Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Đề cương ôn tập môn triết học, đại học công nghệ GTVT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (283.12 KB, 34 trang )

Đáp án Triết
học
Câu 1: Trình bầy những
giá trị đích thực và cả
những hạn chế, sai lầm
trong phép biện chứng của
Hêghen, chủ nghĩa duy vật
Phơbách. Anh, chị hãy
chứng minh triết học
Phơbách và Hêghen là tiền
đề lý luận trực tiếp của triết
học Mác.
Trả lời:
1. Phép biện chứng duy tâm
của Hêghen
Hêghen là nhà biện
chứng lỗi lạc, triết học của
ông là tập đại thành của
triết học cổ đại Đức, một tiền
đề lý luận của triết học
Mácxít. Hêghen không
những chỉ là một thiên tài
sáng tạo, mà còn là một nhà
bác học có tri thức bách
khoa, nên những phát triển
của ông tạo thành thời đại.
Triết học Hêghen là t tởng
Cách mạng Pháp đã biến t-
ớng theo điều kiện lịch sử n-
ớc Đức đầu thế kỷ XIX. Triết
học Hêghen đợc quy định


bởi tính chất nhu nhợc của
giai cấp t sản Đức hồi đó còn
lạc hậu, không đủ sức làm
cuộc cách mạng trong hiện
thực, và đã hoàn thành một
cuộc cách mạng vĩ đại trong
sự trừu tợng của triết học.
Dới đây là một số vấn
đề chủ yếu trong triết học
của Hêghen:
Toàn bộ triết học của
Hêghen đợc bao trùm bằng
phạm trù ý niệm tuyệt đối.
ý niệm tuyệt đối là điểm
xuất phát và là nền tảng của
triết học Hêghen. Theo ông,
ý niệm tuyệt đối là thực thể
sinh ra mọi cái trên thế giới,
là đấng tối cao sáng tạo ra
giới tự nhiên và con ngời.
Mọi sự vật hiện tợng xung
quanh chúng ta, từ những sự
vật, hiện tợng tự nhiên cho
đến những sản phẩm hoạt
động của con ngời chỉ là hiện
thân của ý niệm tuyệt đối.
Theo Hêghen, con ngời
là sản phẩm và là giai đoạn
phát triển cao nhất của ý
niệm tuyệt đối. Hoạt động

nhận thức và cải tạo thế giới
của con ngời chính là công
cụ để tinh thần tuyệt đối
nhận thức chính bản thân
mình, trở về chính bản thân
mình.
Đứng trên lập trờng
duy tâm khách quan, Hêghen
đã phê phán chủ nghĩa chủ
quan và nhị nguyên luận của
Cantơ. Ông cho rằng Cantơ
đã xé lẻ tồn tại, bắt nó tách
ra ngoài t duy. Hêghen kết
hợp tồn tại với t duy làm một
và cho mọi ngọn nguồn xuất
phát đầu tiên, thực thể đầu
tiên của thế giới chính là t
duy, ý thức nhng không phải
là ý thức cá nhân nh Bécli,
Cantơ mà là ý niệm tuyệt đối
hay tinh thần vũ trụ. Tất cả
mọi sự vật hiện tợng trên thế
giới và ý thức của cá nhân
của nhân loại đều nằm trong
ý niệm tuyệt đối, là sự thể
hiện của ý niệm tuyệt đối.
Nói cách khác, ý thức của
mỗi chúng ta, mỗi một cá thể
ở trong các thời đại là sự
biểu hiện của ý niệm tuyệt

đối trong đời sống hiện thực.
ý thức của con ngời với t
cách là công cụ của t duy
không phải là kết quả của sự
phản ánh thế giới bên ngoài
mà nó là sản phẩm của ý
niệm tuyệt đối, thông qua
con ngời để nhận thức thế
giới hiện thực. Thế giới hiện
thực khách quan xung quanh
chúng ta cũng không phải là
một thế giới tồn tại thực mà
nó chỉ là cái bóng của ý niệm
tuyệt đối. Nh vậy ý thức cá
nhân chính là công cụ của ý
niệm để nhận thức các sản
phẩm của ý niệm.
Theo quan điểm của
chủ nghĩa duy vật, ý niệm là
phản ánh của vật chất hiện
thực vào trong ý thức của con
ngời. Nhng Hêghen lại tách
nó ra khỏi con ngời, làm cho
nó trở thành đấng tối cao
sáng tạo ra tự nhiên và nhân
loại.
Trong tác phẩm Gia
đình thần thánh, Mác và
Ăngghen đã dùng ví dụ sau
để thuyết minh lối giải thích

lệch lạc của Hêghen: khi
chúng ta căn cứ vào quả táo,
quả lê, quả vải, quả mận có
thật trong hiện thực để xây
dựng ra khái niệm trái cây;
tiến thêm một bớc nữa chúng
ta tởng tợng rằng: cái khái
niệm trái cây trừu tợng mà
chúng ta vừa rút ra từ những
trái cây thực sự trên đây là có
tồn tại ở ngoài bản thân
chúng ta; rồi chúng ta cần
đến tiếng nói của t tởng để
biểu thị câu chuyện đó. Thế
là chúng ta tuyên bố rằng cái
khái niệm trái cây, là thực
thể của quả lê, quả táo, quả
mận Đồng thời chúng ta
tuyên bố rằng quả lê, quả
táo, quả mận là những hình
thức biểu hiện, là những hình
dạng của khái niệm trái
cây. Nhà triết học Hêghen
đã cho rằng chính cái danh từ
dùng để biểu hiện những sự
vật tồn tại đó đã sáng tạo ra
bấy nhiêu trái cây của thực
tế. Nh vậy, Hêghen đã biến
khái niệm chung, biến ý
niệm do con ngời phản ánh

hiện thực thành một bản chất
độc lập tách rời con ngời,
tách rời thực tế khách quan
thành một thực thể tinh thần
bí ẩn và gọi nó là ý niệm
tuyệt đối, tinh thần tuyệt đối
1
và cho rằng tinh thần ấy đẻ
ra các hiện tợng tự nhiên.
Triết học duy tâm
khách quan của Hêghen cũng
đợc thể hiện trong toàn bộ hệ
thống triết học của ông.
Hệ thống triết học của
Hêghen gồm 3 phần:
- Logic học- học thuyết
về các quy luật phổ biến của
vận động và phát triển về
nguyên tắc lý tính dùng làm
cơ sở cho mọi cái đang tồn
tại.
- Triết học về tự nhiên-
triết học đem lại bức tranh về
sự phát triển của giới tự
nhiên dới hình thức duy tâm.
- Triết học về tinh thần-
trong triết học này, dới hình
thức lịch sử của tinh thần,
Hêghen trình bầy lịch sử của
con ngời và sự tự nhận thức

của con ngời.
Mỗi một phần lại chia
ra làm ba bộ phận. Ví dụ,
lôgic học chia thành: tồn tại,
bản chất, khái niệm; triết học
tự nhiên chia thành: thuyết
máy móc, thuyết hoá học,
thuyết hữu cơ, triết học về
tinh thần chia thành: tinh
thần chủ quan, tinh thần
khách quan và tinh thần tuyệt
đối. Trong mỗi chơng nh thế,
Hêghen lại chia thành 3 tiết
nhỏ.
Logic phát triển bộ
ba của Hêghen có thể đợc
khái quát nh sau:
ý niệm tuyệt đối là một
thực thể tinh thần, tồn tại tr-
ớc giới tự nhiên. Nó tự thiết
định bản thân nó và phân biệt
với bản thân nó. Theo
Hêghen, ý niệm tuyệt đối
trong sự vận động biện
chứng, đạt tới sự phát triển
đầy đủ ngay từ trớc khi giới
tự nhiên xuất hiện. Nó đã
mang trong lòng mọi sự quy
định sau này, giống nh cái
mầm mang sẵn trong nó tất

cả bản chất của cái cây, mùi
vị, hình dáng của quả. Những
biểu hiện đầu tiên của ý niệm
tuyệt đối cũng mang trong
nó toàn bộ lịch sử ở trạng
thái tiềm năng.
Sự phát triển biện
chứng của ý niệm tuyệt đối
khi đạt tới đầy đủ thì tha
hoá (biến thành cái khác nó;
nhng chính là nó ở trạng thái
và hình thái khác) thành giới
tự nhiên. Vì sao ý niệm tuyệt
đối lại tha hoá ra giới tự
nhiên? Hêghen giải thích
rằng, ý niệm tuyệt đối là một
thực thể tinh thần thì nó có
tính ham hiểu biết muốn
biết mình, phải tha hoá mình
ra thành cái khác mình nhng
lại cũng chính là mình.
Dựa vào các thành tựu
của các khoa học tự nhiên đ-
ơng thời, Hêghen thừa nhận
rằng, giới tự nhiên nằm trong
quá trình vận động và phát
triển từ vô cơ- hữu cơ- con
ngời. Con ngời có khả năng
phản ánh giới tự nhiên, và
khi con ngời phản ánh đợc

đầy đủ giới tự nhiên, cũng có
nghĩa là ý thức của con ngời
đã quay trở về điểm khởi đầu
của nó là ý niệm tuyệt đối. ý
thức của mỗi cá nhân đợc
Hêghen khảo sát coi nh là sự
tái diễn t duy của toàn nhân
loại, trải qua các giai đoạn
phát triển tiền thuỷ, sinh vật
đến con ngời.
Nh vậy, điểm khởi đầu
là tinh thần và điểm kết
thúc của sự phát triển cũng là
tinh thần, chỉ có khác điểm
khởi đầu là tinh thần thế
giới, hay ý niệm tuyệt đối
còn điểm kết thúc là tinh
thần tuyệt đối tồn tại ở mỗi
cá nhân con ngời. Hêghen
cho rằng, giai đoạn cao nhất
là lúc mà ý niệm tuyệt đối
kết thúc quá trình tự nhận
thức của nó dới hình thức tôn
giáo, nghệ thuật và triết học.
Từ khái quát trên cho
thấy rằng triết học của
Hêghen, xét theo hệ thống, là
triết học duy tâm khách quan
và kết cấu hệ thống triết học
là siêu hình, là duy tâm

khách quan vì ông đã thừa
nhận tinh thần thế giới là cái
có trớc, giới tự nhiên (vật
chất) là cái có sau, là phụ
thuộc, là phát sinh từ tinh
thần thế giới hay ý niệm
tuyệt đối. Là siêu hình vì ông
cho sự phát triển có tận cùng,
khi có sự nhận thức đầy đủ
giới tự nhiên thì giới tự nhiên
không vận động và phát triển
về mặt thời gian mà chỉ vận
động về mặt không gian.
Phép biện chững duy
tâm của Hêghen- một thành
tựu vĩ đại của triết học cổ
điển Đức
Xét về mặt bản chất, hệ
thống triết học của Hêghen
đợc xây dựng dựa trên lập tr-
ờng của triết học duy tâm
khách quan. Nhng xét về mặt
cấu trúc, khi chúng ta mổ xẻ
hệ thống của Hêghen và đặt
triết học của ông trong mối
quan hệ với các khoa học và
với cả hoạt động của con ng-
ời. Về phơng diện này
Hêghen là một nhà bác học
vĩ đại đã tạo ra sự liên hoàn

giữa triết học các khoa học
cụ thể, giữa triết học với hoạt
động của con ngời. Không
còn nghi ngờ gì nữa, Hêghen
là nhà cách mạng đã lật đổ
tận gốc dinh luỹ của những
ngời siêu hình để đa đến cho
các khoa học và cho hoạt
động của con ngời một hình
thức phơng pháp luận triết
học mới. Để rồi sau đó, cả
khi những khiếm khuyết của
ông đã đợc phủ định thì sự
nghiệp của ông vẫn xứng
đáng là một thời đại. Phép
biện chứng của Hêghen xứng
đáng là một thành tựu vĩ đại
nhất của mọi nền triết học.
2
Nếu chúng ta không
dừng lại ở hệ thống triết học,
mà đi sâu vào trong hệ thống
đó để xem xét thì chúng ta sẽ
thấy giá trị to lớn của triết
học Hêghen. Đó là phép biện
chứng mà hạt nhân của nó là
t tởng về sự phát triển. Tuy
nhiên cần thấy rằng phép
biện chứng của Hêghen là
phép biện chứng duy tâm,

tức là phép biện chứng về sự
phát triển của các khái niệm
đợc ông đồng nhất với bản
chất sự vật. Ông viết: phép
biện chứng nói chung là
nguyên tắc của mọi vận
động, mọi sự sống và mọi
hoạt động trong phạm vi hiện
thực. Cái biện chứng còn là
linh hồn của mọi nhận thức
khoa học chân chính.
Những luận điểm về
phép biện chứng của triết học
Hêghen có cả trong 3 phần,
nhng trong logic thể hiện rõ
nhất và quan trọng nhất.
Luận điểm xuyên suốt toàn
bộ phép biện chứng của
Hêghen là tất cả cái gì là
hiện thực, và tất cả cái hợp
lý, đều là hiện thực.
Luận điểm trên của
Hêghen không chỉ muốn bảo
vệ và duy trì mọi cái hiện
đang tồn tại, thừa nhận về
mặt triết học nền chuyên chế,
Nhà nớc quý tộc Phổ, mà
điều cơ bản nhất không phải
tất cả những gì hiện đang tồn
tại cũng đều là hiện thực.

Tính hiện thực chỉ thuộc về
những gì đồng thời là tất yếu.
Hêghen viết: Tính hiện thực
trong sự phát triển của nó, tự
biểu lộ ra nh là tính tất yếu.
Nh vậy, theo Hêghen,
hiện thực không phải là tồn
tại nói chung, mà là tồn tại
trong tính tất yếu của nó, đó
là hiện thực trong sự phát
triển. Xa rời t tởng này thì
mọi ý niệm, lý tởng chỉ là
những điều ảo tởng, và triết
học là một hệ thống những
điều bịa đặt rỗng tuếch.
ăngghen đã nhận xét:
trong quá trình phát triển,
tất cả những gì trớc kia là
hiện thực thì hiện nay trở
thành không hiện thực, mất
tính tất yếu, mất quyền tồn
tại, mất tính hợp lý của
chúng; và hiện thực mới, đầy
sinh lực, thay thế cho hiện
thực đang tiêu vong thông
qua phép biện chứng của
Hêghen mà luận điểm trên
của Hêghen đã chuyển thành
một cái đối lập với nó: tất cả
những gì là hiện thực trong

lĩnh vực của lịch sử loài ngời
thì lâu dần cũng trở thành
không hợp lý, trở thành
không hợp lý do bản chất của
nó, trở thành bị nhiễm từ trớc
tính không hợp lý; và tất cả
những gì là hợp lý ở trong
đầu óc con ngời thì đợc
quyết định trớc là trở thành
hiện thực, dù có mâu thuẫn
đến đâu chăng nữa với cái
hiện thực bề ngoài hiện đang
tồn tại. Sự đánh giá của
ăngghen về phép biện chứng
của Hêghen sau khi đã loại
bỏ những thiết sót và sai lầm
của Hêghen đó là thế giới
quan duy tâm và lập trờng
nhu nhợc của giai cấp t sản
Đức trong thời kỳ đầu đã làm
sáng tỏ hạt nhân cơ bản của
phép biện chứng là sự phát
triển không ngừng với tính
chất khoa học cách mạng.
ăngghen thừa nhận các sự
vật và hiện tợng vận động,
biến đổi không ngừng, không
có cái gì là bất biến, vĩnh
cửu, cái gì đã sinh ra trong
lịch sử thì nó sẽ mất đi trong

