lớn
35
Tiểu kết chương 1
35
Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động tự học của học viên tại trung
tâm giáo dục thường xuyên tỉnh vĩnh phúc
2.1.Vài nét về trung tâm giáo dục thường xuyên tỉnh Vĩnh Phúc
36
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển
36
2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ
40
2.1.3. Đặc điểm đào tạo
42
2.2. Thực trạng hoạt động tự học của học viên trung tâm GDTX
tỉnh Vĩnh Phúc
45
2.2.1. Nhận thưc của học viên về vấn đề tự học
46
2.2.2. Thực trạng các hình thức tự học
49
2.2.3. Thực trạng về các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tự học
của học viên
54
2.2.4. Thực trạng về kết quả tự học
60
2.3. Thực trạng quản lý hoạt động tự học của học viên tại trung tâm
GDTX tỉnh Vĩnh Phúc
62
2.3.1. Bộ máy quản lý hoạt động tự học
62
2.3.2. Công tác phối hợp quản lý đào tạo giữa Trung tâm và các
trường Đại học, Cao đẳng
63
2.3.3. Quản lý cơ sở vật chất
76
2.3.4. Quản lý thông tin phản hồi
77
2.4. Kết luận về thực trạng quản lý hoạt động tự học của học viên
tại trung tâm GDTX tỉnh Vĩnh Phúc
77
2.4.1. Những việc đã làm được
78
2.4.2. Những tồn tại và nguyên nhân
78
Tiểu kết chương 2
80
Chương 3: biện pháp quản lý hoạt động tự học của học viên tại Trung
tâm GDTX tỉnh Vĩnh Phúc
3.1. Một số nguyên tắc đề xuất biện pháp
81
3.1.1. Nguyên tắc tính hệ thống
81
3.1.2. Nguyên tắc tính thực tiễn
82
3.1.3. Nguyên tắc tính hiệu quả
82
3.2. Các biện pháp quản lý hoạt động tự học của học viên tại trung
tâm giáo dục thường xuyên tỉnh Vĩnh Phúc
83
3.2.1. Biện pháp 1: Nâng cao nhận thức cho các lực lượng trong và
ngoài Trung tâm về tầm quan trọng của tự học đối với học viên
83
3.2.2. Biện pháp 2: Thực hiện kế hoạch hoá, quản lý thời gian tự
học; xây dựng những nhóm tự học cho học viên
87
3.2.3. Biện pháp 3: Tăng cường công tác phối hợp quản lý đào tạo
giữa Trung tâm và các trường Đại học, hỗ trợ giảng viên tổ chức
tốt các hoạt động tự học cho học viên
91
3.2.4. Biện pháp 4: Hoàn thiện bộ máy chỉ đạo nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động tự học của học viên
101
3.2.5. Biện pháp 5: Tăng cường cơ sở vật chất phục vụ tốt kế
hoạch học tập của học viên
104
3. 3. Mối liên hệ gữa các biện pháp
108
3.4. Thăm dò tính cấp thiết và tính khả thi của các biện pháp quản
lý hoạt động tự học của học viên
110
Tiểu kết chương 3
113
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 114
1. KÕt luËn
114
2. Khuyến nghị
116
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
118
PHỤ LỤC
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tự học là một biểu hiện của truyền thống hiếu học của dân tộc ta, khả
năng tự học là một tài nguyên quý giá mà dân tộc ta có trữ lượng khá lớn, một
nguồn lực mà ta có thể đem đặt lên bàn cân trong cuộc chạy đua với thiên hạ.
Tiếc rằng chúng ta đã không chăm sóc nguồn lực đó, thậm chí còn làm cho nó
yếu đi. Để công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, thì đối với sự nghiệp giáo
dục và đào tạo, đây là một trong những hướng chiến lược quan trọng. Giáo
dục phải khơi dậy và vun vén khả năng tự học của con người, chống lại lối học
thụ động, ỷ lại, khai thác tới mức tối đa “sức tự thân vận động” của mỗi người
trong học tập. Trong điều 5 Luật giáo dục 2005 cũng đã quy định “phương
pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo
của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực
hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”.
Ngày nay nhân loại đang phải chứng kiến sự phát triển như vũ bão trên
mọi lĩnh vực khoa học kỹ thuật và công nghệ. Khối lượng tri thức của nhân
loại cứ khoảng 7 năm lại tăng lên gấp đôi. Vì vậy nếu chỉ có kiến thức học
được trong nhà trường thì không bao giờ đủ mà lại nhanh lạc hậu. Để bắt nhịp
được với sự thay đổi vô cùng lớn lao đó của cuộc sống hiện đại đòi hỏi mỗi
con người phải có một năng lực tự học để có thể “Học ở mọi nơi, mọi lúc, học
tập suốt đời”.
Hưởng ứng cuộc vận động “Học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh” - vị lãnh tụ vĩ đại nhà Anh hùng giải phóng dân tộc và Danh nhân
văn hoá; đồng thời cũng là nhà Giáo dục lớn - Bác là tấm gương sáng về tự
học. Người dạy “Về cách học, phải lấy tự học làm cốt”.
