Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Giải pháp phát triển đội ngũ cán bộ quản lý trường mầm non quận Thanh Xuân hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.43 MB, 103 trang )


1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƢ PHẠM



TRỊNH HOÀI HƢƠNG



GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
QUẢN LÝ TRƢỜNG MẦM NON QUẬN THANH
XUÂN HIỆN NAY


LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ GIÁO DỤC







HÀ NỘI - 2008


2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƢ PHẠM




TRỊNH HOÀI HƢƠNG

GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
QUẢN LÝ TRƢỜNG MẦM NON QUẬN THANH
XUÂN HIỆN NAY

Chuyên ngành : Quản lý giáo dục
Mã số: 60.14.05

LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ GIÁO DỤC



Người hướng dẫn khoa học
PGS - TS NGUYỄN VĂN LÊ

HÀ NỘI - 2008


11
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
5. Giả thuyết nghiên cứu
6. Phạm vi nghiên cứu

7. Phƣơng pháp nghiên cứu
8. Những đóng góp của đề tài
Chƣơng 1 : Cơ sở lý luận về phát triển đội ngũ CBQL trƣờng Mầm
non
1.1 Những khái niệm chủ yếu
1.1.1. Khái niệm quản lý giáo dục,quản lý nhà trường
1.1.2. Quản lý giáo dục mầm non, quản lý trường Mầm non
1.1.3. Khái niệm đội ngũ CBQL trường học
1.1.4. Luận đề về phát triển đội ngũ CBQL
1.2. Vị trí, mục tiêu, nhiệm vụ cuả giáo dục Mầm non và những đặc
trƣng của giáo dục mầm non
1.2.1 Vị trí, mục tiêu, nhiệm vụ của giáo dục Mầm non
1.2.2. Vị trí, nhiệm vụ, tính chất và mục tiêu của trường MN
1.2.3. Đặc trưng cơ bản của giáo dục mầm non
1.2.4. Các loại hình trường Mầm non hiện nay và công tác quản lý
1.3. Lý luận về phát triển đội ngũ CBQL giáo dục MN
1.3.1. Vị trí, tầm quan trọng của đội ngũ CBQL trường MN
1.3.2. Đặc trưng cơ bản của đội ngũ CBQL trường MN
1.3.3. Công tác xây dựng, phát triển đội ngũ CBQL trường MN hiện nay
Chƣơng 2. Thực trạng phát triển đội ngũ CBQL trƣờng MN Quận

1
2
2
3
3
3
3
3
4


5
5
5
8
10
10

12
12
15
17
18
19
19
22
23
27


12
Thanh Xuân
2.1. Đặc điểm tự nhiên và dân cƣ
2.2. Vài nét về Giáo dục và Đào tạo Quận Thanh Xuân
2.2.1. Tổng quan về giáo dục ở Quận Thanh Xuân
2.2.2. Thực trạng giáo dục Mầm non Quận Thanh Xuân
2.2.2.1. Giáo dục mầm non Quận Thanh Xuân qua các giai đoạn phát triển
2.2.2.2. Về đội ngũ giáo viên Mầm non
2.2.2.3. Đánh giá chung về GDMN Quận Thanh Xuân
2.3. Thực trạng phát triển đội ngũ CBQL trƣờng Mầm Non Quận

Thanh Xuân
2.3.1 Thực trạng đội ngũ CBQL trường MN Quận Thanh Xuân
2.3.1.1 Số lượng đội ngũ
2.3.1.2. Chất lượng đội ngũ
2.3.1.3. Cơ cấu đội ngũ
2.3.2 Những ưu điểm và hạn chế chủ yếu của đội ngũ CBQL trường MN
2.3.3 Các giải pháp hiện hành về xây dựng và phát triển đội ngũ CBQL
giáo dục Mầm Non Quận TX
Chƣơng 3. Một số giải pháp phát triển đội ngũ CBQL trƣờng Mầm
Non Quận Thanh Xuân
3.1. Nguyên tắc xây dựng các giải pháp
3.2 . Các giải pháp cơ bản
3.2.1. Tổ chức giáo dục nâng cao nhận thức cho đội ngũ CBQL trường
Mầm Non
3.2.2 Xây dựng quy hoạch, tuyển chọn và bổ nhiệm đội ngũ CBQL, bố trí
và sử dụng đội ngũ CBQL trong các nhà trường
3.2.3. Giải pháp tổ chức triển khai đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CBQL
trường MN
3.2.4. Xây dựng chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ CBQL trường

27
29
29
30
30
35
37

38
38

38
39
42

43
45

49
49
50

50

57

65
73



13
Mầm non
3.2.5. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đội ngũ CBQL trường
Mầm non
3.2.6. Tạo môi trường làm việc thuận lợi cho đội ngũ CBQL trường MN
3.2.7. Tăng cường giao lưu học hỏi, tạo mối liên thông hỗ trợ giữa các
CBQL các nhà trường
3.3. Kiểm chứng tính cần thiết và tính khả thi của những giải pháp
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận

2. Khuyến nghị
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC








75

78
80

81
84
84
85
87












14
KÝ HIỆU VIẾT TẮT

1.
QL
Quản lý
2.
CBQL
Cán bộ quản lý
3.
GDĐT
Giáo dục đào tạo
4.
GDMN
Giáo dục mầm non
5.
MN
Mầm Non
6.
NLQL
Năng lực quản lý
7.
HT
Hiệu trưởng
8.
GV
Giáo viên
9.

