Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Các biện pháp tăng cường quản lý hoạt động của Trung tâm Thông tin - Thư viện đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ ở Đại học Quốc gia Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (985.87 KB, 97 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM


PHẠM THỊ MAI LAN



CÁC BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN
LÝ HOẠT ĐỘNG CỦA TRUNG TÂM
THÔNG TIN – THƯ VIỆN ĐÁP ỨNG YÊU
CẦU ĐÀO TẠO THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ
Ở ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI




LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC





HÀ NỘI – 2007
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM


PHẠM THỊ MAI LAN




CÁC BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ
HOẠT ĐỘNG CỦA TRUNG TÂM THÔNG
TIN – THƯ VIỆN ĐÁP ỨNG YÊU CẦU ĐÀO
TẠO THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ Ở ĐẠI HỌC
QUỐC GIA HÀ NỘI

Chuyên ngành : Quản lý giáo dục
Mã số : 60 14 05

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
TS. Đặng Văn Cúc


HÀ NỘI - 2007
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 6
1.1. Một số khái niệm cơ bản 6

1.2. Hoạt động thông tin – thƣ viện trong trƣờng đại học 17

1.3. Quản lý hoạt động thông tin trong trƣờng đại học 22

1.4. Hoạt động thông tin – thƣ viện trong trƣờng ĐH với nhiệm vụ phục vụ đào tạo
học chế tín chỉ 29
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG THÔNG TIN
– THƢ VIỆN TẠI TRUNG TÂM THÔNG TIN - THƢ VIỆN ĐẠI HỌC QUỐC GIA

HÀ NỘI 35
2.1. Vài nét khái quát về Đại học Quốc gia Hà Nội 35
2.2. Vài nét khái quát về Trung tâm Thông tin – Thƣ viện ĐHQGHN 38
2.3. Thực trạng công tác quản lý hoạt động của Trung tâm Thông tin – Thƣ viện Đại
học Quốc gia Hà Nội 41
2.4. Nhận xét và đánh giá chung về tình hình quản lý các hoạt động của Trung tâm
Thông tin – Thƣ viện Đại học Quốc gia Hà Nội 66
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP TĂNG CƢỜNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
THÔNG TIN – THƢ VIỆN ĐÁP ỨNG YEU CẦU ĐÀO TẠO THEO HỌC CHẾ TÍN
CHỈ Ở ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI 70
3.1. Các căn cứ để đề xuất biện pháp 70
3.2. Một số biện pháp tăng cƣờng quản lý hoạt động thông tin – thƣ viện phục vụ đào
tạo theo học chế tín chỉ oqr ĐHQGHN 74
3.3. Mối quan hệ giữa các biện pháp 87
3.4. Khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp đề xuất 87
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO 92

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Trong thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật, trình độ dân trí và tiềm lực khoa
học trở thành động lực chính của sự tăng tốc độ phát triển kinh tế – xã hội, giáo dục-
đào tạo (GD-ĐT) được coi là nhân tố quyết định sự thắng, bại của mỗi quốc gia.
Nghị quyết Hội Nghị lần thứ hai, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII
của Đảng Cộng Sản Việt Nam khẳng định: “Thực sự coi giáo dục đào tạo là quốc sách
hàng đầu”. Trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, sự nghiệp GD-ĐT
càng có vai trò và vị trí quan trọng. Trong các cuộc họp của Trung ương Đảng bàn về

CNH, HĐH đất nước, vấn đề được quan tâm đầu tiên cũng là về GD-ĐT. Đất nước
không thể CNH, HĐH nếu không có một đội ngũ đông đảo cán bộ khoa học, kỹ thuật
và công nghệ, các chuyên gia có trình độ cao, các nhà quản lý kinh tế và kinh doanh
giỏi, các công nhân lành nghề. Nhìn lại lịch sử cận đại của thế giới và các nước phát
triển nhanh trong khu vực, chúng ta đều thấy họ rất coi trọng giáo dục, đặc biệt là giáo
dục đại học (GDĐH). Trong hệ thống giáo dục quốc dân, bậc đại học có vị trí rất quan
trọng. Nó đảm trách nhiệm vụ đào tạo ở bậc cao nhất là đào tạo đại học và sau đại học,
là nơi đào tạo chủ lực nguồn nhân lực với trình độ cao và nhân tài cho nền kinh tế quốc
dân và cho xã hội. Chất lượng đào tạo đại học liên quan chặt chẽ với yêu cầu kinh tế-xã
hội của đất nước. Sản phẩm đào tạo được xem là có chất lượng cao khi nó đáp ứng tốt
mục tiêu đào tạo mà yêu cầu của kinh tế-xã hội đặt ra đối với mỗi cấp học, ngành học
của bậc đại học. "Muốn có chất lượng đào tạo tốt cần phải có đội ngũ thầy giáo giỏi
cùng với cơ sở vật chất, trang thiết bị, giáo trình, sách giáo khoa, thư viện phục vụ
giảng dạy và học tập. Những đIều kiện đảm bảo chất lượng là vô cùng quan trọng,
không thể đòi hỏi chất lượng đào tạo cao khi điều kiện phục vụ cho đào tạo quá thấp.
Thư viện và trang thiết bị phục vụ cho việc dạy và học ở các trường đại học, cao đẳng
có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng đào tạo, là thành phần
không thể thiếu trong quá trình đào tạo". [2]
Hiện nay, yêu cầu đổi mới giáo dục đại học đòi hỏi các trường đại học phải đổi
mới cơ bản, toàn diện: mục tiêu, nội dung chương trình, phương pháp dạy-học, đội ngũ

2

giảng viên, cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy học. Trong các yếu tố đó, thư viện nhà
trường là yếu tố rất đáng được quan tâm và đặc biệt chú trọng, vì thư viện đại học là
trung tâm tri thức của một trường đại học, là bộ phận không thể thiếu trong việc cung
cấp thông tin, tạo điều kiện cho người học phát triển toàn diện, là nơi mà thầy và trũ
cựng phỏt huy tinh thần "tự học, học liờn tục, học suốt đời". Bởi vậy, trước sự đổi mới
của nền giáo dục đại học buộc các các nhà quản lý thư viện đại học phải nắm bắt và
kịp thời tự điều chỉnh hoạt động quản lý của mình để nhanh chóng đón nhận và đáp