GDTX hay GDKCQ là một bộ phận quan trọng cùng với GDCQ thực
hiện các chức năng của giáo dục là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi
dưỡng nhân tài. Việc đi học chính thức trong nhà trường chỉ là một bộ phận
2
của việc kế hoạch hóa đời sống; những chương trình do GDCQ cung cấp chỉ
là một trong nhiều cơ hội để mọi người có thể lựa chọn. Giáo dục không chỉ là
một giai đoạn tức thời, chỉ diễn ra một vài lần, giới hạn trong độ tuổi học sinh,
sinh viên, mà là một quá trình diễn ra liên tục trong suốt cả cuộc đời. Chính
bản thân cuộc sống là một quá trình học tập thường xuyên, là môi trường thử
thách để mỗi cá nhân tự học, tự phấn đấu nâng cao trình độ, hiểu biết và hoàn
thiện nhân cách. GDTX cung ứng cơ hội học tập cho mọi người ở mọi lứa tuổi
được học liên tục, học suốt đời, ở mọi nơi, mọi lúc, mọi cấp, mọi trình độ,
nhằm phát triển tài nguyên con người. GDTX có chức năng thay thế, tiếp nối,
bổ sung và hoàn thiện kiến thức cho GDCQ. GDTX với phương châm „„đào
tạo và sử dụng tại chỗ‟‟, “đào tạo theo địa chỉ‟‟, “học không thoát ly công
việc đang làm‟‟, như vậy đối tượng của GDTX là những người lớn tuổi họ vừa
làm vừa học, thời gian học tập trên lớp không có nhiều mà chủ yếu phải học
“xa thầy”, vì vậy nếu không có một năng lực tự học tốt thì không thể đáp ứng
được yêu cầu trong học tập.
Là một cơ sở GDKCQ, trung tâm GDTX tỉnh Vĩnh Phúc có chức năng
chủ yếu là liên kết đào tạo với các trường ĐH, CĐ mở các lớp đào tạo theo
hình thức vừa làm vừa học, tạo cơ hội học tập cho cán bộ, công chức cũng như
lực lượng lao động xã hội nhằm phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH của Tỉnh.
Trong những năm gần đây Trung tâm đã có nhiều cố gắng cùng với các nhà
trường trong việc nâng cao chất lượng đào tạo, song kết quả vẫn chưa được
như mong muốn. Có không ít học viên sau khi tốt nghiệp ra trường đã không
đáp ứng được yêu cầu của công việc. Điều này do nhiều nguyên nhân, trong
đó phải kể đến ý thức học tập của học viên: chưa tự giác học tập, khả năng tự
học còn yếu; công tác tổ chức, quản lý hoạt động tự học còn chưa được quan
tâm đúng mức. Đây là bài toán đặt ra cho các nhà quản lý của Trung tâm.
Chính vì vậy việc tìm ra biện pháp tổ chức, quản lý hoạt động tự học
của học viên trung tâm GDTX tỉnh Vĩnh Phúc sao cho có hiệu quả là một
nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết. Với những lý do trên, tác giả chọn đề tài
3
“Quản lý hoạt động tự học của học viên tại trung tâm giáo dục thường
xuyên tỉnh Vĩnh Phúc”.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số biện pháp quản lý nhằm tăng cường hoạt động tự học
của học viên trung tâm GDTX tỉnh Vĩnh Phúc đáp ứng yêu cầu nâng cao chất
lượng đào tạo.
3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Hoạt động tự học của học viên trung tâm
GDTX tỉnh Vĩnh Phúc.
- Đối tượng nghiên cứu: Công tác quản lý hoạt động tự học của học
viên trung tâm GDTX tỉnh Vĩnh Phúc.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên tác giả dự kiến có 3 nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý hoạt động tự học của học viên.
- Nghiên cứu, khảo sát thực trạng về hoạt động tự học và quản lý hoạt
động tự học của học viên tại trung tâm GDTX tỉnh Vĩnh Phúc.
- Đề xuất các biện pháp quản lý tăng cường hoạt động tự học của học
viên, khảo nghiệm các biện pháp quản lý nhằm khẳng định tính cấp thiết và
tính khả thi của các biện pháp này.
5. Giả thuyết khoa học
Hoạt động tự học của học viên trung tâm GDTX tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay
còn hạn chế và công tác quản lý hoạt động này cũng còn nhiều bất cập. Thực
trạng này do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan. Nguyên nhân chủ
quan là do học viên còn thiếu ý chí, nỗ lực, nguyên nhân khách quan là do công
tác quản lý còn thiếu các tác động thích hợp. Nếu đề xuất được các biện pháp
quản lý nhằm tăng cường hoạt động tự học của học viên, hướng vào việc nâng
cao nhận thức và tổ chức hoạt động thực tế của giáo viên và học viên thì sẽ đưa
việc tự học vào nề nếp, góp phần nâng cao chất lượng học tập của học viên.
4
6. Phạm vi nghiên cứu
Do điều kiện và thời gian có hạn, trong luận văn này tác giả chỉ tập trung
nghiên cứu đối với học viên các lớp liên kết đào tạo Đại học hệ vừa làm vừa
học đặt tại trung tâm GDTX tỉnh Vĩnh Phúc và nghiên cứu biện pháp quản lý
tăng cường hoạt động tự học của học viên .
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
Tác giả dự kiến sử dụng các nhóm phương pháp sau:
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Phân tích, tổng hợp, hệ thống
những vấn đề lý luận có liên quan đến nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài qua
sách, báo và các tư liệu tham khảo, trao đổi, phỏng vấn với học viên, giáo
viên, giảng viên, cán bộ quản lý.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp điều tra: sử
dụng các mẫu điều tra với học viên, giáo viên, giảng viên, cán bộ quản lý để
nắm được thực trạng về hoạt động tự học của học viên về công tác quản lý
hoạt động tự học của học viên.
- Nhóm phương pháp xử lý số liệu: Thống kê, phân tích, tổng hợp, xử lý
số liệu sau điều tra
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị và tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn dự kiến trình bày trong 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động tự học.
Chƣơng 2: Thực trạng quản lý hoạt động tự học của học viên tại trung
tâm giáo dục thường xuyên Vĩnh Phúc.
Chƣơng 3: Biện pháp quản lý hoạt động tự học của học viên tại trung
tâm giáo dục thường xuyên tỉnh Vĩnh Phúc.