lịch sử nhng sự mất đi của
một sự vật này lại là tiền đề
cho sự xuất hiện của một sự
vật mới. Điều đó có nghĩa là
hiện thực mới đầy sinh lực
thay thế hiện thực cũ đang
tiêu vong. Theo tất cả các
quy tắc của phơng pháp t duy
của Hêghen thì luận đề về
tính hợp lý của mọi cái gì là
hiện thực, đã chuyển thành
một luận đề khác: mọi cái
đang tồn tại đều đang tiêu
vong. Công lao to lớn của
Hêghen là phê phán t duy
siêu hình, ông là ngời đầu
tiên trình bầy toàn bộ giới tự
nhiên, lịch sử và t duy dới
dạng một quá trình, nghĩa là
trong sự vận động biến đổi
và phát triển không ngừng.
Đó cũng chính là ý nghĩa
thật sự và tính chất cách
mạng của triết học Hêghen.
Nhận xét về ý nghĩa
cách mạng của triết học
Hêghen, ăngghen chỉ rõ:
theo Hêghen, chân lý mà
triết học có nhiệm vụ phải
nhận thức, không còn là một

tập hợp những giáo điều có
sẵn mà ngời ta chỉ việc học
thuộc lòng, một khi đã tìm ra
đợc, từ nay, chân lý nằm
trong chính ngay quá trình
nhận thức, trong trình độ
phát triển lịch sử lâu dài của
khoa học đang tiến từ hiểu
biết thấp lên trình độ hiểu
biết cao hơn, song không bao
giờ ta tìm ra đợc cái gọi là
chân lý tuyệt đỉnh cuối cùng.
Điều đó xảy ra ở trong lĩnh
vực triết học cũng nh ở trong
mọi lĩnh vực nhận thức khác
và cả trong lĩnh vực hoạt
động thực tiễn nữa. Trong
lịch sử, mỗi giai đoạn là một
tất yếu, trong những điều
kiện đã sản sinh ra nó, song
trong những điều kiện mới
cao hơn đang dần dần phát
triển ở ngay trong lòng nó,
nó lại trở nên không có giá
trị, không tất yếu và buộc
phải nhờng chỗ cho giai đoạn
cao hơn, giai đoạn này đến l-
ợt nó cũng sẽ đi đến chỗ suy
tàn tiêu vong. Đối với triết
học biện chứng của Hêghen,

không có gì là tối hậu, là
3
tuyệt đối, là thiêng liêng cả.
Nó chỉ ra tính chất quá độ
của mọi sự vật và trong mọi
sự vật, và đối với nó, không
có gì tồn tại ngoài quá trình
không ngừng của sự hình
thành và của sự tiêu vong,
của sự tiến triển vô cùng tận
từ thấp lên cao mà bản thân
nó, cũng chỉ là sự phản ánh
đơn thuần của quá trình đó
vào trong bộ óc đang t duy.
Trong logic học của
mình, Hêghen không chỉ
trình bày các phạm trù nh
chất- lợng phủ định, mâu
thuẫn mà còn nói đến cả
các quy luật nh lợng đổi
dẫn đến chất đổi và ngợc
lại, phủ định của phủ định
và phần nào về quy luật mâu
thuẫn. Nhng tất cả chỉ là
những quy luật vận động,
phát triển của t duy, của khái
niệm. Vì vậy, Lênin nói,
muốn thấy đợc giá trị đích
thực của phép biện chứng
của Hêghen, phải nghiên cứu

triết học của ông trên tinh
thần duy vật- nghĩa là phải
luôn luôn lật ngợc lại vấn đề:
biện chứng khách quan sản
sinh ra biện chứng chủ quan.
Biện chứng của khái
niệm trong triết học của
Hêghen trong khoa học lôgic
bao gồm những điểm tổng
quát sau:
Một là: Những khái
niệm không những khác
nhau mà còn làm trung giới
cho nhau, tức là có liên hệ
với nhau.
Hai là: Mỗi khái niệm
đều phải qua một quá trình
phát triển đợc thực hiện trên
cơ sở của ba nguyên tắc:
- Nguyên tắc thứ nhất:
chất và lợng quy định lẫn
nhau. Những chuyển hoá về
lợng sẽ dẫn tới những biến
đổi về chất và ngợc lại
(thuyết về tồn tại).
- Nguyên tắc thứ hai:
sự thống nhất và đấu tranh
giữa các mặt đối lập với t
cách là nguồn gốc và động
lực của sự phát triển (thuyết

về bản chất).
Khi nghiên cứu các
nguyên tắc này, Hêghen đã
đa ra và giải quyết một cách
biện chứng mối liên hệ
chuyển hoá giữa bản chất và
hiện tợng, khả năng và hiện
thực, nguyên nhân và kết
quả.
- Nguyên tắc thứ ba:
phủ định của phủ định với
tính cách là sự phát triển diễn
ra theo hình thức xoáy ốc
(học thuyết về khái niệm).
Trong khi lý giải nguyên tắc
này, Hêghen đã giải quyết
một cách biện chứng mối
quan hệ giữa cái chung và
cái riêng, giữa lôgíc và lịch
sử.
Trong tác phẩm Triết
học tự nhiên, Hêghen đã đề
ra một loạt những t tởng biện
chứng tài tình về sự thống
nhất của vật chất và của vận
động; về tính chất mâu thuẫn
của những phạm trù không
gian, thời gian và vận động;
về sự phụ thuộc của những
đặc tính hoá học vào những

thay đổi về lợng Để chứng
minh tính chất biện chứng
của hiện thực một cách duy
tâm, Hêghen đã đa ra những
ví dụ lấy trong tự nhiên.
Quan điểm về xã hội
của Hêghen
Trong quan điểm về xã
hội của mình, bên cạnh
những t tởng phản tiến bộ,
Hêghen đã nêu ra nhiều t t-
ởng biện chứng quý báu về
sự phát triển của đời sống xã
hội, trong đó, ông đặc biệt
quan tâm nghiên cứu bản
chất và nguồn gốc nhà nớc.
Khác với nhiều nhà
triết học trớc đó, lý giải
nguồn gốc nhà nớc từ khế ớc
xã hội, Hêghen tìm nguồn
gốc nhà nớc từ mâu thuẫn xã
hội. Ông viết: Nhà nớc hiện
đại và chính phủ hiện đại chỉ
xuất hiện khi tồn tại sự khác
nhau giữa các đẳng cấp, khi
sự chênh lệch giàu nghèo trở
nên quá lớn .
Hêghen cho rằng, nhà
nớc tồn tại vĩnh viễn, tồn tại
trên bất kỳ giai đoạn nào của

lịch sử. Nhà nớc là hiện thân
của ý niệm tuyệt đối trong
đời sống xã hội. Nhờ nó, gia
đình và xã hội công dân đợc
bảo tồn, mâu thuẫn giữa các
đẳng cấp đợc điều hoà. Nhà
nớc, theo Hêghen, không chỉ
là cơ quan hành pháp, mà là
tổng thể các quy chế, kỷ c-
ơng, chuẩn mực và mọi lĩnh
vực đạo đức, pháp quyền,
chính trị, văn hoá của xã
hội, nhờ đó, mà xã hội mới
phát triển bình thờng. Ông đề
cao chế độ nhà nớc Phổ, xem
nó nh đỉnh cao của sự phát
triển nhà nớc và pháp luật.
Hêghen cho rằng, chiến
tranh là một hiện tợng vĩnh
viễn và tất yếu trong lịch sử,
nhờ có các cuộc chiến tranh
mà thể trạng đạo đức của
các dân tộc mới đợc bảo
toàn Chiến tranh bảo vệ
các dân tộc tránh khỏi sự
thối nát. Ông đứng trên lập
trờng của chủ nghĩa sôvanh
đề cao dân tộc Đức.
Hêghen cho rằng, lịch
sử là sự thống nhất giữa tính

khách quan và tính chủ quan
trong hoạt động của con ng-
ời. Ông khẳng định: trong xã
hội không có gì có thể đợc
tiến hành mà không động
đến lợi ích của những ngời
tham gia hoạt động không
có sự say mê thì không có gì
vĩ đại trên thế giới đợc tạo ra
cả. Nhng lịch sử không bao
giờ diễn ra theo ý muốn chủ
quan của con ngời, trái lại
thế giới hiện thực nh thế
4
nào thì tất yếu nó phải nh
thế.
Theo Hêghen, vĩ nhân
của mỗi thời đại lịch sử là
ngời suy nghĩ và hiểu đợc
những gì là cần thiết và
những gì là hợp thời, hoạt
động của họ phải hợp với xu
hớng của thời đại mình,
không ai đảo ngợc xu thế tất
yếu khách quan của tiến
trình lịch sử nhân loại. Lịch
sử nhân loại diễn ra thông
qua lịch sử từng quốc gia,
dân tộc riêng rẽ; và sự phát
triển của mỗi quốc gia, mỗi

dân tộc lại không thể vợt ra
ngoài khung cảnh lịch sử
toàn thế giới nói chung mà
phải tuân theo xu hớng
chung của toàn bộ tiến trình
lịch sử nhân loại, tham dự
vào lịch sử toàn nhân loại.
Hêghen cho rằng, sự phát
triển tự do của con ngời là
chuẩn mực, u việt của thời
đại này so với thời đại khác,
của dân tộc này so với dân
tộc khác. Song, ông hiểu tự
do một cách duy tâm: Tự do
còn thể hiện trong sự hiểu
biết và làm theo ý Chúa và
lịch sử toàn thế giới là lịch sử
tiến bộ trong ý thức tự do.
Tuy nhiên ở mức độ nhất
định nó toát lên t tởng sâu
sắc: tự do cũng nh trình độ
giải phóng con ngời, làm cho
con ngời là chúa tể số phận
và sứ mạng của mình: là một
xu hớng phát triển của nền
văn minh nhân loại.
Tóm lại, mặc dù đợc
xây dựng trên lập trờng của
chủ nghĩa duy tâm khách
quan nhng triết học của

Hêghen vẫn đợc thừa nhận là
một trong những thành tựu vĩ
đại nhất của t tởng triết học
nhân loại. Triết học của
Hêghen là di sản tinh thần
trực tiếp của nền triết học
Mác. Phép biện chứng của
Hêghen đã đợc cải tạo, kế
thừa phát triển thành phép
biện chứng duy vật.
2. Chủ nghĩa duy vật nhân
bản của Phơbách
Phơbách là đại diện vĩ đại
cuối cùng của triết học cổ
điển Đức. Ngời có công lao
to lớn đấu tranh chống lại
chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo,
phục hồi và phát triển chủ
nghĩa duy vật trong thời kỳ
chuẩn bị cách mạng t sản
Đức (1848).
Về chủ nghĩa duy vật
nhân bản của Phơbách: sau
khi Hêghen qua đời, những
ngời theo học thuyết Hêghen
đã phân hóa thành hai nhóm
là Hêghen trẻ và Hêghen
già. Phái Hêghen già thì
bám lấy mặt bảo thủ của hệ
thống Hêghen, bảo vệ chế độ

Nhà nớc Phổ đã lỗi thời về
mặt lịch sử, trái lại, phái
Hêghen trẻ lại phát triển
triết học Hêghen về phía tả-
về phía lập trờng giai cấp t
sản cấp tiến, dân chủ, đòi cải
cách Nhà nớc Phổ theo hớng
t sản. Họ nắm lấy tinh thần
của phép biện chứng trong
triết học Hêghen. Trong
nhóm Hêghen trẻ có cả
Phơbách, Mác và ăngghen.
Theo các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác, hệ thống
Hêghen tự nó dẫn tới chủ
nghĩa duy vật của Phơbách.
Phơbách đã thực hiện việc
phê phán triết học duy tâm
khách quan của Hêghen, tức
là triết học coi thờng con ng-
ời sống, không biết cảm giác
là nguồn gốc của nhận thức.
Ngợc lại, Phơbách lấy con
ngời sống, con ngời có cảm
giác làm điểm xuất phát cho
học thuyết duy vật của mình.
Đó chính là quan điểm nhân
bản học của Phơbách. Theo
ông, nếu triết học duy tâm
xuất phát từ nguyên lý cho

rằng, chủ thể là trừu tợng, là
t duy, rằng thể xác không
thuộc về bản chất con ngời,
thì trái lại, triết học nhân bản
chủ nghĩa bắt đầu từ nguyên
lý cho rằng, chủ thể là vật
chất, cảm giác, rằng chính
thể xác với toàn bộ những
thuộc tính của nó là chủ thể,
là bản chất của con ngời.
Theo ý Phơbách, nhiệm vụ
của triết học là đem lại cho
con ngời một quan niệm mới
về chính bản thân mình, tạo
điều kiện cho con ngời hạnh
phúc.
Phơbách quan niệm con
ngời nh một thực thể sinh vật
có cảm giác, biết t duy, có
ham muốn, có ớc mơ, là một
bộ phận của giới tự nhiên, và
xét theo bản chất của nó là
tình yêu thơng. Ông lấy tình
yêu thơng giữa nam và nữ
làm kiểu mẫu của bản chất
yêu thơng. Tuy nhiên, ông đã
không thấy đợc phơng diện
xã hội của con ngời. Con ng-
ời mà ông quan niệm là con
ngời trừu tợng, bị tách khỏi

những điều kiện kinh tế- xã
hội và lịch sử. Bởi vậy, khi
Phơbách nghiên cứu những
vấn đề về đời sống xã hội,
ông đã rơi vào quan điểm
duy tâm, và bộc lộ tính trừu
tợng của cái gọi là con ngời
cụ thể của ông.
Xuất phát từ lý luận nhân
bản, Phơbách đã xây dựng lý
luận về bản thể, về nhận thức
và về xã hội.
Trong quan niệm về tự
nhiên, Phơ bách là nhà duy
vật triệt để. Sau khi bác bỏ
học thuyết của Cantơ- học
thuyết cho rằng, tự nhiên là
do ý thức của con ngời cấu
tạo nên, và bác bỏ học thuyết
của Hêghen- học thuyết cho
rằng, tự nhiên là một sự tồn
tại khác của tinh thần thế
giới, Phơbách bảo vệ và
chứng minh nguyên lý duy
5
vật cho rằng, vật chất có trớc
ý thức; tự nhiên tự nó tồn tại,
và ngời ta chỉ có thể giải
thích tự nhiên xuất phát từ
bản thân nó. Phơbách còn

khắc phục một số điểm hạn
chế của hình thức duy vật
máy móc, coi vật chất nh
một cái gì thuần nhất. Theo
Phơbách, tự nhiên có rất
nhiều chất lợng khác nhau
mà những cảm giác của con
ngời đều có thể biết đợc.
Phơbách cho rằng: Quan
hệ thực sự của t duy đối với
tồn tại là: tồn tại, chủ thể, t
duy, thuộc tính. Nói một
cách khác: chủ thể (con ng-
ời) với tính cách là một bộ
phận của tự nhiên, còn t duy
là thuộc tính của nó.
Ông khẳng định, không
gian và thời gian tồn tại
khách quan, không có vật
chất tồn tại ở bên ngoài
không gian và thời gian. Ông
thừa nhận sự tồn tại khách
quan của quan hệ nhân quả;
thừa nhận sự vận động và
phát triển của giới tự nhiên
diễn ra một cách khách quan,
trong những điều kiện nhất
định, dẫn tới sự xuất hiện của
đời sống hữu cơ, con ngời.
Về nhận thức luận,

