Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Các biện pháp phát triển đội ngũ giảng viên của Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.PDF

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 108 trang )



MỤC LỤC


Trang
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
1
2. Mục đích nghiên cứu
2
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
2
4. Giả thuyết khoa học
3
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
3
6. Phương pháp nghiên cứu
3
7. Dự kiến cấu trúc của luận văn
3
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài
4
1.1. Đặt vấn đề
4
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài
5
1.2.1. Quản lý, quản lý giáo dục, quản lý nhà trường, quản lý nguồn
nhân lực
5


1.2.2. Phát triển
18
1.2.3. Giảng viên, đội ngũ giảng viên
19
Chương 2: Thực trạng đội ngũ giảng viên của học viện thanh thiếu
niên Việt Nam
34
2.1.Tình hình chung về Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam
34
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển
34
2.1.2. Chức năng nhiệm vụ của Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam
35
2.1.3. Loại hình, cơ cấu, qui mô đào tạo
37
2.1.4. Công tác nghiên cứu khoa học
39
2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển đội ngũ giảng viên trong Học viện
40
2.2.1. Những yếu tố khách quan ảnh hưởng đến sự phát triển của đội
ngũ giảng viên
40
2.2.2. Những yếu tố chủ quan ảnh hưởng tới sự phát triển
41


2.3. Thực trạng về đội ngũ của giảng viên Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam
43
2.3.1. Số lượng giảng viên
43

2.3.2. Thực trạng về cơ cấu giảng viên
46
2.3.3. Đánh giá chất lượng đội ngũ giảng viên của Học viện Thanh
thiếu niên Việt Nam
56
2.3.4. Thực trạng công tác quản lý xây dựng và phát triển đội ngũ giảng
viên của Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam
61
2.4. Nhận xét về thực trạng đội ngũ giảng viên và công tác quản lý phát
triển đội ngũ giáo viên
63
2.4.1. Những thành tựu
63
2.4.2. Những tồn tại
64
2.4.3. Thực trạng về phẩm chất đạo đức, chính trị của đội ngũ giảng viên
65
Chương3: Các biện pháp phát triển đội ngũ giảng viên tại Học viện
Thanh thiếu niên Việt Nam
68
3.1. Các căn cứ xây dựng và biện pháp phát triển đội ngũ giảng viên
của Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam
68
3.1.1. Định hướng phát triển của Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam
giai đoạn hiện nay
68
3.1.2. Yêu cầu đối với giảng viên của Học viện Thanh thiếu niên
Việt Nam trong những năm tới
71
3.1.3. Những vấn đề đặt ra cho công tác phát triển đội ngũ giảng viên

của Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam
74
3.2. Biện pháp phát triển đội ngũ giảng viên của Học viện Thanh Thiếu
niên Việt Nam
3.2.1. Biện pháp 1: Dự báo và xây dựng qui hoạch phát triển đội ngũ giảng viên
77
3.2.1. Biện pháp 1: Quản lý chặt chẽ các nguồn lực nghiên cứu khoa học
78
3.2.2. Biện pháp 2: Kế hoạch hoá công tác tuyển dụng và chọn lọc
3.2.3. Biện pháp 3: Hoàn thiện cơ cấu đội ngũ giảng viên
81
83



3.2.4. Biện pháp 4: Nâng cao phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn
cho đội ngũ giảng viên
85
3.2.5. Biện pháp 5: Hoàn thiện hệ thống các văn bản, qui định, chính
sách của nhà trường đối với việc quản lý đội ngũ giảng viên
87
3.2.6. Biện pháp 6: Tăng cường đãi ngộ cho đội ngũ giảng viên.
88
3.3. Điều kiện để thực hiện các biện pháp xây dựng và phát triển đội
ngũ giảng viên của Học viện Thanh Thiếu niên Việt Nam
90
3.4. Thăm dò tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp
90
3.4.1. Thăm dò tính cần thiết của các biện pháp
90

3.4.2. Thăm dò tính khả thi của các biện pháp
91
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Khuyến nghị
TÀI LIỆU THAM KHẢO
94
94
95
97
PHỤ LỤC




DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ĐNGV : Đội ngũ giảng viên
GV : Giảng viên
GVCH : Giảng viên cơ hữu
GVTG : Giảng viên thỉnh giảng
HV : Học viện
TTN : Thanh Thiếu niên
TNCS : Thanh niên Cộng sản
CNH – HĐH : Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá
GD : Giáo dục
GD - ĐT : Giáo dục - Đào tạo
XHH : Xã hội học
MN : Miền nam



1
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự
truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử, xã hội của các thế hệ loài người.
Nhờ có giáo dục mà các thế hệ nối tiếp nhau phát triển, tinh hoa văn hoá dân
tộc của nhân loại được kế thừa, bổ sung. Giáo dục có vị trí quan trọng trong
đời sống con người, giáo dục trở thành một hệ thống tổ chức rộng rãi ở tất cả
các nước trên thế giới. Ngày nay phát triển giáo dục trở thành quốc sách hàng
đầu, được thể hiện trong chiến lược phát triển của đất nước.
Nghị quyết hội nghị Trung ương II khoá VIII khẳng định: “Muốn tiến
hành công nhiệp hoá, hiện đại hoá thắng lợi phải phát triển mạnh giáo dục -
đào tạo, phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển mạnh
giáo dục - đào tạo, phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát
triển nhanh, bền vững”. Nghị quyết nhấn mạnh” Khâu then chốt để thực hiện
chiến lược phát triển giáo dục là phải đặc biệt chăm lo đào tạo, bồi dưỡng và
tiêu chuẩn hoá đội ngũ giáo viên cũng như cán bộ quản lý cả về chính trị tư
tưởng, đạo đức và năng lực chuyên môn nghiệp vụ” [6]. Để thực hiện mục tiêu
này, ngành giáo dục đào tạo cần phải có những giải pháp và bước đi thích hợp.
Để đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết
định cho sự phát triển của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, Đại hội IX của Đảng yêu cầu: “ Cần tạo chuyển biến cơ bản,
toàn diện về giáo dục đào tạo” [5].
Đất nước đang chuyển sang thời kỳ phát triển mới, trong bối cảnh Việt
nam đã gia nhập WTO với nhiều thời cơ, vận hội nhưng cũng phải đối mặt
với không ít khó khăn và thách thức. Đại hội X của Đảng tiếp tục khẳng định
“Con người là vốn quý nhất”. Giáo dục- đào tạo, Khoa học- công nghệ được
coi là “Quốc sách hàng đầu”. Văn kiện Đại hội X chỉ rõ “Giáo dục và đào tạo

với Khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực


2
thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Mục tiêu của giáo dục
nước ta là “Đào tạo con người Việt nam phát triển toàn diện, có đạo đức, có
tri thức, sức khoẻ thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất
và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc” [1].
Chỉ thị 40 - CT/TW ngày 15 tháng 6 năm 2004 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng về xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục giai đoạn 2005- 2010 đã chỉ rõ: “Nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục là lực lượng nòng cốt, có vai trò quan trọng”. Do vậy, muốn phát
triển giáo dục - đào tạo, điều quan trọng trước tiên là phải chăm lo xây dựng
và phát triển đội ngũ giáo viên. Vấn đề quản lý đội ngũ của các trường hiện
nay đang đứng trước những cơ hội nhưng cũng gặp không ít thách thức.
Học viện Thanh thiếu niên Việt nam trực thuộc Trung ương Đoàn
TNCS Hồ Chí Minh là nơi đào tạo đội ngũ cán bộ Đoàn, Hội , Đội. Do đặc
thù của công tác Đoàn, Hội, Đội yêu cầu ngày càng cao nên việc đào tạo đội
ngũ cán bộ có chất lượng đáp ứng với công tác Đoàn, Hội, Đội và những đòi
hỏi của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Vì vậy, việc nghiên cứu “Các biện pháp phát triển đội ngũ giảng
viên của Học viện thanh thiếu niên Việt nam trong giai đoạn hiện nay”
là rất cần thiết để góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên của Học
viện đáp ứng phần nào nhu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đề xuất các biện pháp phát triển đội ngũ giảng viên tại Học viện Thanh
thiếu niên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu

- Khách thể nghiên cứu: Đội ngũ giảng viên của Học viện Thanh thiếu
niên Việt Nam hiện nay;


3
- Đối tượng nghiên cứu: Phát triển đội ngũ giảng viên tại Học viện Thanh
thiếu niên Việt Nam.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu phát triển đội ngũ giảng viên đủ về số lượng, mạnh về chất lượng
và đồng bộ về cơ cấu thì có thể nâng cao chất lượng đào tạo tại Học viện
Thanh thiếu niên Việt Nam.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận liên quan đến đề tài
5.2. Phân tích thực trạng của đội ngũ giảng viên tại Học viện Thanh thiếu
niên Việt Nam
5.3. Đề xuất những biện pháp phát triển đội ngũ giảng viên của Học viện
Thanh thiếu niên Việt Nam
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận, phân tích và tổng kết kinh nghiệm.
- Phương pháp đàm thoại, chuyên gia.
- Phương pháp khảo nghiệm, kiểm chứng.
7. Dự kiến cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn được trình bày trong 3 chương
 Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
 Chương 2: Thực trạng về Đội ngũ giáo viên và công tác quản lý Đội
ngũ giáo viên của Học viện Thanh Thiếu niên Việt Nam.
 Chương 3: Các biện pháp phát triển đội ngũ giảng viên ở Học viện
Thanh Thiếu niên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.




4
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Đặt vấn đề
Khi bàn đến vai trò của giáo dục đối với sự phát triển kinh tế - xã hội,
khoá họp lần thứ 27 của UNESCO tại Pháp năm 1993 khẳng định: “Giáo dục
là chìa khoá tiến tới một xã hội tốt hơn, vai trò của giáo dục là phát triển tiềm
năng của con người, giáo dục là đòn bẩy mạnh mẽ nhất để tiến vào tương lai,
giáo dục là quyền cơ bản nhất của con người, giáo dục là điều kiện tiên quyết
để thực hiện nhân quyền, dân chủ, hợp tác trí tuệ, bình đẳng và tôn trọng lẫn
nhau” [40;Tr 22]
Tiến sĩ Raja Roy Singh viết: “Giáo dục phải là hàng đầu và đóng vai
trò chủ chốt trong sự phát triển xã hội tương lai” [40;Tr 22]
Trong sự nghiệp cách mạng; Đảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn
luôn quan tâm đến sự nghiệp giáo dục - đào tạo; thực sự coi giáo dục - đào
tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của toàn Đảng và toàn dân. Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã nhấn mạnh: “Phát
triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực
con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và
bền vững” [16]
Bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; ngành giáo
dục và đào tạo, đã và đang đứng trước những cơ hội phát triển mới, đồng thời
cũng phải đương đầu với những thử thách mới; yêu cầu phát triển quy mô
nhưng phải đảm bảo chất lượng, nâng cao hiệu quả giáo dục - đào tạo ở tất cả
các bậc học, cấp học đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết từ
mục tiêu, nội dung chương trình, phương pháp giáo dục - đào tạo, cơ chế
quản lý, hệ thống chính sách đến huy động các nguồn lực để phát triển giáo
dục - đào tạo và đặc biệt là các vấn đề về xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý

giáo dục - nhân tố quan trọng tác động trực tiếp đến chất lượng giáo dục -
đào tạo.