5
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC
1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề
Học tập là nhu cầu thiết yếu của con người. Ngay từ những buổi sơ
khai, khi mới xuất hiện, con người đã học cách săn, bắt, hái, lượm, trồng
trọt để sinh sống. Đó là một hoạt động mang tính bản năng và hoàn toàn
tự phát. Xã hội càng phát triển thì nhu cầu học tập càng cao và việc học tập
càng lại được coi trọng vì đó chính là con đường quan trọng trong việc tu
dưỡng, rèn luyện ý chí, khả năng, là con đường lập thân, lập nghiệp của mỗi
con người. Trên con đường học tập đó, vấn đề tự học được xem là một nội
lực quan trọng, nó quyết định tới sự thành, bại của người học. Tự học đã
biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Chính tự học đã giúp
người học biến tri thức của nhân loại thành tri thức của bản thân mình. Tự
học đã xây được nền móng tri thức vững chắc, tạo sự liên kết hợp lý trong
hệ thống kiến thức, giúp việc tiếp tục học tập được thuận lợi, dễ dàng và
kiến thức được phát triển bền vững cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
Ngay từ thời cổ đại, các nhà giáo dục lỗi lạc đã nhận thấy vai trò quan
trọng của tự học. Khổng Tử (551- 479 TCN) - Nhà tư tưởng nổi tiếng và nhà
sư phạm vĩ đại của Trung Quốc, về phương pháp giáo dục Ông đã đề cao việc
tự học, tự luyện, tu thân, chú trọng phát huy mặt tích cực, sáng tạo, năng lực
nội sinh. Khổng Tử thường chú ý đến dạy sát đối tượng, kết hợp học với hành,
lý thuyết gắn liền với thực tiễn, phát triển hứng thú, động cơ, ý chí cho người
học. Ông xác định "Học nhi thời tập chí", việc học tập theo ông phải gắn liền
với thực hành mới thông suốt được các điều đã học. Ông đã từng nói với học
trò của mình "Không muốn học vì không muốn biết thì không gợi mở cho,
6
không bực tức vì không rõ thì không bày vẽ cho. Vạch cho một khía cạnh rồi
mà môn đệ không tìm ra được ba khía cạnh khác thì không dạy thêm nữa".
Điều mà Khổng Tử quan tâm không chỉ là phát triển hứng thú mà ông còn
quan tâm đặc biệt đến vấn đề tư duy (suy nghĩ) trong học tập, theo ông học tập
và tư duy là hai yếu tố có mối quan hệ ràng buộc không thể thiếu của một vấn
đề: "Học nhi bất tư tắc vong, tư nhi bất học tắc đãi" (Học mà không tư
duy/suy nghĩ thì uổng phí, tư duy/suy nghĩ mà không học thì nguy hiểm).
Khổng Tử còn yêu cầu môn sinh: bác học, thâm vấn, thận tư, minh biện, đốc
hành (học cho rộng, hỏi cho kỹ/sâu, tư duy/suy nghĩ cho cẩn thân, phân biệt
cho rõ ràng, làm cho hết sức). Ông còn nhấn mạnh:
"Cũng có điều chưa học, nhưng đã học điều gì mà không được thì không
thôi.
Cũng có điều chưa hỏi, nhưng đã hỏi điều gì mà chưa rõ thì không thôi.
Cũng có điều chưa phân biệt được, nhưng đã phân biệt được thì phân
biệt cho minh bạch".
Cũng có điều chưa làm, nhưng đã làm điều gì mà không xong thì không
buông xuôi.
Người ta dụng công mười mà được, ta cũng dùng công mười mà chưa
được thì dụng công gấp ngàn lần kỳ được mới thôi.
Nếu làm được theo điều ấy thì đầu ngu cũng hoá sáng, yếu cũng thành
mạnh”. Và “nếu môn đệ không tự hỏi phải làm ra sao? phải làm ra sao? thì
ta cũng chẳng làm thế nào được”.
Như vậy, theo Khổng Tử thì phương châm học tập là phải tham khảo
nhiều tài liệu, tìm hiểu bài cho thật sâu qua điều tra vặn hỏi, học phải có bình
luận, đánh giá và thực hành cho thật nhiều với một quyết tâm cao thì trước
chưa thạo nhưng rồi cũng sẽ thành thạo.
Các nhà giáo dục phương Tây cũng đã nhấn mạnh về việc phát huy khả
năng và hiệu quả học tập từ ý thức tự giác, thực hành, suy luận, nghiên cứu,
tìm tòi, khám phá của người học.
7
Sinh thời, Chủ Tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến giáo dục, Người
cho rằng việc học tập là không bao giờ đủ, mà phải học liên tục, học suốt đời
thì mới tiến bộ, mới theo kịp sự phát triển của thế giới "Học hỏi là một việc
phải tiếp tục học suốt đời. Suốt đời phải gắn liền lý luận với công tác thực tế.
Không ai có thể tự cho mình là đã biết đủ rồi. Thế giới ngày càng đổi mới,
nhân dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để
tiến bộ kịp nhân dân". Trong những tác phẩm và nhiều bài phát biểu của mình
bao giờ Bác cũng nhấn mạnh đến tác dụng và hiệu quả to lớn của việc học tập
và rèn luyện. Bác cho rằng học tập giúp người ta tiến bộ, nâng cao phẩm chất,
mở rộng hiểu biết, làm tăng năng suất lao động. Mà theo Bác muốn học tập
đạt kết quả cao thì phải tự học "lấy tự học làm cốt. Do thảo luận và chỉ đạo
góp vào". Phải biết tự giác học tập, Bác khuyên: "không phải có thầy thì học,
thầy không đến thì đùa. Phải biết tự động học tập". Người đã động viên toàn
dân: "phải tự nguyện, tự giác xem công việc học tập là nhiệm vụ của người
Cách mạng, phải cố gắng mà hoàn thành cho được, do đó mà tích cực, tự
động hoàn thành kế hoạch học tập". Như vậy theo Bác tự học giữ vai trò quan
trọng, có tác dụng quyết định đến kết quả học tập. Tự học phải xuất phát từ
động lực thôi thúc của chính bản thân người học nhưng vẫn cần sự hỗ trợ, tác
động từ môi trường học tập, cần sự hướng dẫn của nhà trường, của người thầy.