Phơbách phê phán hệ thống
duy tâm khách quan của
Hêghen, coi đối tợng của t
duy không có gì khác với
bản chất của t duy, và do đó
mà hệ thống duy tâm khách
quan không thoát khỏi giới
hạn của t duy và vẫn xa lạ
với hiện thực. Ông khẳng
định đối tợng của nhận thức
nói chung và của triết học
nói riêng là giới tự nhiên và
con ngời. Ông kêu gọi: Hãy
quan sát giới tự nhiên đi, hãy
quan sát con ngời đi! Bạn sẽ
thấy ở đấy trớc mắt bạn,
những bí mật của triết học.
Phơbách phê phán bất khả
tri luận và khẳng định, con
ngời có khả năng nhận thức
đợc giới tự nhiên, một ngời
thì không thể nhận thức đợc
hoàn toàn giới tự nhiên, nhng
toàn bộ loài ngời thông qua
các thế hệ thì có thể nhận
thức đợc.
Theo triết học nhân bản
của Phơbách, chủ thể của
nhận thức không phải là sự
trừu tợng lôgic mà là con ng-

ời thực tế. Không có con ng-
ời và ngoài con ngời thì
không có nhận thức. Nếu coi
thờng cảm giác thì không thể
có quan niệm đúng về quá
trình nhận thức. Không có
đối tợng của thị giác, không
có ánh sáng thì không có
cảm giác của thị giác; thị
giác là một cảm giác hoặc
một tri giác về ánh sáng.
Phơbách đã chứng minh cảm
giác vốn là sự phản ánh các
vật thể của thế giới vật chất,
đợc coi là nguồn gốc của t
duy lý luận. Ông nói: Bí
quyết của sự hiểu biết trực
tiếp tập trung trong tính cảm
giác.
Phơbách cũng thấy đợc
mối quan hệ chặt chẽ giữa
trực quan cảm tính và t duy
lý tính. Ông cho rằng, chúng
ta đọc cuốn sách tự nhiên
bằng các giác quan, nhng
chúng ta không dùng giác
quan để hiểu nó đợc. Tuy
nhiên, trong khi tiến lên giai
đoạn t duy trong quá trình
nhận thức, con ngời không

phải đạt tới một thế giới nào
khác siêu trần gian, một
giang sơn đặc biệt siêu thế
giới nh các nhà duy tâm vẫn
khẳng định, mà vẫn đứng
nguyên trên cơ sở của trái
đất và của tính cảm giác.
Đặc điểm của thế giới duy
tâm của Phơbách là lòng tin
vào sức mạnh của lý trí con
ngời. Toàn bộ những nguyên
lý mà Phơbách chứng minh
là những nguyên lý về khả
năng nhận thức chân lý, về
giới tự nhiên là đối tợng của
nhận thức, về con ngời là chủ
thể của nhận thức, về mối
liên hệ giữa cảm giác và lý
trí, về vai trò nhận thức của
cảm giác và lý trí- hợp thành
nhận thức luận duy vật thống
nhất và có một nội dung sâu
sắc.
Hạn chế trong lý luận
nhận thức của Phơbách, nh
các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác đã nói, là có tính
chất tĩnh quan, không hiểu đ-
ợc vai trò của thực tiễn đối
với nhận thức. Phơbách phê

phán chủ nghĩa duy tâm của
Hêghen. Cho nên, chủ nghĩa
duy vật của Phơbách về toàn
bộ vẫn nằm trong khuôn khổ
của phơng pháp suy nghĩ
siêu hình.
Quan điểm về xã hội và
tôn giáo. Việc Phơbách phê
phán thần học và tôn giáo
đóng vai trò quan trọng trong
lịch sử triết học tiên tiến.
Ông cho rằng, chính con ng-
ời đã bày đặt ra thần thánh
bằng cách trừu tợng hoá bản
chất con ngời của mình, cho
rằng thần thánh cũng có bản
chất ấy. Họ đã tuyệt đối hoá,
thần thánh hoá đặc tính của
con ngời.
Sau khi bác bỏ tôn giáo
cũ, Phơbách đã tuyên bố một
thứ tôn giáo mới không có
Chúa- tôn giáo tình yêu.
Nh vậy, Phơbách đã hạ thần
học xuống trình độ nhân bản
học và nâng nhân bản học
lên trình độ thần học.
Trong quan niệm về tự
nhiên, Phơbách là nhà duy
vật; còn trong quan điểm về

xã hội, ông lại là một nhà
duy tâm. Ông khẳng định
rằng, những thời kỳ của lịch
sử loài ngời sở dĩ khác nhau
chỉ là do những thay đổi các
hình thức tôn giáo: muốn
làm cho xã hội tiến lên phải
6
thay thế tôn giáo cũ bằng tôn
giáo mới- tôn giáo thờ tình
yêu thơng nhân loại. Nh
vậy, ông đã rơi vào thuyết
duy tâm và không tởng trong
các quan điểm về xã hội.
Ông không thấy đợc vai trò
của thực tiễn, của sản xuất
vật chất quyết định sự vận
động và phát triển của xã hội
loài ngời.
Mặc dù còn những hạn
chế- siêu hình trong quan
điểm về tự nhiên, duy tâm
trong quan điểm về xã hội,
nhng Phơbách đã có công lao
trong việc khôi phục và phát
triển chủ nghĩa duy vật. Triết
học của Phơbách đóng vai
trò là chiếc cầu nối, là
suối lửa để từ triết học
Hêghen bớc sang, chảy qua

để đến với thế giới quan duy
vật biện chứng triệt để trong
cả lĩnh vực tự nhiên, xã hội
và t duy.
3. Triết học Phơbách và
Hêghen là tiền đề lý luận
trực tiếp của triết học Mác
Triết học của Hêghen và
Phơbách là hai nguồn gốc
trực tiếp về lý luận của triết
học Mác.
Các nhà sáng lập chủ
nghĩa Mác đã kế thừa hạt
nhân hợp lý trong triết học
Hêghen là phép biện chứng,
cải tạo nó trên tinh thần của
chủ nghĩa duy vật, biến nó
thành phép biện chứng duy
vật nh là học thuyết khoa học
về các quy luật chung nhất
của tự nhiên, xã hội và t duy.
Cũng chính nhờ chủ nghĩa
duy vật của Phơbách đã giúp
Mác và ăngghen đoạn tuyệt
với chủ nghĩa duy tâm và
phái Hêghen trẻ. Mác và
Ăngghen đã cải tạo chủ
nghĩa duy vật của Phơbách
phát triển lên một hình thức
mới cao nhất đó là chủ nghĩa

duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử.
7
Câu 2: Phân tích nội dung
của học thuyết hình thái
kinh tế- xã hội? ý nghĩa,
phơng pháp luận của hình
thái kinh tế- xã hội? Quan
niệm của anh chị về sự vận
dụng học thuyết này vào
thời kỳ quá độ ở nớc ta?
Trả lời:
Nội dung của học thuyết
hình thái kinh tế- xã hội:
1. Sản xuất vật chất là
nền tảng của đời sống xã
hội
Sản xuất vật chất, với
nghĩa chung nhất, là quá
trình con ngời sử dụng công
cụ lao động tác động vào tự
nhiên nhằm cải biến các
dạng vật chất của tự nhiên để
tạo ra của cải vật chất cần
thiết cho đời sống con ngời
và cho xã hội.
Chính nhờ có hoạt động
lao động bản thân con ngời
và xã hội loài ngời tồn tại,
phát triển; đem lại những sự

biến đổi to lớn và có tính
chất quyết định: cơ thể con
ngời không ngừng hoàn thiện
và phát triển, có dáng đi
đứng thẳng, phân hoá rõ
chức năng tay và chân, óc và
các giác quan phát triển-
thoát khỏi loài động vật;
ngôn ngữ, phơng tiện giao
tiếp, trao đổi, tích luỹ, truyền
đạt kinh nghiệm lao động xã
hội xuất hiện và phát triển;
hình thành nên những quan
hệ xã hội về vật chất và tinh
thần, tức là hình thành xã
hội. Trên ý nghĩa đó mà
ăngghen đã nói: lao động
sáng tạo ra con ngời và xã
hội loài ngời.
Sản xuất vật chất là yêu
cầu khách quan của sự sinh
tồn của xã hội. Mọi ngời
trong xã hội đều có nhu cầu
tiêu dùng (thức ăn, quần áo,
nhà ở và các đồ dùng khác),
muốn vậy thì phải sản xuất.
Bởi vì, sản xuất là điều kiện
của tiêu dùng, sản xuất vật
chất càng phát triển thì mức
tiêu dùng của con ngời và xã

hội càng cao; và ngợc lại. Bất
cứ xã hội nào cũng không thể
tồn tại đợc nếu không tiến
hành sản xuất ra của cải vật
chất.
Sản xuất vật chất là cơ sở
hình thành tất cả các quan hệ
xã hội khác nh: chính trị,
pháp quyền, đạo đức, nghệ
thuật
Sản xuất vật chất còn là
cơ sở cho sự tiến bộ xã hội.
Sản xuất vật chất của xã hội
nói chung không ngừng tiến
lên từ thấp lên cao. Mỗi khi
sản xuất phát triển đến một
giai đoạn mới, cách thức sản
xuất của con ngời thay đổi,
kỹ thuật đợc cải tiến, năng
suất lao động nâng cao, quan
hệ giữa ngời với ngời trong
quá trình sản xuất thay đổi
thì mọi mặt của đời sống xã
hội cũng thay đổi theo.
2. Biện chứng của lực
lợng sản xuất và quan
hệ sản xuất
Phơng thức sản xuất là
gì?
- Sản xuất vật chất đợc

tiến hành trong những điều
kiện tất yếu nhất định:
+ Điều kiện địa lý:
các yếu tố hợp thành môi tr-
ờng địa lý nh khí hậu, vị trí
địa lý, đất đai, khoáng sản
là yếu tố tất yếu của sản xuất
nhng không có tính quyết
định.
+ Điều kiện dân số:
dân số liên quan đến nguồn
lực lao động, cung cấp nguồn
lực lao động, là nhân tố tất
yếu và đợc thể hiện ở số dân,
mật độ, chất lợng dân số. Số
dân của một quốc gia liên
quan đến quá trình sản xuất
đợc thể hiện nếu nó phát
triển tỷ lệ thuận với điều kiện
tự nhiên thì sẽ thúc đẩy sự
phát triển của nền kinh tế,
ngợc lại sẽ kìm hãm sự phát
triển của nền kinh tế. Mật độ
dân số (số lợng dân/1km
2
)
phụ thuộc vào điều kiện tự
nhiên (mật độ ở thành thị
đông, ở vùng nông thôn, xa
sôi hẻo lánh thì mật độ thấp)

(ở Châu Phi nóng mật độ dân
số cao, ở Mông Cổ lạnh mật
độ dân số thấp). Chất lợng
dân số phụ thuộc vào yếu tố
tự nhiên (số lợng ngời ở độ
tuổi lao động nh thế nào?),
yếu tố về mặt xã hội (đào tạo
lao động). Trong giai đoạn
hiện nay vấn đề dân số là yếu
tố tất yếu nhng không có tính
quyết định.
+ Phơng thức sản
xuất: Theo Mác Phơng thức
sản xuất là toàn bộ cách thức
mà con ngời phải sử dụng để
tiến hành sản xuất ra của cải
vật chất trong một giai đoạn
nhất định của lịch sử.
Trong 3 nhân tố trên thì
phơng thức sản xuất là nhân
tố quyết định sự tồn tại và
phát triển của xã hội.
Phơng thức sản xuất là
nhân tố quyết định tính
chất, kết cấu của xã hội,
quyết định sự vận động,
phát triển của xã hội
- Trong mỗi xã hội, phơng
thức sản xuất thống trị nh thế
nào thì tính chất của chế độ

xã hội nh thế ấy; kết cấu giai
cấp và tính chất của các mối
quan hệ giữa các giai cấp,
cũng nh các quan điểm về
chính trị, pháp quyền, đạo
đức, triết học đều do phơng
thức sản xuất quyết định.
- Phơng thức sản xuất
quyết định sự chuyển biến
của xã hội loài ngời qua các
giai đoạn lịch sử. Khi một
phơng thức sản xuất mới ra
đời, thay thế phơng thức sản
xuất cũ đã lỗi thời thì mọi
mặt của đời sống xã hội cũng
có sự thay đổi căn bản từ kết
cấu kinh tế đến kết cấu giai
8
cấp, từ các quan điểm t tởng
xã hội đến các tổ chức xã
hội. Lịch sử xã hội loài ngời
đã biết đến năm phơng thức
sản xuất kế tiếp nhau từ thấp
lên cao, tơng ứng với nó có
năm xã hội cụ thể: cộng sản
nguyên thuỷ, nô lệ, phong
kiến, t bản chủ nghĩa và cộng
sản chủ nghĩa (mà chủ nghĩa
xã hội là giai đoạn thấp). Do
đó, lịch sử xã hội loài ngời

trớc hết là lịch sử của sản
xuất, lịch sử của các phơng
thức sản xuất kế tiếp nhau
trong quá trình phát triển.
Việc thay thế phơng thức sản
xuất cũ bằng phơng thức sản
xuất mới diễn ra khônh đơn
giản, dễ dàng. Đó là quá
trình cải biến cách mạng. Ph-
ơng thức sản xuất mới muốn
trở thành phơng thức sản
xuất thống trị thì phải trải
qua cách mạng xã hội và gắn
liền với chế độ chính trị.
Từ đó có thể rút ra kết
luận: cái chìa khoá để nghiên
cứu những quy luật của lịch
sử xã hội không phải tìm
thấy ở trong óc ngời, trong t
tởng và ý niệm của xã hội,
mà là ở trong phơng thức sản
xuất của xã hội, trong mỗi
giai đoạn nhất định của lịch
sử.
Phơng thức sản xuất là sự
thống nhất giữa lực lợng sản
xuất và quan hệ sản xuất.
Vậy lực lợng sản xuất là
gì?
Lực lợng sản xuất biểu

hiện mối quan hệ giữa con
ngời với tự nhiên, thể hiện
trình độ chinh phục tự nhiên
của con ngời. Đó là kết quả
của năng lực thực tiễn của
con ngời trong quá trình tác
động vào tự nhiên tạo ra của
cải vật chất bảo đảm cho sự
tồn tại và phát triển của loài
ngời. Lực lợng sản xuất bao
gồm t liệu sản xuất (t liệu lao
động và đối tợng lao động)
và ngời lao động với kinh
nghiệm sản xuất và thói quen
lao động.
Các yếu tố của lực lợng
sản xuất có quan hệ với
nhau. Sự phát triển của lực l-
ợng sản xuất có quan hệ với
nhau. Sự phát triển của lực l-
ợng sản xuất là sự phát triển
của t liệu lao động thích ứng
với bản thân ngời lao động,
với trình độ văn hoá, khoa
học, kỹ thuật của họ.
Năng suất lao động là th-
ớc đo trình độ phát triển của
lực lợng sản xuất. Đồng thời,
xét đến cùng, đó là nhân tố
quan trọng nhất cho sự thắng

lợi của một trật tự xã hội
mới.
Ngày nay, khoa học trở
thành lực lợng sản xuất trực
tiếp. Những thành tựu của
khoa học đợc vận dụng
nhanh chóng và rộng rãi vào
sản xuất, có tác dụng thúc
đẩy mạnh mẽ sản xuất phát
triển; những t liệu sản xuất,
những tiến bộ của công nghệ
và phơng pháp sản xuất là
kết quả vật chất của nhận
thức khoa học. Thời đại ngày
nay tri thức khoa học trở
thành một bộ phận cần thiết
của kinh nghiệm và tri thức
của ngời sản xuất to lớn thúc
đẩy quá trình phát triển tiến
bộ xã hội trên thế giới.
Quan hệ sản xuất.
Quan hệ giữa ngời và ngời
trong quá trình sản xuất đợc
gọi là quan hệ sản xuất.
Cũng nh lực lợng sản xuất,
quan hệ sản xuất thuộc lĩnh
vực đời sống vật chất của xã
hội. Tính vật chất của quan
hệ sản xuất thể hiện ở chỗ
chúng tồn tại khách quan độc

lập với ý thức con ngời.
Quan hệ sản xuất bao
gồm: quan hệ sở hữu về t liệu
sản xuất; quan hệ về tổ chức
quản lý trong sản xuất; quan
hệ phân phối sản phẩm. Ba
mặt trên có quan hệ hữu cơ
với nhau, trong đó quan hệ
sở hữu về t liệu sản xuất giữ
vai trò quyết định. Bản chất
của bất cứ kiểu quan hệ sản
xuất nào trớc hết do quan hệ
chiếm hữu t liệu sản xuất
quyết định.
Quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với tính chất
và trình độ của lực lợng sản
xuất.
Quan hệ sản xuất đợc
hình thành, biến đổi, phát
triển dới ảnh hởng quyết
định của lực lợng sản xuất
- Lực lợng sản xuất là
yếu tố tác động nhất và cách
mạng nhất, là nội dung của
phơng thức sản xuất, còn
quan hệ sản xuất là yếu tố t-
ơng đối ổn định, là hình thức
xã hội của phơng thức sản
xuất. Trong mối quan hệ

giữa nội dung và hình thức
thì nội dung quyết định hình
thức.
- Lực lợng sản xuất phát
triển thì quan hệ sản xuất
biến đổi theo phù hợp với
tính chất và trình độ của lực
lợng sản xuất. Sự phù hợp đó
làm cho lực lợng sản xuất
tiếp tục phát triển. Khi tính
chất và trình độ của lực lợng
sản xuất phát triển đến mức
nào đó sẽ mâu thuẫn với
quan hệ sản xuất hiện có, đòi
hỏi xoá bỏ quan hệ sản xuất
cũ để hình thành quan hệ sản
xuất mới phù hợp với lực l-
ợng sản xuất đang phát triển,
làm phơng thức sản xuất cũ
mất đi, phơng thức sản xuất
mới xuất hiện
- Sự phát triển của lực l-
ợng sản xuất từ thấp đến cao
qua các thời kỳ lịch sử khác
nhau đã quyết định sự thay
thế quan hệ sản xuất cũ bằng
quan hệ sản xuất mới cao
hơn, đa loài ngời trải qua
nhiều hình thái kinh tế- xã
hội khác nhau từ thấp lên