GVMN
Giáo viên mầm non
10.
XH
Xã hội


















15
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đảng và nhà nước ta luôn chú trọng đến vai trò cuả giáo dục và coi
giáo dục là quốc sách hàng đầu, là điều kiện tiên quyết để phát triển con
người, là nhân tố quyết định để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và
bền vững. Trong những thập niên đầu thế kỷ XXI, khi xã hội đang hướng tới

nền “ kinh tế tri thức’, thì giáo dục trở thành đầu tư phát triển, nhà nước phải
thực hiện các chính sách ưu tiên, ưu đãi đối với giáo dục, đặc biệt là chính
sách đầu tư và chính sách tiền lương; có các giải pháp mạnh mẽ để phát triển
giáo dục. Giáo dục thực sự là “ quốc sách hàng đầu”.
Trong các bậc học thì bậc học mầm non được đánh giá là bậc học nền
tảng để hình thành và phát triển nhân cách con người. Chính vì vậy giáo dục
Mầm non có vị trí vô cùng quan trọng trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
Nhiệm vụ được đặt ra đó là chúng ta phải cần một đội ngũ làm công tác giáo
dục có đủ điều kiện để thực hiện các mục tiêu cơ bản trên, trong đó đội ngũ
cán bộ quản lý giáo dục chung và đội ngũ cán bộ quản lý các trường mầm
non nói riêng có vai trò then chốt, là lực lượng nòng cốt, quyết định đến chất
lượng chăm sóc giáo dục trẻ ở lứa tuổi này.
Đối với giáo dục mầm non hiện nay, trên các mặt quy mô, mạng lưới,
đội ngũ giáo viên, chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục trẻ ta thấy giáo
dục mầm non đã có chỗ đứng trong hệ thống giáo dục quốc dân, đã tạo được
những tiền đề cho sự phát triển, song trong giáo dục Mầm non còn tồn tại
những điểm yếu, những điều còn bất cập trước yêu cầu phát triển của xã hội
nói chung và của giáo dục nói riêng.
Trên tinh thần đó, Nghị quyết Hội nghị lần thứ II của Ban chấp hành
TW Đảng (Khóa VIII- 1996) đã định hướng chiến lược phát triển giáo dục-
đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và đặt ra các
nhiệm vụ cụ thể cuả giáo dục- đào tạo đến năm 2020. Trong bốn giải pháp


16
chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo ở các cấp học, vấn đề
"đổi mới công tác quản lý giáo dục" được xem là một trong những nhiệm vụ
trọng tâm, bức xúc. Đồng thời quán triệt sâu sắc Quyết định 161/2002/QĐ-
TTg của Thủ tướng chính phủ, cần đẩy mạnh công tác phát triển cho giáo dục
mầm non, đưa giáo dục Mầm non trở lại đúng vị trí của mình.

Ngành giáo dục đào tạo Quận Thanh Xuân là một quận ven ngoại thành
mới được thành lập hơn 10 năm nay, Quận Thanh Xuân đang từng bước đi
lên để tự khẳng định mình về mọi mặt văn hoá, chính trị, kinh tế và giáo dục
để theo kịp các Quận huyện khác trong nội thành Hà nội. Một trong những
mục tiêu hàng đầu của ngành giáo dục Quận Thanh Xuân đó chính là xây
dựng đội ngũ cán bộ quản lý các ngành học nói chung và của ngành Mầm
Non nói riêng. Với những yêu cầu và đòi hỏi cấp thiết phải phát triển đồng bộ
về mọi mặt trong giai đoạn này, việc phát triển đội ngũ cán bộ quản lý đủ về
số lượng, mạnh về chất lượng, đồng bộ về cơ cấu góp phần thực hiện mục tiêu
chung cho sự nghiệp giáo dục đó là: "Nâng cao dân trí- đào tạo nhân lực - bồi
dưỡng nhân tài", phục vụ tốt cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
Với những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài "Giải pháp phát triển
đội ngũ cán bộ quản lý các trường Mầm non quận Thanh Xuân hiện
nay", với mong muốn góp phần vào việc tìm ra một số giải pháp hữu hiệu
nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ Cán bộ quản lý trường Mầm non trong
Quận Thanh Xuân.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất giải pháp phát triển đội
ngũ cán bộ quản lý trường Mầm non, góp phần phát triển đội ngũ cán bộ
quản lý và nâng cao chất lượng Giáo dục Mầm non của Quận Thanh Xuân.
3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu


17
Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục Mầm non quá trính hình thành và
phát triển

3.2. Đối tượng nghiên cứu

Giải pháp phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục trường Mầm non
quận Thanh Xuân
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục
Mầm non
4.2. Đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ quản lý trường Mầm non Quận
Thanh Xuân và các giải pháp hiện hành về vấn đề này
4.3. Xây dựng những giải pháp có tính khả thi nhằm phát triển đội ngũ cán
bộ quản lý Mầm non Quận Thanh Xuân trong giai đoạn hiện nay
5. Giả thuyết khoa học
Đội ngũ cán bộ quản lý trường Mầm non Quận Thanh Xuân đang phát
triển còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng do công tác phát triển đội ngũ
chưa mang tính đồng bộ và chưa có sự đầu tư hiệu quả. Nếu đề xuất các giải
pháp phát triển đội ngũ cán bộ giáo dục Mầm non Quận Thanh Xuân trên cơ
sở thực trạng và đặc điểm của Quận sẽ góp phần đẩy nhanh quá trình phát
triển giáo dục Mầm non của một Quận non trẻ đang trong giai đoạn xây dựng
và trưởng thành nói chung và nâng cao được chất lượng đội ngũ cán bộ quản
lý GDMN nói riêng.
6. Phạm vi nghiên cứu
Vì hạn chế về nguồn lực và thời gian nên đề tài chỉ tập trung nghiên
cứu đội ngũ cán bộ quản lý trường mầm non trong Quận Thanh Xuân ( gồm
18 trường công lập). Từ đó đề xuất giải pháp phát triển đội ngũ cán bộ quản lý
trường Mầm non Quận Thanh Xuân hiện nay.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu


18
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận:
Nghiên cứu các văn kiện, đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước về
phát triển giáo dục nói chung và GDMN nói riêng trong giai đoạn hiện nay.