Trong những năm gần đây, đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề
tự học của các học giả, các nhà nghiên cứu giáo dục như: Nguyễn Hiến Lê,
Đặng Vũ Hoạt, Hà Thế Ngữ, Tạ Quang Bửu, Nguyễn Cảnh Toàn, Phan Trọng
Luận,… các công trình nghiên cứu này đều xác nhận vai trò quyết định của tự
học trong việc nâng cao chất lượng học tập của người học. Đồng thời cũng đề
cập đến những biện pháp hữu hiệu trong công tác tổ chức, quản lý hoạt động
tự học nhằm nâng cao chất lượng học tập.
Các đề tài nghiên cứu luận văn Thạc sĩ về vấn đề tự học gần đây cũng
đã khẳng định tầm quan trọng của hoạt động tự học, tự nghiên cứu của người
8
học và cũng đã đề xuất được những phương hướng, biện pháp quản lý nhằm
tăng cường hiệu quả của hoạt động tự học. Việc kế thừa tiếp thu những thành
quả của các công trình nghiên cứu trên một cách có chọn lọc để đề xuất những
biện pháp tổ chức hoạt động tự học cho học viên tại trung tâm GDTX tỉnh
Vĩnh Phúc, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo trong giai đoạn hiện nay là
ý nghĩa thực tiễn của luận văn này.
1.2. Những vấn đề về tự học
1.2.1. Khái niệm "Tự học"
Theo Nguyễn Lân, trong Từ điển từ và ngữ Việt Nam, ông cho rằng:
Tự: là chính mình; học: là học. Vậy tự học là tự mình học lấy không cần có
người dạy, cũng có thể hiểu là "Tự đi tìm lấy kiến thức có nghĩa là tự học".
Nguyễn Hiến Lê, trong cuốn "Tự học một nhu cầu của thời đại" cho rằng "Tự
học là không ai bắt buộc mà tự mình tìm tòi, học hỏi để hiểu biết thêm. Có
thầy hay không ta không cần biết. Người tự học hoàn toàn làm chủ mình,
muốn học môn nào tuỳ ý, muốn học lúc nào cũng được: đó mới là điều kiện
quan trọng" [23;14]. Như vậy theo ông tự học là cần thiết nhưng không phải là
sự bắt buộc; người học hoàn toàn tự do, tự chủ, nhờ vậy nó là một cái thú.
Theo Nguyễn Cảnh Toàn: "Tự học là tự mình động não, sử dụng các
năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp) và có khi cả cơ bắp
(khi phải sử dụng công cụ), cùng các phẩm chất của mình, rồi cả động cơ,
tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan (trung thực, khách quan, có chí
tiến thủ, không ngại khó, ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại, lòng say mê khoa học)
để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó
thành sở hữu của mình” [31;59].
Nguyễn Đức Trí, thì cho rằng "Tự học là hoạt động độc lập, chủ yếu
mang tính chất cá nhân của học sinh, sinh viên trong quá trình nhận thức học
tập để cải biến nhân cách đó, nó vừa là phương tiện, vừa là mục tiêu của quá
trình đào tạo nói chung ở nhà trường. Có hai loại tự học là tự học trong giờ
lên lớp và tự học ngoài giờ. Hoạt động tự học của học sinh, sinh viên trong
9
giờ lên lớp thường thực hiện dưới sự hướng dẫn của giảng viên bộ môn như là
một bộ phận, một bước, một hình thức tổ chức của quá trình dạy học. Hoạt
động tự học ngoài lớp có thể được thực hiện ở ký túc xá hoặc ở nhà, theo cá
nhân hoặc theo nhóm. Đây là hoạt động chủ yếu của sinh viên sau giờ lên lớp
được hướng dẫn hoặc tự phát nhưng rất cần được tổ chức và quản lý chặt chẽ
để đảm bảo chất lượng dạy học và giáo dục” [38; 49].
Nhìn chung theo các cách tiếp cận của các nhà nghiên cứu giáo dục thì
khái niệm "Tự học" có những điểm giống nhau về cơ bản: là hoạt động học tập
chủ động và độc lập, xuất phát nhu cầu của người học, có hoặc không có
người hướng dẫn. Điểm khác nhau là cách tiến hành, phương tiện hỗ trợ, hoàn
cảnh, thời gian thực hiện.
Như vậy, có thể xem "Tự học" là một hoạt động nhận thức diễn ra với
sự tự giác, tính tích cực và độc lập cao của từng cá nhân nhằm nắm vững hệ
thống tri thức và kỹ năng được tiến hành ở trên lớp hoặc ở ngoài lớp, theo
hoặc không theo chương trình sách giáo khoa quy định.
1.2.2. Đặc trưng của tự học
Là quá trình tự điều khiển, quá trình tự chiếm lĩnh tri thức (quá trình thu
nhận, chế biến, xử lý, bảo quản và truyền đạt thông tin làm gia tăng sự hiểu
biết của cá nhân) để học kỹ - nhớ lâu - hiểu sâu - vận dụng tốt. Hoạt động tự
học xét về mặt cấu trúc bao gồm:
- Động cơ: là nhu cầu, hứng thú thu hút người học vào quá trình học tập
tích cực và duy trì tính tích cực đó trong quá trình học tập, làm cho người học
thấy được ý nghĩa của việc học tập.
- Định hướng: là mục đích của người học để xác định và ý thức được
hoạt động nhận thức của mình, nó trả lời câu hỏi: học để làm gì?
- Nội dung - phương pháp: là hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo chủ đạo
cần chiếm lĩnh và các cách thức chiếm lĩnh chúng; nó trả lời câu hỏi: học cái
gì? học như thế nào?
10
- Năng lực học tập: là những khả năng tập trung chú ý, năng lực trí tuệ
và năng lực thực hành vốn có để phát huy trong quá trình tự học.
