Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Thực trạng biểu hiện lo âu của học sinh Trung học phổ thông huyện Chương Mỹ - Thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.68 MB, 79 trang )


1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC


NGÔ THỊ LIÊN

THỰC TRẠNG BIỂU HIỆN LO ÂU CỦA HỌC SINH
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HUYỆN CHƢƠNG MỸ - THÀNH PHỐ HÀ NỘI


LUẬN VĂN THẠC SỸ TÂM LÝ HỌC


Chuyên ngành: TÂM LÝ HỌC LÂM SÀNG TRẺ EM VÀ VỊ THÀNH NIÊN
Mã số: Thí điểm
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Đỗ Ngọc Khanh




HÀ NỘI - 2013

2
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, cán bộ giảng viên trường Đại
học Giáo dục - ĐHQG Hà Nội đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp tôi hoàn
thành luận văn tốt nghiệp này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong chương trình đào
tạo thạc sĩ Tâm lý học Lâm sàng trẻ em và vị thành niên - Trường Đại học


Giáo dục - ĐHQG Hà Nội đã cung cấp cho tôi những kiến thức quý báu và
những đóng góp chân thành trong quá trình tôi làm luận văn tốt nghiệp.
Xin được gửi lời cảm ơn tới Ban Giám hiệu và các em học sinh trường
THPT Chương Mỹ A, THPT Chúc Động, THPT Dân lập Ngô Sỹ Liên, Trung
tâm giáo dục thường xuyên huyện Chương Mỹ - thành phố Hà Nội đã gúp đỡ
tôi trong suốt quá trình nghiên cứu thực tế tại địa bàn nghiên cứu.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Đỗ Ngọc Khanh -
người đã đã tận tình giúp đỡ, chỉ bảo, đóng góp những ý kiến quý báu và tạo
mọi điều kiện cho tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, người thân, bạn bè đã chia sẻ và gúp
tôi vượt qua những khó khăn trong quá trình thực hiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 18 tháng 12 năm 2013
Tác giả


Ngô Thị Liên

3
DANH MỤC VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

1. CBCL : Bản kiểm kê hành vi dành cho cha mẹ
2. DSM IV : Cẩm nang chuẩn đoán và thống kê các bệnh tâm thần
3. GDTX : Giáo dục thường xuyên
4. HS : Học sinh
5. ICD : Bảng phân loại bệnh tật quốc tế
6. RLLA : Rối loạn lo âu
7. THCS : Trung học cơ sở
8. THPT : Trung học phổ thông















4
DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang
Bảng 1.1: Bảng so sánh lo âu bình thường và rối lọan lo âu
14
Bảng 2.1: Tổng số học sinh tham gia điều tra
30
Bảng 2.2: Độ tin cậy của thang Zung.
32
Bảng 3.1: Tương quan giữa mức độ lo âu ở học sinh và khả năng
phân loại được bệnh

47
Bảng 3.2: Bảng thống kê điểm trung bình của các item theo các mức
độ lo âu


50
Bảng 3.3: Tương quan của mức độ lo âu với các biến độc lập
55





5
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Trang
Biểu đồ 3.1: phân bố mẫu nghiên cứu theo giới tính,lớp và trường học
37
Biểu đồ 3.2: Phân bố mẫu nghiên cứu theo tình trạng hôn nhân của bố mẹ
38
Biểu đồ 3.3: Phân bố mẫu nghiên cứu theo trình độ học vấn của bố mẹ
39
Biểu đồ 3.4: Phân bố mẫu nghiên cứu theo nghề nghiệp của bố mẹ
40
Biểu đồ 3.5: Phân bố mẫu nghiên cứu theo hoàn cảnh kinh tế
40
Biểu đồ 3.6: Tỷ lệ học sinh THPT có rối loạn lo âu
43
Biểu đồ 3.7: Tỷ lệ học sinh có RLLA phân bố theo các dạng
45
Biểu đồ 3.8: Tỷ lệ học sinh mắc các RLLA đồng thời
48
Biểu đồ 3.9: Các biểu hiện cơ thể của HS có RLLA
52

Biểu đồ 3.10: Tương quan mức độ lo âu với khối lớp
56
Biểu đồ 3.11: Tương quan của mức độ lo âu với yếu tố trường
57
Biểu đồ 3.12: Tương quan của mức độ lo âu với yếu tố học lực
57










6
MỤC LỤC

Trang
Lời cảm ơn
i
Danh mục viết tắt
ii
Danh mục các bảng
iii
Danh mục các biểu đồ
iv
Mục lục…………………………………………………………………….
v

MỞ ĐẦU
1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
5
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu lo âu trên thế giới và ở Việt Nam
5
1.1.1. Trên thế giới
5
1.1.2. Ở Việt Nam
7
1.2. Các khái niệm công cụ
10
1.2.1. Khái niệm lo âu
10
1.2.2. Khái niệm rối loạn lo âu
12
1.2.3. Khái niệm học sinh trung học phổ thông
15
1.2.4. Những vấn đề liên quan đến rối loạn lo âu ở học sinh THPT huyện
Chương Mỹ

16
Tiểu kết chương 1
24
Chƣơng 2: TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
25
2.1. Tổ chức nghiên cứu
25

7

2.1.1. Kế hoạch nghiên cứu
25
2.1.2. Giới thiệu địa điểm nghiên cứu
25
2.1.3. Triển khai nghiên cứu
26
2.2. Phương pháp nghiên cứu
27
2.2.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
27
2.2.2. Phương pháp quan sát
28
2.2.3. Phương pháp trò chuyện, tọa đàm
29
2.2.4. Phương pháp trắc nghiệm (sử dụng thang đo)
29
2.2.5. Phương pháp nghiên cứu bằng bảng hỏi
32
2.2.6. Phương pháp phỏng vấn sâu
34
2.2.7. Phương pháp thống kê toán học
34
2.3. Đạo đức nghiên cứu
35
Tiểu kết chương 2
35
Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
37
3.1. Mô tả mẫu nghiên cứu
37