Nghiên cứu tạp chí, các tài liệu, giáo trình, sách tham khảo và các đề tài
nghiên cứu có liên quan đến đề tài để phân tích tổng hợp.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Sử dụng nhóm phương pháp trò chuyện, quan sát, phỏng vấn, phiếu điều tra,
tổng kết kinh nghiệm
- Nhóm các phương pháp xử lý số liệu:
Sử dụng các công thức toán học, phương pháp so sánh.
8. Những đóng góp của luận văn
- Làm rõ thực trạng về đội ngũ cán bộ quản lý trường Mầm non Quận Thanh
Xuân hiện nay
- Đề xuất giải pháp phát triển đội ngũ cán bộ quản lý trường Mầm non, góp
phần phát triển đội ngũ cán bộ quản lý và nâng cao chất lượng Giáo dục
Mầm non của Quận Thanh Xuân hiện nay














19



CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ QUẢN LÝ
TRƢỜNG MẦM NON
1.1. Những khái niệm chủ yếu
1.1.1. Khái niệm quản lý giáo dục, quản lý nhà trường
1.1.1.1. Quản lý giáo dục
Quản lý giáo dục là một bộ phận quan trọng của hệ thống quản lý xã
hội cũng đã xuất hiện từ lâu và tồn tại dưới mọi chế độ xã hội. Trong lý luận
quản lý giáo dục, khái niệm quản lý giáo dục được hiểu theo những cách hiểu
khác nhau về giáo dục. Có người cho rằng quản lý giáo dục là tập hợp những
biện pháp nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ
thống giáo dục, đảm bảo sự tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống cả về mặt
số lượng cũng như chất lượng. Nếu hiểu “giáo dục” là các hoạt động diễn ra
trong xã hội nói chung thì “quản lý giáo dục” là quản lý mọi hoạt động giáo
dục trong xã hội. Theo đó quản lý hiểu theo nghĩa rộng đó là: “Sự tác động có
ý thức của chủ thể quản lý xã hội đến mọi hoạt động giáo dục diễn ra trong
xã hội (Giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình, giáo dục cộng đồng ) nhằm
làm cho các hoạt động đó đạt kết quả mong muốn một cách hiệu quả nhất”.
Với cách tiếp cận khác nhau, các nhà nghiên cứu đã đưa ra khái niệm
quản lý giáo dục như sau:
- "Quản lý giaó dục là hệ thống những tác động có mục đích, có kế
hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ vận hành theo
đường lối nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện các tính chất của nhà
trường XHCN Việt Nam mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học- giáo dục
thế hệ trẻ, đưa hệ thống giáo dục tới mục tiêu dự kiến". [24,37]


20
- Quản lý giáo dục là tập hợp những biện pháp, phương pháp nhằm
đảm bảo cho sự vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo

dục, đảm bảo sự tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống cả về mặt số lượng
cũng như chất lượng.
Nếu chỉ nói đến các hoạt động trong ngành GD & ĐT, ở các cơ sở
giáo dục thì lúc đó quản lý giáo dục sẽ được hiểu là quản lý nhà trường và
quản lý một hệ thống các cơ sở giáo dục. Theo tác giả Đặng Quốc Bảo:
“Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quát là hoạt động điều hành, phối hợp
các lực lượng XH nhằm thúc đẩy mảng công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu
cầu phát triển XH”.
Có tác giả lại viết: “Quản lý hệ thống giáo dục có thể xác định như
là tác động của hệ thống, có kế hoạch, có ý thức và hướng đích của chủ thể
quản lý ở các cấp khác nhau, đến tất cả các mắt xích của cuộc sống (từ Bộ
giáo dục & đào tạo đến các trường, các cơ sở giáo dục khác ) nhằm mục
đích đảm bảo việc giáo dục XHCN cho thế hệ trẻ trên cơ sở nhận thức và
vận dụng những quy luật chung của CNXH cũng như các quy luật của quá
trình giáo dục, của sự phát triển thể lực và trí lực của thế hệ trẻ em, thiếu
niên, thanh niên” [ 28,50].
Trong quản lý giáo dục, đối tượng quản lý hàng đầu là những con
người với các quan hệ liên nhân cách (giáo viên, học sinh, nhân viên, các lực
lượng xã hội tham gia giáo dục ) hành động của họ từng lúc bị chi phối bởi
nhiều yếu tố rất phức tạp (động cơ, nguyện vọng, nhu cầu, hoàn cảnh gia đình
và xã hội, sự hứng thú, tự giác và sự ép buộc ) nên việc xử lý các tình huống
cụ thể đòi hỏi sự khôn khéo, tế nhị, sự nhạy cảm, sáng tạo, các kinh nghiệm
xử lý khôn ngoan của người quản lý. Trong hoạt động quản lý luôn luôn có sự
kết hợp giữa tính khoa học và tính nghệ thuật, tác giả Hà Sỹ Hồ đã nêu:
“Quản lý xã hội nói chung, quản lý giáo dục nói riêng vừa là khoa học, vừa là
nghệ thuật” [15,37]


21
Tác giả Phạm Minh Hạc đã đưa ra một khái niệm vừa khái quát

nhưng vẫn cụ thể, hợp lý và dễ hiểu: “Quản lý giáo dục là quản lý trường
học, thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm
của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục của
Đảng, thực hiện các tính chất của nhà trường XHCNVN mà tiêu điểm hội
tụ là quá trình dạy học- giáo dục thế hệ trẻ đưa hệ GD tới mục tiêu dự
kiến, tiến lên trạng thái mới về chất”
Từ những khái niệm trên chúng ta có thể hiểu, quản lý giáo dục là sự
tác động có ý thức cuả chủ thể quản lý tới khách thể quản lý nhằm đưa hoạt
động sư phạm cuả hệ thống giáo dục đạt tới kết quả mong muốn.
1.1.1.2. Quản lý nhà trường
Nhà trường là bộ phận rất quan trọng của hệ thống giáo dục quốc dân.
Nhà trường còn là hệ thống xã hội, một thiết chế đặc biệt của xã hội. Nhà
trường là nơi truyền bá nền văn minh nhân loại và kiến tạo kinh nghiệm xã
hội cho một bộ phận dân cư nhất định. Sản phẩm của nhà trường là những con
người với những phẩm chất và kiến thức theo mục tiêu đã đặt ra.
Nhà trường bao gồm những tập thể con người. Đó là những giáo viên,
cán bộ, nhân viên. Nhà trường còn có một tập thể đặc biệt đó là học sinh. Hội
cha mẹ học sinh cũng là một bộ phận của nhà trường. Trong nhà trường mỗi
thành viên có nhiệm vụ cụ thể, làm việc cùng nhau trong các tổ, các phòng,
ban chuyên môn. Tất cả mọi thành viên, mọi bộ phận trong nhà trường đều
hoạt động cho mục tiêu chung của nhà trường là giáo dục thế hệ trẻ, nâng cao
chất lượng dạy và học, xây dựng nhà trường vững mạnh.
Hoạt động của từng loại nhà trường được chuyên biệt hóa. Trong cuốn
"Cơ sở lý luận của khoa học quản lý giaó dục, M.I.Kôđacốp viết: "Quản lý
công việc nhà trường là hệ thống xã hội- sư phạm, đã chuyên môn hóa, quy
định tác động của ý thức, có kế hoạch và hướng đích cuả chủ thể quản lý đến
tất cả các mặt của đời sống nhà trường, nhằm đảm bảo sự vận hành tối ưu về