- Năng lực tự kiểm tra, tự đánh giá: là khả năng tự đánh giá kết quả tự
học của mình, làm cơ sở cho những hoạt động tiếp theo.
1.2.3. Hệ thống các kỹ năng tự học: có thể chia làm thành 3 nhóm cơ bản sau:
- Nhóm 1: Nhóm kỹ năng kế hoạch hoá hoạt động tự học. Nhóm này bao
gồm: xác định mục đích, nội dung và trình tự công việc cần làm, phân
phối, sắp xếp thời gian cho từng công việc.
- Nhóm 2: Nhóm kỹ năng tổ chức thực hiện kế hoạch. Nhóm này gồm các
kỹ năng tiến hành các hoạt động nhận thức đối với quá trình tự học, đảm bảo cho
việc thực hiện kế hoạch đã vạch ra. Đó là kỹ năng đọc sách và đọc tài liệu, kỹ
năng ghi chép, kỹ năng giải các bài tập nhận thức, kỹ năng thực hiện các thao tác
trí tuệ, trong đó đặc biệt quan trọng là kỹ năng hệ thống hoá và khái quát hoá.
- Nhóm 3: Nhóm các kỹ năng tự kiểm tra, đánh giá. Nhóm này gồm các
kỹ năng: xác định nội dung tự kiểm tra, đánh giá, xây dựng bộ chuẩn để kiểm
tra, tự đánh giá, chọn cách thức thực hiện hành động tự kiểm tra, tự đánh giá,
sử dụng các thao tác tự kiểm tra, đánh giá như: so sánh, đối chiếu
1.2.4. Vị trí, vai trò của tự học
Người xưa từng có câu "nên tài, nên đức, nhờ tự học". Lời tổng kết từ
ngàn xưa của ông cha ta truyền lại từ thế hệ này đến thế hệ khác như là một di
sản quí báu của dân tộc. Có ý chí và năng lực tự học mới có khả năng làm việc
sáng tạo, sống có đạo đức, văn hoá, mới nên người có tài, có đức.
Như chúng ta đã biết hiệu quả của quá trình dạy học được quyết định
bởi yếu tố học, mà tự học lại là cốt lõi của việc học. Hễ có hoạt động học là có
hoạt động tự học. Không ai có thể trông chờ người khác học hộ, học thay mình
được. Tự học có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với con người vì: "mỗi
người đều nhận hai thứ giáo dục: một thứ do người khác truyền cho, một thứ
quan trọng hơn nhiều do mình tự kiếm lấy" (GIBRON). Tự học mang lại kết
11
quả quan trọng trong việc bổ sung và phát triển tri thức mà việc học tập trong
nhà trường không thể đáp ứng kịp và đáp ứng đủ, vì biển học là mênh mông,
mỗi ngày sự hiểu biết của loài người cũng thăng tiến, dù có học suốt đời cũng
chưa được bao nhiêu huống hồ chỉ mới học trong vòng có mươi năm. Tự học
để mở mang trí tuệ, trau dồi nghề nghiệp mà nhất là tu thân, luyện tính, bổ túc
những chỗ khuyết lớn trong nền giáo dục nhà trường; nói như Nguyễn Hiến
Lê "Tự học bổ khuyết cho nền giáo dục ở nhà trường" và theo ông "Người nào
đã kiên tâm tự học thì sớm muộn gì cũng vượt hẳn lên trên những người khác,
không giàu sang hơn thì cũng được kính trọng hơn" [23;15].
“Tự học là khởi nguồn của phong cách tự đào tạo đồng thời là cái nôi
nuôi dưỡng trí sáng tạo. Ai giỏi tự học ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà
trường, người đó sẽ tiến xa" (Tạ Quang Bửu). Science et Vie (1999) thì khẳng
định: "Ai tự học mạnh nhất người đó tích luỹ được một niềm tin sáng tạo dồi
dào nhất. Ai càng có nhu cầu sáng tạo người đó càng thôi thúc ý chí tự học".
Xã hội càng phát triển thì vai trò của giáo dục càng trở nên quan trọng,
nó là động lực thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ xã hội. Vào WTO rồi thì thách
thức lớn nhất là ở chất lượng con người, cho nên giáo dục gánh một trách
nhiệm rất lớn trong việc nước ta có tận dụng được thời cơ, vượt qua thử thách
để tiến lên mạnh mẽ hay không. Giáo dục phải đào tạo được thế hệ trẻ năng
động, sáng tạo, có đủ tri thức, năng lực, khả năng thích ứng với đời sống xã
hội; muốn vậy thế hệ trẻ cần có năng lực đặc biệt đó là khả năng tự học, tự
nâng cao hiểu biết, tự hoàn thiện mình. Khả năng này phải được hình thành từ
khi còn ngồi trên ghế nhà tường. Có như vậy mới giúp họ có năng lực tự học,
tự nghiên cứu để có thể học được suốt đời; thực hiện được "sáu mọi" như Giáo
sư Nguyễn Cảnh Toàn nói "học mọi lúc, học mọi nơi, học mọi người, học
trong mọi hoàn cảnh, học bằng mọi cách, học qua mọi nội dung (dù xa với
chuyên môn của mình)" [35;16]. Nhằm không ngừng nâng cao vốn hiểu biết
12
về văn hoá, khoa học kỹ thuật và hiện đại hoá vốn tri thức của mình để trở
thành người công dân của thế giới.
1.2.5. Các hình thức tự học
1.2.5.1. Hình thức thứ nhất: Tự học dưới sự hướng dẫn trực tiếp của giáo viên
Hình thức này diễn ra trong giờ lên lớp nó diễn ra dưới sự chỉ đạo, điều
khiển, hướng dẫn trực tiếp của giáo viên, người học là chủ thể nhận thức tích
cực. Họ phải huy động mọi phẩm chất tâm lý cá nhân tiến hành những hoạt
động học tập để lĩnh hội, khám phá tri thức theo sự hướng dẫn của giáo viên.