5
Đối với việc xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục,
quan điểm xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta là khẳng định vai trò quyết
định của nhà giáo trong việc nâng cao chất lượng giáo dục và tầm quan trọng
của đội ngũ cán bộ quản lý trong việc điều hành một hệ thống giáo dục đang
ngày càng mở rộng và phát triển. Trong giai đoạn mới của sự nghiệp phát
triển giáo dục, với bối cảnh quốc tế chứa nhiều thời cơ và thách thức, trước
những yêu cầu mới của sự phát triển kinh tế - xã hội và xu thế hội nhập, nhà
giáo và cán bộ quản lý giáo dục là lực lượng nòng cốt quyết định việc thực
hiện thắng lợi các mục tiêu của Chiến lược giáo dục.
Chiến lược phát triển giáo dục đào tạo đến năm 2010 đặt mục tiêu tăng
cả về quy mô và chất lượng đào tạo. Do vậy, xây dựng và phát triển đội ngũ
giáo viên là một việc quan trọng và cấp bách trong tình hình hiện nay.
Tuy nhiên, chưa có một nghiên cứu nào về đội ngũ giảng viên của Học
viện Thanh, Thiếu niên Việt Nam được thực hiện một cách hệ thống; đặc biệt
là giai đoạn hiện nay khi Học viện đang tự khẳng định mình trong hệ thống
giáo dục quốc dân với bối cảnh tình trạng giảng viên thiếu. Do vậy, cần phải
có nghiên cứu cụ thể và cách nhìn nghiêm túc, khoa học để tìm ra câu trả lời
thích hợp để xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên Học viện Thanh
Thiếu niên đáp ứng được yêu cầu đào tạo và sứ mệnh chính trị của Học viện
trong bối cảnh hội nhập và không ngừng phát triển.
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Quản lý, quản lý giáo dục, quản lý nhà trường, quản lý nguồn
nhân lực
1.2.1.1. Khái niệm quản lý
Theo từ điển Tiếng Việt thông dụng - NXB Giáo dục năm 1998, thuật

ngữ Quản lý được định nghĩa là: “Tổ chức, điều khiển hoạt động của một đơn
vị, cơ quan”.
Quản lý là một hoạt động có chủ đích, được tiến hành bởi một chủ thể
quản lý nhằm tác động lên khách thể quản lý để thực hiện các mục tiêu xác


6
định của công tác quản lý. Trong mỗi chu trình quản lý, chủ thể tiến hành
những hoạt động theo các chức năng quản lý như xác định mục tiêu, các chủ
trương, chính sách; hoạch định kế hoạch, tổ chức chỉ đạo thực hiện, điều hoà,
phối hợp, kiểm tra và huy động, sử dụng các nguồn lực cơ bản như tài lực,
vật lực, nhân lực; để thực hiện các mục tiêu, mục đích mong muốn trong bối
cảnh và thời gian nhất định.
Khái niệm quản lý có ngoại diên rất rộng, từ việc ăn uống đến sinh lão
bệnh tử; từ cá nhân đến gia đình, từ quốc gia đến thế giới, từ vật chất đến tinh
thần; nơi nào có sự hiện diện của con người thì đều cần đến quản lý.
- Trong tác phẩm “Lý luận quản lý nhà nước” của tác giả Mai Hữu
Khuê, xuất bản năm 2003 đã định nghĩa về quản lý như sau: “Quản lý là một
phạm trù có liên quan mật thiết với hiệp tác và phân công lao động, nó là
một thuộc tính tự nhiên của mọi lao động hiệp tác”. Từ khi xuất hiện những
hoạt động quần thể của loài người thì đã xuất hiện sự quản lý; sự quản lý đã
có trong cả xã hội nguyên thuỷ, ở đó con người phải tập hợp với nhau để đấu
tranh với thế giới tự nhiên, muốn sinh tồn con người phải tổ chức sản xuất, tổ
chức phân phối.
- Đề cập đến vấn đề quản lý, C. Mác viết: “Tất cả mọi lao động trực
tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn thì ít nhiều
cần đến một sự chỉ đạo để tiến hành các hoạt động cá nhân và thực hiện các chức
năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể, khác với sự vận động
của những khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển
lấy mình, nhưng một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng” [31, tr. 23]

- Với F. W. Taylor thì: “Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng chính xác cái gì
cần làm và làm cái đó thế nào bằng phương pháp tốt nhất và rẻ nhất” [13]
- Với nhà lý luận quản lý kinh tế người Pháp, H.Fayol thì: “Quản lý là
sự dự đoán và lập kế hoạch, tổ chức, điều khiển, phối hợp và kiểm tra. Đó
chính là các chức năng cơ bản của nhà quản lý” [16, tr. 16]


7
- Theo tác giả người Mỹ, H.Koontr và những người khác: “Quản lý là
thiết kế và duy trì một môi trường mà trong đó các cá nhân làm việc với nhau
trong các nhóm, có thể hoàn thành các nhiệm vụ và các mục tiêu đã định”
[32, tr.19]
Quan điểm về quản lý của các tác giả Việt nam:
- Theo PGS.TS Nguyễn Thị Mỹ Lộc và TS. Nguyễn Quốc Chí thì
Quản lý là: “Tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người
quản lý); trong một tổ chức, nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được
mục đích tổ chức” [7, tr.1]
Hiện nay, khái niệm này định nghĩa một cách cụ thể hơn “Quản lý là quá
trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động (chức năng)
kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra” [7, tr.1]
- Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang “ Quản lý là tác động có mục đích,
có kế hoạch của chủ thể quản lý đến những người lao động nói chung là
khách thể quản lý nhằm thực hiện được những mục tiêu dự kiến” [32, 47]
Từ đó có thể hiểu quản lý bao gồm các yếu tố:
* Chủ thể quản lý: Là một cá nhân, một nhóm hay một tổ chức tạo ra
những tác động quản lý (ai quản lý?)
* Khách thể quản lý: Là đối tượng quản lý đó có thể là người (quản lý
ai?), vật (quản lý cái gì?) hay sự việc (quản lý việc nào?)
* Công cụ quản lý: Là phương tiện tác động của chủ thể quản lý tới
khách thể quản lý như: Mệnh lệnh, quyết định, chính sách, luật pháp.