22

các mặt xã hội - kinh tế, tổ chức- sư phạm của quá trình dạy học và giáo dục
thế hệ đang lớn lên "[33,112]
Căn cứ nhiệm vụ, quyền hạn của nhà trường được quy định tại điều 58
chương III mục 2 của Luật giaó dục năm 2005 thì quản lý trường học thực
chất là tác động của chủ thể quản lý bên ngoài nhà trường và tác động của chủ
thể quản lý bên trong nhà trường.
Quản lý ngoài nhà trường: Là những tác động quản lý của các cơ quan
quản lý giáo dục cấp trên nhằm hướng dẫn và tạo điều kiện cho hoạt động
giảng dạy và học tập của nhà trường. Quản lý ngoài nhà trường cũng gồm
những chỉ dẫn, quyết định của các thực thể bên ngoài nhà trường nhưng có
liên quan trực tiếp đến nhà trường như cộng đồng được đại diện dưới hình
thức hội đồng nhà trường nhằm định hướng sự phát triển cuả nhà trường và
hỗ trợ, tạo điều kiện cho việc thực hiện phương hướng phát triển đó.
Quản lý bên trong nhà trường bao gồm các hoạt động quản lý nhân lực,
quản lý học sinh, quản lý quá trình dạy học- giáo dục, quản lý cơ sở vật chất
trang thiết bị trường học, quản lý tài chính trường học, quản lý lớp học như
nhiệm vụ của giáo viên, quản lý các mối quan hệ giữa nhà trường và cộng đồng.
1.1.2. Quản lý giáo dục Mầm non, quản lý trường Mầm non
1.1.2.1. Quản lý giáo dục Mầm non
Giáo dục mầm non là một bộ phận của hệ thống giáo dục quốc dân Việt
Nam. GDMN tại các cấp đều nhằm mục đích tạo ra những điều kiện thuận lợi
cho các cơ sở GDMN thực hiện tốt mục tiêu kế hoạch đào tạo. Vì vậy, quản
lý GDMN được hiểu: “ Quản lý GDMN là hệ thống những tác động có mục
đích có kế hoạch của các cấp quản lý đến các cơ sở GDMN nhằm tạo ra
những điều kiện tối ưu cho việc thực hiện mục tiêu đào tạo” [13,10]
Quản lý GDMN là thực hiện chức năng quản lý (kế hoạch hoá, tổ chức,
chỉ đạo, kiểm tra) xuyên suốt trong quá trình quản lý đối với công tác phát
triển số lượng, chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ, là quản lý đội ngũ cán bộ,



23
giáo viên, quản lý cơ sở vật chất, tiến hành xã hội hoá công tác giáo dục và
huy động cộng đồng.
1.1.2.2. Quản lý trường Mầm non
Trường Mầm non là đơn vị cơ sở của bậc giáo dục mầm non nên quản
lý trường Mầm non là khâu cơ bản của hệ thống quản lý ngành học. Đó là quá
trình tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý (hiệu trưởng) đến
tập thể cán bộ giáo viên để chính họ tác động trực tiếp đến quá trình chăm sóc
giáo dục trẻ nhằm thực hiện có chất lượng mục tiêu, kế hoạch giáo dục của
nhà trường, trên cơ sở tận dụng các tiềm lực vật chất và tinh thần của xã hội,
nhà trường và gia đình.
Trường Mầm non là một tổ chức xã hội được xây dựng trên cơ sở tự
nguyện, với sữ hỗ trợ của nhà nước và nhân dân về vật chất cũng như tinh
thần. Đây là một môi trường đặc biệt: vừa mang tính chất của một trường học,
vừa mang tính chất của một gia đình, giữa cô và trẻ vừa có quan hệ xã hội
(thầy- trò) vừa có quan hệ theo kiểu gia đình (mẹ - con). Mọi hoạt động của
trẻ hoà quyện vào nhau: “học bằng chơi- chơi mà học”.
Hoạt động của nhà trường Mầm non rất đa dạng và phức tạp. Người
hiệu trưởng làm tốt công tác quản lý sẽ góp phần thực hiện tốt các mục tiêu cơ
bản của nhà trường đó là:
- Thu hút ngày càng đông số trẻ trong độ tuổi đến trường trên địa bàn hành
chính nơi trường đóng.
- Đảm bảo chất lượng chăm sóc và giáo dục trẻ em theo mục tiêu đã đề ra.
- Xây dựng tập thể sư phạm lành mạnh, đủ sức thực hiện các nhiệm vụ đã đề ra.
- Xây dựng, sử dụng và bảo quản tốt cơ sở vật chất, trang thiết bị của nhà
trường.
- Thu hút các tổ chức xã hội tham gia vào việc xây dựng, quản lý và phát triển
nhà trường, tạo ra sự thống nhất các lực lượng giáo dục trong việc chăm sóc,
giáo dục trẻ em.