Hình thức này bao gồm:
- Tự học trong lúc nghe giảng bài: Mục đích lên lớp của người học ở
giảng đường là nghe và ghi bài giảng của giáo viên để nắm vững một cách lô
gíc những tri thức khoa học. Sự tự học của người học được thể hiện bởi sự tập
trung chú ý đến cao độ, sử dụng bộ não một cách triệt để, động viên được
những năng lực tiềm ẩn trong quá trình nghe giảng. Quá trình nghe và ghi
chép đòi hỏi người học phải tập trung tư tưởng, chú ý cao độ, nghĩa là hướng
toàn bộ hoạt động của các giác quan để đón nhận nội dung bài giảng. Khi nghe
giảng, người học phải có sự hoạt động tư duy hết sức tích cực, khẩn trương để
liên tưởng bài giảng với tri thức đã học từ trước, đòi hỏi người học hồi tưởng
lại, nhớ lại vừa nhanh, vừa chính xác những thông tin cần thiết cho việc tiếp
thu bài giảng mới. Hoạt động trí tuệ căng thẳng để tạo ra hệ thống tri thức có
tính liên tục, kế thừa giữa cái cũ và cái mới, cái đã có với cái chưa có… từ đó
tạo nên vốn kiến thức riêng cho mình.
Song song với nghe giảng là sự ghi chép. Dù việc ghi nhớ tốt đến đâu
cũng không thể thay thế cho việc ghi chép bài giảng được. Hơn nữa ghi chép
không chỉ có tác dụng hỗ trợ cho trí nhớ mà còn giúp cho việc nắm kiến thức
được sâu hơn. Vì khi ghi chép, bộ não phải tiến hành phân tích, tổng hợp, lựa
chọn những tri thức cần ghi.
Nghe và ghi bài giảng trên lớp là giai đoạn đầu tiên rất quan trọng song
nó cũng là quá trình rất phức tạp, đa dạng. Nó phụ thuộc vào những yếu tố
13
khách quan (đặc điểm bộ môn, phương pháp diễn giải…) và chủ quan (đặc
điểm tâm sinh lý của người nghe…). Vì vậy đòi hỏi người học phải hoạt động
một cách tích cực, tự giác để vừa nghe, liên kết, hệ thống, tổng hợp, phân tích
lại vừa lựa chọn những tri thức cần thiết để ghi. Có như vậy người học mới
hiểu sâu và có thể chiếm lĩnh được tri thức ngay trên lớp.
- Tự học qua thảo luận nhóm (hội thảo, xemina…): Thảo luận nhóm là
một sự trao đổi ý tưởng, quan điểm nhận thức giữa các học viên và giáo viên,
để làm rõ và làm giàu sự hiểu biết các nội dung phù hợp với hoạt động đào
tạo. Sự phân công trong nhóm có khi dẫn đến trách nhiệm cá nhân từng phần
nhưng cũng có khi được kết hợp lại thành một công trình nghiên cứu chung.
Theo sự hướng dẫn của giáo viên, người học tự đặt mình vào vị trí của người
nghiên cứu, tự tiến hành khám phá tìm ra các kiến thức "mới" hoặc các giải
pháp bằng cách tự lực suy nghĩ, xử lý các tình huống, giải quyết các vấn đề mà
thầy đã đặt ra cho mình. Quá trình tìm tòi, tìm hiểu vấn đề thuộc cá nhân học
viên phụ trách sẽ giúp họ tiếp cận, trực tiếp thâm nhập và tư duy vấn đề một
cách độc lập. Làm việc theo nhóm là cách tự học rất hiệu quả vì khi làm việc
theo nhóm người học sẽ được tiếp thu tri thức bằng những thông tin cụ thể, dễ
nhớ từ bạn bè trong nhóm. Bổ sung rất nhiều những kiến thức mà việc học tập
cá nhân bị thiếu sót. Việc tự học này cũng giúp người học tự học được những
kỹ năng rất cần thiết như: kỹ năng hợp tác, kỹ năng tự kiểm tra, điều chỉnh, kỹ
năng ứng xử Hơn nữa, cách làm việc nhóm cũng tạo tâm lý thoải mái trong
học tập.
1.2.5.2. Hình thức thứ hai: Tự học dưới sự hướng dẫn gián tiếp của giáo viên
Hoạt động tự học này diễn ra khi không có sự hướng dẫn, điều khiển
trực tiếp của giáo viên, người học tự mình sắp xếp kế hoạch, huy động các
điều kiện về vật chất, năng lực của cá nhân để ôn tập, củng cố, đào sâu, mở
rộng và hoàn chỉnh kiến thức, hoàn thành nhiệm vụ mà giáo viên giao. Đó là
tự học ngoài giờ lên lớp, nó có thể diễn ra ở nhà, ký túc xá, ở thư viện Hình
thức này bao gồm:
14
- Tự học dưới dạng học lại bài đã học và vận dụng giải bài tập. Đây là
cách tự học mà mọi người học thường thực hiện nhằm tái hiện lại những vấn
đề mà giáo viên đã giảng giải trên lớp. Tuy nhiên việc học lại bài đã được thực
hiện ngay sau khi tiếp thu bài trên lớp. Điều quan trọng đòi hỏi người học
không được quan niệm là học để đối phó với việc trả bài hoặc để làm bài. Học
bài cách này không phải là học ngay trước khi trả bài. Vì vậy người học cần
xem lại bài ngay khi vừa học xong. Cách học này rất dễ thực hiện mà lại hiệu
quả vì bài học vẫn còn "nóng hổi" không cần mất thời gian để "hâm lại". Sau
buổi học tri thức vẫn còn đọng lại trong trí nhớ nên việc hồi tưởng lại sẽ dễ
dàng hơn. Như vậy cách học này vừa hiệu quả lại vừa tiết kiệm thời gian. Tuy
nhiên để khắc sâu được kiến thức thì người học phải tự vận dụng để làm bài
tập, phải gắn học với hành. Bài tập có khi chỉ là hình thức áp dụng công thức,
lý thuyết cho một tình huống, thực tiễn cụ thể; cũng có thể là những bài tập
nâng cao. Vì vậy đỏi hỏi người học phải hiểu bài, đào sâu suy nghĩ, vận dụng
một cách sáng tạo để giải quyết vấn đề. Mục đích của việc làm bài tập sau bài
học ngoài việc giúp người học khắc sâu kiến thức còn rèn luyện kỹ năng vận
dụng kiến thức vào thực tiễn, để kiến thức trở nên gần gũi, dễ hiểu và nhớ lâu.