3.2. Thực trạng lo âu của học sinh trung học phổ thông tham gia
nghiên cứu

41
3.2.1. Tỉ lệ học sinh lo âu và các mức độ
41
3.2.2. Tỉ lệ các loại lo âu học sinh THPT gặp phải
44
3.3. Các biểu hiện của lo âu ở học sinh
49

8
3.3.1. Các biểu hiện trong thang Zung
49
3.3.2. Các biểu hiện cơ thể
52
3.4. Tương quan của mức độ lo âu với các biến độc lập:
54
3.4.1. Yếu tố lớp
56
3.4.2. Yếu tố trường
57
3.4.3. Yếu tố học lực
57
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
59
1. Kết luận
59
2. Khuyến nghị
60

TÀI LIỆU THAM KHẢO
62















9
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Xã hội phát triển làm cho đời sống của con người ngày một tốt đẹp hơn,
nhưng cũng phức tạp hơn. Con người phải chịu nhiều áp lực từ công việc, gia
đình, các mối quan hệ v.v…chính những áp lực cuộc sống là những yếu tố tác
động đến sức khỏe tinh thần của chúng ta, nó làm nảy sinh các vấn đề có liên
quan đến căn nguyên tâm lý, trong đó có rối loạn lo âu.
Lo âu là hiện tượng tự nhiên, hết sức bình thường của con người khi họ
gặp những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống. Các nhà khoa học cho rằng có
một chút (10%) lo âu là cần thiết cho một người bình thường. Nhưng vấn đề
lại ở chỗ, không phải lúc nào người ta cũng có một chút lo âu, rất nhiều

người lo âu đã trở nên thái quá và thành bệnh lí. Người mắc rối loạn lo âu có
khó khăn trong việc thực hiện chức năng của mình, cuộc sống cá nhân của
họ bị đảo lộn, họ mất ăn, mất ngủ, hay ăn không ngon, ngủ không yên, tâm
thần bất an. Nghiên cứu thực nghiệm tác động cho thấy, có thể làm giảm
mức độ rối loạn lo âu bằng những biện pháp hỗ trợ tâm lý thích hợp (biện
pháp trị liệu hành vi - nhận thức của tác giả Huỳnh Hồ Ngọc Anh, trong luận
văn “Tác động của trị liệu hành vi - nhận thức đến học sinh trung học phổ
thông có rối loạn lo âu dựa trên định hình trường hợp”. Kết quả cho thấy các
em đều giảm lo âu rõ rệt và có được công cụ để đương đầu với lo âu trong
tương lai).
Nhiều nghiên cứu cho thấy tỷ lệ rối loạn lo âu ở trẻ em từ 4 đến 18 tuổi
tương đối cao. Theo một báo cáo của Hoàng Cẩm Tú, ở hai phường Kim Liên
và Trung Tự (Hà Nội) rối loạn lo âu - trầm cảm ở lứa tuổi 4 đến 18 chiếm
2,22% [10, tr.106]. Tỉ lệ rối loạn lo âu ở trẻ em tại khoa Tâm thần Viện Nhi
chiếm 30% các rối loạn tâm thần, trong đó chiếm tỉ lệ cao nhất ở lứa tuổi vị
thành niên (75,29%) [17]. Khi nghiên cứu trên 600 học sinh trung học phổ

10
thông chuyên Quảng Bình, Nguyễn Hằng Phương cho biết có 130 học sinh có
RLLA chiếm 21,66 % [16, tr.59].
Lứa tuổi học sinh THPT là lứa tuổi có nhiều thay đổi về mặt tâm sinh
lí. Những thay đổi cơ thể ở lứa tuổi dậy thì gây ra cho các em không ít những
vướng mắc, bận tâm. Các em quan tâm và lo lắng nhiều hơn đến các việc lớn
trong gia đình, về các mối quan hệ bạn bè cùng giới, khác giới, các mối quan
hệ xã hội khác. Hơn nữa, sự lo lắng của các em về học tập, về trường thi, khối
thi, về tương lai đều có ảnh hưởng không nhỏ đến tình cảm và suy nghĩ của
các em.
Việc nghiên cứu về lo âu nhất là các biểu hiện lo âu ở học sinh THPT là
vô cùng cần thiết. Qua các nghiên cứu, các tác giả sẽ chỉ ra các biểu hiện đặc
trưng ở học sinh có rối loạn lo âu từ đó các bậc phụ huynh dễ dàng nhận thấy

rối loạn lo âu ở con em mình để hỗ trợ các em kịp thời. Song việc nghiên cứu
theo hướng này lại chưa nhiều, chưa có các nghiên cứu điển hình.
Huyện Chương Mỹ nằm ở phía tây nam của thành phố Hà Nội. Đây là
khu vực tập trung nhiều trường THPT với số lượng học sinh rất lớn. Tuy
nhiên việc nghiên cứu vấn đề lo âu của học sinh THPT tại khu vực này còn
khá mới mẻ. Vì thế tôi lựa chọn đề tài: “Thực trạng biểu hiện lo âu của học
sinh Trung học phổ thông huyện Chương Mỹ - Thành phố Hà Nội” để tìm
hiểu thực trạng các biểu hiện lo âu của lứa tuổi học sinh THPT. Đồng thời,
qua đây, chúng tôi có thể đưa ra được một vài khuyến nghị cho các ngành, các
cấp và đặc biệt là với các bậc phụ huynh trong cách quan tâm, dạy dỗ con cái
mình nhằm giảm thiểu nguy cơ rối loạn lo âu ở các em học sinh trong lứa tuổi
trung học phổ thông.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng biểu hiện lo âu của học sinh THPT huyện chương
Mỹ - thành phố Hà Nội. Trên cơ sở đó chỉ ra một vài biểu hiện điển hình khi