24
Từ khái niệm trên cho thấy, thực chất của công tác quản lý trường Mầm
non là quản lý quá trình chăm sóc giáo dục trẻ, đảm bảo cho quá trình đó vận
hành thuận lợi và có hiệu quả.
Quá trình chăm sóc bao gồm các nhân tố tạo thành như sau:
- Mục tiêu nhiệm vụ chăm sóc giáo dục trẻ.
- Nội dung chăm sóc giáo dục trẻ.
- Phương pháp, phương tiện chăm sóc giáo dục trẻ.
- Giáo viên (lực lượng giáo dục)
- Trẻ em từ 0 đến 6 tuổi (đối tượng giáo dục)
- Kết quả chăm sóc giáo dục trẻ.
Các nhân tố của quá trình chăm sóc giáo dục trẻ có quan hệ tương hỗ,
trong đó mục tiêu nhiệm vụ giáo dục giữ vai trò định hướng cho sự vận động
phát triển của toàn bộ quá trình và cho từng nhân tố.
1.1.3. Khái niệm đội ngũ cán bộ quản lý trường học
- Nói đến đội ngũ ta có thể hiểu: “Đội ngũ là tập hợp một số đông
người cùng chức năng hoặc nghề nghiệp, thành một lực lượng” [32,399]. Căn
cứ vào đó đưa ra định nghĩa đội ngũ CBQL trường học là lực lượng tập hợp
những người đứng đầu nhà trường (hiệu trưởng và phó hiệu trưởng) cùng
chung nhiệm vụ quản lý trường học.
CBQL trường học (trong phạm vi luận văn) là hiệu trưởng và phó hiệu
trưởng trường MN, là người chịu trách nhiệm trước nhà nước về trọng trách
quản lý nhà trường, nhằm thực hiện tốt mục đích chăm sóc, giáo dục trẻ ở các
trường MN mà Đảng và nhà nước định hướng chiến lược phát triển giáo dục
đào tạo trong sự vân hành chung của hệ thống GDQD.
1.1.4. Luận đề về phát triển đội ngũ cán bộ quản lý
 Khái niệm phát triển và phát triển đội ngũ
Phát triển theo từ điển Tiếng Việt: “Biến đổi hoặc làm cho biến đổi từ ít
đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp” [31,759]



25
Phát triển đội ngũ CBQL tức là tạo ra giá trị mới cho đội ngũ để đội
ngũ có được thay đổi theo chiều hướng tích cực.
Như trong tất cả các nhà trường ở các bậc học, đội ngũ trong trường
Mầm non bao gồm tất cả cán bộ, giáo viên, nhân viên đang làm việc. Họ là
lực lượng trực tiếp thực hiện công tác chăm sóc giáo dục trẻ và xây dựng nhà
trường. Vì vậy có thể nói đội ngũ của nhà trường có vai trò quyết định trong
chất lượng hoạt động của nhà trường.
 Việc quy hoạch và phát triển đội ngũ CBQL thực chất là phát triển
nguồn nhân lực trong lĩnh vực quản lý giáo dục.
Vấn đề quản lý nguồn nhân lực bao gồm 3 mặt phải quản lý: Quy
hoạch và phát triển nguồn nhân lực, sử dụng nguồn nhân lực; nuôi dưỡng môi
trường cho nguồn nhân lực.
Theo Giáo sư Nguyễn Minh Đường, phát triển nguồn nhân lực có thể
hiểu theo những nghĩa như sau: “Phát triển nguồn nhân lực được hiểu với một
khái niệm rộng hơn bao gồm 3 mặt: Phát triển sinh thể, phát triển nhân cách
đồng thời tạo một môi trường xã hội thuận lợi cho nguồn lực phát triển”[12] .
Một cách tổng quát, phát triển nguồn nhân lực là gia tăng giá trị vật chất, giá
trị tinh thần, đạo đức và giá trị thể chất cho con người.
 Nội dung của việc phát triển đội ngũ CBQL:
Gồm 3 nội dung lớn của lý thuyết quản lý nguồn nhân lực, đó là:
- Nội dung cơ bản thứ nhất là xây dựng đội ngũ bao gồm: Quy hoạch,
tuyển dụng, sắp xếp bố trí.
- Nội dung chủ yếu thứ hai là sử dụng đội ngũ đó bao gồm triển khai
việc thực hiện các quy định về chức năng, nhiệm vụ của đội ngũ CBQL, đánh
giá, sàng lọc.
- Nội dung chủ yếu thứ ba là phát triển đội ngũ, bao gồm việc tạo môi
trường thuận lợi cho đội ngũ phát huy tiềm năng của họ, thực hiện tốt chế độ

chính sách đối với đội ngũ CBQL; chú ý công tác bồi dưỡng đội ngũ; thưởng


26
phạt rõ ràng, tạo điều kiện cho những cán bộ giáo viên có tiềm năng và hoài
bão được thăng tiến.
Hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và công
nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin đã dẫn đến xu hướng toàn cầu hoá và
xu hướng này đòi hỏi phải có sự thay đổi trong mọi lĩnh vực. Đối với giáo
dục, đổi mới và phát triển đội ngũ CBQL là một sự đột phá cho phát triển
chất lượng giáo dục. Điều này đã được chính phủ phê duyệt đề án xây
dựng, nâng cao đội ngũ nhà giáo và CBQL giai đoạn 2005- 2010, trong đó
nội dung trọng tâm: “Xây dựng và thực hiện chuẩn hoá đội ngũ CBQLGD.
Đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên đội ngũ CBQLGD các cấp về kiến thức,
kỹ năng quản lý và rèn luyện phẩm chất đạo đức; đồng thời điều chỉnh sắp
xếp lại cán bộ theo yêu cầu mới phù hợp với năng lực và phẩm chất của
từng người. Sử dụng các phương tiện, thiết bị kỹ thuật thích hợp để nâng
cao hiệu quả công tác quản lý”
1.2. Vị trí, mục tiêu, nhiệm vụ của giáo dục Mầm non và những đặc
trƣng của giaó dục Mầm non
1.2.1. Vị trí, mục tiêu, nhiệm vụ của giáo dục Mầm non
 Vị trí, mục tiêu của giáo dục Mầm non
Ngành học Mầm non có vị trí quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc
dân. Nó là ngành học mở đầu, khâu đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc
dân, có vị trí quan trọng là hình thành những cơ sở ban đầu của nhân cách con
người mới và chuẩn bị những tiền đề cần thiết cho trẻ vào phổ thông. Mục
tiêu giáo dục Mầm non là thực hiện chăm sóc giáo dục có chất lượng trẻ em
từ 0 -5 tuổi để trẻ phát triển toàn diện về thể lực, tình cảm, trí tuệ, hình thành
nhân cách trẻ em Việt Nam, trên cơ sở xây dựng một đội ngũ giáo viên giỏi
về chuyên môn cũng như kỹ năm tư vấn tại gia đình và các loại hình giáo dục