* Biện pháp quản lý: Là cách thức tác động của chủ thể tới khách thể
quản lý nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
Trong lao động quản lý chủ thể quản lý tác động vào khách thể quản lý
thông qua hệ thống các khâu hay dạng hoạt động xác định. Các hoạt động đó
được chuyên môn hoá gọi là chức năng quản lý. Chức năng quản lý là tổng
hợp vị trí, vai trò các mặt hoạt động của hệ thống quản lý đối với môi trường


8
bên trong và bên ngoài nó; chức năng quản lý sinh ra một cách khách quan từ
chức năng sản xuất của thể quản lý.
Khi xác định các chức năng quản lý có nhiều ý kiến khác nhau. Tuy
nhiên được thống nhất ở các chức năng cơ bản sau:
* Chức năng quản lý
- Chức năng kế hoạch
Là việc xây dựng các định hướng và đề ra quyết định tổ chức thực hiện
trong thời gian nhất định của tổ chức. Lập kế hoạch bao gồm việc xác định sứ
mệnh, chức năng, nhiệm vụ, dự báo tương lai của tổ chức trên cơ sở thu thập
thông tin về thực trạng của tổ chức; từ đó xác định mục tiêu (xa và gần) dựa
trên việc tính toán các nguồn lực, các giải pháp. Mục đích của việc lập kế
hoạch là lựa chọn một đường lối hành động mà tổ chức nào đó và mọi bộ
phận của nó phải tuân theo nhằm hoàn thành các mục tiêu cần thiết cho sự
phấn đấu của tổ chức. Chức năng lập kế hoạch là nền tảng của quản lý.
- Chức năng tổ chức
Việc sắp xếp, tuyển chọn xác định một cơ cấu định trước về các vai trò
cho từng con người đảm đương trong một cơ sở thông qua việc phân tích
công việc, đề ra nhiệm vụ để lựa chọn người vào việc và cả việc tính toán
phân bổ nguồn lực khác để xây dựng cơ chế thích hợp làm việc; như vậy tổ
chức là một công cụ của quản lý.
- Chức năng lãnh đạo

Để tổ chức cơ sở hoạt động có hiệu quả, người quản lý cần thực hiện
chức năng lãnh đạo, chỉ đạo. Lãnh đạo là quá trình tác động điều hành, điều
khiển con người làm cho họ nhiệt tình, tự giác, nỗ lực phấn đấu đạt được các
mục tiêu của tổ chức. Người quản lý phải ra quyết định, có hướng dẫn, thông
báo để động viên mọi thành viên trong tập thể hăng hái làm việc.
- Chức năng kiểm tra, đánh giá
Đo lường và điều chỉnh các hoạt động của các bộ phận phối thuộc
trong tổ chức. Kiểm tra là đánh giá kết quả của việc thực hiện các mục tiêu


9
của tổ chức nhằm tìm ra những mặt ưu điểm, hạn chế để điều chỉnh việc lập
kế hoạch tổ chức và lãnh đạo.
Trên thực tế các chức năng trên diễn ra tuần hoàn theo một chu trình
với tính logic chặt chẽ, có liên quan mật thiết với nhau.
* Phương pháp quản lý
Phương pháp quản lý là cách thức tác động bằng cách sử dụng các phương
tiện khác nhau của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý nhằm đạt được mục
đích đề ra.
Đối tượng chủ yếu là của quản lý là con người, mà mỗi con người
thường phải chịu rất nhiều tác động rất khác nhau từ môi trường xã hội và có
quan hệ rất phong phú. Do vậy, muốn đạt được kết quả cao nhất nhà quản lý
phải biết sử dụng các phương pháp quản lý một cách rất linh hoạt, sáng tạo.
Theo các nhà nghiên cứu khoa học quản lý thì phương pháp quản lý
được chia ra thành 4 nhóm phương pháp cơ bản. Đó là phương pháp tâm lý
xã hội, phương pháp tổ chức hành chính, phương pháp giáo dục, nhóm
phương pháp kinh tế.
- Nhóm phương pháp tâm lý xã hội
Nhóm phương pháp tâm lý xã hội là các phương pháp, cách thức tạo ra
những tác động nào đó lên đối tượng quản lý bằng các quy luật tâm lý xã hội

nhằm biến những yêu cầu do người lãnh đạo đề ra thành nghĩa vụ tự giác bên
trong thành nhu cầu của người thực hiện.
Đặc điểm của nhóm phương pháp này là sự kích thích đối tượng quản lý
sao cho họ luôn toàn tâm, toàn ý cho công việc của chính họ. Họ luôn học hỏi,
tích luỹ kinh nghiệm, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau hoàn thành nhiệm vụ. Phương
pháp này tác động nhằm nâng cao đạo đức nghề nghiệp, yêu nghề, xây dựng
bằng không khí đoàn kết tin tưởng, yên tâm gắn bó với tập thể lao động của
mình, mỗi người được phát huy năng lực của mình, được tập thể yêu thương


10
kính trọng và được biểu dương khen thưởng đúng mức, kịp thời, nâng cao đời
sống.
Đây là biện pháp cơ bản để giáo dục con người. Biện pháp thuyết phục
gắn với tất cả các biện pháp quản lý khác và được người quản lý sử dụng
trước tiên vì nhận thức là bước đầu tiên trong hoạt động của con người.
- Nhóm phương pháp tổ chức hành chính:
Nhóm phương pháp tổ chức hành chính là các phương pháp có tính
pháp lệnh, bắt buộc và có tính kế hoạch rõ ràng, là sự tác động trực tiếp của
chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý bằng mệnh lệnh, chỉ thị, quyết định
quản lý, nghị quyết, thông tư, kết luận hội nghị.
Đặc điểm của nhóm phương pháp này là bắt buộc đối với người chấp
hành thông qua tác động trực tiếp của người lãnh đạo đối với người bị lãnh
đạo. Đó là sự phân nhiệm, phân cấp, phân quyền giữa các tổ chức và các
thành viên, thể hiện sự bắt buộc trong việc thực hiện xây dựng, giữ gìn kỷ
cương nề nếp. Khi sử dụng phương pháp quản lý này chủ thể quản lý (người
quản lý) phải nắm chắc các văn bản pháp lý, biết rõ giới hạn, quyền hạn,
trách nhiệm. Các quy định phải đảm bảo tính khoa học và thực tiễn, phải
kiểm tra và nắm thông tin phản hồi.
- Nhóm phương pháp giáo dục:

Nhóm phương pháp giáo dục là phương pháp mà chủ thể quản lý dùng
các biện pháp tác động trực tiếp hay gián tiếp đến nhận thức, thái độ, hành vi
của đối tượng quản lý nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, hoàn thành nhiệm
vụ của tổ chức. Cơ sở của phương pháp này dựa vào quy luật tâm lý con
người và chức năng tâm lý của con người. Nội dung của biện pháp này là
kích thích tinh thần tự giác, sự say mê của con người. Để phát huy được hiệu
quả của biện pháp này người quản lý cần hiểu rõ tâm lý của chính bản thân
mình cũng như của đối tượng quản lý.


11
- Nhóm biện pháp kinh tế:
Bản chất của nhóm phương pháp kinh tế là chủ thể quản lý tác động
vào đối tượng thông qua lợi ích kinh tế. Hình thức của nó là tác động gián
tiếp vào khách thể quản lý có thể công khai hoặc không công khai (lương
thưởng, chế độ ưu đãi ).
Đặc điểm cơ bản của phương pháp này là dựa trên phương thức tính
toán kinh tế tuân theo các quy luật kinh tế, thông qua quy luật này để tác động
tới tâm lý của đối tượng. Đối tượng quản lý có thể lựa chọn phương án thích
hợp để vừa đạt được mục tiêu của tập thể vừa đạt được lợi ích của cá nhân.
Mỗi phương pháp quản lý có sự tác động riêng tới từng mặt của người
lao động. Do đó, mỗi biện pháp quản lý không phải là chìa khoá vàng để
quản lý tốt tất cả các hoạt động của tổ chức. Tóm lại, quản lý vừa mang tính
khoa học nhưng cũng hàm chứa trong nó cá tính nghệ thuật, người quản lý
muốn thu được những kết quả cao nhất trong hoạt động quản lý của mình
phải biết vận dụng các phương pháp quản lý một cách hết sức linh hoạt, sáng
tạo và mềm dẻo trong từng tình huống quản lý cụ thể.
Tóm lại, quản lý là sự tác động có ý thức để điều khiển, hướng dẫn các
quá trình và các hoạt động của con người nhằm đạt tới mục đích đúng với ý
chí của nhà quản lý và phù hợp với các quy luật khách quan.

1.2.1.2. Quản lý giáo dục
Nhà nước quản lý mọi mặt hoạt động, trong đó có hoạt động giáo dục.
Vậy, quản lý Nhà nước về giáo dục là tập hợp những tác động hợp quy luật
được thể chế hoá bằng pháp luật của chủ thể quản lý nhằm tác động đến các
phân hệ quản lý để thực hiện mục tiêu giáo dục mà kết quả cuối cùng là chất
lượng, hiệu quả đào tạo thế hệ trẻ.
- Theo M.I.Kônđacốp: “Quản lý giáo dục là tác động có hệ thống, có
kế hoạch, có ý thức và hướng đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau


12
đến tất cả các mắt xích của hệ thống (từ Bộ đến trường) nhằm mục đích đảm
bảo việc hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở nhận thức và vận
dụng những quy luật chung của xã hội cũng như các quy luật của quá trình
giáo dục, của sự phát triển thể lực và tâm lý của trẻ em” [25, tr.10]
- Theo GS.VS Phạm Minh Hạc: “Quản lý nhà trường, quản lý giáo dục
nói chung là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm
của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới
mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục và thế hệ trẻ và đối
với từng học sinh.” [22, tr.34]
- Theo GS.TS Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý giáo dục là hệ thống
những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp qui luật của chủ thể quản lý
nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối, nguyên lý của Đảng, thực hiện
được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà tiêu điểm
hội tụ là quá trình dạy học, giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục đến mục tiêu
dự kiến tiến lên trạng thái về chất.” [36, tr.35]
- Theo PGS.TS Nguyễn Thị Mỹ Lộc - T.S Nguyễn Quốc Chí thì:
“Quản lý giáo dục là hoạt động có ý thức bằng cách vận dụng các quy luật
khách quan của các cấp quản lý giáo dục tác động đến toàn bộ hệ thống giáo
dục nhằm làm cho hệ thống đạt được mục tiêu của nó” [5]

- TS. Nguyễn Gia Quý khái quát: “Quản lý giáo dục là sự tác động có
ý thức của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đưa hoạt động giáo
dục tới mục tiêu đã định, trên cơ sở nhận thức và vận dụng đúng những quy
luật khách quan của hệ thống giáo dục quốc dân” [38, tr.12]
* Khái niệm về quản lý giáo dục, cho đến nay đã có nhiều định nghĩa
khác nhau, nhưng cơ bản đều thống nhất với nhau về nội dung, bản chất.
- “Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quát là hoạt động điều hành, phối
hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo
yêu cầu phát triển của xã hội” [3, tr.3]
* Quản lý giáo dục bao gồm:


13
- Chủ thể quản lý: Bộ máy quản lý giáo dục các cấp;
- Khách thể quản lý: Hệ thống giáo dục quốc dân, các trường học;
- Quan hệ quản lý: Đó là những mối quan hệ giữa người học và người
dạy; quan hệ giữa người quản lý với người dạy, người học; quan hệ người
dạy - người học; quan hệ giữa giáo giới - cộng đồng Các mối quan hệ đó có
ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo, chất lượng hoạt động của nhà trường, của
toàn bộ hệ thống giáo dục.
* Xét về khoa học thì quản lý giáo dục là sự điều khiển toàn bộ những
hoạt động của cả cộng đồng, điều khiển quá trình dạy và học nhằm tạo ra
những thế hệ có đức, có tài phục vụ sự phát triển của xã hội.
* Xét về bản chất, quản lý giáo dục là một hiện tượng xã hội được thể
hiện ở các mặt:
- Quản lý giáo dục là một loại hình hoạt động, tuy chuyên biệt nhưng
ảnh hưởng đến toàn xã hội, mọi quyết định, thay đổi của giáo dục đều có ảnh
hưởng đến đời sống xã hội;
- Quản lý giáo dục là loại hình quản lý được đông đảo thành viên tham gia;
- Bản thân quản lý giáo dục là hoạt động mang tính xã hội, đòi hỏi phải

huy động nhân lực, nguồn lực lớn;
- Giáo dục truyền đạt, lĩnh hội những giá trị kinh nghiệm lịch sử xã hội
tích luỹ qua các thế hệ. Xã hội muốn tồn tại, phát triển thì phải phát triển giáo
dục - đào tạo.
* Nội dung quản lý giáo dục bao gồm một số vấn đề cơ bản: Xây dựng
và chỉ đạo thực hiện chiến lược; quy hoạch; kế hoạch; chính sách phát triển
giáo dục; ban hành, tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về
giáo dục, tiêu chuẩn nhà giáo, tiêu chuẩn cơ sở vật chất thiết bị trường học; tổ
chức bộ máy quản lý giáo dục; tổ chức, chỉ đạo việc đào tạo bồi dưỡng cán
bộ quản lý, giáo viên; huy động quản lý sử dụng các nguồn lực
Như vậy, “Quản lý giáo dục là tập hợp những biện pháp (tổ chức, cán
bộ, kế hoạch hoá ) nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường của các cơ quan


14
trong hệ thống giáo dục, đảm bảo sự tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống
cả về mặt số lượng cũng như chất lượng” [24, tr.93]
Lý luận quản lý giáo dục có vai trò trọng yếu trong việc hình thành cơ
sở khoa học của:
- Chiến lược phát triển giáo dục, sự hình thành và phát triển cơ cấu hệ
thống giáo dục quốc dân;
- Các chính sách phát triển giáo dục, đòn bẩy kinh tế trong giáo dục,
định mức kinh tế - sư phạm;
- Bộ máy quản lý giáo dục ở các cấp từ Trung ương đến cơ sở đảm bảo
thống nhất quản lý theo ngành và theo lãnh thổ;
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục đáp ứng yêu cầu
của việc thực hiện mục tiêu phát triển giáo dục.
Trong quản lý giáo dục, việc xác định các mục tiêu mục đích giáo dục
có ý nghĩa rất quan trọng; nếu xác định không đúng mục tiêu, mục đích trong
công tác quản lý giáo dục sẽ gây ra những tổn thất lớn lao và để lại những

hậu quả nặng nề.
* Cũng như các hoạt động quản lý kinh tế - xã hội, quản lý giáo dục có
hai chức năng tổng quát sau:
- Chức năng ổn định, duy trì quá trình đào tạo đáp ứng nhu cầu hiện
hành của nền kinh tế - xã hội;
- Chức năng đổi mới, phát triển quá trình đào tạo đón đầu tiến bộ
kinh tế - xã hội.
Như vậy, quản lý giáo dục là hoạt động điều hành các nhà trường để
giáo dục vừa là sức mạnh, vừa là mục tiêu của nền kinh tế.
* Từ hai chức năng tổng quát trên, quản lý giáo dục phải quán triệt, gắn
bó với bốn chức năng, cụ thể là:
- Kế hoạch hoá;
- Tổ chức;
- Chỉ huy điều hành;


15
- Kiểm tra.
* Hệ thống quản lý giáo dục nhà trường hoạt động trong động thái đa
dạng, phức tạp. Quản lý giáo dục là quản lý các mục tiêu tường minh trong
mối tương tác của các yếu tố chủ đạo:
- Mục tiêu đào tạo;
- Nội dung đào tạo;
- Phương pháp đào tạo;
- Lực lượng đào tạo;
- Đối tượng đào tạo;
- Hình thức tổ chức đào tạo;
- Điều kiện đào tạo;
- Môi trường đào tạo;
- Quy chế đào tạo;

- Bộ máy tổ chức đào tạo.
Quản lý giáo dục chính là quá trình xử lý các tình huống có vấn đề phát
sinh trong hoạt động tương tác của các yếu tố trên, để nhà trường phát triển,
đạt tới chất lượng tổng thể bền vững, làm cho giáo dục vừa là mục tiêu, vừa
là sức mạnh của nền kinh tế.
1.2.1.3. Quản lý nhà trường
Nhà trường là một bộ phận của xã hội, là tổ chức giáo dục cơ sở của hệ
thống Giáo dục quốc dân. Hoạt động dạy và học là hoạt động trung tâm của
nhà trường. Mọi hoạt động đa dạng, phức tạp khác đều hướng vào hoạt động
trung tâm này. Do vậy, quản lý nhà trường là:“Quản lý hoạt động dạy - học,
tức là làm sao đưa hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng thái khác để
dần dần tiến tới mục tiêu giáo dục” [36, tr.35]
Theo PGS.TS Đặng Quốc Bảo:“Trường học là một thiết chế xã hội
trong đó diễn ra quá trình đào tạo giáo dục với sự hoạt động tương tác của
hai nhân tố Thầy - Trò. Trường học là một bộ phận của cộng đồng và trong
guồng máy của hệ thống giáo dục quốc dân, nó là đơn vị cơ sở” [4; Tr 63]