ứng với sự đổi mới đó.
Hoạt động giáo dục đại học luôn gắn liền với hoạt động chuyển giao tri thức và
nghiên cứu khoa học. Trong đó, một trong những nhân tố đặc biệt quan trọng, quyết
định chất lượng chuyển giao tri thức và nghiên cứu khoa học là khả năng cung cấp
nguồn tin để thúc đẩy việc tự học, tự nghiên cứu trước hết của các nhà quản lý, của
giảng viên, của sinh viên trong trường đại học. Đây chính là sứ mệnh của các Trung
tâm Thông tin-Thư viện trong các trường đại học. Vì vậy quá trình đổi mới giáo dục
đại học phải đồng nghĩa với quá trình đổi mới các Trung tâm TT-TV đại học nhằm
thoả mãn tốt nhất nhu cầu thông tin cho người dùng tin ở mọi lúc, mọi nơi.
Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN) là một trong những trung tâm đại học đa
ngành, đa lĩnh vực, chất lượng cao của cả nước. Trong những năm qua, được sự quan
tâm, đầu tư của Đảng và Nhà nước, ĐHQGHN đã đạt được những thành tựu to lớn
trong việc thực hiện sứ mệnh của Đảng và Nhà nước giao cho, đặc biệt là khẳng định
thế mạnh về khoa học cơ bản và một số ngành khoa học công nghệ mũi nhọn. Với mục
tiêu đào tạo và nghiên cứu khoa học (ĐT & NCKH) chất lượng cao, ĐHQGHN là nơi
đào tạo nhân tài và nguồn nhân lực có trình độ cao nhằm đáp ứng thị trường lao động
đa dạng trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước.
Để thực hiện được những mục tiêu trên, ngay từ những năm đầu ĐHQGHN đã
chú trọng phát triển các cơ sở phục vụ ĐT & NCKH, trong đó có Trung tâm Thông tin
- Thư viện (TT-TV). Trung tâm TT-TV có chức năng thông tin và thư viện phục vụ các
công tác ĐT & NCKH của ĐHQGHN và có nhiệm vụ nghiên cứu, thu thập, xử lý,
cung cấp tin, tài liệu khoa học phục vụ cán bộ, giảng viên và sinh viên ĐHQGHN. Trải

3

qua 10 năm hoạt động, cùng với sự đổi mới và phát triển của ĐHQGHN, Trung tâm
TT-TV đã đạt được những thành tích đáng kể trong công tác phục vụ TT -TV, góp
phần không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng ĐT & NCKH của ĐHQGHN.
Trong đề án “Đổi mới giáo dục đại học Việt Nam”, ĐHQGHN nằm trong số 14
trường ĐH được Chính phủ chọn để xây dựng thành những trường tiên tiến, sẽ là

những “đầu tàu” để kéo hệ thống GDĐH đi lên. Với dự án này, trước mắt trong năm
2007, ĐHQGHN và một số trường đại học sẽ chuyển sang mô hình đào tạo theo học
chế tín chỉ để đến năm 2010, toàn bộ hệ thống GDĐH chuyển sang đào tạo theo tín chỉ,
tạo thuận lợi cho người học tích luỹ dần kiến thức theo khả năng và điều kiện của
mình, có thể chuyển tiếp học tập dễ dàng trong nước và quốc tế. Đào tạo theo học chế
tín chỉ đòi hỏi nhà trường phải chuyển biến toàn diện, từ việc thiết kế lại chương trình,
giáo trình, bài giảng, đổi mới phương pháp dạy-học, phương pháp kiểm tra - đánh giá,
đến việc thay đổi cách thức quản lý đào tạo cũng như hoàn thiện cơ sở vật chất phục vụ
công tác giảng dạy và học tập. Một trong những yếu tố quan trọng có ảnh hưởng lớn tới
chất lượng đào tạo theo học chế tín chỉ là hiệu quả hoạt động thông tin-thư viện trong
ĐHQGHN. Vai trò của Trung tâm TT-TV ĐHQGHN sẽ trở nên ngày càng lớn hơn
trong quá trình đào tạo khi chuyển đổi sang học chế tín chỉ vì giảng viên và sinh viên
sẽ được tạo điều kiện tốt hơn trong việc tìm kiếm và sử dụng tài liệu tham khảo theo
yêu cầu của môn học, giúp hình thành tính tích cực trong học tập của sinh viên, cũng
như khả năng cập nhật thông tin trong bài giảng của giáo viên – yếu tố hàng đầu bảo
đảm chất lượng phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ.
Tuy nhiên, để thực sự trở thành công cụ hỗ trợ đắc lực cho quá trình học tập của
sinh viên cũng như nâng cao chất lượng giảng dạy của đội ngũ giảng viên trong giai
đoạn chuyển đổi phương thức đào tạo từ niên chế sang học chế tín chỉ ở ĐHQGHN,
Trung tâm TT-TV cần phải đổi mới hoạt động thông tin-thư viện, phát triển vốn tài liệu
thư viện đa dạng và phong phú, đặc biệt phát triển dạng tài liệu điện tử, cải tiến phương
thức phục vụ, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong tất cả các hoạt động thông
tin- thư viện. Đó là những yêu cầu cấp bách đòi hỏi Trung tâm TT-TV ĐHQGHN tìm
ra các giải pháp và hướng đi phù hợp để đáp ứng các yêu cầu trên trong giai đoạn mới.

4

Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Các biện pháp tăng cường quản lý hoạt
động của Trung tâm thông tin-thư viện đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ
tại Đại học Quốc gia Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu của mình.

2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về quản lý và thực trạng quản lý hoạt động của
Trung tâm thông tin-thư viện, đề xuất một số biện pháp tăng cường quản lý hoạt động
của Trung tâm thông tin-thư viện đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ ở Đại
học Quốc gia Hà Nội.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận của đề tài: Quản lý, quản lý giáo dục, quản lý hoạt
động thông tin-thư viện trong trường ĐH.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng quản lý hoạt động của Trung tâm thông tin-thư viện
ĐHQGHN.
- Đề xuất một số biện pháp tăng cường quản lý hoạt đông của Trung tâm thông tin-
thư viện đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ ở ĐHQGHN trong giai đoạn
mới.
4. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
4.1 Khách thể nghiên cứu
Công tác quản lý hoạt động của Trung tâm TT-TV ĐHQGHN.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Các biện pháp tăng cường quản lý hoạt động của Trung tâm thông tin-thư viện
đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ ở Đại học Quốc gia Hà Nội.
5. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu thực trạng quản lý hoạt động của Trung tâm TT-TV ĐHQGHN từ
năm 2000 đến nay.
- Đề xuất các biện pháp tăng cường hiệu quả quản lý hoạt động thông tin-thư viện
đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ ở ĐHQGHN trong giai đoạn mới.
6. Giả thuyết khoa học

5

Trong những năm qua, Trung tâm TT-TV đã đạt được những thành tích đáng kể
trong công tác phục vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học của ĐHQGHN. Trước yêu cầu