9
cao, với những kiểu quan hệ
sản xuất khác nhau.
Sự tác động trở lại của
quan hệ sản xuất với lực l-
ợng sản xuất.
- Quan hệ sản xuất phù
hợp với tính chất và trình độ
của lực lợng sản xuất sẽ tạo
địa bàn rộng lớn cho sự phát
triển của lực lợng sản xuất,
trở thành động lực cơ bản
thúc đẩy, tạo điều kiện cho
lực lợng sản xuất phát triển.
- Khi quan hệ sản xuất đã
lỗi thời, lạc hậu không còn
phù hợp với tính chất và trình
độ của lực lợng sản xuất thì
nó trở thành xiềng xích trói
buộc, kìm hãm sự phát triển
của lực lợng sản xuất.
- Quan hệ sản xuất, sở dĩ
có thể tác động (thúc đẩy
hoặc kìm hãm) sự phát triển
của lực lợng sản xuất, vì nó
quy định mục đích của sản
xuất; ảnh hởng đến thái độ
lao động của quảng đại quần
chúng; kích thích hoặc hạn
chế việc cải tiến công cụ,

việc áp dụng thành tựu khoa
học- kỹ thuật vào sản xuất,
việc hợp tác và phân công
lao động
- Trong xã hội có giai cấp
đối kháng mâu thuẫn giữa
lực lợng sản xuất và quan hệ
sản xuất biểu hiện thành mâu
thuẫn giai cấp và chỉ thông
qua đấu tranh giai cấp mới
giải quyết đợc mâu thuẫn đó
để đa xã hội tiến lên.
- Quy luật về sự phù hợp
của quan hệ sản xuất với tính
chất và trình độ của lực lợng
sản xuất biểu hiện sự vận
động nội tại của phơng thức
sản xuất và biểu hiện tính tất
yếu của sự thay thế phơng
thức sản xuất này bằng ph-
ơng thức sản xuất khác cao
hơn. Quy luật này là quy luật
phổ biến tác động trong mọi
xã hội, làm cho xã hội loài
ngời phát triển từ thấp đến
cao.
Sự vận dụng quy luật về
sự phù hợp của quan hệ sản
xuất với tính chất và trình
dộ của lực lợng sản xuất ở

nớc ta.
Nớc ta lựa chọn con đờng
xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế
độ t bản chủ nghĩa từ một n-
ớc nông nghiệp lạc hậu, do
đó xây dựng phơng thức sản
xuất xã hội chủ nghĩa là một
quá trình lâu dài và đầy khó
khăn, phức tạp. Kinh nghiệm
thực tế chỉ rõ, lực lợng sản
xuất bị kìm hãm không chỉ
trong trờng hợp quan hệ sản
xuất lạc hậu, mà cả khi quan
hệ sản xuất phát triển không
đồng bộ và có những yếu tố
đi quá xa so với trình độ phát
triển của lực lợng sản xuất.
Tình hình thực tế của nớc
ta đòi hỏi phải coi trọng
những hình thức kinh tế
trung gian, quá độ từ thấp
đến cao, từ quy mô nhỏ lên
quy mô lớn. Để xây dựng ph-
ơng thức sản xuất xã hội chủ
nghĩa, chúng ta chủ trơng
xây dựng một nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần
với cơ chế thị trờng có sự
quản lý của nhà nớc nhằm
phát huy mọi tiềm năng của

các thành phần kinh tế, phát
triển mạnh mẽ lực lợng sản
xuất để xây dựng cơ sở kinh
tế của chủ nghĩa xã hội.
Từng bớc xã hội hoá xã hội
chủ nghĩa, quá trình đó đợc
thực hiện không phải bằng
gò ép mà đợc thực hiện từng
bớc thông qua sự hỗn hợp
các hình thức sở hữu nh công
ty cổ phần, chủ nghĩa t bản
nhà nớc, các hình thức hợp
tác xã để dần dần hình
thành các tập đoàn kinh
doanh lớn trong đó các đơn
vị kinh tế quốc doanh và tập
thể là nòng cốt. Chúng ta chỉ
bỏ qua những gì của xã hội
cũ không còn phù hợp với xã
hội mới thay thế và không
đem lại hiệu quả kinh tế- xã
hội cao hơn; chúng ta chủ tr-
ơng thực hiện sự chuyển hoá
cái cũ thành cái mới theo
định hớng xã hội chủ nghĩa.
3. cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thợng tầng
Cơ sở hạ tầng
- Cơ sở hạ tầng là toàn bộ
những quan hệ sản xuất hợp

thành cơ cấu kinh tế của một
xã hội nhất định. Khái niệm
cơ sở hạ tầng phản ánh chức
năng xã hội của các quan hệ
sản xuất với t cách là cơ sở
kinh tế của các hiện tợng xã
hội.
- Cơ sở hạ tầng bao gồm
quan hệ sản xuất thống trị,
những quan hệ sản xuất là
tàn d của xã hội trớc và
những quan hệ sản xuất là
mầm mống của xã hội sau.
Đặc trng cho tính chất của
một cơ sở hạ tầng do quan hệ
sản xuất thống trị quy định.
- Trong xã hội có đối
kháng giai cấp thì tính chất
của sự đối kháng giai cấp và
sự xung đột giai cấp bắt
nguồn từ trong cơ sở hạ tầng.
Kiến trúc thợng tầng
- Kiến trúc thợng tầng là
toàn bộ những quan điểm t t-
ởng xã hội, những thiết chế t-
ơng ứng và những quan hệ
nội tại của thợng tầng hình
thành trên một cơ sở hạ tầng
nhất định.
- Mỗi yếu tố của kiến trúc

thợng tầng có đặc điểm
riêng, có quy luật phát triển
riêng, nhng có liên hệ, tác
động lẫn nhau và đều nảy
sinh trên cơ sở hạ tầng, phản
ánh cơ sở hạ tầng, trong đó
nhà nớc là bộ phận có quyền
lực mạnh mẽ nhất của kiến
trúc thợng tầng. Chính nhờ
có nhà nớc mà t tởng của giai
cấp thống trị mới thống trị đ-
ợc toàn bộ đời sống xã hội.
10
- Kiến trúc thợng tầng của
xã hội có đối kháng giai cấp
bao gồm hệ t tởng và thể chế
của giai cấp thống trị, tàn d
của các quan điểm của xã
hội trớc, các quan điểm và tổ
chức của các giai cấp mới ra
đời, quan điểm t tởng của các
tầng lớp trung gian. Hệ t t-
ởng của giai cấp thống trị
quyết định tính chất cơ bản
của kiến trúc thợng tầng
trong một hình thái xã hội
nhất định. Tính chất đối
kháng về quan điểm t tởng và
cuộc đấu tranh t tởng của các
giai cấp đối kháng phản ánh

tính chất đối kháng của cơ sở
hạ tầng.
Quan hệ biện chứng
giữa cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thợng tầng
Mỗi hình thái kinh tế- xã
hội có cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thợng tầng của nó, giữa
chúng có mối quan hệ biện
chứng với nhau, trong đó cơ
sở hạ tầng quyết định kiến
trúc thợng tầng và kiến trúc
thợng tầng tác động trở lại cơ
sở hạ tầng.
Cơ sở hạ tầng quyết định
kiến trúc thợng tầng
- Cơ sở hạ tầng sinh ra
kiến trúc thợng tầng. Cơ sở
hạ tầng của một xã hội nhất
định nh thế nào, tính chất
của nó ra sao, giai cấp đại
diện cho nó thế nào thì hệ
thống t tởng chính trị, pháp
quyền, đạo đức, triết học
và các quan hệ, các thể chế t-
ơng ứng với những t tởng ấy
cũng nh vậy.
- Cơ sở hạ tầng quyết định
sự biến đổi của kiến trúc th-
ợng tầng. Sự biến đổi đó xảy

ra trong mỗi hình thái kinh
tế- xã hội, cũng nh từ hình
thái kinh tế- xã hội này sang
hình thái kinh tế- xã hội
khác. Trong xã hội có đối
kháng giai cấp, sự biến đổi
đó diễn ra thông qua cuộc
đấu tranh giai cấp gay go,
phức tạp.
- Cơ sở hạ tầng quyết định
kiến trúc thợng tầng là quy
luật phổ biến của mọi hình
thái kinh tế- xã hội.
Sự tác động trở lại của
kiến trúc thợng tầng đối với
cơ sở hạ tầng
- Sự tác động tích cực của
kiến trúc thợng tầng đối với
cơ sở hạ tầng thể hiện trớc
hết ở chức năng chính trị- xã
hội của kiến trúc thợng tầng
nhằm bảo vệ, duy trì, củng
cố và phát triển cơ sở hạ tầng
sinh ra nó; đấu tranh xoá bỏ
cơ sở hạ tầng và kiến trúc th-
ợng tầng cũ.
- Các bộ phận khác nhau
của kiến trúc thợng tầng đều
tác động đến cơ sở hạ tầng
bằng nhiều hình thức khác

nhau, trong đó nhà nớc giữ
vai trò đặc biệt quan trọng có
tác động to lớn nhất và trực
tiếp đối với cơ sở hạ tầng.
- Trong mỗi hình thái
kinh tế- xã hội, kiến trúc th-
ợng tầng có những quá trình
biến đổi nhất định. Quá trình
đó càng phù hợp với cơ sở hạ
tầng thì sự tác động của nó
đối với cơ sở hạ tầng càng có
hiệu quả; ngợc lại, quá trình
đó không theo cùng chiều
với quy luật vận động của cơ
sở hạ tầng thì nó sẽ cản trở
sự phát triển của cơ sở hạ
tầng.
- Trong thời đại ngày nay,
vai trò của kiến trúc thợng
tầng tăng lên rõ rệt, càng thể
hiện với t cách là một yếu tố
tác động mạnh mẽ đến tiến
trình lịch sử. Song nếu quá
nhấn mạnh hoặc thổi phồng
vai trò của kiến trúc thợng
tầng đến mức phủ định tính
tất yếu kinh tế của xã hội, thì
sẽ rơi vào chủ nghĩa duy tâm
chủ quan, duy ý chí.
Cơ sở hạ tầng và kiến

trúc thợng tầng trong thời kỳ
quá độ ở nớc ta
- Cơ sở hạ tầng trong thời
kỳ quá độ ở nớc ta bao gồm
các kiểu quan hệ sản xuất
gắn liền với hình thức sở hữu
tơng ứng với các thành phần
kinh tế khác nhau, thậm chỉ
đối lập nhau, cùng tồn tại
trong một cơ cấu kinh tế
thống nhất theo định hớng xã
hội chủ nghĩa.
- Về xây dựng kiến trúc
thợng tầng xã hội chủ nghĩa
ở nớc ta, Đảng ta đã khẳng
định: lấy chủ nghĩa Mác-
Lênin và t tởng Hồ Chí MInh
làm nền tảng t tởng cho mọi
hoạt động tinh thần của xã
hội. Xây dựng hệ thống
chính trị xã hội xã hội chủ
nghĩa mang tính chất giai
cấp công nhân, do đội tiên
phong của nó là Đảng Cộng
sản Việt nam lãnh đạo, bảo
đảm cho nhân dân thực sự là
ngời chủ của xã hội. Các tổ
chức, bộ máy tạo thành hệ
thống chính trị- xã hội không
tồn tại nh một mục đích tự

thân mà vì phục vụ con ngời,
thực hiện cho đợc lợi ích và
quyền lực thuộc về nhân dân
lao động.
- Mỗi bớc phát triển của
cơ sở hạ tầng hoặc kiến trúc
thợng tầng là một bớc giải
quyết mâu thuẫn giữa chúng.
Việc phát triển và củng cố cơ
sở hạ tầng, điều chỉnh và
củng cố các bộ phận của kiến
trúc thợng tầng là một quá
trình diễn ra trong suốt thời
kỳ quá độ.
- Sự định hớng xã hội chủ
nghĩa nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần thì hoạt
động định hớng của kiến trúc
thợng tầng chính trị không
chỉ bó hẹp trong kinh tế quốc
doanh mà phải hoạt động bao
quát cả trong những thành
phần kinh tế ngoài quốc
11
doanh nhằm từng bớc xã hội
hoá nền sản xuất với những
hình thức và bớc đi thích hợp
theo hớng: kinh tế quốc
doanh đợc củng cố và phát
triển ở những vị trí chủ đạo,

kinh tế tập thể dới hình thức
thu hút phần lớn những ngời
sản xuất nhỏ trong các ngành
nghề, các hình thức xí
nghiệp, công ty cổ phần phát
triển mạnh, kinh tế t nhân và
gia đình phát huy đợc mọi
tiềm năng, các tập đoàn kinh
doanh lớn có sức chi phối
trong nền kinh tế đợc hình
thành.
12
4. phạm trù hình thái
kinh tế x hội. ý nghĩa phã -
ơng pháp luận
Khái niệm và cấu trúc
của hình thái kinh tế- xã
hội
Khái niệm hình thái kinh
tế- xã hội:
Hình thái kinh tế- xã hội
là một phạm trù của chủ
nghĩa duy vật lịch sử, dùng
để chỉ xã hội ở từng giai
đoạn phát triển lịch sử nhất
định, với một kiểu quan hệ
sản xuất đặc trng cho xã hội
đó phù hợp với lực lợng sản
xuất ở một trình độ nhất định
và với một kiến trúc thợng