16
* Quản lý giáo dục được hiểu ở nhiều góc độ khác nhau
- Nếu hiểu theo nghĩa rộng, giáo dục là các hoạt động diễn ra trong xã
hội thì quản lý giáo dục là quản lý mọi hoạt động về giáo dục trong xã hội.
Các cấp quản lý giáo dục bao hàm từ Trung ương đến địa phương và các
cơ sở trường học.
- Nếu hiểu theo nghĩa hẹp, giáo dục là các hoạt động diễn ra trong ngành
giáo dục - đào tạo hay một đơn vị cơ sở trường học thì quản lý giáo dục được
hiểu là quản lý một đơn vị cơ sở giáo dục - đào tạo, quản lý nhà trường hay
quản lý trường học.
* Quản lý nhà trường là một trong những nội dung quan trọng của hệ
thống quản lý giáo dục nói chung, quản lý nhà trường là một trong những cơ

sở của ngành giáo dục.
GS.VS Phạm Minh Hạc đã đưa ra nội dung khái quát về khái niệm
quản lý nhà trường “Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục của
Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành
theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối
với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh” [21; Tr 22]
* Quản lý nhà trường chính là những công việc của nhà trường mà
người cán bộ quản lý nhà trường thực hiện những chức năng quản lý để thực
hiện các nhiệm vụ công tác của mình. Đó chính là những hoạt động có ý
thức, có kế hoạch và hướng đích của chủ thể quản lý tác động tới các hoạt
động của nhà trường nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ mà tiêu điểm
là quá trình dạy và học.
Như vậy ta có thể hiểu công tác quản lý nhà trường bao gồm sự quản lý
các quan hệ nội bộ của nhà trường và quan hệ giữa nhà trường với xã hội.
Bản chất của công tác quản lý nhà trường là quá trình chỉ huy, điều
khiển vận động của các thành tố, đặc biệt là mối quan hệ giữa các thành tố.
Mối quan hệ đó là do quá trình sư phạm trong nhà trường qui định.


17
* Quản lý nhà trường là tổ chức, chỉ đạo và điều hành quá trình giảng
dạy của thầy và hoạt động học tập của trò, đồng thời quản lý những điều kiện
cơ sở vật chất và công việc phục vụ cho dạy và học nhằm đạt được mục đích
của GD-ĐT.
Chất lượng của giáo dục nói chung là do chất lượng của các nhà trường
tạo nên, bởi vậy khi nói đến quản lý giáo dục thì cũng là nói tới quản lý nhà
trường cùng với hệ thống giáo dục.
Kim chỉ nam cho việc quản lý nhà trường trong giáo dục hiện đại là
“Nhà trường là vầng trán của cộng đồng”. Thành tích của nhà trường chính là
kết quả học tập và sự tiến bộ của học sinh, ở việc đạt được mục tiêu giáo dục của

nhà trường.
Theo TS Phạm Minh Hạc, quản lý nhà trường là thực hiện đường lối
của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận
hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo.
Quản lý nhà trường thực hiện hoạt động quản lý trong tổ chức nhà
trường. Hoạt động quản lý nhà trường do chủ thể quản lý nhà trường thực
hiện, bao gồm các hoạt động quản lý bên trong nhà trường như:
- Quản lý giáo viên;
- Quản lý học sinh, sinh viên;
- Quản lý quá trình dạy học, giáo dục;
- Quản lý cơ sở vật chất, trang thiết bị trường học;
- Quản lý tài chính trường học;
- Quản lý lớp học, quản lý quan hệ giữa nhà trường và cộng đồng xã hội.
1.2.1.4. Quản lý nguồn nhân lực
Nhân lực hiểu theo nghĩa chung nhất là nguồn lực con người. Trong
nền sản xuất và đời sống xã hội hiện đại, cùng với các nguồn lực khác (vật
chất, tài chính, công nghệ), nguồn lực con người hay nguồn vốn con người


18
có vai trò quan trọng và là nhân tố quyết định trong các hoạt động của đời
sống, xã hội.
Nguồn nhân lực được hiểu là toàn bộ trình độ chuyên môn con
người tích luỹ được, có khả năng đem lại thu nhập trong tương lai.
Theo GS.VS Phạm Minh Hạc thì nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm
năng lao động của một nước hay một địa phương sẵn sàng tham gia một công
việc nào đó.
Theo PGS.TS Nguyễn Thị Mỹ Lộc: “Quản lý nguồn nhân lực là chức
năng quản lý giúp cho người quản lý tuyển mộ, lựa chọn, huấn luyện và phát
triển các thành viên của tổ chức” [22]

Quá trình quản lý nguồn nhân lực bao gồm các hoạt động như:
- Sử dụng nguồn nhân lực: Là quá trình tuyển dụng, lựa chọn, sàng lọc,
bố trí, sử dụng, đánh giá, đãi ngộ và kế hoạch hoá sức lao động;
- Phát triển nguồn nhân lực: Bao gồm các nhu cầu: dinh dưỡng và sức
khoẻ; giáo dục và đào tạo; dân số và kế hoạch hoá gia đình; văn hoá và
truyền thống dân tộc; việc làm và phân phối thu nhập;
- Môi trường của nguồn nhân lực: Mở rộng chủng loại việc làm; mở
rộng quy mô việc làm; phát triển tổ chức.
Đối với ngành giáo dục thì quản lý nguồn nhân lực chính là quản lý đội
ngũ giáo viên, cán bộ công nhân viên của ngành; trong đó cốt lõi là lực lượng
giảng viên, giáo viên. Việc xây dựng một đội ngũ giáo viên đủ về số lượng,
mạnh về chất lượng; đồng thời đào tạo, bồi dưỡng năng lực - chuyên môn
nghiệp vụ cũng như phẩm chất của đội ngũ đó để đáp ứng được yêu cầu
nhiệm vụ, nâng cao chất lượng giáo dục là khâu trọng tâm trong quá trình
quản lý nguồn nhân lực giáo dục.
1.2.2. Phát triển
Theo từ điển Tiếng Việt thì: “Phát triển là lớn lên về mặt kích thước,
rộng (số lượng) hay về mặt giá trị, tầm quan trọng (chất lượng)” [15]


19
Theo PGS.TS Đặng Quốc Bảo trong bài giảng về Kinh tế học giáo dục
thì: “Phát triển là tăng cả về chất lượng và số lượng làm cho hệ giá trị được
cải tiến, được hoàn thiện”.
Như vậy, phát triển đội ngũ giáo viên là làm cho đội ngũ giáo viên “Vừa
hồng vừa chuyên” đủ về số lượng, mạnh về chất lượng và phù hợp về cơ cấu.
1.2.3. Giảng viên, đội ngũ giảng viên
1.2.3.1. Giảng viên
Tại hội nghị Thế giới về giáo dục đại học trong thế kỷ XXI “Giáo viên
là rường cột của đại học” [1]