đổi mới phương thức đào tạo từ niên chế sang học chế tín chỉ ở ĐHQGHN, nếu có
những biện pháp quản lý phù hợp sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động thông tin-
thư viện, một trong các yếu tố quyết định chất lượng đào tạo của ĐHQGHN.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu, chúng tôi sử dụng phối hợp các phương
pháp sau:
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận:
- Thu thập tài liệu, sách, tạp chí, các báo cáo, các trang web liên quan đến đề tài.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi;
- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia;
- Phương pháp phân tích sử lý số liệu.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý hoạt động của Trung tâm thông tin- thư viện
Đại học Quốc gia Hà Nội
Chương 3: Các biện pháp tăng cường quản lý hoạt động của Trung tâm thông tin- thư
viện đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ ở Đại học Quốc gia Hà Nội











6

CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm quản lý
Theo từ điển tiếng Việt: “Quản lý là hoạt động của con người tác động vào tập
thể người khác để phối hợp điều chỉnh, phân công thực hiện mục tiêu chung”.[28]
Quản lý là những hoạt động cần thiết phải được thực hiện khi con người kết hợp
với nhau trong các tổ chức nhằm đạt những mục tiêu chung. Hoạt đông quản lý là hoạt
động chỉ phát sinh khi con người kết hợp với nhau thành tập thể. Nếu mỗi cá nhân tự
mình hoạt động, sống một mình thì không có hoạt động quản lý.
Trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, con người muốn tồn tại và phát
triển đều phải dựa vào sự nỗ lực của cá nhân, của một tổ chức, từ một nhóm nhỏ đến
phạm vi rộng lớn hơn ở tầm quốc gia, quốc tế đều phải thừa nhận và chịu một sự quản
lý nào đó.
Quản lý được Các- Mác coi là chức năng đặc biệt, sinh ra từ tính chất xã hội hoá
lao động. “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên
quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt
động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn
bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của những khí quan độc lập của nó. Một
người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có
nhạc trưởng”. [4]
Hoạt động quản lý bắt nguồn từ sự phân công lao động của xã hội loài người
nhằm đạt mục đích, hiệu quả cao hơn, năng suất cao hơn. Đó chính là hoạt động giúp
cho người đứng đầu tổ chức phối hợp sự nỗ lực các thành viên trong nhóm, trong cộng
đồng nhằm đạt mục tiêu đề ra.
Quản lý là vấn đề rất rộng và phức tạp, là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành
khoa học nên có rất nhiều định nghĩa, khái niệm khác nhau:
 Định nghĩa về quản lý của một số nhà khoa học nước ngoài:


7

- Nhà khoa học quản lý người Mỹ F.W. Taylor cho rằng: “Quản lý là một nghệ
thuật biết rừ chớnh xỏc cỏi gỡ cần làm và cỏi đó làm thế nào bằng phương pháp tốt
nhất và rẻ nhất”. Ông đã đưa ra hệ thống tổ chức lao động nhằm khai thác tối đa thời
gian lao động sử dụng hợp lý nhất các công cụ và phương tiện lao động nhằm tăng
năng suất lao động.
- Nhà lý luận quản lý kinh tế người Pháp H. Fayol thì cho rằng: “Quản lý là đưa
xí nghiệp tới đích, cố gắng sử dụng tôt các nguồn lực của nó ”.
- Các nhà nghiên cứu người Mỹ Paul Hersey và Ken Blanc Hard định nghĩa:
“Quản lý là một quỏ trỡnh cựng làm việc giữa nhà quản lý với người bị quản lý, nhằm
thông qua hoạt động của cá nhân, của nhóm, huy động các nguồn lực khác để đạt mục
tiêu của tổ chức” [24]
- Định nghĩa của Harold Koontz, Cyril O'donnell: "Quản lý là quá trình lập kế
hoạch, tổ chức lãnh đạo và kiểm tra công việc của các thành viên thuộc hệ thống đơn
vị và việc sử dụng các nguồn lực phù hợp đề đạt được những mục đích đã định"[13]
 Định nghĩa về quản lý của một số nhà khoa học Việt Nam:
- Theo tác giả Nguyễn Minh Đạo: “Quản lý là quá trình tác động liên tục có tổ
chức, có định hướng của chủ thể quản lý (người quản lý hay tổ chức quản lý) lên khách
thể (đối tượng) quản lý về các mặt chính trị, xã hội, kinh tế…bằng một hệ thống các
luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp và biện pháp cụ thể nhằm tạo
ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng” [18]
- Các tác giả Nguyễn Thị Mỹ lộc và Nguyễn Quốc Chí cho rằng: “Hoạt động
quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến
khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành
và đạt được mục đích của tổ chức” [20].
- PGS.TS. Đặng Quốc Bảo cho rằng: “Quản lý là một quá trình tác động gây
ảnh hưởng của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đạt được mục tiêu chung”
[9].

- Theo tác giả Trần Quốc Thành: “Quản lý là sự tác động có ý thức của chủ thể
quản lý để chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội, hành vi và hoạt động

8

của con người nhằm đạt tới mục đích, đúng với ý chí nhà quản lý, phù hợp với quy luật
khách quan” [30].
Mặc dù với những cách tiếp cận khác nhau, song các khái niệm quản lý đó có
thể thấy rõ được nội hàm như sau:
- Hoạt động quản lý là những tác động có tính hướng đích, có tổ chức từ chủ thể
quản lý đến khách thể quản lý bằng hệ thống các nguyên tắc, luật lệ, chính sách,
phương pháp, biện pháp tạo điều kiện cho sự phát triển đối tượng và uy tín của người
quản lý.
- Quản lý thể hiện mối quan hệ giữa 2 bộ phận: đó là chủ thể quản lý (là cá nhân
hoặc tổ chức làm nhiệm vụ quản lý, điều khiển) và đối tượng quản lý (là bộ phận chịu
sự quản lý), đây là quan hệ ra lệnh-phục tùng, không đồng cấp và có tính bắt buộc.
Như vậy, bản chất của quản lý là một loại lao động điều khiển lao động. Đó là
quá trình tác động có định hướng của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm sử
dụng có hiệu quả các tiềm năng, các cơ hội của tổ chức để đạt được mục tiêu đặt ra
trong điều kiện biến động của môi trường.
1.1.2. Chức năng của quản lý
Chức năng quản lý là nội dung cơ bản của quá trỡnh quản lý, là nhiệm vụ khụng
thể thiếu được của chủ thể quản lý. Lao đông quản lý là một dạng lao động đặc biệt,
lao động sáng tạo, hoạt động quản lý cũng phỏt triển khụng ngừng
từ thấp đến cao; gắn liền với quy trỡnh phỏt triển, đó là sự phân công, chuyên
môn hoá lao động quản lý. Sự phân công chuyên môn hoá lao động quản lý là cơ sở
hỡnh thành cỏc chức năng quản lý.
Chức năng quản lý là một thể thống nhất những hoạt đông tất yếu của chủ thể
quản lý nảy sinh từ sự phân công, chuyên môn hoá trong hoạt động quản lý nhằm thực
hiện mục tiờu.