11
các em có lo âu nhằm giúp phụ huynh sớm nhận biết dấu hiệu rối loạn lo âu
ở con em mình từ đó phòng tránh và can thiệp kịp thời.
3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
240 học sinh THPT tại huyện Chương Mỹ - thành phố Hà Nội.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biểu hiện lo âu của học sinh THPT.
4. Giả thuyết khoa học
- Tỉ lệ lo âu ở học sinh THPT huyện Chương Mỹ là rất đáng kể. Tuy
nhiên mức độ lo âu nghiêm trọng sẽ không chiếm phần nhiều.
- Một số yếu tố như lớp học, giới tính, gia đình, nhà trường có thể ảnh
hưởng đến tỉ lệ học sinh mắc lo âu.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Tìm hiểu các vấn đề lý luận về lo âu.
- Tìm hiểu về khái niệm học sinh THPT và đặc điểm tâm lý của học sinh
THPT có liên quan đến rối loạn lo âu
- Khảo sát thực trạng các biểu hiện lo âu của học sinh 4 trường THPT tại
huyện Chương Mỹ - thành phố Hà Nội.
- Chỉ ra một vài biểu hiện điển hình khi các em có lo âu nhằm giúp phụ
huynh sớm nhận biết dấu hiệu rối loạn lo âu ở con em mình từ đó phòng
tránh và can thiệp kịp thời.
- Đưa ra một số đề xuất, kiến nghị nhằm giảm thiểu tình trạng rối loạn lo
âu của học sinh THPT huyện Chương Mỹ - thành phố Hà Nội.
6. Phạm vi nghiên cứu
Do điều kiện khách quan và chủ quan, tôi giới hạn phạm vi nghiên cứu
như sau:
- Đối tượng nghiên cứu: Biểu hiện lo âu của học sinh THPT huyện
Chương Mỹ - thành phố Hà Nội.

12
- Khách thể nghiên cứu: học sinh của 4 trường THPT trong huyện
Chương Mỹ (60 học sinh ở mỗi trường. Tổng cộng là 240 em).
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Sưu tập, tổng hợp và phân tích các tài
liệu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu để xây dựng nền tảng lý luận của đề
tài.
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Chúng tôi xây dựng bảng hỏi để tìm
hiểu về các dạng lo âu, biểu hiện lo âu ở học sinh THPT.
- Phương pháp chuyên gia: Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sẽ
xin ý kiến của các chuyên gia tâm lý học, giáo dục học, xã hội học về những
vấn đề có liên quan đến luận văn.
- Phương pháp quan sát: Quan sát học sinh trong một số tiết học ngoài giờ
lên lớp, thể dục… để tìm hiểu rõ hơn các biểu hiện lo âu ở các em.

- Phương pháp làm trắc nghiệm tâm lý: Sử dụng trắc nghiệm đánh giá lo âu
Zung để chẩn đoán biểu hiện RLLA của học sinh THPT huyện Chương Mỹ
- Phương pháp thống kê toán học: Sử dụng phần mềm SPSS phiên bản 16.0
và Excel để xử lý những kết quả thu được.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, danh mục tài liệu tham
khảo, phụ lục, nội dung chính của luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu.
Chương 2: Tổ chức nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu.
Chương 3: Kết quả nghiên cứu.

13
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu lo âu trên thế giới và ở Việt Nam
Lo âu là cảm xúc thường gặp của con người với nhiều mức độ khác
nhau. Sự trải nghiệm cảm xúc này hầu hết là do đáp ứng với các kích thích
của môi trường và thường chỉ là những biểu hiện nhất thời. Tuy nhiên cũng có
nhiều người khi đối mặt với những khó khăn, nguy hiểm, áp lực…của cuộc
sống đã lo âu quá mức trở thành rối loạn lo âu [23]. Lo âu quá mức gây ảnh
hưởng đến các chức năng của con người: chức năng học tập, giao tiếp…Vì
vậy trong suốt lịch sử phát triển của khoa học tâm lý, y học, lo âu là đối tượng
được nhiều nhà khoa học nghiên cứu. Do cách tiếp cận hoàn cảnh nghiên cứu
khác nhau nên nghiên cứu lo âu cũng rất đa dạng.
1.1.1. Trên thế giới
Trên thế giới, lo âu nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu
và thực hành. Các nghiên cứu tậ
p trung vào các hướng nghiên cứu về lo âu như khái niệm, biểu hiện, phân
loại và nguyên nhân.
Hướng nghiên cứu về khái niệm Lo âu

Khái niệm lo âu được biết đến rất sớm từ thời Hy Lạp cổ đại, người
Hy Lạp cổ dùng từ “melancholia” (sự u sầu) để mô tả lo âu. Người La Mã
thuộc thời Cicero dùng từ “anxietas” để biểu lộ sự sợ hãi, e ngại và kèm
theo là cảm giác đè ép ở ngực. Trong suốt thời gian này lo âu được nói
nhiều nhưng chủ yếu trong lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, văn học. Lo âu
được hiểu là sự sầu muộn, sự tương tư, và người ta tìm đến nhà thờ để giải
quyết tâm trạng này [26].
Năm 1671, Richard Younge cho rằng lo âu chính là trạng thái phiền
muộn khổ sở với mọi điều trong cuộc sống, lo âu là sự không bình thường của
tâm thần [23].