Việc đọc trước bài hôm sau thầy sẽ giảng giúp người học chủ động trong học
tập, hiểu nhanh hơn và nhớ lâu hơn những điều thầy giảng ở trên lớp. Khi đọc
chỗ nào chưa hiểu thì đánh dấu lại để đến khi thầy giảng tập trung chú ý hơn.
Nên chủ động chuẩn bị các câu hỏi, nếu thầy giảng theo lối gợi mở vấn đề cần
mạnh dạn tham gia thảo luận đó cũng là cách giúp người học tập trung học tập
ở lớp hơn.
- Tự học qua hình thức nghiên cứu khoa học (làm tiểu luận, đề án môn
học…) là một hình thức tự học rất hiệu quả. Mục đích của hình thức này là để
kích thích người học phát triển trí tuệ, hình thành hứng thú học tập và óc tìm
tòi, sáng tạo nhằm giải quyết vấn đề về lý luận hay thực tiễn trong phạm vi
hẹp. Học viên làm tiểu luận hay đề án môn học đều có giáo viên hướng dẫn.
Chọn đề tài theo yêu cầu của môn học, người học sẽ phải đối diện với một
15
thực tế công việc cần nghiên cứu sâu, tìm hiểu kỹ. Do vậy, hoạt động tự học
trong trường hợp này trở thành một nhu cầu cần thiết và sẽ mang lại hiệu quả
cụ thể, thiết thực.
1.2.5.3. Hình thức thứ ba: Tự học theo nhu cầu cá nhân
Tự học thông qua việc tìm kiếm tri thức thoả mãn nhu cầu nâng cao
hiểu biết riêng. Đây là một hoạt động giáo dục do cá nhân người học tự đề ra,
có mục đích, có cách thức riêng, cụ thể. Thông thường loại hoạt động này
được thực hiện bởi các phương tiện thông tin đại chúng như: đài, ti vi,
internet, sách báo, thư viện, nhà văn hoá hoặc thông qua quá trình giao tiếp
hằng ngày. Người học hoàn toàn tự chủ trong việc lựa chọn nội dung, hình
thức học tập theo nhu cầu và phù hợp với hoàn cảnh của mình.
Như vậy, hoạt động tự học có thể được nhận định theo nhiều dạng thức
khác nhau với ý nghĩa phong phú tuỳ theo cách tiến hành, tuỳ môi trường và
hoàn cảnh học tập. Nhưng nhìn chung, khi đề cập đến vấn đề tự học, dù có
thầy hay không có thầy, dù ở trường hay ở nhà, dù học một mình hay với
nhóm bạn bè thì vấn đề quan trọng của hoạt động này cũng là tinh thần tự giác
và ý chí quyết tâm cao của người học.
1.2.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tự học
1.2.6.1. Yếu tố chủ quan
- Động cơ học tập: Bất kỳ hoạt động nào của con người, trong đó có
hoạt động học tập, đều phải có động cơ thúc đẩy và dẫn lối, đưa đường theo
một xu hướng nhất định. Động cơ và xu hướng đó thường được bộc lộ ra
những ước mơ, hoài bão, hứng thú niềm tin và lý tưởng của người học. Nếu
người học có quan niệm đúng đắn về học tập thì sẽ tạo nên động cơ học tập
tích cực. Khi đó động cơ sẽ thúc đẩy người học không chỉ chăm chỉ, cần cù,
kiên nhẫn mà còn thông minh, sáng tạo, tìm mọi cách để học tập, vượt mọi
khó khăn trở ngại. Ngược lại nếu người học có quan niệm sai lệch về học tập
thì sẽ tạo nên động cơ tiêu cực dẫn đến sự lơ là, thiếu kiên nhẫn, không tự giác
16
học tập, hễ rời sự thúc ép, sự kiểm soát thì sẽ lười học. Tự học là hình thức
hoạt động của cá nhân, nó cần phải có tinh thần tự giác và sự tập trung trí tuệ
cao. Vì vậy cần phải có một động lực thôi thúc người học để họ có ý chí và
nghị lực vượt qua mọi trở ngại do yếu tố chủ quan và khách quan đem lại
trong quá trình tự học. Đặc biệt là tự học sẽ giúp người học vượt qua được
chính mình, như Thích Ca đã nói "Đánh thắng một vạn quân không bằng tự
đánh thắng lòng mình". Ý chí và nghị lực là nội lực của người học, nó là một
trong các yếu tố quyết định đến hiệu quả tự học. Khi người học đã xác định
đúng đắn động cơ học tập thì họ sẽ có niềm tin vào khả năng tự học của mình,
tự giác khắc phục những thói quen không tốt : học vẹt, học gạo và tâm lý thoả
mãn.
- Khả năng tự học: "Khả năng tự học tồn tại khách quan ở mọi người
không bị khuyết tật tâm thần" [32;10] nói như vậy có nghĩa là mọi người bình
thường đều có khả năng tự học dù ít hay nhiều. Nếu ai biết tận dụng và phát
triển năng lực bẩm sinh đó thì người đó sẽ có khả năng tốt trong hoạt động tự
học, tự nghiên cứu.