mầm non đa dạng, phong phú, tương ứng với một hệ thống cơ sở vật chất phù
hợp, hướng tới đảm bảo công bằng cho mọi trẻ em.


27
Hồ Chủ Tịch đã nói: “Dạy trẻ như trông cây non ”, giáo dục Mầm non
có tác động cực kỳ quan trọng trong sự hình thành và phát triển nhân cách con
người Việt Nam hiện đại.
Giáo dục Mầm non góp phần chuẩn bị những tiền đề cần thiết cho trẻ
vào phổ thông như kiến thức, kỹ năng kỹ xảo, thói quen học tập.
Mục đích của giáo dục đề ra cho mỗi cấp học, cho từng giai đoạn
phát triển lứa tuổi cuả học sinh, thường gọi là mục tiêu giáo dục hay mục
tiêu đào tạo.
Những căn cứ xây dựng mục tiêu giáo dục Mầm non xuất phát từ mục
đích giáo dục, từ đặc điểm lứa tuổi trẻ 3 tháng đến 6 tuổi và những yêu cầu
cần thiết cho trẻ bước vào phổ thông.
Nội dung mục tiêu của giáo dục Mầm non: Hình thành cơ sở ban đầu
của nhân cách con người Việt Nam, làm cho trẻ:
+ Khoẻ mạnh, nhanh nhẹn, hồn nhiên, vui tươi có thể phát triển hài hoà.
+ Giàu lòng thương yêu, biết quan tâm, thông cảm, nhường nhịn giúp
đỡ mọi người xung quanh, thât thà lễ phép, mạnh dạn.
+ Nhạy cảm với cái đẹp, biết bảo vệ cái đẹp và mong muốn tạo ra cái
đẹp ở xung quanh.
+ Thông minh, ham hiểu biết, tích cực chủ động biết hoạt động theo
mục đích, có những tiền đề cần thiết để vào học phổ thông.
Cũng như các bậc học khác, GDMN luôn có mục đích phát triển con
người toàn diện. Lứa tuổi mầm non là lứa tuổi còn non nớt trong cuộc sống.
Ngay từ khi mới chào đời, sự phát triển của trẻ phụ thuộc chủ yếu vào người
lớn và được phát triển mạnh nhất, nhanh nhất ở giai đoạn này. Vì vậy nhiều
nhà tâm lý, nhà giáo dục đã khẳng định: Nếu không giáo dục trẻ ngay trong

giai đoạn này một cách khoa học và kịp thời thì rất khó có thể phát triển con
người tốt ở giai đoạn sau. Nghiên cứu sâu sắc về đặc điểm phát triển tâm sinh
lý trẻ em, nhà giáo dục học Xôviết Macarenco đã viết: “Những cơ sở cơ bản


28
của việc giáo dục đã có từ trước 5 tuổi. Tất cả những điều dạy trẻ trong thời
gian ấy chiếm 90% toàn bộ trình tự giáo dục của trẻ. Về sau, sự giáo dục con
người vẫn tiếp tục, nhưng lúc ấy là lúc bắt đầu nếm quả còn nụ hoa thì đã vun
trồng trong 5 năm đầu tiên” [34,15].
Giáo dục Mầm non luôn được Đảng và nhà nước ta quan tâm, trong
chiến lược phát triển giáo dục năm 2001-2010 chính phủ đã đề ra mục tiêu
giáo dục Mầm non đó là: “Nâng cao chất lượng cơ sở giáo dục trẻ trước 6
tuổi, tạo cơ sở để trẻ phát triển toàn diện về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm
mỹ, mở rộng hệ thống nhà trẻ và trường lớp mẫu giáo trên mọi địa bàn dân
cư, đặc biệt ở nông thôn và những vùng khó khăn, tăng cường các hoạt động
phổ biến kiến thức và tư vấn nuôi dạy trẻ trong các gia đình”. [ 8]
Xứng đáng với sự chăm lo đó, GDMN đã và đang khẳng định sự đóng
góp có ý nghĩa trong việc đào tạo nhân lực cho đất nước trong thời kỳ đổi
mới. Theo xu thế tiến bộ của thời đại, đó là khâu đầu tiên của quá trình giáo
dục thường xuyên cho mọi người. Do vậy, vị trí của GDMN ngày càng được
khẳng định trong toàn bộ sự nghiệp giáo dục đào tạo con người.
 Nhiệm vụ của giáo dục mầm non
- Thực hiện nội dung giáo dục toàn diện và ngày càng nâng cao chất
lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ theo mục tiêu kế hoạch đề ra : đến
năm 2010 hầu hết trẻ em đều được chăm sóc, giáo dục bằng các hình thức
thích hợp. Đến năm 2010 tăng tỉ lệ trẻ dưới 3 tuổi đến nhà trẻ lên 18%, trẻ 3-5
tuổi đến trường là 67%, riêng trẻ 5 tuổi huy động 95% đến mẫu giáo. Giảm tỷ
lệ trẻ suy dinh dưỡng dưới 15% vào năm 2010. Tạo cơ hội cho trẻ khuyết tật
được học tập ở một trong các loại trường, lớp hoà nhập, bán hoà nhập hoặc

chuyên biệt đạt tỷ lệ 70% vào năm 2010.
- Tuyên truyền và hướng dẫn công tác nuôi dạy trẻ theo khoa học cho
các bậc cha mẹ, ủng hộ những tập quán tốt, bài trừ những tập quán phản khoa