tầng đợc xây dựng lên trên
những quan hệ sản xuất đó.
Kết cấu của hình thái
kinh tế- xã hội
Hình thái kinh tế- xã hội
là một xã hội cụ thể có kết
cấu phức tạp, gồm những yếu
tố cơ bản nhất là lực lợng sản
xuất, quan hệ sản xuất và
kiến trúc thợng tầng trong sự
liên hệ tác động qua lại.
- Lực lợng sản xuất là nền
tảng vật chất- kỹ thuật của
mỗi hình thái kinh tế- xã hội.
Sự phát triển của hình thái
kinh tế- xã hội xét đến cùng
là do lực lợng sản xuất quyết
định.
- Quan hệ sản xuất là
quan hệ kinh tế cơ bản, quyết
định tất cả mọi quan hệ xã
hội khác, là tiêu chuẩn khách
quan để phân biệt chế độ xã
hội này với chế độ xã hội
khác. Mỗi hình thái kinh tế-
xã hội có một kiểu quan hệ
sản xuất tơng ứng với một
trình độ nhất định của mọi
lực lợng sản xuất.
- Những quan hệ sản xuất

của một xã hội cụ thể hợp
thành cơ sở hạ tầng, trên đó
hình thành nên kiến trúc th-
ợng tầng xã hội, mà chức
năng xã hội của nó là bảo vệ,
duy trì và phát triển cơ sở hạ
tầng đã sinh ra nó.
Ngoài những yếu tố cơ
bản của xã hội trên còn có
những quan hệ khác nh quan
hệ dân tộc, quan hệ gia
đình
Sự phát triển của các
hình thái kinh tế- xã hội là
một quá trình lịch sử tự
nhiên
- Sự vận động, phát triển
và thay thế nhau của các
hình thái kinh tế- xã hội
trong lịch sử do sự tác động
của các quy luật khách quan
chi phối. Các yếu tố cơ bản
hợp thành một hình thái kinh
tế- xã hội có quan hệ biện
chứng với nhau hình thành
nên những quy luật phổ biến
của xã hội: quy luật về sự
phù hợp của quan hệ sản
xuất với tính chất và trình độ
của lực lợng sản xuất, quy

luật cơ sở hạ tầng quyết định
kiến trúc thợng tầng Chính
do sự tác động của các quy
luật đó, mà các hình thái
kinh tế- xã hội vận động phát
triển và thay thế nhau từ thấp
lên cao nh một quá trình lực
sử tự nhiên.
- Trong các quy luật
khách quan chi phối sự vận
động và sự phát triển của các
hình thái kinh tế- xã hội thì
quy luật về sự phù hợp của
quan hệ sản xuất với tính
chất và trình độ của lực lợng
sản xuất có vai trò quyết
định nhất. Nó vừa bảo đảm
tính kế thừa trong sự phát
triển tiến lên của xã hội, vừa
biểu hiện tính gián đoạn
trong sự phát triển của lịch
sử.
- Quá trình phát triển lịch
sử tự nhiên đợc quy định bởi
những quy luật chung cho
chúng ta nhìn thấy logic của
lịch sử thế giới. Nhng quá
trình lịch sử cụ thể vô cùng
phong phú, có hàng loạt
những yếu tố làm cho quá

trình lịch sử đa dạng và th-
ờng xuyên biến đổi.
ý nghĩa của học thuyết
Mác- Lênin về hình thái
kinh tế- xã hội
- Việc vạch ra nguồn gốc,
động lực bên trong của sự
phát triển xã hội, những
nguyên nhân và cơ sở của sự
xuất hiện và biến đổi của các
hiện tợng xã hội đã biến xã
hội học thành khoa học thật
sự, khắc phục mọi quan điểm
duy tâm về lịch sử.
- Là công cụ lý luận giúp
chúng ta nhận thức những
quy luật phổ biến đang tác
động và chi phối sự vận động
của xã hội. Vũ trang cho
chúng ta phơng pháp khoa
học để nghiên cứu xã hội.
- Là cơ sở lý luận của việc
hoạch định các đờng lối cách
mạng của các đảng cộng sản.
ý nghĩa phơng pháp
luận của hình thái kinh tế-
xã hội
Phạm trù hình thái kinh
tế- xã hội đặt cơ sở nguyên
tắc phơng pháp luận khoa

học để nghiên cứu tất cả các
mặt của xã hội. Chẳng những
nó chỉ ra bản chất của một xã
hội cụ thể, phân biệt chế độ
xã hội này với chế độ xã hội
khác, mà còn thấy đợc tính
lặp lại, tính liên tục của mối
quan hệ giữa ngời với ngời
trong quá trình sản xuất và
sinh hoạt ở những xã hội
khác nhau. Nói cách khác,
phạm trù hình thái kinh tế-
xã hội cho phép nghiên cứu
xã hội cả về mặt loại hình và
về mặt lịch sử. Xem xét đời
sống xã hội ở một giai đoạn
phát triển lịch sử nhất định,
coi nh một cấu trúc thống
nhất tơng đối ổn định, đang
vận động trong khuôn khổ
của chính hình thái ấy
(nghiên cứu xã hội về mặt
loại hình). Xem xét sự sinh
13
thành của một hình thái kinh
tế- xã hội nhất định là nghiên
cứu nó trong sự vận động, b-
ớc quá độ, sự chuyển tiếp, sự
thay thế các hình thái kinh
tế- xã hội (nghiên cứu xã hội

về mặt lịch sử). Hai cách tiếp
cận này thống nhất với nhau,
xem xét cả sự vận hành của
xã hội ở một giai đoạn phát
triển nhất định, cả quá trình
phát triển theo giai đoạn của
xã hội trong tiến trình vận
động.
Phạm trù hình thái kinh
tế- xã hội đem lại những
nguyên tắc phơng pháp luận
xuất phát để nghiên cứu xã
hội, loại bỏ đi cái bề ngoài,
cái ngẫu nhiên, không đi vào
các chi tiết, vợt ra khỏi tri
thức kinh nghiệm hoặc xã
hội học mô tả, đi sâu vạch ra
cái bản chất ổn định từ cái
phong phú của hiện tợng,
vạch ra cái logic bên trong
của tính nhiểu fẻ của lịch sử.
5. quá độ lên chủ
nghĩa x hội- con đã ờng
phát triển tất yếu của
cách mạng việt nam
Nhận thức lại về chủ
nghĩa xã hội và về thời kỳ
quá độ
Chủ nghĩa cộng sản
không phải là một trạng thái

cần phải sáng tạo ra, không
phải là một lý tởng mà hiện
thực phải tuân theo. Chúng ta
gọi chủ nghĩa cộng sản là
một phong trào hiện thực, nó
xoá bỏ trạng thái hiện nay.
Những điều kiện của phong
trào ấy là do những tiền đề
hiện đang tồn tại đẻ ra. Dựa
vào sự phân tích trực tiếp
những mâu thuẫn của xã hội
t sản trong giai đoạn đầu
phát triển của nó, dựa vào
triển vọng của phong trào
công nhân, Mác và
Ăngnghen đã đa ra dự đoán
về sự phát triển của xã hội
loài ngời trong tơng lai, tất
yếu phải tiến đến hình thái
kinh tế- xã hội cộng sản chủ
nghĩa, mà chủ nghĩa xã hội
là giai đoạn thấp của hình
thái ấy. Tất nhiên, dự đoán
khoa học của các ông mới
chỉ cho phép phác hoạ đợc
những đờng nét chủ yếu về
xã hội tơng lai ấy. Lênin
cũng chỉ rõ: Chúng ta
không hề coi lý luận của
Mác nh là một cái gì đã xong

xuôi hẳn và bất khả xâm
phạm; trái lại, chúng ta tin
rằng lý luận đó chỉ đặt nền
móng cho môn khoa học mà
những ngời xã hội chủ nghĩa
phải phát triển hơn nữa về
mọi mặt, nếu họ không muốn
trở thành lạc hậu với cuộc
sống.
Đáng tiếc là trong nhiều
năm qua, đối với chúng ta, lý
luận về chủ nghĩa xã hội
không những không đợc bổ
sung, phát triển cho phù hợp
với sự biến đổi của thực tiễn,
mà lại đợc giải thích một
cách máy móc, giáo điều và
đợc áp dụng một cách rập
khuôn làm cho chủ nghĩa xã
hội hiện thực ở nhiều nớc bị
biến dạng, dẫn đến khủng
hoảng và tan rã. Hậu quả đó
do nhiều nguyên nhân, nhng
nguyên nhân chủ yếu là do
chúng ta mắc phải những sai
lầm chủ quan, duy ý chí,
không tôn trọng các quy luật
khách quan. Thực tiễn cuộc
sống đó đòi hỏi chúng ta
phải nhận thức lại chủ nghĩa

xã hội, tiến hành đổi mới
một cách toàn diện, sâu sắc
cả lý luận và thực tiễn của
chủ nghĩa xã hội.
Lịch sử đã chứng minh,
không phải bất kỳ nớc nào
cũng phải tuần tự trải qua các
hình thái kinh tế- xã hội đã
từng có trong lịch sử. Việc
bỏ qua một hình thái kinh tế-
xã hội nào đó do những yếu
tố bên trong quyết định, song
đồng thời còn tuỳ thuộc ở sự
tác động của từng nhân tố
bên ngoài. Cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ đang
tạo ra bớc ngoặt phát triển
của loài ngời, đánh dấu đỉnh
cao mới của sự phát triển trí
tuệ, mở ra một nền văn minh
mới, tác động sâu sắc đối với
cuộc sống của các dân tộc,
tạo ra cho các nớc chậm phát
triển thời cơ mới nhng cũng
có nhiều thác thức mới trên
con đờng lựa chọn sự phát
triển của mình. ở nớc ta
cũng đã có những tiền đề và
điều kiện cho phép chúng ta
lựa chọn con đờng xã hội chủ

nghĩa, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại để
quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
nhanh chóng thoát khỏi
nghèo nàn, lạc hậu, làm cho
đất nớc ngày càng phồn vinh.
Đảng ta chỉ rõ: Nớc ta
quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
bỏ qua chế độ t bản, từ một
xã hội vốn là thuộc địa, nửa
phong kiến, lực lợng sản xuất
rất thấp. Đặc điểm này, xét
về tính chất và trình độ, biểu
hiện ở hai đặc trng cơ bản:
một là, lực lợng sản xuất rất
thấp quy định tính tất yếu
kinh tế- xã hội của xã hội ta
cha đầy đủ, cha chín muồi
trong sự phát triển tự nhiên,
nội tại của nó; hai là, tồn
đọng nhiều tàn d quan hệ xã
hội, ý thức t tởng, tâm lý do
chế độ thực dân, phong kiến
cũ để lại. Đó là những khó
khăn, trở ngại trong bớc
chuyển tiếp lịch sử từ một xã
hội kém phát triển sang một
xã hội hiện đại phù hợp với
những chuẩn mực và giá trị
của nền văn minh nhân loại

và của tiến bộ xã hội.
Điều cần đặc biệt chú ý
là, có thể bỏ qua chế độ t
bản, quá độ lên chủ nghĩa xã
hội nhng không thể bỏ qua
việc chuẩn bị những tiền đề
14
cần thiết, nhất là tiền đề về
kinh tế cho sự quá độ ấy. Nói
cách khác, có thể bỏ qua chế
độ t bản chủ nghĩa nhng phải
tiến hành sao cho sự bỏ qua
này không hề vi phạm tiến
trình lịch sử- tự nhiên của sự
phát triển. Do đó, cần có sự
phát triển nhất định nhân tố
t bản chủ nghĩa trong thời kỳ
quá độ là một yêu cầu khách
quan.
Những quan điểm phơng
pháp luận xuất phát để xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở n-
ớc ta
- Coi trọng vai trò và bản
chất Nhà nớc, thể hiện đầy
đủ quyền lực và nguyện vọng
của nhân dân. Thiết lập nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa,
quyền lực nhân dân đợc
khẳng định và đợc thực hiện

bằng pháp luật mang tính
công khai, bình đẳng, dân
chủ và tiến bộ.
- Thực hiện những biến
đổi mang tính cách mạng
trên cả ba lĩnh vực: lực lợng
sản xuất, quan hệ sản xuất và
kiến trúc thợng tầng. Trong
đó phải ra sức phát triển lực
lợng sản xuất là nhiệm vụ
trung tâm hàng đầu, tạo tiền
đề kinh tế vững chắc cho sự
ra đời của phơng thức sản
xuất xã hội chủ nghĩa. Phát
triển lực lợng sản xuất trong
điều kiện cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ đang
diễn ra dồn dập, mạnh mẽ,
đòi hỏi chúng ta phải có
quan niệm mới về công
nghiệp hoá, không phải là u
tiên xây dựng cơ sở vật chất
với những ngành công
nghiệp truyền thống theo
kiểu công nghiệp hoá cổ điển
mà là lựa chọn những ngành
công nghệ thích hợp, xây
dựng kết cấu hạ tầng, cơ sở
vật chất- kỹ thuật, hệ thống
thông tin, tạo tiềm năng

nhanh chóng ứng dụng công
nghệ mới. Giải phóng và
khai thác nhanh mọi khả
năng của lực lợng sản xuất,
phát triển nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần phong
phú và đa dạng, tạo ra nguồn
sản phẩm và nguồn tích luỹ,
đó là nhiệm vụ hàng đầu
hiện nay.
- Phù hợp với sự phát triển
của lực lợng sản xuất, thiết
lập từng bớc quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp
đến cao với sự đa dạng về
hình thức sở hữu. Chế độ
công hữu phải là kết quả hợp
quy luật của quá trình xã hội
hoá thực sự chứ không thể
tạo ra bằng biện pháp hành
chính, cỡng ép. Chuyển từ
quan hệ hiện vật sang quan
hệ hàng hoá- tiền tệ, trở lại
đúng quy luật phát triển tự
nhiên của kinh tế. Thực hiện
nhiều hình thức phân phối,
lấy phân phối theo kết quả
lao động và hiệu quả kinh tế
là chủ yếu.
- Tiến hành cuộc cách

mạng xã hội chủ nghĩa trên
lĩnh vực t tởng và văn hoá.
Phát huy nhân tố con ngời,
con ngời vừa là mục tiêu, vừa
là động lực để xây dựng một
xã hội văn minh. Giải phóng
cá nhân để giải phóng xã hội,
kết hợp sức mạnh cá nhân
với sức mạnh cộng đồng là
động lực quan trọng của chủ
nghĩa xã hội.
Những nguyên tắc phơng
pháp luận nói trên là tổng
hợp các quan điểm cơ bản
nhằm xây dựng mô hình chủ
nghĩa xã hội ở nớc ta. Trong
đó cần chú trọng cả ba mặt:
lực lợng sản xuất, quan hệ
sản xuất và kiến trúc thợng
tầng- những bộ phận cấu
thành của hình thái kinh tế-
xã hội mới.
15
Câu 3: Sự ra đời của triết
học Mác- Lênin là một bớc
ngoặt cách mạng trong lịch
sử triết học, tại sao? Chứng
minh sự ra đời của triết học
Mác- Lênin là một tất yếu
khách quan.