Tất cả các chức năng quản lý gắn bó qua lại và quy định lẫn nhau. Chúng phản
ánh lôgic bên trong của sự phát triển của hệ quản lý. Việc phân chia chức năng quản lý
bắt nguồn từ sự phân công và chuyên môn hoá lao động quản lý. Khi phân tích cụ thể,

9

ta thấy quản lý gồm có 4 chức năng cơ bản, đó là: Kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo và
kiểm tra.
a. Chức năng kế hoạch hoá
Kế hoạch hoá có nghĩa là xác định mục tiêu, mục đích đối với thành tựu tương
lai của tổ chức và các con đường, biện pháp, cách thức để đạt mục tiêu, mục đích đó.
Có 3 nội dung chủ yếu của chức năng kế hoạch hoá:
- Xác định, hỡnh thành mục tiờu (phương hướng) đối với tổ chức;
- Xác định và đảm bảo (có tính chắc chắn, có tính cam kết) về các nguồn lực
của tổ chức để đạt được các mục tiêu này và;
- Quyết định xem những hoạt động nào là cần thiết để đạt các mục tiêu đó.
Có ba loại kế hoạch:
- Kế hoạch chiến lược
- Kế hoạch chiến thuật
- Kế hoạch tác nghiệp.
b. Chức năng tổ chức
Định nghĩa (trong Từ điển tiếng Việt): “Tổ chức là sự sắp xếp các bộ phận cho
ăn nhịp với nhau để toàn bộ là một cơ cấu nhất định” [32].
Tổ chức là quá trình sắp xếp và phân bổ công việc, hình thành nên cấu trúc quan
hệ giữa các thành viên, giữa các bộ phận trong một tổ chức nhằm đạt được mục tiêu
tổng thể của tổ chức. Ứng với những mục tiêu khác nhau đòi hỏi cấu trúc tổ chức của
đơn vị cũng khác nhau. Người quản lý cần lựa chọn cấu trúc tổ chức cho phù hợp với
những mục tiêu và nguồn lực hiện có. Quá trình đó gọi là thiết kế tổ chức và quan
trong nhất là tổ chức thực hiện kế hoạch để đạt mục tiêu.
Tổ chức được coi là điều kiện của quản lý, đúng như V.I. Lênin đó khẳng định:

"Chúng ta phải hiểu rằng, muốn quản lý tốt cũn phải biết tổ chức về mặt thực tiễn
nữa". Thực chất của tổ chức là thiết lập mối quan hệ bền vững giữa con người, giữa
các bộ phận trong hệ thống quản lý nhằm làm cho họ thực hiện thành cụng cỏc kế
hoạch và đạt được mục tiêu tổng thể của tổ chức. Tổ chức tốt sẽ khơi nguồn các động
lực, tổ chức không tốt sẽ làm triệt tiêu động lực và giảm sút hiệu quả quản lý.

10

c. Chức năng chỉ đạo (lónh đạo)
Chỉ đạo là quá trỡnh tỏc động ảnh hưởng của chủ thể quản lý đến hành vi và
thái độ của những người khác nhằm đạt các mục tiêu đó đề ra. Chỉ đạo thể hiên quá
trỡnh ảnh hưởng qua lại giũa chủ thể quản lý và mọi thành viờn trong tổ chức nhằm
gúp phần thực hiện hoá các mục tiêu đó đặt ra.
Chức năng chỉ đạo, xét cho cùng là sự tác động lên con người, khơi dậy động
lực của nhân tố con người trong hệ thống quản lý, thể hiện mối quan hệ giữa con người
với con người và quá trình giải quyết những mối quan hệ đó do họ tự nguyện và nhiệt
tình phấn đấu.
Quỏ trỡnh chỉ đạo (lónh đạo) bao hàm việc liên kết, liên hệ với người khác và
động viên họ hoàn thành những nhiệm vụ nhất định để đạt được mục tiêu của tổ chức.
Như vậy, việc lónh đạo không chỉ bắt đầu sau khi việc lập kế hoạch và thiết kế bộ máy
đó hoàn tất, mà nú thấm vào, ảnh hưởng quyết định tới hai chức năng kia.
d. Chức năng kiểm tra
Sau khi xác định các mục tiêu, quyết định những giải pháp tốt nhất để đạt tới
các mục tiêu và triển khai các chức năng tổ chức, chỉ đạo để hiện thực hoá các mục
tiêu đó cần phải tiến hành những hoạt động giám sát, kiểm tra để xem xét việc triển
khai các quyết định trong thực tiễn, từ đó có những điều chỉnh, sửa chữa, uốn nắn nếu
cần thiết.
Có 3 yếu tố cơ bản của công tác kiểm tra:
+ Xây dựng chuẩn thực hiện;
+ Đánh giá việc thực hiện trên cơ sở so sánh với chuẩn;

+ Nếu có sự chênh lệch thì điều chỉnh hoạt động.
Quản lý mà không có kiểm tra thì không còn là quản lý. Kiểm tra có vị trí quan
trọng trong việc đổi mới công tác quản lý như: đổi mới công tác kế hoạch hoá, công tác
tổ chức, chỉ đạo cũng như đối với cơ chế quản lý, phương pháp quản lý nhằm nõng cao
chất lượng và hiệu quả quản lý.

11

Qua phân tích các chức năng quản lý, chúng ta thấy rằng các chức năng này có
mối quan hệ chặt chẽ tác động qua lại với nhau, chi phối lẫn nhau tạo thành một thể
thống nhất của hoạt động quản lý. Mối quan hệ đó thể hiện ở sơ đồ sau đây:
Sơ đồ 1.1: Mối quan hệ giữa các chức năng trong quản lý








1.1.3. Quản lý giáo dục
a. Khái niệm “Quản lý giáo dục”
Cũng như mọi hoạt động khác của xó hội loài người, giáo dục cũng được quản
lý trờn bỡnh diện thực tiễn ngay từ khi hoạt động giáo dục có tổ chức mới hỡnh thành.
QLGD là bộ phận quan trọng của hệ thống quản lý xó hội, đó xuất hiện từ lõu và tồn
tại dưới mọi chế độ xó hội.
Nếu hiểu giáo dục là hoạt động diễn ra trong xã hội nói chung, thì quản lý giáo
dục( QLGD) là quản lý mọi hoạt động GD trong xã hội. Nếu hiểu GD là hoạt động
chuyên biệt trong các cơ sở GD thì QLGD là quản lý các hoạt động trong một đơn vị
cơ sở giáo dục như : trường học, trung tâm GD, các đơn vị phục vụ ĐT…QLGD là một

loại hình quản lý đặc biệt. Một số tác giả đưa ra các khái niệm quản lý GD như sau:
Theo tác giả M.I. Konđacốp: "Quản lý giáo dục là tập hợp những biện pháp (tổ
chức, kế hoạch, kiểm tra…) nhằm đảm bảo vận hành bình thường các cơ quan trong hệ
thống giáo dục, để tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống cả về số lượng và chất
lượng ".[14]
Theo tác giả Phạm Minh Hạc: "Quản lý giáo dục là quản lý trường học, thực
hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà












Môi trường quản lý
Kế hoạch hoá
Chỉ đạo
Tổ chức
Kiểm tra, đánh giá
Thông tin

12

trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào
tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh".[25]

Từ những khái niệm trên chúng ta có thể hiểu bản chất của QLGD là quá trình
tác động có định hướng của chủ thể quản lý lên các thành tố tham gia vào quá trình
hoạt động giáo dục nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu giáo dục. Quản lý GD thực
chất là quản lý nhà nước về GD bao gồm:
+ Chủ thể quản lý: Bộ máy QLGD các cấp
+ Khách thể quản lý: Hệ thống GDQD ( các trường học, trung tâm GD, các cơ
sở đào tạo và phục vụ đào tạo…)
+ Quan hệ quản lý: Giữa người dạy- người học; giữa người quản lý- người dạy;
người quản lý - người học; giữa người dạy- người dạy; người dạy- cộng đồng.
Các mối quan hệ này có ảnh hưởng đến chất lượng GD, ĐT chất lượng hoạt
động của các nhà trường và toàn bộ hệ thống GD.
b. Mục tiêu của quản lý giáo dục
Mục tiêu của quản lý giáo dục chính là trạng thái mong muốn trong tương lai
đối với hệ thống giáo dục, đối với trường học, hoặc đối với những thông số chủ yếu
của hệ thống giáo dục trong mỗi nhà trường. Những thông số này được xác định trên
cơ sở đáp ứng những mục tiêu tổng thể của sự phát triển kinh tế xã hội trong từng gia
đoạn phát triển kinh tế của đất nước. Mục tiêu này được xác định gồm:
- Đảm bảo quyền học sinh vào các ngành học, các cấp học, lớp học đúng chỉ
tiêu và tiêu chuẩn;
- Đảm bảo chỉ tiêu và chất lượng đạt hiệu quả đào tạo;
- Phát triển tập thể sư phạm đủ và đồng bộ, nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ và đời sống vất chất.
- Xây dựng và hoàn thiện các tổ chức chính quyền, Đảng, đoàn thể , quần chúng
để thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục và đào tạo.
- Phát triển các mối quan hệ giữa giáo dục và xã hội để làm tốt công tác giáo
dục thế hệ trẻ.
c. Đối tượng của quản lý giáo dục

13


Theo tác giả Nguyễn Đức Trí: đối tượng của quản lý quá trình giáo dục đào tạo
là sự hoạt động của cán bộ, giáo viên, học sinh, sinh viên và tổ chức sư phạm của nhà
trường trong việc thực hiện kế hoạch và chương trình GD-ĐT nhằm đạt được mục tiêu
giáo dục đã quy định với chất lượng cao.


1.1.4. Quản lý trường học
Theo Cố GS. Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý GD nói chung và quản lý trường
học nói riêng là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của
chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của
Đảng, thể hiện đúng tính chất của nhà trường XHCN Việt Nam mà tiêu điểm hội tụ là
quá trình dạy học - giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên
trạng thái mới về chất”.[19]
Về khái niệm quản lý nhà trường GS. Phạm Minh Hạc đã đưa ra định nghĩa:
"Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối GD của Đảng trong phạm vi GD của mình,
tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý GD để tiến tới mục tiêu GD, mục tiêu
ĐT đối với ngành GD, với thế hệ trẻ và với từng học sinh". [25]
Trên cơ sở quan niệm về quản lý trường học, ta thấy: Quản lý nhà trường là tập
hợp những tác động tối ưu của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên, học sinh và các bộ
phận khác nhằm tận dụng các nguồn lực do nhà nước đầu tư cũng như các lực lượng xã
hội đóng góp, hoặc vốn tự có của nhà trường, hướng vào việc đẩy mạnh mọi hoạt động
của nhà trường mà tiêu điểm hội tụ là quá trình ĐT thế hệ trẻ. Tất cả nhằm thực hiện có
chất lượng mục tiêu và kế hoạch ĐT, đưa nhà trường phát triển.
Vậy,” Quản lý trường học là một hệ thống những tác động sư phạm hợp lý có
hướng đích của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên và học sinh và các lực lượng xã
hội trong và ngoài trường nhằm huy động và phối hợp sức lực, trí tuệ của họ vào mọi
mặt hoạt động của nhà trường hướng vào việc hoàn thành có chất lượng và hiệu quả”
[29]

14


Quản lý nhà trường nói chung và quản lý trường ĐH nói riêng là tổ chức, chỉ
đạo, điều hành quá trình giảng dạy của thầy và hoạt động học tập của trò. Đồng thời
quản lý những điều kiện cơ sở vật chất và tinh thần phục vụ cho dạy và học nhằm đạt
được mục đích GD và ĐT.
Trong nhà trường, có thể phân tích quá trình GD&ĐT như là một hệ thống gồm
6 thành tố cơ bản kết hợp chặt chẽ với nhau:
M : Mục tiêu đào tạo
N : Nội dung đào tạo
P : Phương pháp đào tạo
Th : Lực lượng đào tạo (thầy)
Tr : đối tượng đào tạo (trò)
Đ : Điều kiện đào tạo
Ba nhân tố MNP: Mục tiêu ĐT; Nội dung ĐT; Phương pháp ĐT tuy là vô hình
nhưng chúng là nền tảng của quá trình ĐT. Sự quản lý phải làm cho 3 nhân tố này gắn
kết với nhau.
Sơ đồ mối quan hệ giữa M,N,P trong quá trình đào tạo:
M


QL
N P
Ba nhân tố Th,Tr, Đ là lực lượng ĐT; Đối tượng ĐT; Điều kiện ĐT dưới tác
động của hoạt đông quản lý vật chất hoá mục tiêu ĐT, nội dung ĐT, phương pháp ĐT
làm cho đối tượng ĐT (người học) có được chất lượng nhân cách mới.