14
Đến năm 1844, Kerkgard (Đan Mạch) lần đầu tên dùng thuật ngữ
Angest để chỉ trạng thái lo âu, [12; tr.123].
Hướng nghiên cứu về biểu hiện của rối loạn lo âu, phải kể đến công
trình của ông Robert Burton năm 1621, trong cuốn sách The Anatomy of
Melancholy đã cho rằng có mối liên quan chặt chẽ giữa cảm giác lo lắng, sợ
hãi với các biểu hiện cơ thể như khó thở, mạch nhanh, đau tức ngực, chóng
mặt [23Error! Reference source not found.].
Tiếp đó, vào năm 1871 Jacob DaCosta đã mô tả các triệu chứng tim
mạch mạn tính mà không có tổn thương thực thể và có liên quan đến những
than phiền về mệt mỏi, lo lắng và buồn phiền. DaCosta đã mô tả các triệu
chứng lo âu gọi là trạng thái tim bị kích thích [12,tr.123].
Vào nửa sau của thế kỷ 19, các nhà tâm thần học Pháp và Đức bắt đầu
quan tâm đến yếu tố sinh học trong các rối loạn tâm thần. Khi nghiên cứu về
các biểu hiện của lo âu, Benedict Morel (1809 –1873) đã khẳng định rằng có
mối liên quan chặt chẽ giữa lo âu với các triệu chứng cơ thể và sự thay đổi ở
hệ thần kinh tự trị [26].
Đến năm 1894, trong học thuyết của Freud về chứng suy nhược thần
kinh lần đầu tiên khái niệm lo âu được tiếp cận và được làm sáng tỏ về mặt

bản chất. Freud đã tách ra 1 hội chứng riêng biệt gọi là “tâm căn lo âu”
(anxiety neurosis) từ suy nhược thần kinh. Vào thời điểm đó, rối loạn phân ly
và rối loạn nghi bệnh được xếp vào suy nhược thần kinh và được cho là bệnh
lý tâm thần, còn tình trạng hoảng sợ có kèm lo âu - theo Freud có liên quan
đến những yếu tố sinh học cơ thể [26].
Tuy không có bằng chứng khoa học xác đáng, nhưng học thuyết này
cũng làm sáng tỏ thêm về bản chất bên trong của lo âu và thể hiện một cách
nhìn mới về lâm sàng. Quan điểm về bệnh học này đã để lại ảnh hưởng trong
một thời gian dài những năm đầu thế kỷ XXI.

15
Hướng nghiên cứu về phân loại rối loạn lo âu được nhiều nhà tâm lý
quan tâm và đưa ra các cách phân loại khác nhau:
Năm 1960, khi bàn về lo âu và rối loạn lo âu, Donald Klein đề nghị
chia ra hai thực thể khác nhau là rối loạn hoảng loạn và lo âu lan tỏa mãn
tính [12; 125].
Theo bảng phân loại bệnh quốc tế lần thứ 8 (ICD8, 1968) tổ chức Y tế
thế giới cho rằng, lo âu được xếp vào lo âu tâm căn (tức là bệnh do căn
nguyên tâm lí).
Bảng phân loại bệnh quốc tế lần thứ 9, (ICD9, 1978), mặc dù đã có
nhiều tiến bộ, nhiều thay đổi trong bảng phân loại, nhưng họ vẫn xếp các
trạng thái lo âu vào các rối loạn tâm căn, tuy nhiên bắt đầu theo hướng mô tả
các triệu chứng thuần túy về các mức độ khác nhau của các rối loạn lo âu.
Bảng phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 [32,tr.116] đã ghi nhận sự kết
hợp quan trọng của các rối loạn này với các nguyên nhân tâm lí. Rối loạn lo
âu được xếp vào các rối loạn tâm căn có liên quan đến stress và dạng cơ thể.
Nhìn chung các nghiên cứu kể trên đã đề cập đến một số cách phân loại
rối loạn lo âu. Tuy nhiên việc phân loại đó chưa thực sự cụ thể. Bởi lẽ RLLA
còn liên quan đến nhiều vấn đề khác như: Biểu hiện cơ thể, nhận thức, cảm
xúc, các nguyên nhân

1.1.2. Ở Việt Nam
Trước những năm 90, ở Việt Nam chưa có nhiều công trình nghiên cứu
về rối loạn lo âu một cách độc lập, chuyên biệt. Từ sau năm 1987 đến nay đã
có một số nghiên cứu về sức khỏe tâm thần ở trẻ em Việt Nam. Tuy nhiên các
nghiên cứu đó mới chỉ diễn ra trên phạm vi hẹp mà chưa diễn ra với quy mô
toàn quốc [9, tr.47]. Các nghiên cứu tập trung vào tìm hiểu tỷ lệ rối loạn lo âu
ở các nhóm đối tượng khác nhau. Theo bác sĩ Hoàng Cẩm Tú, đáng kể nhất là
cuộc nghiên cứu của ngành tâm thần về rối nhiễu hành vi ở trẻ em. Từ đó đến

16
nay, con số trung bình 3,4% trẻ em có biểu hiện rối nhiễu hành vi trở thành
con số độc nhất mà ngành tâm thần vẫn công bố trong một số hội thảo.
Nghiên cứu những biểu hiện rối loạn tâm lí trẻ em chỉ diễn ra lẻ tẻ ở một
vài địa phương trong một thời điểm nhất định. Tìm hiểu vấn đề này chúng
tôi đã thu được những số liệu như sau ở Việt Nam:
- Nghiên cứu của Trần Viết Nghị (1994) cho thấy 75% bệnh nhân tâm căn
nghi bệnh có lo âu sợ hãi [13].
- Trong nghiên cứu của Nguyễn Công Khanh sử dụng thang đánh giá lo âu
Spiebeger trên 503 học sinh cấp II thấy có 17,65% - 19,2% học sinh có
trải qua biểu hiện của RLLA [7].
- Theo Bác sĩ Ngô Thanh Hồi - Giám đốc Bệnh viện Tâm thần ban ngày
Mai Hương trong một cuộc khảo sát gần đây đưa ra con số, gần 20% trẻ
dưới 16 tuổi có vấn đề sức khỏe tâm thần [4].
- Còn theo một số tài liệu của Bệnh viện tâm thần trung ương, năm
2005,trong số gần 5000 người có biểu hiện “bất bình thường” đến khám
thì có 30% là học sinh, sinh viên. Tỉ lệ này ở một số trường học là 20%
học sinh lo lắng và có biểu hiện rối loạn tâm trí.
Như vậy, với những số liệu nhỏ lẻ mà chúng tôi tìm hiểu được thì hiện
nay, tỷ lệ rối loạn lo âu ở lứa tuổi học sinh là khá cao.
Gần đây, có một số công trình nghiên cứu của các tác giả đã đi sâu