Một lần nữa vai trò, vị trí của người giảng viên được khẳng định.
Theo quan điểm của PGS.TS Nguyễn Thị Mỹ Lộc thì người giáo viên
là “Tâm điểm của hệ thống giáo dục” [21]
Theo Philip Jackson: “Người giáo viên là người ra quyết định có hiểu
biết, hiểu được học sinh và có khả năng cấu trúc lại được nội dung bài giảng
dạy để giúp học sinh có thể tiếp thu được nội dung đó; đồng thời trong khi
dạy biết khi nào phải dạy cái gì”.
Điều 70, luật giáo dục 2005 sửa đổi bổ sung nêu rõ khái niệm nhà
giáo:“Nhà giáo là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường,
cơ sở giáo dục khác.
Nhà giáo phải có những tiêu chuẩn sau đây:
- Phẩm chất, đạo đức tư tưởng tốt;
- Đạt trình độ chuẩn được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ;
- Đủ sức khoẻ theo yêu cầu nghề nghiệp;
- Lý lịch bản thân rõ ràng.
Nhà giáo giảng dạy ở cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo
dục nghề nghiệp gọi là giáo viên; ở cơ sở giáo dục đại học gọi là giảng viên”.
Trong các khái niệm nêu trên với nghĩa rộng hay nghĩa hẹp đều khái
quát lên bản chất của một nhà giáo. Đó là người được đào tạo qua các trường
sư phạm hoặc các cơ sở giáo dục khác làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục


20
trong nhà trường hoặc cơ sở giáo dục khác để thực hiện nhiệm vụ truyền thụ
kiến thức, hình thành kỹ năng kỹ xảo và đặc biệt hơn nữa là “Dạy cho học
sinh, sinh viên cách học và cách đưa ra sáng kiến trong công việc” [1] cùng
với xây dựng nhân cách cho họ nhằm đạt được mục tiêu giáo dục là “Đào tạo
con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, có tri thức, sức khoẻ,
thẩm mỹ và nghề nghiệp; trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội” [6]

Nhiệm vụ của giảng viên
Căn cứ vào những quy định về chức trách, nhiệm vụ, yêu cầu của
giảng viên giảng dạy ở bậc Đại học, sau Đại học và Cao đẳng trong các
văn bản pháp luật hiện hành của nhà nước như: Luật giáo dục; Pháp lệnh
cán bộ công chức; quy định về tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch trong
trường Đại học, Cao đẳng tại quyết định số 538/TCCP-TC của Bộ
trưởng, trưởng ban Tổ chức cán bộ Chính phủ thì giảng viên có các
nhiệm vụ cơ bản sau:
1. Giảng dạy Cao đẳng, Đại học; bồi dưỡng sau Đại học; hướng
dẫn nghiên cứu sinh, thực tập sinh và bồi dưỡng cán bộ giảng dạy theo
mục tiêu, đúng chương trình (thời gian và chương trình khung), đảm bảo
về chất lượng, có chuyên môn sâu.
2. Nghiên cứu và tham gia nghiên cứu khoa học, vận dụng kỹ
thuật và công nghệ trong giáo dục.
3. Không ngừng học tập, rèn luyện để nâng cao phẩm chất đạo
đức; trình độ chuyên môn, nghiêp vụ; nêu gương tốt cho người học.
4. Tham gia quản lý công tác đào tạo của nhà trường.
5. Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân, các quy định pháp
luật và điều lệ nhà trường.
6. Giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của nhà giáo; tôn trọng nhân
cách của người học, đối xử công bằng với người học, bảo vệ các quyền
và lợi ích chính đáng của người học.


21
7. Tham gia các hoạt động xã hội và hoàn thành nghĩa vụ của một
công dân và các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, tại điều 46 điều lệ trường đại học ban hành theo quyết
định số 135/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 30 tháng 7
năm 2003, nhiệm vụ của giảng viên được quy định một cách cụ thể và rõ

ràng như sau:
- Hoàn thành nhiệm vụ giảng dạy và nghiên cứu khoa học được quy
định theo giờ chuẩn do Bộ GD - ĐT ban hành với các chức danh và ngạch
tương ứng;
- Giảng dạy theo nội dung, chương trình đã được Bộ GD - ĐT, trường
đại học quy định; viết giáo trình, bài giảng, tài liệu phục vụ giảng dạy - học
tập theo sự phân công của các cấp quản lý;
- Không ngừng tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, cải tiến phương
pháp giảng dạy để nâng cao chất lượng đào tạo;
- Tham gia chủ trì các đề tài nghiên cứu khoa học, phát triển công
nghệ, dịch vụ khoa học và công nghệ; tham gia các hoạt động khoa học và
công nghệ khác;
- Chịu sự giám sát của các cấp về chất lượng, nội dung, phương pháp
đào tạo và nghiên cứu khoa học;
- Hướng dẫn, giúp đỡ người học trong học tập, nghiên cứu khoa học;
rèn luyện tư tưởng, đạo đức, tác phong, lối sống.
Các nhiệm vụ được quy định đó có mối liên quan chặt chẽ với nhau;
người giảng viên đồng thời phải thực hiện các chức năng: giảng dạy, nghiên
cứu khoa học và quản lý.
1.2.3.2. Đội ngũ giảng viên
Có nhiều quan niệm và cách hiểu khác nhau về đội ngũ. Ngày nay,
khái niệm đội ngũ được dùng cho các tổ chức trong xã hội một cách rộng
rãi như: Đội ngũ cán bộ, công chức, đội ngũ trí thức, đội ngũ y, bác sĩ
đều xuất phát theo cách hiểu của thuật ngữ quân sự về đội ngũ, đó là:

×