Sơ đồ mối quan hệ giữa Th, Tr, Đ dưới sự tác động của hoạt đông quản lý:
Th Tr

QL


15



Đ
Sơ đồ mối quan hệ giữa các thành tố
M
Th Tr

QL

N P
Đ

Điều kiện đào tạo ở đây chính là nguồn lực: Nguồn lực vật chất: là cở sở vật
chất, thư viện , phòng thí nghiệm, thiết bị trường học… Trong đó, thư viện là yếu tố
quan trọng, không thể thiếu trong cấu trúc toàn vẹn của quá trình giáo dục, đào tạo. Nó
góp phần quyết định trong việc nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo. Tính hiện đại
của một nhà trường được phản ánh qua trình độ của thư viện trường học.
1.1.5. Thư viện trường đại học
1.1.5.1. Khái niệm
Trong Quy định về tổ chức và hoạt động của thư viện trường đại học do Bộ
trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp ban hành ngày 14/7/1986 nêu rõ:
“Thư viện trường đại học là trung tâm thông tin văn hóa, khoa học kỹ thuật của trường
đại học. Thư viện trường đại học có chức năng tổ chức, xây dựng và quản lý vốn tư
liệu văn hoá khoa học, kỹ thuật phục vụ cho công tác giảng dạy, học tập nghiên cứu
khoa học của cán bộ và học sinh trong toàn trường.” [33]
1.1.5.2. Nhiệm vụ của thư viện đại học
Thư viện trường đại học có những nhiệm vụ chính sau:


16

1) Nghiên cứu đề xuất phương hướng, chủ trương, kế hoạch phát triển vốn tư
liệu văn hoá khoa học kỹ thuật phù hợp với nhiệm vụ đào tạo và NCKH của nhà trường
đại học, đồng thời chịu trách nhiệm bảo quản vốn tư liệu đó.
2) Tổ chức cho cán bộ, nghiên cứu sinh, sinh viên và học sinh của trường khai
thác, sử dụng thuận lợi và có hiệu quả các tư liệu do thư viện quản lý:
- Phân loại và sắp xếp tài liệu theo từng chuyên ngành khoa học, kỹ thuật.
- Xây dựng các biện pháp tra cứu để bạn đọc tìm tài liệu được nhanh chóng.
- Thông báo kịp thời những tài liệu mới được bổ sung.
- Tổ chức các hình thức tuyên truyền giới thiệu các tài liệu, tạp chí, sách
báo và biên soạn bản thông tin tóm tắt giứi thiệu thư mục thông tin.
- Tổ chức các loại phòng phục vụ bạn đọc, phòng đọc cho cán bộ giảng dạy và
cán bộ nghiên cứu, phòng đọc cho sinh viên, phòng tạp chí và phòng giới
thiệu tài liệu sách báo quý hiếm.
3) Có kế hoạch, quy hoạch chủ động thường xuyên tổ chức bồi dưỡng chuyên
môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ cho cán bộ thư viện để không ngừng nâng cao chất lượng
và hiệu quả phục vụ.
4) Thư viện trường đại học được đặt quan hệ đối ngoại với thư viện các nước để
trao đổi tài liệu, kinh nghiệm chuyên môn nghiệp vụ trong phạm vi quy định của Nhà
nước.
5) Thư viện trường đại học có trách nhiệm phối hợp, hợp tác tốt về mặt nghiệp
vụ với các Liên hiệp Thư viện, với thư viện các trường ĐH khác nằm trong khu vực
hoặc cùng chuyên ngành.
6) Thư viện trường đại học được quyền thu nhận những ấn phẩm do trường xuất
bản, cũng như các luận án tốt nghiệp, luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ được bảo vệ tại
trường, hoặc người viết luận án, luận văn là cán bộ, sinh viên của trường.
7) Tổ chức việc kiểm kê định kỳ các loại kho tài liệu theo quy định.
8) Thư viện trường đại học có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ với các đơn vị

chức năng khác trong trường để làm tốt nhiệm vụ được giao. [33]

17

Ngày nay, sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin đã kéo theo sự phát
triển của các chuyên ngành, các lĩnh vực khoa học khác, trong đó có chuyên ngành
thông tin-thư viện. Đặc biệt, cùng với xu thế phát triển của lĩnh vực thông tin-thư viện
trên thế giới, các thư viện ở Việt Nam trong đó có các thư viện trường ĐH đã và đang
thay đổi về chất, đó là cùng với thư viện truyền thống, đã ra đời những thư viện điện
tử, thư viện số, thư viện đa phương tiện Vào những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ
XXI, hầu hết các thư viện trường đại học ở nước ta được gọi với tên mới là Trung tâm
Thông tin-Thư viện <trường đại học>. Ví dụ như: Trung tâm TT-TV ĐHQGHN,
Trung tâm TT-TV ĐH Sư phạm Hà Nội, Trung tâm TT-TV ĐH văn hoá HN…. Tên
gọi này đã phản ánh rõ các chức năng chủ yếu bao gồm:
- Là một tổ chức đảm nhận việc tạo lập và phát triển thông tin của trường đại
học;
- Là một tổ chức đảm nhận việc bảo đảm thông tin phục vụ công tác giảng dạy,
học tập, nghiên cứu khoa học của cán bộ và sinh viên trong toàn trường. [17]
1.2. Hoạt động thông tin-thƣ viện trong trƣờng đại học
1.2.1. Đặc điểm của hoạt động thông tin-thư viện trong trường đại học
1.2.1.1. Đặc điểm người dùng tin và nhu cầu thông tin trong trường đại học
Trường ĐH có nhiệm vụ cơ bản là ĐT và NCKH, trong đó nhiệm vụ đào tạo
nguồn nhân lực có trình độ ĐH và trên ĐH cho đất nước là quan trọng nhất. Tuy nhiên,
để nâng cao chất lượng đào tạo, các trường đại học thường phải tham gia NCKH. Công
tác NCKH gắn kết với đào tạo và làm tăng thêm vai trò của nhà trường đại học với xã
hội. Công tác ĐT và NCKH trong trường ĐH đều rất cần thông tin khoa học. Người
dùng tin /bạn đọc với nhu cầu tin của họ là một bộ phận cấu thành của một hệ thống
TT-TV.
Đặc điểm người dùng tin là cán bộ và nhu cầu thông tin của họ trong trường
ĐH:

Đội ngũ người dùng tin là cán bộ trong trường ĐH khá đa dạng và có trình độ
cao, thường chiếm khoảng 15-20% tổng số bạn đọc/người dùng tin trong TV. Theo
nghề nghiệp có thể phân chia nhóm bạn đọc này thành các lớp như: cán bộ giảng dạy