nghiên cứu về nguyên nhân, các yếu tố ảnh hưởng hay một số biện pháp trị
liệu rối loạn lo âu ở trẻ em như:
Tác giả Nguyễn Thị Hồng Thúy trong luận văn thạc sĩ “Ảnh hưởng của
một số yếu tố tâm lý đến rối loạn lo âu của trẻ em”, đã chẩn đoán và trị liệu cho
42 trẻ em từ 7 – 15 tuổi có RLLA đến khám tại khoa Tâm bệnh - viện nhi Quốc
Gia từ tháng 8/2001 đến tháng 8/2002. Tác giả đã đưa ra rất nhiều yếu tố ảnh
hưởng đến RLLA của các em như: RLLA có liên quan đến gia đình, RLLA có
liên quan đến học tập, RLLA có liên quan đến môi trường xã hội [19].

17
Trong luận văn thạc sĩ “Nghiên cứu một số nguyên nhân gây ra rối
loạn lo âu ở học sinh trung học phổ thông”, tác giả Nguyễn Hằng Phương
cho biết: trong số 600 khách thể nghiên cứu thì có 130 em RLLA, chiếm
21,66%. Và cũng đưa ra bốn nhóm nguyên nhân chính gây ra RLLA của
học sinh là nhóm nguyên nhân liên quan đến học tập, nhóm nguyên nhân
liên quan tới gia đình, nhóm nguyên nhân liên quan đến quan hệ xã hội,
nhóm nguyên nhân liên quan tới bản thân học sinh. [16]
Nghiên cứu về trị liệu lo âu ở trẻ em, phải kể đến nhóm tác giả: Trần
Thành Nam, Đặng Hoàng Minh, Nguyễn Thị Hồng Thúy, Cao Vũ Hùng
với đề tài: “Bước đầu áp dụng mô hình trị liệu nhận thức hành cho trẻ
em có rối loạn lo âu‟‟. Nghiên cứu đã lựa chọn 20 trẻ được chẩn đoán là
rối loạn lo âu để điều trị bằng xây dựng mô hình hành vi - nhận thức.
Sau 8 buổi làm việc nhóm tác giả công bố: có 11 trẻ cùng gia đình tuân
thủ đầy đủ cam kết, 9 trẻ cùng gia đình không tuân thủ đầy đủ cam kết
và kết quả là thang điểm CBCL của trẻ đã giảm hẳn, trẻ hết rối loạn lo âu
theo chuẩn đoán của DSM IV [20].
Trong đề tài: “Tác động của trị liệu hành vi - nhận thức đến học sinh
trung học phổ thông có rối loạn lo âu dựa trên định hình trường hợp” tác giả
Huỳnh Hồ Ngọc Anh đã lựa chọn 2 trong số 15 học sinh có điểm lo âu từ 40
đến 55 để định hình trường hợp và trị liệu hành vi - nhận thức. Kết quả cho

thấy các em đều giảm lo âu rõ rệt và có được công cụ để đương đầu với lo
âu trong tương lai. Đề tài của tác giả Huỳnh Hồ Ngọc Anh là công trình đầu
tiên nghiên cứu về tác động của trị liệu hành vi - nhận thức đến học sinh
trung học phổ thông có rối loạn lo âu một cách bài bản đối với từng trường
hợp cụ thể dựa trên phương pháp định hình trường hợp tại Việt Nam. [1]
Tóm lại: Có nhiều hướng nghiên cứu về rối loạn lo âu (nghiên cứu tỷ
lệ lo âu, nhiên cứu nguyên nhân lo âu, trị liệu lo âu…) nhưng trên phương
diện tiếp cận chúng tôi nhận thấy có khá ít những nghiên cứu về các biểu

18
hiện cụ thể của lo âu ở học sinh THPT. Vì thế trong luận văn này chúng tôi
đi sâu tìm hiểu các biểu hiện cụ thể của lo âu mà học sinh THPT mắc phải.
1.2. Các khái niệm công cụ
1.2.1. Khái niệm lo âu
Có nhiều định nghĩa khác nhau về lo âu:
Theo Mike Nichols trong bài viết về “Lo âu bình thường và Rối loạn lo
âu lan tỏa”, cho rằng: Lo âu thường gặp là một cảm giác sợ hãi mơ hồ, khó
chịu, lan tỏa cùng với rối loạn cơ thể ở bất cứ bộ phận nào, ít nhất trong thể nhẹ
và nhất thời, chúng ta thường thấy mang tính chu kỳ. Lo âu có thể là hoạt động
thích nghi như là một tín hiệu báo động và báo trước sự đe dọa bên ngoài hoặc
bên trong và hậu quả là tạo ra hoạt động thích hợp [29].
Theo Kazdin [22, tr.47], lo âu về bản chất là đáp ứng với một đe dọa
không được biết trước từ bên trong, mơ hồ hay có nguồn gốc xung đột.
Theo tác giả Đinh Đăng Hòe: Lo âu là hiện tượng phản ứng tự nhiên
(bình thường) của con người trước những khó khăn và các mối đe dọa của tự
nhiên, xã hội, mà con người phải tìm cách vượt qua, tồn tại, hướng tới [3,37].
Theo tác giả Nguyễn Minh Tuấn: Lo âu là một rối loạn có cấu trúc
đơn sơ thể hiện ra ngoài bằng một mối lo âu không đối tượng, lan tỏa và
dai dẳng [18,11].
Còn theo Nguyễn Khắc Viện trong từ điển tâm lý: Lo âu là việc đón

chờ và suy nghĩ về một điều gì đó có thể để mà không chắc có thể đối phó
được là lo. Nếu sự việc cụ thể mà đã từng gây nguy hiểm thì là lo sợ. Trong
nhiều trường hợp, đặc biệt khi tâm lý bị rối loạn, một triệu chứng thường gặp
là mối lo nhưng cụ thể không thật rõ là lo về cái gì, sợ về cái gì, đó là hãi.
[21,tr 190].
Theo Nguyễn Viết Thêm, Lã Thị Bưởi, Trần Viết Nghị [11, tr.41] “Lo
âu là trạng thái cảm xúc thông thường của con người trước những sự kiện của
cuộc sống ( thi cử, xung đột trong các mối quan hệ, bệnh tật, tai nạn…) là tín