Trả lời:
Sự ra đời của triết học
Mác- Lênin là một bớc
ngoặt cách mạng trong lịch
sử triết học:
Cơ sở của chủ nghĩa Mác
là chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử. Với cơ sở này, lần
đầu tiên giai cấp vô sản và
nhân dân lao động đã có một
vũ khí tinh thần để đấu tranh
giải phóng giai cấp mình và
cả xã hội ra khỏi sự áp bức
bóc lột. Nh vậy, triết học
Mác là vũ khí tinh thần của
giai cấp vô sản, còn giai cấp
vô sản là lực lợng vật chất
của triết học Mác. Sự thống
nhất chặt chẽ giữa triết học
Mác với giai cấp vô sản, làm
cho triết học Mác thực sự thể
hiện tính cách mạng của
mình và giai cấp vô sản mới
thực hiện đợc sứ mệnh lịch
sử là lật đổ xã hội cũ, từng b-
ớc xây dựng một xã hội mới.
- Khác với tất cả các hệ
thống triết học trớc đó, triết
học Mác đã chỉ ra vai trò

quyết định của hoạt động
thực tiễn trong sự tồn tại,
phát triển của xã hội và trong
nhận thức. Nếu không hiểu
đúng vai trò của thực tiễn,
nhất là thực tiễn sản xuất xã
hội, thì tất yếu dẫn đến chủ
nghĩa duy tâm. Trong nhận
thức, thực tiễn là cơ sở, động
lực, mục đích của nhận thức,
là nơi mà lý luận hớng đến
để giải thích và cải tạo thế
giới. Mác đã cho rằng: Các
nhà triết học trớc kia chỉ giải
thích thế giới bằng nhiều
cách khác nhau, song vấn đề
là ở chỗ cải tạo thế giới. Tất
nhiên, khi nhấn mạnh đến
vai trò của hoạt động thực
tiễn. Mác và Ăngnghen
không coi nhẹ vai trò của lý
luận. Các ông cho rằng, lý
luận khi đã thâm nhập vào
quần chúng, sẽ trở thành lực
lợng vật chất vô cùng to lớn.
- Bớc ngoặt cách mạng vĩ
đại nhất mà chủ nghĩa Mác
thực hiện là đã đa ra quan
điểm duy vật về lịch sử. Trớc
Mác, các nhà triết học hiểu

sự phát triển của xã hội một
cách duy tâm- coi động lực
phát triển của xã hội là ở
trong ý thức, tinh thần của
con ngời. Đối lập với quan
điểm trên, Mác, Ăngnghen
đã giải quyết đúng đắn vấn
đề cơ bản của triết học trong
đời sống xã hội; không phải
ý thức xã hội quyết định tồn
tại xã hội; sự phát triển của
xã hội phụ thuộc vào ý thức
của con ngời; Sự phát triển
của xã hội mang tính quy
luật, là quá trình lịch sử tự
nhiên. Do sự tác động của
các quy luật vốn có của xã
hội, các hình thái kinh tế- xã
hội thay thế nhau một cách
khách quan độc lập với ý chí
và ý thức của con ngời; trong
sự phát triển ấy, quần chúng
nhân dân là lực lợng quyết
định sáng tạo ra lịch sử.
Với chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử, Mác và
Ăngnghen đã biến đổi căn
bản tính chất của triết học,
đối tợng nghiên cứu và mối

liên hệ của nó với các khoa
học khác. Triết học Mác
đóng vai trò là thế giới quan
và phơng pháp luận của các
khoa học cụ thể. Các tri thức
của các khoa học cụ thể là cơ
sở để cụ thể hoá và phát triển
triết học Mác.
Lênin đã bảo vệ và tiếp
tục phát triển triết học Mác
trong thời kỳ chủ nghĩa t bản
chuyển sang giai đoạn đế
quốc chủ nghĩa. Ông cho
rằng, đây là thời kỳ cách
mạng xã hội xã hội chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa,
và ông đã trực tiếp lãnh đạo,
thực hiện cuộc Cách mạng
Tháng Mời Nga. Lúc này,
khoa học có nhiều phát minh
lớn, nhất là trong vật lý học,
Lênin đã khái quát những
thành tựu của khoa học, phát
triển hơn nữa chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử.
Sự ra đời của triết học
Mác- Lênin là một tất yếu
khách quan:
Triết học Mác không phải

là một sản phẩm có tính chất
chủ quan, đồng thời nó cũng
không phải từ trên trời rơi
xuống. Triết học đó là sản
phẩm tất yếu của lịch sử.
- Triết học Mác đã kế thừa
có phê phán toàn bộ triết học
trớc đó nhất là triết học duy
vật và phép biện chứng. Đó
là những tiền đề lý luận
không thể thiếu đợc của triết
học Mác.
- Triết học Mác ra đời còn
gắn liền với những điều kiện
khách quan của sự phát triển
kinh tế- xã hội và sự phát
triển của khoa học đơng thời.
Trong khoa học tự nhiên thế
kỷ XIX đã có ba phát minh
lớn: định luật bảo toàn và
chuyển hoá năng lợng; học
thuyết tế bào; học thuyết tiến
hoá. Đồng thời về mặt xã hội
thế kỷ XIX cũng là thời kỳ
chủ nghĩa t bản đã bộc lộ
những mâu thuẫn xã hội sâu
sắc. Đặc biệt là mâu thuẫn
giữa giai cấp t sản và giai cấp
vô sản. Mâu thuẫn ấy đợc
biểu hiện thông qua các cuộc

đấu tranh giai cấp hết sức sôi
động và quyết liệt ở châu Âu.
Trớc tình hình trên, cần
phải có một sự kiến giải mới
về sự phát triển của tự nhiên,
16
x· héi vµ t duy. Vµ tÊt yÕu
xuÊt hiÖn mét häc thuyÕt míi
®ã lµ häc thuyÕt triÕt häc
khoa häc, do M¸c vµ
¡ngnghen ®Ò xíng, sau nµy
®îc Lªnin ph¸t triÓn.
17
Câu 4: Anh chị hãy phân
tích nội dung cơ bản của
tác phẩm hệ t tởng Đức. Từ
đó chỉ ra những t tởng khoa
học trong quan niệm duy
vật và lịch sử của Mác và
Ăngnghen.
Trả lời:
Sự ra đời của tác phẩm:
Tác phẩm đợc viết vào
tháng 11/1845 và hoàn thành
vào tháng 4/1846, sau đó đợc
bổ sung và đến đầu năm
1847 thì hoàn thiện. Hệ t t-
ởng Đức là một trong những
tác phẩm viết chung của Mác
và Ăngnghen, đánh dấu sự

hoàn thiện về mặt lý luận của
Mác và Ăngnghen trong
quan điểm duy vật về lịch sử.
Lúc đó cả hai ngời cha có vị
trí trong phong trào công
nhân, các ông muốn chứng
minh một cách có cơ sở hệ t
tởng của giai cấp công nhân,
phê phán triệt để các học
thuyết đủ mày sắc đang lũng
đoạn phong trào công nhân
tập trung chủ yếu ở Đức. Các
ông trình bày một cách chính
diện thế giới quan mới đó là
thế giới quan khoa học.
Tác phẩm đợc trình bầy
trong hai tập:
- Tập 1: Gồm lời nói đầu
và 3 chơng.
- Tập 2: Gồm 5 chơng nh-
ng không tìm thấy bản thảo
của chơng II và chơng III.
Nội dung chủ yếu của tác
phẩm:
Trong lời nói đầu, Mác và
Ăngnghen đã trình bầy một
cách tổng quát quan niệm
duy vật lịch sử và học thuyết
chủ nghĩa cộng sản. Chơng I
có tựa đề Phơibắc sự đối lập

giữa quan điểm duy vật và
quan điểm duy tâm, là chơng
quan trọng nhất, 2 ông đã
nêu lên các quan điểm của
mình về duy vật trong lĩnh
vực xã hội. Chơng II mang
tựa đề Brunô thần thánh,
Mác và Ăngnghen tập trung
phê phán các quan niệm của
Maxơ Stiếcnơ.
Tập 2 mang tựa đề phê
phán chủ nghĩa xã hội chân
chính với nét điển hình là sự
kết hợp giữa triết học Đức
(chủ yếu là triết học Hêghen
và triết học Phoiơbắc) với
học thuyết xã hội không tởng
chủ yếu là chủ nghĩa xã hội
không tởng của nớc Pháp.
Trong chơng đầu của tập 2, 2
ông phê phán t tởng của
Demmích và Mattei, đại biểu
cho triết học của chủ nghĩa
xã hội chân chính. Chơng IV
phê phán cuốn sách của
Gruyn, đại biểu chủ yếu của
chủ nghĩa xã hội chân chính.
Chơng V phê phán những t t-
ởng của Cunman, một ngời
chủ nghĩa xã hội chân chính.

Những t tởng nói trên đã đa
ra những quan điểm duy tâm
về một xã hội đợc xây dựng
dựa trên ý tởng của sự công
bằng của những nhà lý luận.
Nghiên cứu về hệ t tởng
Đức cần phải trú trọng những
t tởng cơ bản sau:
1. Sự phê phán của Mác và
Ăngnghen đối với hệ t tởng
Đức
Trong phần này Mác và
Ăngnghen tập trung phê
phán những thiếu sót của
triết học Phoiơbắc. Hai ông
đã trình bày luận cơng về
Phoiơbắc và chỉ rõ sự phiến
diện của Phoiơbắc khi ông
dựa vào khái niệm con ng-
ời, Phoiơbắc đa ra danh từ
chủ nghĩa cộng sản một cách
trừu tợng và siêu hình, khi
ông cho rằng chủ nghĩa cộng
sản là mục đích chân chính
của nhân loại và sự hớng tới
của chủ nghĩa cộng sản
giống nh một quá trình tự
nhiên mà mỗi một giai đoạn
của quá trình phát triển trớc
đó đều nh là quá trình chuẩn

bị cho mục đích chủ nghĩa
cộng sản. Mác và Ăngnghen
nhận xét: đối với Phoiơbắc
điều quan trọng là phải xác
lập một ý thức đúng đắn về
cái hiện có, trong khi đó, đối
với ngời cộng sản thực sự,
điều quan trọng là lật đổ cái
hiện có ấy.
Mác và Ăngnghen đã chỉ
rõ ra hạn chế cơ bản của
Phoiơbắc trong vấn đề con
ngời: Phoiơbắc chỉ nói đến
con ngời trừu tợng mà
không nói đến con ngời
trong mối tơng quan đến
điều kiện lịch sử đã sinh ra
nó và con ngời với t cách là
chủ thể của các quá trình
hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn. Vì vậy, con
ngời trớc hết là con ngời của
thực tiễn, hành động của con
ngời phải thực hiện trên cơ
sở của nhận thức thực tiễn và
hành động phù hợp với thực
tiễn nhằm thay đổi thực tiễn
hiện có. Mác và Ăngnghen
đã rất khách quan khi 2 ông
thừa nhận bản thần Phoiơbắc

cũng đã có lúc bộc lộ những
quan điểm của mình về thực
tiễn nhng những quan điểm
ấy lại mang tính rời rạc, đặc
biệt Phoiơbắc không vợt ra
khỏi đợc những quan niệm
mang tính trực giác của
mình.
Mác và Ăngnghen thừa
nhận u điểm của Phoiơbắc
khi ông cho rằng con ngời
là đối tợng của cảm giác,
nhng ông lại không xem xét
con ngời trong mối quan hệ
với những điều kiện lịch sử
cụ thể. Xét cho đến cùng bản
chất con ngời là sản phẩm
của những điều kiện lịch sử,
hoạt động của con ngời trong
quá trình tạo ra những giá trị
vật chất và những chuẩn mực
của đời sống tinh thần, tất cả
đều là kết quả của những
hiện thực lịch sử. Vì thế Mác
đã đi đến luận điểm: con ng-
18
ời là tổng hoà của các mối
quan hệ xã hội dựa trên nền
tảng của một quan hệ sản
xuất nhất định. Mỗi một giai

đoạn lịch sử đều có một kiểu
quan hệ sản xuất cụ thể phản
ánh hiện thực lịch sử ở trong
từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Phoiơbắc chỉ biết đến quan
hệ con ngời với con ngời
trong tình yêu và tình bạn đã
đợc lý tởng hoá, do đó ông
không phê phán những điều
kiện sinh hoạt hiện thực.
Mác và Ăngnghen nhấn
mạnh Phoiơbắc không bao
giờ hiểu rằng: thế giới cảm
giác đợc là tổng số của
những hoạt động sống và
cảm giác đợc của những cá
nhân hợp thành thế giới ấy,
đứng trớc hiện tợng xã hội,
Phoiơbắc đã lẩn trốn vào các
quan niệm khái niệm, lý tởng
hoàn toàn trừu tợng, mà thực
chất Phoiơbắc đã không
tránh khỏi vũng bùn của chủ
nghĩa duy tâm. Mác và
Ăngnghen đã tập trung phê
phán tính chất không triệt để
trong triết học Phoiơbắc.
Khi nói đến quan hệ giữa
con ngời với tự nhiên, ông
nhìn nhận con ngời một cách

thụ động không thấy đợc sự
tác động tới giới tự nhiên của
con ngời, tạo lên giới tự
nhiên tính lịch sử. Mác và
Ăngnghen đã đánh giá một
cách chính xác chủ nghĩa
duy vật của Phoiơbắc nh sau:
Khi Phoiơbắc là nhà duy vật
thì ông không bao giờ đề cập
đến lịch sử còn khi ông xem
xét tiến trình lịch sử thì ông
không phải là nhà duy vật. ở
Phoiơbắc lịch sử và chủ
nghĩa duy vật hoàn toàn tách
rời nhau. Tính không nhất
quán trong triết học
Phoiơbắc còn đợc Mác chỉ
rõ: triết học của Phoiơbắc đ-
ợc phân thành 2 nửa, nửa
trên là duy vật còn nửa dới
thì duy tâm.
Sự phê phán của Mác và
Ăngnghen đối với hệ t tởng
Đức không chỉ dừng lại ở
triết học Phoiơbắc mà 2 ông
còn tập trung phê phán t tởng
của phái Hêghen trẻ và phái
Hêghen bảo thủ. Mác và
Ăngnghen chỉ rõ xét cho đến
cùng thì những t tởng có tính

cấp tiến của phái Hêghen trẻ
vẫn không thoát khỏi sự trói
buộc của thế giới quan duy
tâm bởi vì họ khẳng định cái
hiện tồn là sản phẩm của ý
thức. Trong tác phẩm gia
đình thần thánh, 2 ông đã
phê phán mu toan của Bruno
Bauơ khi ông này cho rằng ý
thức tuyệt đối là cái sản sinh
ra thực thể vật chất và t tởng
là cơ sở của thế giới hiện tồn.
Từ đó Mác và Ăngnghen chỉ
rõ sự khác biệt về vật chất
của Brunô Bauơ và những
ngời thuộc phái Hêghen trẻ
so với quan điểm của những
ngời cộng sản về việc giải
quyết mối quan hệ giữa lý
luận và thực tiễn, họ coi lý
luận không những là cái cao
hơn thực tiễn mà còn là cái
độc lập với thực tiễn, chỉ đạo
thực tiễn. Sai lầm nói trên có
cả trong triết học của
Phoiơbắc. Ngoài phê phán
Bruno Bauơ, Mác và
Ăngnghen còn tập trung phê
phán Stiếcnơ, một nhà t tởng
đồng hành với Bruno Bauơ

khi ông này tiếp tục khẳng
định muốn biến đổi thực tiễn
thì chỉ cần biến đổi ý thức và
các khái niệm của các cá
nhân. Chủ trơng có tính cách
mạng của Mác và Ăngnghen
là phải lật đổ những thực tiễn
hiện tồn không còn phù hợp
với xu thế phát triển khách
quan của lịch sử. Không phải
là ý thức mà cáhc mạng mới
là động lực của lịch sử, của
tôn giáo, của triết học và mọi
lý luận khác. Cùng với sự
phê phán Bauơ và Stiếcnơ,
Mác và Ăngnghen còn tập
trung phê phán phái chủ
nghĩa xã hội chân chính. Lý
luận của phái này gắn liền
với lập trờng của giai cấp
tiểu t sản Đức đang lo sợ trớc
sự lớn mạnh của chủ nghĩa t
bản. Mác và Ăngnghen chỉ
rõ bản chất của chủ nghĩa xã
hội chân chính là ở chỗ nó xa
rời cuộc đấu tranh giai cấp và
phong trào công nhân, tách
rời các quan hệ cộng sản chủ
nghĩa với phong trào hiện
thực. 2 ông khẳng định về

mặt xã hội, chủ nghĩa xã hội
chân chính là trào lu t tởng
của tầng lớp tiểu t sản, nó
nảy sinh ở bên ngoài những
lợi ích của một Đảng chân
chính. Nội dung của hệ t t-
ởng Đức chứa đựng nhiều t t-
ởng phong phú nhng tập
trung ở phần đầu là sự phê
phán có hệ thống đồng thời
có sự kế thừa một cách hợp
lý những t tởng triết học tinh
hoa của nền lý luận Đức. Đó
cũng là thời kỳ thai nghén
của một hệ t tởng mới.
2. Hệ t tởng Đức của Mác
và Ăngnghen quan niệm
duy vật về lịch sử
Học thuyết duy vật lịch sử
của Mác và Ăngnghen đợc
đánh giá là một thành tựu vĩ
đại không những đối với triết
học Mác mà còn đối với toàn
bộ lịch sử triết học nhân loại.
Hệ thống lý luận duy vật lịch
sử triết học nhân loại. Hệ
thống lý luận duy vật lịch sử
của Mác và Ăngnghen đợc
hình thành và hoàn thiện
trong quá trình hai ông phê

phán các quan niệm duy tâm
về lịch sử đồng thời còn là
kết quả của quá trình nhận
thức thực tiễn của Mác và
Ăngnghen. Thực chất của
quan niệm duy vật lịch sử là
việc mở rộng nguyên lý vật
19
chất quyết định ý thức vào
trong xã hội thành nguyên lý
tồn tại xã hội quyết định ý
thức xã hội. Trên cơ sở đó 2
ông đi đến việc thừa nhận
tính quyết định của nền vật
chất của xã hội. Mác và
Ăngnghen viết quan niệm đó
về lịch sử là phải xuất phát
ngay từ sự sản xuất vật chất
ra đời sống trực tiếp để xem
xét quá trình hiện thực của
sản xuất và hiểu hình thức
giao tiếp gắn liền với phơng
thức sản xuất ấy và do phơng
thức sản xuất ấy sinh ra. Từ
đó mới hiểu đợc các lĩnh vực
sinh hoạt nhà nớc cũng nh
những sản phẩm lý luận khác
nh tôn giáo, triết học, đạo
đức khác với những sự giải
thích duy tâm về lịch sử,