18

và cán bộ nghiên cứu; cán bộ quản lý và phục vụ. Hầu hết các đối tượng này đều là
người chủ trì hoặc tham gia đề tài nghiên cứu khoa học các cấp: cấp nhà nước, cấp bộ,
cấp cơ sở. Sự phân chia này mang tính chất tương đối, vì một cán bộ giảng dạy trong
trường đại học thường có nhiệm vụ chính là giảng dạy, ngoài ra còn tham gia NCKH
và có thể làm công tác quản lý. Tuy nhiên, việc phân chia này rất có ích và thuận lợi
cho công tác phục vụ thông tin có chọn lọc của các thư viện/ trung tâm TT-TV trong
trường ĐH.
Nhu cầu tin của bạn đọc là cán bộ trong trường ĐH có thay đổi do mục tiêu ĐT
và NCKH của các trường ĐH quy định, đó là tác động của đổi mới GD & ĐT đại học ở
nước ta trong thời kỳ CNH, HĐH. Nhu cầu thông tin của đội ngũ cán bộ giảng dạy là
các tài liệu truyền thống và phi truyền thống không chỉ về chuyên ngành ĐT của từng
trường mà còn các thông tin giáp ranh, liên ngành và những vấn đề về sự phát triển
KT-XH nói chung.
Đặc điểm người dùng tin là nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên và
nhu cầu thông tin của họ
Trong thư viện ĐH, sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh là nhóm
bạn đọc đông đảo nhất, chiếm đa số từ 80 - 85% tổng số bạn đọc của TV. Nhu cầu tài
liệu của bạn đọc SV chủ yếu là sách giáo khoa, giáo trình, các tài liêu tham khảo nhằm
mở rộng kiến thức về chuyên ngành. Đối với SV năm cuối làm đồ án tốt nghiệp, viết
khoá luận, nhu cầu các sách tham khảo chuyên ngành nghiên cứu không thể thiếu được
đối với nhóm bạn đọc này. Ngoài ra họ còn cần các bài báo, tạp chí chuyên ngành hẹp
trong nước và nước ngoài để đi sâu tìm hiểu nghiên cứu. Còn đối với nghiên cứu sinh
và học viên cao học, tài liệu cho họ chủ yếu là các tài liệu tra cứu, luận án, luận văn,
báo, tạp chí chuyên ngành hoặc liên ngành, tài liệu về phát minh sáng chế, tiêu chuẩn,

báo cáo tổng kết các công trình nghiên cứu, bộ sưu tập CSDL các bài trích, toàn văn về
các lĩnh vực KHTN, KHXH &NV, kinh tế, giáo dục
Tóm lại. Thư viện các trường ĐH với các nhóm bạn đọc không đa dạng như ở
hệ thống TV công cộng, nhưng qua phân tích trên ta thấy nhu cầu của nhóm bạn đọc
rộng hơn và ở mức độ cao hơn, đòi hỏi các TV phải có các hình thức xử lý, phục vụ

19

thông tin một cách phù hợp với từng đối tượng bạn đọc; ứng dụng công nghệ thông tin
mới trong quản lý, lưu trữ và chuyển giao thông tin. Thư viện tổ chức, quản lý tốt công
tác này sẽ nâng cao hiệu quả phục vụ ĐT & NCKH của nhà trường.
1.2.1.2. Đăc điểm nguồn lực thông tin trong trường đại học
Nguồn lực thông tin trong trường ĐH tập trung chủ yếu trong TV/ Trung tâm
TT-TV trường, còn được gọi là vốn tài liệu thư viện. Nguồn lực thông tin là khái niệm
khá mới, nó phản ánh phần thông tin tiềm tàng trong xã hội, được con người kiểm soát
đưa về dạng thức mà dễ dàng khai thác, có giá trị phục vụ cho sự phát triển xã hội.
Hiệu quả của hoạt động thông tin-thư viện phụ thuộc vào 4 yếu tố có quan hệ
hữu cơ trong quá trình thông tin:
- Nguồn lực thông tin (NLTT)
- Cán bộ thông tin - thư viện
- Người dùng tin
- Cơ sở vật chất-kỹ thuật, phương tiện thông tin
Trong 4 yếu tố trên đây, yếu tố NLTT là tài sản quý giá, là tiềm lực của thư
viện. NLTT càng phong phú thì khả năng đáp ứng nhu cầu tin càng lớn và do vậy càng
có sức lôi cuốn đối với ngưòi dùng tin.
Căn cứ vào đặc điểm, tính chất, hình thức thể hiện thông tin, người ta phân chia
NLTT thành 2 loại:
- NLTT truyền thống (còn gọi là NLTT dạng in ấn)
- NLTT điện tử (còn gọi là NLTT số hoá)
NLTT truyền thống được thể hiện dưới dạng tài liệu in ấn như: sách, báo, tạp

chí, các chuyên khảo, đề tài, luận án, luận văn, các văn bản… về mọi lĩnh vực.
NLTT điện tử là các dạng tài liệu phi in ấn, là các sản phẩm thông tin được thể
hiện nhờ vào ứng dụng CNTT như các tài liệu âm thanh, đĩa hát, đĩa quang CD, CD-
ROM mà người dùng tin có thể tiếp cận thông qua các thiết bị tin học trong môi
trường phát triển CNTT. Trong thời đại ngày nay, NLTT điện tử là NLTT tích cực của
xã hội hiện đại.

20

Trong TV trường ĐH, đặc biệt chú ý loại hình tài liệu là sách giáo khoa và giáo
trình, sách chuyên khảo, tài liệu tra cứu, báo, tạp chí, các CSDL bao quát các lĩnh vực
tri thức thuộc chuyên ngành đào tạo của trường ĐH. Ngoài ra, nguồn tài liệu “xám” là
luận án, luận văn khoa học các cấp, báo cáo khoa học, đề cương và giáo trình các bài
giảng, kỷ yếu hội nghị, hội thảo khoa học, là nguồn tài liệu đặc thù của nhà trường.
Đây là nguồn tin khoa học nội sinh ( tức là nguồn tin được tạo ra trong qua trình ĐT và
NCKH của bản thân trường ĐH) phản ánh tiềm lực, thành tựu đào tạo của mỗi trường
ĐH - là một trong những nguồn lực thông tin quan trọng nhất của một trường ĐH.
1.2.1.3. Tổ chức hoạt đông thông tin-thư viện trong trường đại học
Trong trường đại học, hoạt động TT –TV nhằm bảo đảm việc cung cấp thông
tin khoa học cho công tác ĐT và NCKH của nhà trường.
Công tác TT –TV trong trường đại học thường được giao cho một bộ phận gọi
là trung tâm TT TV, hay thư viện trường đại học đảm nhiệm. Chủ thể quản lý hoạt
động TT –TV trong trường đại học có thể xem xét ở hai mức độ: chủ thể quản lý trực
tiếp là hiệu trưởng / giám đốc trường đại học; chủ thể quản lý gián tiếp là Bộ Văn hoá -
Thông tin (nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch), thông qua cơ quan quản lý ngành
là Vụ Thư viện. Trong đó, chủ thể quản lý trực tiếp là nhà trường đại học, mà cụ thể là
hiệu trưởng là đầu mối quản lý quan trọng nhất. Thư viện hay Trung tâm TT-TV là đối
tượng quản lý của giám đốc hoặc hiệu trưởng. Việc quản lý của Vụ Thư viện - Bộ Văn
hoá, Thể thao và Du lịch, chỉ mang tính chất chỉ đạo nghiệp vụ theo ngành, chứ không
phải là cấp quản lý hành chính.[22]