19
hiệu báo trước một sự trở ngại sắp xảy ra, kèm theo sự suy diễn tính toán sắp
đặt của quá trình tư duy trước sự thay đổi của cuộc sống hàng ngày và cho
phép con người sử dụng mọi biện pháp để giải quyết, đương đầu với đe dọa.
Lo âu bình thường sẽ hết khi mọi chuyện đã giải quyết xong. Khi vượt qua
được lo âu và sợ hãi thông thường trong cuộc sống hàng ngày, con người sẽ
có thêm kinh nghiệm và thích nghi với cuộc sống để phát triển các chức năng
tâm lý”.
Từ những cách hiểu khác nhau về lo âu vừa trình bày trên, chúng ta có
thể xem xét thuật ngữ lo âu qua những điểm sau:
- Lo âu là hiện tượng phản ứng tự nhiên (bình thường) của con người
trước những khó khăn và các mối đe dọa của tự nhiên, xã hội mà con người
phải tìm cách vượt qua để tồn tại.
- Lo âu là một tín hiệu báo động, báo trước một nguy hiểm sắp xẩy đến,
cho phép con người sử dụng mọi biện pháp để đương đầu với sự đe dọa.
- Lo âu là một đáp ứng với một sự đe dọa nào đó mà cá nhân không biết
được rõ ràng, mơ hồ, thường phát sinh từ bên trong và mang tính xung đột,
mâu thuẫn.
Trong đề tài này chúng tôi thống nhất hiểu khái niệm lo âu theo khái
niệm lo âu của Nguyễn Viết Thêm, Lã Thị Bưởi, Trần Viết Nghị [11,tr.41]
“Lo âu là trạng thái cảm xúc thông thường của con người trước những sự

kiện của cuộc sống (thi cử, xung đột trong các mối quan hệ, bệnh tật, tai
nạn…) là tín hiệu báo trước một sự trở ngại sắp xảy ra, kèm theo sự suy
diễn tính toán sắp đặt của quá trình tư duy trước sự thay đổi của cuộc sống
hàng ngày và cho phép con người sử dụng mọi biện pháp để giải quyết,
đương đầu với đe dọa. Lo âu bình thường sẽ hết khi mọi chuyện đã giải
quyết xong. Khi vượt qua được lo âu và sợ hãi thông thường trong cuộc
sống hàng ngày, con người sẽ có thêm kinh nghiệm và thích nghi với cuộc
sống để phát triển các chức năng tâm lý”.

20
Như vậy, đối với mỗi con người, trạng thái lo âu xuất hiện trong cuộc
sống của họ là chuyện bình thường, phải lo lắng về điều gì đó cũng giống
như những việc làm hàng ngày khác của họ: lo cái ăn, cái mặc, lo học hành,
tu dưỡng, lo nghĩ về các mối quan hệ Và lo âu là điều kiện tiên quyết để
mỗi người hoàn thiện bản thân mình, làm tốt mọi việc được giao, tạo ra cuộc
sống tốt đẹp hơn cho chính mình và những người xung quanh.
Nhưng nếu những lo âu đó kéo dài, lo âu với những nguyên nhân
không rõ ràng sẽ có những hậu quả không lường trước được, ví dụ như lo âu
mang tính bệnh lí hay trầm cảm.
1.2.2. Khái niệm rối loạn lo âu
Chúng ta đã biết lo âu là điều bình thường và cần thiết đối với cuộc
sống con người. Nhưng nếu người ta không kiểm soát nổi những cảm giác
lo âu ở mức bình thường, để nó vượt quá ngưỡng của mức bình thường,
diễn biến trong thời gian dài, kèm theo những rối loạn về mặt thực thể, rối
loạn hệ thần kinh thực vật thì lo âu trở nên có tính bệnh lí hay còn gọi là
rối loạn lo âu.
Theo Đặng Hoàng Hải [2, tr.82]: Rối loạn lo âu thường biểu hiện sau
một yếu tố gây stress, chủ thể có cảm giác sợ hãi mơ hồ, sự bất an, bối rối khó
chịu, dễ bị kích thích lo nghĩ về những sự việc vụn vặt kéo theo cảm giác
đau thắt ngực, đánh trống ngực, cảm giác trống rỗng thượng vị, có mồ hôi

Những người bị rối loạn lo âu, trầm cảm, stress dai dẳng thường có biểu hiện
mất ngủ, bực bội, bất an, trí nhớ và khả năng lao động giảm sút.
Jitender [26], Julie Schulz [27] , Peter Tyrer [30] đã khái quát một số
đặc điểm của rối loạn lo âu như sau:
+ Đó là một trạng thái cảm xúc với tính chất trải nghiệm chủ quan về
sợ hoặc cảm xúc có liên quan gần như thế (kinh hãi, tổn hại, hoảng hốt khiếp
sợ, hoảng sợ, bối rối, kinh sợ, kinh hoàng).
+ Cảm xúc xấu: Có thể là cảm giác cái chết đe dọa hoặc là suy sụp.