29
học trong việc chăm sóc, giáo dục trẻ ở gia đình và cộng đồng, góp phần cùng
lực lượng xã hội khác quan tâm thích đáng đến những trẻ thiệt thòi.
-Phát huy ảnh hưởng của mình, thông qua việc tác động vào công tác
nuôi dạy trẻ trong gia đình. Kết hợp chặt chẽ các cuộc vận động: Toàn dân
đưa trẻ đến trường; kế hoạch hoá gia đình, phong trào nuôi con khoẻ, dạy con
ngoan, xây dựng gia đình văn hoá mới góp phần đảm bảo hạnh phúc gia đình,
tăng năng suất lao động.
1.2.2. Vị trí , nhiệm vụ, tính chất và mục tiêu của trường Mầm non
1.2.2.1. Vị trí của trường Mầm non
Trường Mầm non là đơn vị cơ sở của bậc học Mầm non thuộc hệ thống
giáo dục quốc dân. Đây là khâu đầu tiên cuả quá trình giáo dục thường xuyên
cho mọi người. Trường có vị trí quan trọng đó là xây dựng cơ sở ban đầu cho
việc hình thành, phát triển nhân cách và chuẩn bị những tiền đề cần thiết cho
trẻ em bước vào trường tiểu học.
Đối tượng giáo dục của trường Mầm non là trẻ em từ 3 đến 6 tuổi. Đây
là lứa tuổi còn non nớt, yếu ớt nhưng tăng trưởng và phát triển rất nhanh. Trẻ
em dễ mắc các bệnh do sức đề kháng kém và ở lứa tuổi này những yếu tố đầu
tiên của nhân cách được hình thành Sự lớn lên và phát triển của trẻ chủ yếu
phụ thuộc vào việc chăm sóc giáo dục của người lớn. Những thiếu hụt ở giai
đoạn này đều có ảnh hưởng không tốt đối với các giai đoạn phát triển tiếp
theo. Nhiều công trình nghiên cứu khoa học trên thế giới và Việt Nam đã
chứng minh lợi ích của việc can thiệp vào lứa tuổi mầm non là rất to lớn và
lâu dài. Việc chăm sóc sức khoẻ của trẻ một cách khoa học từ khi trẻ còn nhỏ
sẽ giảm đáng kể nguy cơ trẻ bị suy dinh dưỡng, đảm bảo sự phát triển bền

vững của thể chất. Mặt khác, trí tuệ, tính cách và hành vi xã hội của đứa trẻ
được hình thành trong những năm đầu của cuộc đời. Những tác động sư phạm
đúng đắn đối với lứa tuổi này sẽ giúp trẻ phát triển toàn diện, đúng hướng,
làm cơ sở cho sự phát triển trong những giai đoạn tiếp theo cuả con người. Vì


30
thế trường mầm non có vị trí quan trọng tạo dựng nền tảng ban đầu của nhân
cách, xây dựng những tiền đề cần thiết để góp phần phổ cập giáo dục tiểu học,
phát huy hiệu quả nguồn nhân lực hiện tại vào việc nâng cao năng suất lao
động xã hội và mang lại niềm hạnh phúc cho mỗi gia đình.
Chất lượng quản lý trường Mầm non ảnh hưởng trực tiếp đến chất
lượng thực hiện mục tiêu giaó dục cuả trường.
1.2.2.2. Nhiệm vụ
- Tổ chức chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục trẻ theo mục tiêu chương
trình giáo dục.
- Quản lý đội ngũ cán bộ, giaó viên, nhân viên và trẻ em gửi vào
trường.
- Quản lý sử dụng đất đai, trường sở, trang thiết bị và tài chính của
trường theo quy định của pháp luật.
- Kết hợp chặt chẽ với gia đình, các tổ chức xã hội và các nhân trong
hoạt động chăm sóc giaó dục trẻ em.
- Truyên truyền hướng dẫn kiến thức nuôi dạy trẻ trong các bậc cha mẹ
và cộng đồng.
- Tổ chức cho cán bộ, giaó viên, nhân viên tham gia vào các hoạt động
xã hội.
Giáo dục trẻ em ở trường Mầm non mang tính chất giáo dục gia đình,
trẻ đến trường chiếm phần lớn thời gian trong ngày, tại đây trẻ được sống,
được hoạt động trong môi trường gần gũi với gia đình. Trẻ được học bằng
chơi- chơi mà học, việc học của trẻ diễn ra một cách hết sức tự nhiên ở mọi

lúc mọi nơi trong sinh hoạt của trẻ. Những kiến thức mà trẻ học được đó là
những tri thức đơn giản của cuộc sống, chủ yếu để trẻ thích ứng với và học
làm người. Chính vì vậy nhiệm vụ của trường Mầm non không chỉ thực hiện
việc giáo dục trẻ mà còn chăm sóc nuôi dưỡng trẻ phát triển một cách toàn
diện. Để thực hiện được các nhiệm vụ đó nhà trường phải làm tốt công tác