- Khả năng nhận thức: Nói đến khả năng nhận thức là nói đến năng lực
hoạt động trí tuệ, hay chỉ số thông minh (IQ) của người học. Những người có
chỉ số thông minh cao sẽ rất thuận lợi cho việc tự học, họ sẽ nhanh chóng hiểu
được vấn đề cần quan tâm và vận dụng nó một cách có hiệu quả chỉ trong một
thời gian ngắn. Tuy nhiên, thông minh chưa phải là tất cả, không phải cứ
thông minh là có kết quả tự học tốt. Theo thống kê chỉ có khoảng 10% số
người thành đạt là thông minh, còn 90% là do cần cù, nhẫn nại; đúng như câu
nói: "Thiên tài phần nhiều do kiên nhẫn".
- Kỹ năng tự học: Là cơ sở ban đầu để người học thực hiện thành thục
những công việc cụ thể trong tự học, giúp họ học một cách nhanh chóng và có
hiệu quả. Do đó để tiến hành tự học, người học cần có những kỹ năng như: kỹ
năng đọc sách, kỹ năng tóm tắt, ghi chép, kỹ năng thu thập, xử lý, lưu giữ
17
thông tin Kỹ năng tự học được hình thành trên cơ sở người học hiểu được
cách thức thực hiện hoạt động tự học và trải qua quá trình vận dụng, rèn luyện.
Khi có kỹ năng tự học, người học sẽ sử dụng các kỹ năng này như một công
cụ hiệu quả trong quá trình học tập và tự học.
- Phương pháp tự học: Việc xây dựng cho mình một phương pháp
(phong cách) tự học là rất quan trọng đối với người học. Phương pháp này vừa
đòi hỏi phải có tính khoa học vừa phải phù hợp với điều kiện hoàn cảnh riêng
của mỗi người, để người học có thể tận dụng triệt để các điều kiện thuận lợi
trong hoàn cảnh của mình và biết khắc phục khó khăn trong quá trình tự học.
- Việc xây dựng kế hoạch tự học là một việc rất cần thiết nhằm vạch ra
kế hoạch và định hướng cho người học, giúp người học sử dụng thời gian sao
cho hợp lý, có hiệu quả nhất, kết hợp hài hoà giữa việc học tập, nghiên cứu và
nghỉ ngơi, giải trí. Việc lập kế hoạch tự học cũng giúp cho người học có thói
quen làm việc có kế hoạch, có nề nếp, có kỷ luật, rèn luyện tính kiên trì, chịu
khó. Kế hoạch gồm có các bước: lập kế hoạch, thực hiện kế hoạch, kiểm tra và
rút kinh nghiệm. Một người tự học có kế hoạch sẽ luôn luôn chủ động và hạn
chế được những ảnh hưởng không tốt từ bên ngoài vì vậy sẽ nâng cao hiệu quả
học tập.
1.2.6.2. Yếu tố khách quan
- Nhà trường có ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của hoạt động tự
học. Khi đề cập đến tự học, người ta thường chú ý đến các yếu tố quan trọng
có tác dụng chi phối, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của hoạt động này như:
+ Mục tiêu đào tạo
+ Nội dung đào tạo
+ Phương pháp đào tạo
+ Cơ sở vật chất
Các yếu tố trên có mối quan hệ mật thiết với nhau: mục tiêu chính là cái
đích cần đạt được, khi đã xây dựng được mục tiêu phù hợp thì phải thiết kế
một chương trình, nội dung tương thích với mục tiêu đã đề ra. Mục tiêu và nội
18
dung quy định phương pháp, đào tạo như thế nào để với nội dung đó có thể đạt
được mục tiêu ban đầu. Mục tiêu, nội dung, phương pháp là các yếu tố giữ vai
trò rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng học tập, tự học. Nếu mục
tiêu, nội dung không phù hợp, không kích thích được lòng ham học tập, ham
hiểu biết của người học; nếu bằng cách dạy theo lối độc thoại thì người học sẽ
trở nên thụ động, khả năng tư duy và làm việc độc lập bị giảm sút. Như vậy
muốn lôi cuốn được người học thì ngoài yếu tố nội dung, mục tiêu phải phù
hợp ra phải kể đến yếu tố rất quan trọng đó là phương pháp giảng dạy. Phương
pháp giảng dạy phải kích thích được nhu cầu hiểu biết để người học tự khám
phá, tự đi tìm chân lý dưới sự điều khiển, dẫn dắt của giáo viên, phải dạy
"cách học" chứ không phải "dạy học" để người học "học một” phải” biết
mười" và có khả năng tự học suốt đời. Ngoài ra có thể kể thêm các yếu tố
khách quan khác như: môi trường học tập, thời gian, cơ sở vật chất…của nhà
trường. Những yếu tố này sẽ góp phần tạo nên thuận lợi hay gây ra những trở
ngại trong việc thực hiện tự học.
- Môi trường xã hội cũng là một yếu tố ngoại lực quan trọng. Lợi thế
của
yếu tố này là Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến giáo dục "Phát triển giáo
dục, xây dựng xã hội học tập là sự nghiệp của Nhà nước và của toàn dân. Nhà
nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp giáo dục… Khuyến khích,
huy động và tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp
giáo dục. Mọi tổ chức, gia đình và công dân đều có trách nhiệm chăm lo cho
sự nghiệp giáo dục, phối hợp với nhà trường thực hiện mục tiêu giáo dục, xây
dựng môi trường giáo dục lành mạnh và an toàn. Đầu tư cho giáo dục là đầu
tư cho phát triển” [27;14]. Truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo, hoàn
cảnh kinh tế, phong tục, tập quán…nơi mà người học đang sinh sống và công
tác có ảnh hưởng đáng kể tới việc tự học của họ.
- Gia đình: là yếu tố cực kỳ quan trọng đối với người học nói chung và
đặc biệt là đối với những người vừa làm vừa học nói riêng. Ngày nay người ta