21
+ Đó là sợ trực tiếp cho tương lai, trong đó có cảm giác đe dọa của
nguy hiểm đang đến.
+ Có những đe dọa hoặc là không thể nhận ra được, hoặc theo tiêu
chuẩn hợp lí, đe dọa ấy không cân xứng với cảm xúc đó gây nên.
+ Có những khó chịu chủ quan về cơ thể như là cảm giác thắt lại trong
ngực, cảm giác thít chặt trong cổ họng và khó thở.
+ Có các rối loạn cơ thể bao gồm các hoạt động tự ý (thí dụ, kêu thét
lên, chạy trong khi hoảng sợ) hoặc các hoạt động không hoàn toàn hoặc hoàn
toàn tự ý (thí dụ: khô mồm, ra mồ hôi, nôn và đánh trống ngực).
Theo DSM-IV, rối loạn lo âu là những lo sợ thái quá về một số sự
kiện hoặc các hành vi kéo dài trong nhiều ngày, xẩy ra lặp đi lặp lại ít nhất
trong 6 tháng. Cá nhân thường có khó khăn trong sự kiểm soát những lo lắng
và thường có những dấu hiệu thực thể chẳng hạn như là sự căng cơ, cáu bẳn,
khó ngủ và cảm giác bất an…
Theo Kazdin [22,tr.48] sự phân biệt giữa lo âu bình thường và lo âu bệnh
lý chính là mức độ khó khăn trong việc kiểm soát loại bỏ hoặc lo âu.
Lo âu bệnh lý là lo âu không phù hợp với hoàn cảnh, không có chủ đề rõ
ràng, mang tính chất vô lý, mơ hồ, thời gian thường kéo dài. Mức độ lo âu
gây trở ngại rõ rệt đến các hoạt động của bệnh nhân. Lo âu lặp đi lặp lại với
nhiều triệu chứng cơ thể như: mạch nhanh, chóng mặt, khô miệng, vã mồ hôi,

lạnh chân tay, run rẩy, bất an [11].
Chúng ta có thể căn cứ vào bảng sau để phân biệt rõ hơn về lo âu
bình thường và rối loạn lo âu. Trong luận văn này, chúng tôi cũng dựa vào
những tiêu chí này để xem xét những biểu hiệu rối loạn lo âu ở học sinh
THPT huyện Chương Mỹ - thành phố Hà Nội:

22
Bảng 1.1: Bảng so sánh lo âu bình thường và rối lọan lo âu


Lo âu bình thƣờng
Rối loạn lo âu
Chủ đề
Lo lắng có chủ đề, nội dung rõ
ràng như ốm đau, công ăn việc
làm.
Không có chủ thể rõ ràng, mang
tính chất vô lí, mơ hồ (lo lắng về
tương lai).
Thời
gian
Nhất thời khi có các sự kiện
trong đời sống tác động đến
tâm lí của chủ thể. Hết lo âu khi
mất các tác động này

Kéo dài và lặp đi lặp lại
Triệu
chứng


Không có hoặc có rất ít rối loạn
thần kinh thực vật
Nhiều rối loạn thần kinh thực vật
(mạch nhanh, thở gấp, chóng
mặt, khô miệng, vã mồ hội, lạnh
chân tay, run rẩy, bất an)

Từ các cách hiểu về RLLA như trên, chúng tôi thống nhất hiểu khái
niệm rối loạn lo âu theo DSM-IV như sau: „„Rối loạn lo âu là những lo sợ
thái quá về một số sự kiện hoặc các hành vi kéo dài trong nhiều ngày, xẩy
ra lặp đi lặp lại ít nhất trong 6 tháng. Cá nhân thường có khó khăn trong
sự kiểm soát những lo lắng và thường có những dấu hiệu thực thể chẳng
hạn như là sự căng cơ, cáu bẳn, khó ngủ và cảm giác bất an
Theo khái niệm này, những người có RLLA phải đảm bảo một số yếu
tố: bệnh nhân không thể kiểm soát cảm xúc, hành vi, suy nghĩ cũng như
trạng thái cơ thể ít nhất 6 tháng. Bệnh nhân có những sợ hãi, lo lắng thái quá
về một vấn đề nào đó. Và bệnh nhân có những triệu chứng cơ thể như tim đập
nhanh, vã mồ hôi, bất an, đứng ngồi không yên, mất ngủ, ăn không
ngon Những nghi thức, cảm xúc sợ hãi thái quá này phải duy trì liên tục ít

23
nhất 6 tháng thì mới đủ tiêu chuẩn để chẩn đoán bệnh.
1.2.3. Khái niệm học sinh trung học phổ thông
Theo Bách khoa toàn thư Wikipedia: Bậc trung học phổ thông là một
trong số các bậc học của hệ thống giáo dục ở Việt Nam hiện nay, nó sau tiểu
học, trung học cơ sở và trước cao đẳng, đại học. Trung học phổ thông là bậc
học kéo dài 3 năm (từ lớp 10 đến lớp 12). Để tốt nghiệp bậc học này, học sinh
phải vượt qua kỳ thi tốt nghiệp Trung học phổ thông vào cuối năm học lớp 12
(trước đây thường gọi là thi tú tài) [33].
Như vậy, học sinh THPT là những em học sinh từ lớp 10 đến lớp 12 ở các