1.2.2. Vị trí,vai trò của hoạt động thông tin-thư viện trong trường đại học
Thư viện trường ĐH là trung tâm thông tin văn hoá, khoa học kỹ thuật của một trường
ĐH, là một bộ phận trong cơ cấu tổ chức của trường ĐH. Cơ cấu một trường ĐH
thường được hình thành bởi 2 khối: Khối đào tạo và khối phục vụ đào tạo. Trong cơ
cấu đó, thư viện trường ĐH/Trung tâm TT-TV thuộc vào khối phục vụ cho sự nghiệp
ĐT & NCKH của nhà trường. Thường thì khối này gồm: thư viện, nhà xuất bản, nhà
in, tạp chí khoa học. [22]

21

Trong trường ĐH, thư viện là một bộ phận không thể thiếu được đối với hoạt
động dạy và học, nó đảm bảo cung cấp thông tin, tư liệu tạo điều kiện cho người học
phát triển toàn diện, góp phần giúp nhà trường hoàn thành sự nghiệp đào tạo nguồn
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Đã có lần cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng
khẳng định: "Trường đại học cần phải có thư viện, mà thư viện không đồng nghĩa với
nghĩa của nó thì không phải là trường đại học"[27]. Trong trường đại học, thư viện là
một bộ phận không thể thiếu, mang tính tất yếu để đảm bảo và nâng cao chất lượng đào
tạo của nhà trường. “Muốn có chất lượng ĐT tốt cần phải có đội ngũ thầy giáo giỏi
cùng với CSVC, trang thiết bị, giáo trình, sách giáo khoa, thư viện phục vụ giảng dạy
và học tập. Những điều kiện đảm bảo chất lượng là vô cùng quan trọng, không thể đòi
hỏi chất lượng đào tạo cao khi điều kiện phục vụ cho đào tạo quá thấp. Thư viện và
trang thiết bị phục vụ cho việc dạy và học ở các trường ĐH, CĐ có ý nghĩa cực kỳ
quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng đào tạo, là thành phần không thể thiếu
trong quá trình đào tạo”.[2]
Nếu xác định từ góc độ cấu trúc của hoạt động giáo dục-dạy học (GD-DH) thì
TV là công cụ, phương tiện, điều kiện đảm bảo chất lượng GD-DH của trường ĐH.
Hoạt đông GD nói chung và dạy học nói riêng (gọi tắt là GD-DH) có cấu trúc
gồm nhiều thành tố có mối quan hệ mật thiết và tác động tương hỗ nhau để tạo ra chất
lượng, hiệu quả GD nói chung và dạy học nói riêng, đó là các thành tố: thầy, trò, mục
đích GD-DH, nội dung GD-DH, phương pháp GD-DH, phương tiện - điều kiện GD-

DH, hình thức tổ chức GD-DH và kiểm tra-đánh giá. Hai thành tố trung tâm và quan
trọng nhất là thầy và trò.
Bất cứ một hoạt động nào, muốn chiếm lĩnh đối tượng, chủ thể phải có những
phương tiện nhất định, những điều kiện cần thiết. Phương tiện-điều kiện trong GD–DH
chính là nguồn lực vật chất, đó là tài chính, CSVC, thiết bị trường học, thư viện được
thầy và trò sử dụng trong quá trình GD và DH. Đặc biệt, hoạt động TT-TV nó có tác
động rộng rãi nhất đến các thành viên của trường ĐH, tạo nên sự bình đẳng cho mọi
thành viên trước các cơ hội phát triển thông qua các nguồn tin mà họ được thụ hưởng,

22

giúp cho việc học tập, giảng dạy và nghiên cứu của mình. Vì vậy, thông tin- thư viện là
yếu tố cơ bản mang tính tất yếu để đảm bảo chất lượng GD và DH của trường ĐH.
Thư viện nói chung và trung tâm thông tin- thư viện trường ĐH nói riêng là kho
tàng chứa đựng nguồn tri thức của nhân loại, trong khi đó hoạt động dạy học mặt bản
chất là trang bị cho người học những kinh nghiệm, những tri thức nhân loại, cho nên
hoạt động thông tin-thư viện trong trường ĐH có tác dụng và giá trị rất cao đối với hoạt
động giáo dục - dạy học. Sách, báo, các công trình NCKH (đề tài khoa học, luận án,
luận văn, sáng kiến, kinh nghiệm,…) và các tư liệu khác trong thư viện là những sản
phẩm khoa học và là những phương tiện cần thiết phục vụ cho hoạt động dạy-học trong
nhà trường. Thư viện là nơi người dạy và người học đến khai thác tri thức, tự nghiên
cứu nhằm củng cố, mở rộng, nâng cao các bài giảng, bài học trên lớp, đáp ứng các nhu
cầu học tập, nghiên cứu và giải trí. Chính vì vậy, nó có tác dụng và giá trị đảm bảo và
nâng cao chất lượng giáo dục - dạy học.
Vai trò của họat động thông tin - thư viện tại các trường đại học hiện nay chính
là cầu nối liên kết giữa người dùng tin (Cán bộ, giảng viên, sinh viên, học sinh), các
nguồn/hệ thống thông tin và người tạo lập và cung cấp các sản phẩm thông tin (Cán
bộ TT-TV) nhằm trực tiếp đáp ứng các nhu cầu nghiên cứu và đào tạo, các nhu cầu
quản lý của trường đại học và của các cá nhân, tổ chức có liên quan.
Trung tâm thông tin –thư viện là nơi chuyển giao tri thức có khả năng đáp ứng

một số yêu cầu chính sau đây:
- Có khả năng cung cấp một lượng tài liệu lớn cho nghiên cứu giảng dạy và đào
tạo.
- Cho phép thu thập và phổ biến thông tin tốt nhất cho GD và ĐT.
- Phục vụ cho các chuyên gia GD trong quá trình ĐT.
- Đáp ứng nhu cầu tự đào tạo “tự học suốt đời”.[28]
1.3. Quản lý hoạt động thông tin-thƣ viện trong trƣờng đại học
1.3.1. Khái niệm quản lý thông tin-thư viện trong trường đại học/thư viện đại học
Với những cách tiếp cận quản lý nhà trường ( mục 1.1.1.4), quản lý trung tâm
TT-TV/ thư viện ĐH là quá trình tác động có ý thức, có kế hoạch và hướng đích của

×