Mác và Ăngnghen không đi
tìm những phạm trù hay khái
niệm trống rỗng của các thời
đại mà luôn luôn đứng vững
trên miếng đất hiện thực của
lịch sử và giải thích sự hình
thành t tởng trên cơ sở thực
tiễn của vật chất. Mác và
Ăngnghen khẳng định sản
xuất vật chất là điểm xuất
phát của xã hội và lịch sử.
Mác giải thích: điểm xuất
phát của xã hội loài ngời hay
là con ngời bắt đầu sự tồn tại
của mình khi con ngời tiến
hành sản xuất vật chất,
những t liệu sinh hoạt cần
thiết cho đời sống của mình.
Mác chỉ rõ: con ngời ta phải
ăn, mặc, ở, đi lại trớc lúc nói
đến chuện làm khoa học, làm
triết học, làm chính trị, làm
tôn giáo. Vì vậy hành động
lịch sử đầu tiên là việc sản
xuất ra những t liệu sinh hoạt
để thoả mãn nhu cầu nói
trên. Sản xuất vật chất quyết
định toàn bộ đời sống xã hội
loài ngời. Luận điểm về vai
trò quyết định sản xuất vật

chất đã đợc Mác và
Ăngnghen phân tích một
cách khoa học và toàn diện.
trình bày t tởng về biện
chứng giữa lực lợng sản xuất
và quan hệ sản xuất. ở giai
đoạn đầu của quá trình
nghiên cứu, Mác và
Ăngnghen gọi khái niệm
quan hệ sản xuất bằng khái
niệm hình thức giao tiếp. Sự
phân tích vai trò của nền sản
xuất đợc biểu hiện cụ thể ở
lực lợng sản xuất đã đa Mác
và Ăngnghen đi đến luận
điểm về sự hình thành và vai
trò của các hình thức giao
tiếp trong sản xuất. Đây là
một phát hiện hết sức quan
trọng góp phần soi sáng hệ
thống các phạm trù của chủ
nghĩa duy vật lịch sử đang
hình thành. Lu ý khái niệm
hình thức giao tiếp tỏng sản
xuất còn đợc Mác và
Ăngnghen mở rộng với một
nội dung còn bao hàm trong
nó những hình thức quan hệ
xã hội khác. 2 ông tóm tắt
nh sau: các lực lợng sản xuất

sẽ quyết định loại hình quan
hệ sản xuất mà trớc hết là
giao tiếp trong sản xuất. Tới
một giai đoạn nào đó do sự
biến đổi của lực lợng sản
xuất đã dẫn tới mâu thuẫn
với hình thức giao tiếp hiện
tồn. Mâu thuẫn đó chỉ có thể
giải quyết đợc bằng cách
mạng xã hội để giải phóng
lực lợng sản xuất ra khỏi ảnh
hởng của hình thức giao tiếp
hiện tồn và thiết lập hình
thức giao tiếp mới mở đờng
cho sức sản xuất mới phát
triển. Lý luận khoa học của2
ông có một ý nghĩa to lớn, nó
đã chỉ ra đợc nguyên nhân
sâu xa của mọi sự phát triển
là do mâu thuẫn tiềm ẩn ở
trong phơng thức sản xuất.
Mâu thuẫn ấy càng ngày
càng bộc lộ một cách sâu sắc
từ sự biện chứng giữa lực l-
ợng sản xuất và quan hệ sản
xuất. Về sau những hình thức
giao tiếp mới này đến lợt nó
lại không còn phù hợp với
lực lợng sản xuất đang còn
phát triển nữa và nó lại bị

biến thành xiềng xích của
những lực lợng sản xuất đang
phát triển, sự xoá bỏ những
xiềng xích này lại đợc tiếp
tục bằng con đờng cách
mạng để thay thế một hình
thức giao tiếp tiến bộ hơn.
Giữa các giai đoạn luôn có
mối quan hệ kế thừa trong
quá trình phát triển xã hội.
Lý luận trên là một đóng góp
vĩ đại của Mác và Ăngnghen,
có ý nghĩa to lớn đối với việc
biến đổi thực tiễn. Từ những
phát hiện này các ông đã tiếp
tục làm rõ nhiều vấn đề khác
của xã hội trớc đó Mác giải
thích các quan hệ kinh tế
quyết định các quan hệ chính
trị, pháp quyền thì giờ đây
Mác và Ăngnghen đã xác lập
đợc cái cơ cấu quyết định
quan hệ kinh tế chính là từ
các lực lợng sản xuất sẽ
quyết định tất cả những quan
hệ giữa ngời với ngời, quyết
định quá trình phát triển lịch
sử qua các xã hội khác nhau.
Trớc đó, Mác và Ăngnghen
chỉ phát hiện đợc vai trò của

nền sản xuất vật chất đối với
đời sống xã hội, giờ đây 2
ông đã phát hiện đợc cơ cấu
nội tạng của chính cơ sở đó,
chỉ ra yếu tố quyết định cuối
cùng mà các yếu tố khác phụ
thuộc vào nó và trên cơ sở đó
có thể giải thích đúng đắn
các lĩnh vực khác của đời
sống xã hội.
Quan niệm duy vật lịch sử
là cơ sở lý luận chung, cơ sở
phơng pháp luận cho mọi
khoa học lịch sử chân chính;
lý luận duy vật chủ nghĩa về
xã hội trở thành cơ sở lý luận
trực tiếp của chủ nghĩa cộng
sản khoa học. Trong tác
phẩm này, Mác và Ăngnghen
đã sử dụng chúng để luận
chứng cho vấn đề sứ mệnh
20
lịch sử thế giới của giai cấp
vô sản, con đờng và biện
pháp thực hiện nó. Đồng thời
với việc phát triển quan niệm
duy vật lịch sử, Mác và
Ăngnghen đã hình thành bộ
máy phạm trù tơng ứng của
nó. Trong tác phẩm này, các

ông đa ra những khái niệm
mới nh phơng thức sản
xuất, hình thức giao tiếp,
bổ sung những nội dung mới
của chủ nghĩa duy vật lịch sử
cho các khái niệm chung nh
sản xuất, lực lợng sản
xuất, xã hội công dân,
lịch sử nhân loại Toàn bộ
các phạm trù này trở thành
một hệ thống hoàn chỉnh và
vững chắc, phản ánh toàn bộ
quá trình thực tiễn của đời
sống hiện thực của nhân loại.
Mục đích cao nhất về lý
luận trong t tởng Đức là Mác
và Ăngnghen đã đi đến việc
trình bầy hệ thống các quy
luật khách quan chi phối sự
vận động, biến đổi và phát
triển của lịch sử. 2 ông đã
phân tích đặc điểm của quy
luật xã hội nhất là quá trình
quy luật kinh tế cơ bản. Quy
luật xã hội khác quy luật tự
nhiên ở chỗ: quy luật tự
nhiên bộc lộ một cách tự
phát còn quy luật xã hội bộc
lộ một cách tự giác. Điều đó
có nghĩa là quy luật xã hội

chỉ có thể bộc lộ khi có hoạt
động mang tính mục đích
con ngời. Nh vậy quy luật xã
hội là sản phẩm của sự tác
động qua lại giữa những
nhân tố chủ quan và các điều
kiện khách quan nhng không
vì thế mà quy luật xã hội bị
phụ thuộc vào ý trí của con
ngời. Ví dụ lực lợng sản xuất
do chính con ngời tạo ra, lực
lợng sản xuất phản ánh một
cách trực tiếp kả năng cải tạo
tự nhiên của con ngời trong
từng giai đoạn lịch sử nhất
định nhng con ngời kông thể
tạo ra theo ý
muốn của mình. Những lực l-
ợng sản xuất đợc hình thành
trong lịch sử đều bị phụ
thuộc vào những điều kiện
tiền đề và điều kiện khách
quan nhng những điều kiện
tiền đề và những
điều kiện khác quan của tự
nhiên Quan hệ sản xuất
là quan hệ ngời với ngời
trong quá trình sản xuất nhng
nó lại đợc hình thành và chịu
ảnh hởng trực tiếp của những

lực lợng sản xuất. Điều đó đã
giải thích với chúng ta rằng
tại sao trong cùng một thời
điểm lịch sử nhng các quốc
gia khác nhau lại có trình độ
khác nhau về lực lợng sản
xuất, quan hệ sản xuất.
Mác và Ăngnghen còn
làm rõ đặc điểm khác biệt
của quy luật xã hội so với
quy luật tự nhiên là quy luật
xã hội bộc lộ ra mang tính xu
hớng, thời gian càng dài,
không gian càng rộng lớn thì
biểu hiện của tính xu hớng
càng rõ. Những sự chỉ dẫn
trên của Mác và Ăngnghen
đã cảnh báo trớc cho những
sai lầm của con ngời một khi
áp đặt ý trí chủ quan lên các
điều kiện khách quan. Thực
ra trong hệ t tởng Đức Mác
và Ăngnghen đã chỉ rõ tích
chất ảo tởng và chủ quan của
phái chủ nghĩa xã hội chân
chính khi họ bỏ qua một ph-
ơng thức sản xuất để tiến
thẳng lên chủ nghĩa T bản.
Mác và Ăngnghen cũng chỉ
rõ cơ sở của chủ nghĩa xã hội

chính là nền sản xuất vật
chất; 2 ông viết: lịch sử
chẳng qua chỉ là sự nối tiếp
của mỗi thế hệ riêng rẽ trong
đó mỗi thế hệ đều khai thác
những vật liệu, những t bản,
lực lợng sản xuất do thế hệ
trớc để lại. Do đó mỗi thế hệ
một mặt tiếp tục các hoạt
động đợc truyền lại trong
hoàn cảnh đã hoàn toàn thay
đổi và mặt khác lại biến đổi
hoàn cảnh cũ bằng một hoạt
động hoàn toàn thay đổi. Hệ
t tởng Đức là một công trình
khoa học thể hiện sự dày
công nghiên cứu của Mác và
Ăngnghen trong lĩnh vực
triết học xã hội, triết học
kinh tế. Quá trình xây dựng
khái niệm sở hữu cũng
không ngừng đợc thay đổi
cùng với sự phát triển nhận
thức của 2 ông. Trong những
tác phẩm viết trớc 1848, Mác
và Ăngnghen cha phân biệt
đợc chính xác giữa sở hữu t
sản với sở hữu t nhân khác
thì đến hệ t tởng Đức 2 ông
đã phân biệt về mặt bản chất

giữa sở hữu t sản và sở hữu t
nhân. Mác và Ăngnghen
phân tích một cách chính xác
quá trình thay thế nhau của
các hình thức sở hữu bắt đầu
từ sở hữu cộng đồng đến các
hình thức sở hữu t nhân
nguyên thuỷ rồi đến sở hữu t
sản nh là kết quả của sự phân
công lao động. Sở hữu t nhân
đợc xuất hiện một cách trực
tiếp của ngời này với ngời
khác của tập đoàn nà với tập
đoàn khác. Mác và
Ăngnghen viết: những giai
đoạn phát triển khác nhau
của sở hữu nghĩa là mỗi một
giai đoạn phân công lao động
cũng quy định mối quan hệ
cá nhân với nhau tuỳ theo
quan hệ của họ với t liệu lao
động, công cụ lao động, sản
phẩm lao động. Từ đó Mác
và Ăngnghen đã đi đến sự
phát hiện các hình thức sở
hữu trong lịch sử nh sau:
- Sở hữu bộ lạc phù hợp
với giai đoạn cha phát triển
phân công lao động.
- Sở hữu công xã và sở

hữu nhà nớc tồn tại trong
thời Cổ đại và ra đời chủ yếu
từ sự tâp hợp bằng hiệp ớc
hay bằng chinh phục nhiều
21
bộ lạc thành một thành thị.
Chế độ nô lệ tiếp tục tồn tại.
Cùng với sở hữu công xã là
sở hữu t nhân về bất động
sản (tuy vẫn phụ thuộc sở
hữu công xã) gọi là t hữu
công xã. Đó chính là nền
tảng xây dựng nên toàn bộ cơ
cấu xã hội. Điều đó lại gắn
liền với sự phát triển của
phân công lao động. Thậm
chí, về sau đã xuất hiện sự
đối lập giữa thành thị và
nông thôn, giữa công nghiệp
và thơng nghiệp hàng hải.
- Sở hữu phong kiến hay
sở hữu đẳng cấp. Điểm xuất
phát của thời kỳ này là chế
độ chiếm hữu ruộng đất. Chế
độ phong kiến với toàn bộ cơ
cấu xã hội của nó cho thấy
sự kém phát triển về lực lợng
sản xuất và phân công lao
động. Giai cấp trực tiếp sản
xuất là giai cấp nông dân,

nông nô. Cơ cấu đẳng cấp đ-
ợc hình thành vững chắc. T-
ơng ứng với cơ cấu đẳng cấp
này của sở hữu ruộng đất ở
thành thị là sở hữu phờng
hội, tức là tổ chức phong
kiến của thủ công nghiệp.
Cần chú ý rằng, mặc dù có
sự đối lập giữa thành thị và
nông thôn, có sự đối lập về
đẳng cấp xã hội nhng nhìn
chung cha có sự phân công
lao động quan trọng nào cả.
- Sở hữu t bản chủ nghĩa.
Trong tác phẩm anỳ, Mác và
Ăngnghen tập tủng nghiên
cứu hình thức sở hữu này gắn
liền với sự hình thành và phát
triển của chủ nghĩa t bản.
Các ông chia hình thức sở
hữu t bản chủ nghĩa làm 3
giai đoạn chủ yếu: 1) đến
giữa thế kỷ XVII; 2) từ giữa
thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ
XVIII; 3) từ cuối thế kỷ
XVIII trở đi. Đặc điểm của
cơ cấu chủ nghĩa t bản là quá
trình phân công lao động
diễn ra rất nhanh và sự đối
lập giữa các ngành nghề diễn