31
tuyên truyền, hướng dẫn kiến thức khoa học nuôi dạy con trong các bậc cha
mẹ và cộng đồng; thường xuyên kết hợp chặt chẽ với gia đình để thống nhất
nội dung, phương pháp, biện pháp giáo dục và nâng cao chất lượng chăm sóc
giáo dục trẻ.
Mọi hoạt động của trường Mầm non nhằm thực hiện mục tiêu giúp trẻ
phát triển tốt về thể chất, trí tuệ, tình cảm, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố
đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ bước vào lớp 1.
1.2.2.3. Tính chất và mục tiêu của trường Mầm non
Trường Mầm non thực hiện việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ
em nhằm bước đầu hình thành và phát triển nhân cách toàn diện.
Giáo dục trẻ em ở trường Mầm non mang tính chất giáo dục gia đình
“Cô giáo như mẹ hiền”. Việc giáo dục trẻ được tiến hành ở mọi lúc, mọi nơi
trong mọi sinh hoạt và hoạt động hành ngày; trẻ học bằng chơi- chơi mà học.
Trường MN được tổ chức trên cơ sở tự nguyện với sự hỗ trợ của Nhà
nước, của nhân dân và các lực lượng xã hội về vật chất cũng như tinh thần.
Ngày nay, để đáp ứng nhu cầu của xã hội, trường MN được tổ chức
theo các loại hình công lập, bán công, dân lập, tư thục. Dù ở loại hình nào
cũng đều chịu sự quản lý của Nhà nước, của cơ quan quản lý giáo dục theo sự
phân công, phân cấp.
1.2.3. Đặc trưng cơ bản của giáo dục Mầm non
Giáo dục Mầm non là khâu đầu tiên, đặt nền móng cho sự hình thành
và phát triển nhân cách thế hệ trẻ, đây là bậc học có nhiều đặc trưng riêng so

với các ngành học, bậc học khác trong hệ thống giáo dục quốc dân. Do đó,
công tác quản lý GDMN có những đặc thù riêng và có những yêu cầu riêng
đối với CBBQL GDMN:
+ GDMN thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ 3 tháng
đến 6 tuổi và nội dung GDMN phải đảm bảo hài hoà giữa nuôi dưỡng,
chăm sóc và giáo dục, phù hợp với sự phát triển tâm sinh lý của trẻ em.


32
Phương pháp chủ yếu trong GDMN là thông qua việc tổ chức các hoạt
động vui chơi để giúp trẻ em phát triển toàn diện; chú trọng việc nêu
gương, động viên, khích lệ trẻ.
+ GDMN là khâu đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân nhưng cho đến nay
nó vẫn mang tính chất bắt buộc đối với mọi trẻ em. Nhiều trẻ em trong độ tuổi
chưa đến trường. Nhiều loại hình chăm sóc, giáo dục trẻ em tồn tại. Sự tồn tại
và phát triển của ngành chủ yếu dựa vào sự đóng góp và hỗ trợ của cộng
đồng.
+ GDMN có một đội ngũ cán bộ, giáo viên hầu hết là nữ nên có nhiều mặt tốt
như cẩn thận, tỉ mỉ, nhẹ nhàng tình cảm, dễ xúc động nhưng cũng hay mặc
cảm, đố kỵ, tự ti điều này đòi hỏi CBQLMN không chỉ đảm bảo những
phẩm chất năng lực quản lý chung của người CBQL mà còn phải có phẩm
chất năng lực quản lý đáp ứng những đặc thù riêng của GDMN. Từ đó có
những tác động hợp lý nhằm đảm bảo cho GDMN vận động và phát triển theo
đúng quy luật phát triển của ngành cũng như của sự phát triển kinh tế- xã hội
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
1.2.4. Các loại hình trường Mầm non hiện nay và công tác quản lý
1.2.4.1. Các loại hình trường Mầm non
Chương III điều 48 Luật GD ( sửa đổi) được Quốc Hội khoá XI thông
qua ngày 20/5/2005 quy định nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân
được tổ chức theo các loại hình sau:

a. Trường công lập do nhà nước thành lập, đầu tư xây dựng cơ sở vật
chất, bảo đảm kinh phí hoạt động.
b. Trường dân lập do cộng đồng dân cư ở các cơ sở thành lập, đầu tư
xây dựng cơ sở vật chất và bảo đảm kinh phí hoạt động;
c. Trường tư thục do các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội- nghề nghiệp,
tổ chức kinh tế hoặc cá nhân thành lập, đầu tư xây dựng cơ sở vật


33
chất và bảo đảm kinh phí hoạt động bằng vốn ngoài nhân sách nhà
nước.
1.2.4.2. Đặc trưng từng loại hình trường Mầm non
a. Loại hình Mầm non công lập
Theo quyết định 161/2002/QĐ-TTG quy định ưu tiên phát triển loại
hình này chủ yếu ở vùng kinh tế- xã hội đặc biệt khó khăn, thuộc chương
trình 135 của Chính phủ quy định. Loại hình này hiện nay chiếm tỷ lệ rất ít
trong mạng lưới GDMN. Khác với các loại hình khác (dân lập, tư thục), loại
hình này được nhà nước đầu tư hoàn toàn, hàng năm có nguồn kinh phí từ
ngân sách giáo dục được cấp theo mức trên trẻ để trả lương cho cán bộ, giáo
viên, xây dựng cơ sở vật chất và các chi khác. Ngoài ra, loại hình này còn thu
học phí từ phụ huynh đóng góp theo quy định của UBND Thành phố.
b. Loại hình trường Mầm non dân lập:
Trường Mầm non dân lập là do cộng đồng dân cư cơ sở thành lập, đầu tư xây
dựng và đảm bảo kinh phí hoạt động. Cộng đồng là một tập hợp người có nhu
cầu, nguyện vọng lợi ích cùng chia sẻ. Ở nước ta cộng đồng có thể hiểu đó là
tập hợp dân cư sống trên một địa bàn cùng với tổ chức xã hội mà đại diện là
chính quyền địa phương. Trường Mầm non dân lập chủ yếu được thành lập ở
địa bàn nông thôn, do vậy lãnh đạo chính quyền cấp nào chịu trách nhiệm
trước nhân dân cấp đó về phát triển giáo dục MN trên địa bàn.
c. Loại hình trường Mầm non tư thục: Gồm 2 mô hình: Lớp mẫu giáo,

nhóm trẻ gia đình và trường Mầm non tư thục.
- Lớp Mẫu giáo, nhóm trẻ gia đình trong những năm gần đây có nhiều
biến động về số nhóm, số trẻ và người trông trẻ. Nhóm trẻ gia đình hình thành
và phát triển trên khắp địa bàn thị trấn và thành phố, đáp ứng nhu cầu gửi trẻ
đa dạng của các thành phần kinh tế. Hình thức này rất linh hoạt nhưng không
ổn định, khó quản lý.

×