trường THPT, tuổi đi học chuẩn là từ 15,16 đến 18 (tuy nhiên, có những em
đi học sớm hơn và cũng có những em đi học muộn hơn).
Đây là giai đoạn quan trọng trong cuộc đời bởi từ đây, các em xác định
cuộc sống tương lai cho chính mình, là thời điểm các em tập trung học tập và
phát triển trí tuệ cao độ. Hoạt động chủ đạo của học sinh THPT là học tập, vì
thế, nội dung và tính chất học tập có những nét khác biệt hơn hẳn so với các
giai đoạn trước và sau này. [5]
Đặc điểm nổi bật nhất của lứa tuổi là sự phát triển các năng lực trí tuệ
[14, 123]. Các quá trình nhận thức được phát triển mạnh, từ tri giác, trí nhớ,
đến chú ý, tư duy [5,tr.35-36]. Thông qua các quá trình nhận thức này mà học
sinh THPT nhận thức tốt hơn về chính mình và những người xung quanh.
Nhưng không hoàn toàn tất cả các em đều có tính trách nhiệm với những gì
mình nhận thức được, ngược lại, cũng có nhiều em vì quá lo lắng với những
gì các em cho là trách nhiệm của bản thân, đến nỗi sinh ra những rối loạn về
mặt tâm lí.
Việc các em có những thay đổi mạnh mẽ về mặt tâm lí cũng chứng tỏ
được rằng nhận thức của các em tốt hơn các giai đoạn trước, các em tự ý thức
được việc mình làm và cũng đánh giá được những gì đang xảy ra xung quanh
mình. Trên cơ sở đó, các em hình thành thế giới quan cho mình, những gì các

24
em thu nhặt được sẽ là hành trang cho các em trong suốt cuộc sống về sau.
Ngoài hoạt động chủ đạo là học tập, các em cũng có những mối quan hệ rất
quan trọng đối với đời sống của các em, đó là quan hệ gia đình, bạn bè, thầy
cô, trường lớp [8] những mối quan hệ này có những ảnh hưởng rất sâu sắc
đến các em.
1.2.4 Những vấn đề liên quan đến rối loạn lo âu ở học sinh THPT huyện
Chương Mỹ
1.2.4.1. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh THPT
Học sinh THPT là giai đoạn đầu của tuổi thanh niên (còn gọi là thanh

niên mới lớn, thanh niên học sinh). Đây cũng là giai đoạn nối tiếp thời kỳ dậy
thì, thời gian quan trọng của một đời người. Chính vì có sự thay đổi lớn như
thế nên tâm sinh lí của các em cũng có những đặc điểm rất khác biệt và đặc
biệt hơn hẳn những giai đoạn trước.
- Đặc điểm sinh lý:
Do sự hoàn thiện về cấu tạo và chức năng của hệ thần kinh trung ương
và các giác quan nên có sự thay đổi trong chiều cao, cơ thể phát triển. Ở các
em nam thì cao vọt lên, râu cằm, ria mép, cơ bắp nổi lên, hoàn thiện dần chức
năng làm cha…còn ở các em gái thì cơ thể duyên dáng, mềm mại hơn, hoàn
thiện chức năng làm mẹ… nói chung là ở thời gian này, các em đã có sự chín
muồi về mặt sinh lí, cơ thể.
- Đặc điểm tâm lý:
+ Sự phát triển tự ý thức:
Ở lứa tuổi này các em có sự nhìn nhận về bản thân khá nghiêm túc và
sâu sắc hơn lứa tuổi học sinh trung học cơ sở. Các em không chỉ đánh giá,
nhìn nhận cái tôi trong hiện tại mà còn so sánh với quá khứ và nhận thức vị trí
của mình trong tương lai. Các em đánh giá cao vai trò của mình trong gia đình
và xã hội do vậy các em thường chủ động tham gia vào các hoạt động để
khẳng định hơn nữa vị trí, vai trò của mình. Việc khẳng định bản thân là một

25
nhu cầu tương đối cao của các em vì thế các em phải tự hoàn thiện để đáp ứng
với yêu cầu của gia đình và xã hội. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện không
phải lúc nào cũng suôn sẻ vì thế khi mong ước của các em không thực hiện
được sẽ gây cho các em sự lo lắng, chán nản và thất vọng.
+ Lý tưởng sống và tính tích cực xã hội của học sinh THPT.
Lứa tuổi này các em thể hiện lý tưởng sống khá rõ, các em tạo lên áp
lực cố gắng hết sức trong học tập để có thể khẳng định bản thân. Đồng thời
thiên hướng lựa chọn nghề nghiệp cho tương lai là một trong những yếu tố
khiến học sinh THPT căng thẳng và mệt mỏi.

Xã hội ngày cảng phát triển đặt ra yêu cầu với mỗi công dân phải có
một nền tảng kiến thức nhất định để đáp ứng với nền kinh tế tri thức. Việc lựa
chọn nghề nghiệp ảnh hưởng rất nhiều từ mong đợi của cha mẹ và những đòi
hỏi của xã hội. Cha mẹ mong muốn con mình lập thân bằng con đưởng học
vấn do đó thường đặt nhiều hy vọng ở các con. Những yếu tố này tạo lên áp
lực quá lớn đối với các em. Xu hướng chọn trường, những mong đợi từ cha
mẹ và sự kỳ vọng của bản thân vô hình chung đã tạo lên một áp lực khiến
không ít học sinh THPT cảm thấy mệt mỏi căng thẳng chán nản thậm chí mất
phương hướng.
+ Lĩnh vực tình cảm của học sinh THPT
Tình bạn: Ở lứa tuổi này tình bạn đi vào chiều sâu hơn so với lứa tuổi
trước. Tiêu chí kết bạn của các em thiên về sự đồng cảm, tâm tình, thân mật,
cùng chí hướng phấn đấu. Các em đặt ra cho mình những tiêu chí để cùng
nhau cố gắng và phấn đấu. Đây cũng là giai đoạn mà sự tự ý thức của các em
phát triển mạnh mẽ do đó các em luôn có nhu cầu tìm kiếm „„cái tôi‟‟ khác
bên ngoài cái tôi bản thân. Các em thường tham gia vào một nhóm bạn thân.
Nhờ việc tham gia nhóm bạn này mà các em có cơ hội được thể hiện và khẳng
định bản thân trong nhóm. Tuy nhiên các em cũng chịu ảnh hưởng khá nhiều
của tâm lý nhóm và thái độ của bạn bè trong nhóm. Bởi thế, khi các em gặp

×