ra nhanh chóng. Trong hệ t t-
ởng Đức, Mác và Ăngnghen
tập trung nghiên cứu bản
chất của chủ nghĩa t bản và
những đặc điểm của nó. 2
ông đề cao vai trò lịch sử của
chủ nghĩa t bản và coi trọng
sự ra đời của chủ nghĩa t bản
và nền sản xuất của nó nh
một cuộc cách mạng giải
phóng lực lợng sản xuất,
cùng với sự phân tích vai trò
của sở hữu t sản, Mác và
Ăngnghen chỉ rõ những mâu
thuẫn không thể tránh khỏi
đối với ở hữu t sản và luận
chứng cho sự ra đời ucả hình
thức sở hữu xã hội.
Đối với khái niệm phơng
thức sản xuất, Mác và
Ăngnghen đã lần lợt phân
tích sự hình thành của phơng
thức sản xuất, 2 ông cho rằng
phơng thức sản xuất là một
phơng thức hoạt động nhất
định của chủ nghĩa cá nhân,
một hình thức nhất định của
hoạt động sống của họ, hoạt
động sống của họ nh thế nào
thì họ nh thế ấy và điều đó

gắn liền với nền sản xuất của
họ. Các thời đại kinh tế khác
nhau không phải khác nhau ở
chỗ chúng sản xuất ra cái gì
mà khác nhau ở chỗ chúng
sản xuất bằng cái gì với ph-
ơng thức sản xuất nào. Từ
việc phân tích quá trình hình
thành và vai trò của phơng
thức sản xuất, Mác và
Ăngnghen đã dừng lại mổ xẻ
và phân tích phơng thức sản
xuất t bản chủ nghĩa. Lần
đầu tiên trong lịch sử triết
học, 2 ông đã chứng minh
những u việt của phơng thức
sản xuất t bản chủ nghĩa là
kết quả của sự phân công lao
động tạo ra sự đa dạng của
lực lợng sản xuất đồng thời
cũng tạo ra một cách nhanh
chóng sự đối lập giữa các
hình thức cơ động. Trên cơ
sở đó quan hệ sản xuất t bản
chủ nghĩa ra đời. ở giai đoạn
đầu thể hiện đợc sự thích ứng
với lực lợng sản xuất đang
phát triển. Đó chính là động
lực thúc đẩy sự phát triển của
chủ nghĩa t bản, đặc biệt là ở

giai đoạn tích luỹ t bản. Từ t
bản sản xuất đến t bản thơng
nghiệp, t bản ngân hàng tạo
ra sự phát triển ồ ạt mà Mác
đã dùng hình ảnh là tạo ra
đống của cải khổng lồ cho
nhân loại. Bên cạnh sự phân
tích những u việt của nền sản
xuất t bản thì Mác cũng chỉ
rõ tính tất yếu của sự vận
động của hình thức sở hữu t
bản sẽ đi đến sự sung đột với
lực lợng sản xuất ngày càng
có tính xã hội hoá cao. 2 ông
đi đến niềm tin của sự xuất
hiện của hình thức sở hữu
chủ nghĩa xã hội trong tơng
lai.
Những luận điểm cơ bản
mà Mác và Ăngnghen trình
bầy về sở hữu t sản trong hệ
t tởng Đức và các công trình
khoa học khác đã để lại
những di sản lý luận để cho
chúng ta tiếp tục nghiên cứu
và khai thác chủ nghĩa t bản
với nhiều phơng diện khác
nhau. Những thành tựu của
chủ nghĩa t bản đợc thể hiện
bởi các khoa học vật lý, khoa

học kỹ thuật và công nghệ
đều có liên quan trực tiếp
đến sự giải phóng sức sản
xuất và về mặt xã hội là liên
quan đến sự tiến bộ xã hội.
Chủ nghĩa t bản hiện đại đã
trải qua những cuộc cải cách
về phơng diện quản lý mà
thực chất là quan hệ sản xuất
t bản chủ nghĩa đã có những
biến đổi đợc thể hiện bằng sự
ngày càng nới rộng biên độ
của hình thức sở hữu t liệu
sản xuất với mục đích là tạo
ra những hình thức giao tiếp
mới phù hợp với lực lợng sản
xuất đang phát triển. Sự tăng
22
trởng của nền kinh tế Mỹ ở
trong những thập kỷ gần đây
đã chứng tỏ quá trình xã hội
hoá của nền sản xuất thông
qua hình thức các tập đoàn
và công ty quốc gia và siêu
quốc gia đợc tổ chức theo mô
hình cổ phần với đặc điểm
ngày càng gia tăng số lợng
các cổ đông. Bài toán gia
tăng số lợng các cổ đông vừa
thoả mãn cho sự thuận lợi

của các quá trình đầu t đồng
thời vừa thoả mãn đợc các
mục đích xã hội khác nh
tăng cờng tích luỹ phúc lợi
xã hội nhng lại làm giảm lợi
nhuận của các nhà t bản. Đó
là những giải pháp trực tiếp
giải thích cho sự phát triển
của chủ nghĩa t bản hiện đại.
Nh vậy, phép biện chứng
Mácxít về xã hội mà trực tiếp
là biện chứng cho lực lợng
sản xuất và quan hệ sản xuất
mà Mác và Ăngnghen đã
trình bầy vẫn còn nguyên
vẹn giá trị của nó là cơ sở
phơng pháp luận khoa học để
cho chúng ta nhận thức thực
tiễn. Học thuyết các hình
thái kinh tế xã hội mà linh
hồn của nó là biện chứng của
lực lợng sản xuất và quan hệ
sản xuất trong phơng thức
sản xuất vận dụng vào nớc ta
trong thời kỳ đổi mới đã tạo
ra những thành tựu to lớn nh
sự tăng trởng đều đặn của
năng suất lao động đợc thể
hiện tổng hợp của giá trị
GDP năm sau cao hơn năm

trớc đã chứng tỏ lý luận của
triết học Mác đã và đang
xâm nhập vào thực tiễn và
phù hợp với thực tiễn đơng
nhiên đối với thực trạng kinh
tế hiện nay những vấn đề bất
cập giữa lực lợng và thực tiễn
còn phải tiếp tục đợc làm
sáng tỏ.
23
Câu 5: Bằng sự hiểu biết
của anh chị và với những
tác phẩm đã học anh chị
hay chứng minh phép biện
chứng duy vật là khoa học
về mối liên hệ phổ biến và
sự phát triển. Những t tởng
khoa học nói trên giúp đợc
anh chị những gì trong
hoạt động nhận thức và
hoạt động thực tiễn?
Trả lời:
Phép biện chứng duy vật là
khoa học về sự phát triển:
Các nguyên lý cơ bản của
phép biện chứng duy vật ra
đời trên cơ sở kế thừa những
t tởng biện chứng đã có trong
lịch sử triết học và đợc hệ
thống hoá thành học thuyết

trong triết học của Hêghen
đồng thời phép biện chứng
duy vật còn là kết quả của sự
khái quát từ những đại biểu
mới nhất của các khoa học
hiện đại và của hoạt động
thực tiễn. Trong tác phẩm
Biện chứng tự nhiên
Ăngnghen đã viết lời cáo
chung cho phơng pháp siêu
hình nh sau: Phơng pháp siêu
hình dù sớm hay muộn nó sẽ
trói buộc sự phát triển của
các khoa học tự nhiên trên
nền tảng lý luận của nó. Dự
báo của Ăngnghen đã trở
thành hiện thực bởi cuộc
khủng hoảng của vật lý học
hiện đại vào những năm cuối
thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
Suy cho đến cùng phơng
pháp siêu hình không bao giờ
mang lại cơ sở khoa học cho
hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn. Lênin cho
rằng phơng pháp siêu hình
chỉ đúng ở trong bốn bức t-
ờng mà thôi, bởi vì t duy siêu
hình không thừa nhận sự vận
động và biến đổi, sự tác động

qua lại quy định lẫn nhau
giữa các sự vật hiện tợng.
Khi các khoa học bắt đầu
giao thoa với nhau để phá vỡ
những ranh giới trong nhận
thức cũng nh trong hoạt động
thực tiễn mà trớc đó những
ngời theo phơng pháp siêu
hình tạo ra. Phát triển những
t tởng cơ bản của phép biện
chứng. Mác gọi t tởng của sự
phát triển là linh hồn của
phép biện chứng. Khái niệm
phát triển đợc Ăngnghen giải
thích nh sau: Phát triển là
một biểu hiện của vận động
nhng không phải là vận động
nói chung mà chỉ là dạng vận
động đi lên, cái mới thay thế
cái cũ. Nguyên nhân của sự
phát triển nằm ở trong bản
thân các sự vật và hiện tợng.
Đó là sự đấu tranh lẫn nhau
giữa các mặt đối lập. Vì thế
phát triển là một hiện thực
khác quan. Biểu hiện của sự
đấu tranh giữa các mặt đối
lập tồn tại trong tự nhiên, xã
hội và t duy. Vì vậy phát
triển là một hiện tợng phổ

biến. ở trong các lĩnh vực
khác nhau đều thể hiện một
cách nhất quán, sự phát triển
tiến lên không ngừng của các
sự vật hiện tợng nhng ở các
lĩnh vực khác nhau đều có
những biểu hiện về sự phát
triển diễn ra theo những con
đờng và cách thức khác
nhau. Ví dụ sự phát triển của
xã hội loài ngời là kết quả
của sự thay thế lẫn nhau của
các hình thái kinh tế- xã hội.
Nguyên nhân sâu xa của sự
phát triển là sự đấu tranh lẫn
nhau giữa 2 mặt đối lập lực l-
ợng sản xuất và quan hệ sản
xuất ở trong phơng thức sản
xuất, thông qua sự phủ định
lẫn nhau của các phơng thức
sản xuất đã làm cho lực lợng
sản xuất ngày càng phát triển
trên cơ sở đó xã hội loài ngời
ngày càng vận động theo
chiều hớng khách quan là
tiến bộ xã hội.
Trong thế giới tự nhiên,
biểu hiện của sự phát triển
diễn ra một cách phong phú
và đa dạng nhng nguyên

nhân đích thực của những sự
phát triển ấy đều đợc thể
hiện bằng việc giải quyết các
mâu thuẫn tồn tại ở bên trong
các tổ chức vật chất của tự
nhiên. Sự tác động qua lại
bằng sự kết hợp và đấu tranh
lẫn nhau giữa các mặt đối lập
bắt đầu từ nguyên tử đã tạo
ra các quá trình phức tạp hoá
ở trong kết cấu vật chất của
vật lý học, hoá học, tiếp đến
là sinh vật. Thế giới sinh vật
không ngừng hoàn thiện
thông qua vô số lần phủ định
lẫn nhau giữa các mặt đối
lập. Đó là con đờng giải
thích cho quá trình gnày
càng phức tạp của các tổ
chức vật chất trong thế giới
sinh vật và cuối cùng là sự ra
đời của con ngời. Trong t
duy sự phát triển của nhận
thức đều là kết quả của việc
giải quyết các mâu thuẫn
giữa các hình thức của t duy
và giữa các giai đoạn của
nhận thức.
Tóm lại, phát triển là một
hiện tợng tất yếu và khách

quan diễn ra trong toàn bộ
thế giới hiện thực. Vì vậy,
khi nghiên cứu thế giới nắm
vững nguyên lý về sự phát
triển là một yêu cầu quan
trọng đối với nhận thức.
Nguyên lý về sự phát triển đã
chứng tỏ rằng các quan niệm
siêu hình về thế giới là hoàn
toàn thiếu sót và sai lầm.
Những ngời siêu hình chỉ
nhìn thấy sự biến đổi về lợng
mà không thấy sự thay đổi về
chất vì vậy họ không thấy đ-
ợc sự ra đời của cái mới. T t-
ởng về sự phát triển của phép
biện chứng duy vật khẳng
định sự ra đời của cái mới là
một tất yếu khách quan, sự
kế thừa của phủ định lẫn
nhau giữa các sự vật hiện t-
ợng là biểu hiện của sự phù
24
hợp với quy luật khách quan
của toàn bộ thế giới vật chất.
Quán triệt nguyên lý này nó
sẽ đa lại cho các khoa học và
cho hoạt động cải tạo thực
tiễn của con ngời một phơng
pháp luận khoa học nhằm

thúc đẩy sự vận động và phát
triển của tất cả các lĩnh vực
trong đời sống hiện thực từ tự
nhiên đến xã hội và t duy.
Phép biện chứng duy vật là
khoa học về mối liên hệ phổ
biến
Nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến là kết quả của sự
khái quát t tởng về vận động
của vật chất trong lịch sử
triết học đồng thời nó đã đợc
các khoa học cụ thể khẳng
định thông qua các công
trình nghiên cứu của mỗi
một khoa học. Nhiệm vụ của
các khoa học là nghiên cứu
các hình thức vận động cụ
thể của vật chất. Tổng hợp
những thành tựu mà các khoa
học tự nhiên và xã hội đã tạo
ra. Phép biện chứng duy vật
đi đến sự khái quát; mối liên
hệ phổ biến là một thuộc tính
vốn có của thế giới vật chất.
Khái niệm mối liên hệ phổ
biến nói lên rằng các sự vật
và hiện tợng trong thế giới
không tồn tại biệt lập với
nhau, mà giữa chúng thờng

xuyên có sự tác động qua lại,
quy định và chuyển hoá lẫn
nhau. Bản thân trong một sự
vật hiện tợng, giữa các mặt
tạo ra chúng cũng thờng
xuyên có sự tác động qua lại
và quy định lẫn nhau.
Nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến của phép biện
chứng duy vật là sự khái quát
về mặt triết học về thuộc tính
cơ bản của thế giới vật chất.
Vì vậy khi nghiên cứu và
xem xét sự vật phải đặt sự
vật trong mối liên hệ vốn có
của nó. Từ đó đa đến cho
chúng ta quan điểm khoa học
là toàn diện và lịch sử cụ thể
khi nghiên cứu và xem xét
các sự vật, hiện tợng.
Sự phát triển và mối liên
hệ phổ biến là 2 thuộc tính
vốn có của vật chất, chúng đ-
ợc khái quát vào trong t duy
thành 2 nguyên lý xuất phát
của phép biện chứng duy vật.
2 nguyên lý này thống nhất
với nhau trong từng sự vật
hiện tợng. Sự phân biệt danh
giới giữa 2 nguyên lý này chỉ

đợc thực hiện trong lĩnh vực
nhận thức mà thôi. Ngoài
giới hạn nói trên, 2 nguyên
lý này thống nhất với nhau
trong từng sự vật và từng
hiện tợng. Các quá trình của
thế giới vật chất thờng xuyên
liên hệ với nhau trong sự
phát triển và chúng phát triển
trong mối liên hệ phổ biến
với nhau.
Từ 2 nguyên lý nói trên,
phép biện chứng duy vật đã
khái quát thành các nguyên
tắc cơ bản của nhận thức khi
xem xét sự vật và hiện tợng
là khách quan, phổ biến, phát
triển, toàn diện và lịch sử cụ
thể. Đó là những nguyên tắc
chung cho mọi hoạt động
của con ngời về cả 2 phơng
diện; hoạt động nhận thức và
hoạt động thực tiễn. Những
nguyên tắc chung ấy đã trở
thành hòn đó tảng trong sự
phát triển của khoa học.
25

×