Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

phân tích nhiệm vụ dân tộc và dân chủ giai đoạn 1930 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146 KB, 14 trang )

NHÓM 13 CHIỀU THỨ 2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HCM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP.HCM
BỘ MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
MÔN HỌC : ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
BÁO CÁO ĐỀ TÀI THẢO LUẬN
Đề tài: Phân tích quá trình Đảng giải quyết mối quan hệ giữa 2 nhiệm vụ chống đế quốc
giải phóng dân tộc và chống phong kiến giành dân chủ cho nông dân trong thời kì đấu
tranh giành chính quyền (1930 – 1945)
Bài làm
Sau khi xâm lược Việt Nam năm 1858, thực dân Pháp tiến hành đầu tư vào Việt Nam để
kinh doanh lấy lợi, chủ nghĩa tư bản phát sinh. Chúng ra sức bóc lột nhân dân Việt Nam,
thuê nguồn nhân công rẻ mạt để phục vụ cho quá trình khai thác thuộc địa. Chúng đặt ra
đủ loại thuế để bóc lột như: thuế ruộng đất, thuế thân, thuế rượu, thuế muối, thuế thuốc
phiện và hàng trăm loại thuế khác… Chính điều đó đã làm cho nhân dân ta ngày càng
khốn đốn, mâu thuẫn giữa nhân dân ta và thực dân Pháp ngày càng quyết liệt. Sự bóc lột
của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam phân hoá sâu sắc; giai cấp nông dân
chiếm 90% dân số bị bóc lột nặng nề bằng thủ đoạn sưu cao, thuế nặng, tô tức, phu phen,
tạp dịch… lâm vào cảnh mất ruộng đất phải đi làm công – giai cấp công nhân ra đời sớm
nhưng cũng bị Pháp đàn áp. Giai cấp tư sản bị Pháp chèn ép đến mức không ngóc đầu lên
được. Giữa Pháp và phong kiến Việt Nam có sự câu kết chặt chẽ với nhau. Pháp dựa vào
phong kiến lấy cớ bóc lột nhân dân, phong kiến dựa vào thực dân Pháp để duy trì địa vị
của mình. Những hình thức áp bức bóc lột dã man tàn nhẫn của phong kiến không những
không xoá bỏ mà còn bị thực dân Pháp lợi dụng gây nặng nề thêm. Thực trạng Việt Nam
NHÓM 13 CHIỀU THỨ 2
lúc này vô cùng khó khăn. Trong xã hội Việt Nam có hai mâu thuẫn cơ bản cần được giải
quyết:
1. Mâu thuẫn dân tộc của nhân dân Việt Nam với đế quốc thực dân Pháp.
2. Mâu thuẫn giai cấp giữa quần chúng nhân dân với địa chủ phong kiến.
Giải quyết được hai mâu thuẫn trên, chính là hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc - dân


chủ ở Việt Nam. Hai nhiệm vụ đó không phải đến khi Đảng ra đời mới xuất hiện mà nó
đã bắt đầu có từ khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam, bằng chứng là hàng loạt
các phong trào yêu nước đã nổ ra và phát triển mạnh mẽ. Nhưng các phong trào ấy đều đi
đến thất bại. Nguyên nhân thất bại là do họ chưa xác định được kẻ thù ( Phan Bội Châu
dựa vào Nhật để đánh Pháp, Phan Châu Trinh lại chủ trương đổi mới theo Pháp). Từ đó
không thể nhìn rõ được nhiệm vụ cần thiết. Đến tận thế kỉ XX nước ta vẫn trong tình
trạng khủng hoảng đường lối. Cho đến khi Nguyễn Ái Quốc bắt đầu tìm ra con đường
cứu nước, nhờ quá trình tìm tòi, học hỏi và khảo cứu tình trạng nước ngoài kết hợp với
việc phân tích tình hình trong nước. Vào ngày 03.02.1930, tại Hương Cảng, Trung Quốc,
Người đã chủ trì buổi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và đề ra “cương lĩnh vắn tắt và
sách lược vắn tắt”, trong đó người nêu ra cách mạng Việt Nam phải trải qua các giai đoạn
: “ làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. như
vậy người đã chỉ ra con đường phát triển tất yếu của cách mạng nước ta là con đường kết
hợp độc lập dân tộc và xã hội chủ nghĩa. Đó là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân- một cuộc cách mạng của nhân dân cả nước, do giai cấp công nhân lãnh đạo, dựa trên
cơ sở liên minh công nông, nhằm mục đích đánh đổ đế quốc, phong kiến, giải phóng dân
tộc, thực hiện người cài có ruộng, thành lập nhà nước do nhân dân làm chủ, tạo điều kiện
cho nhà nước Việt Nam không qua thời kì tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên xã hội chủ
nghĩa. Trong đó, tiến hành cuộc cách mạng dân chủ chính là tiến tới đánh đuổi đế quốc
thực dân làm cho nước nhà hoàn toàn độc lập. còn giải quyết nhiệm vụ dân chủ là đánh
đổ phong kiến, đem lại ruộng đất cho nhân dâ. Đó là nhiệm vụ cơ bản xuyên suốt của
cách mạng Việt Nam nhưng không phải lúc nao cũng diễn ra cùng một lúc. Tuỳ vào từng
NHÓM 13 CHIỀU THỨ 2
thời kì, từng giai đoạn mà có sự vận dụng hợp lý. Vậy hai nhiệm vụ đó đã được giải
quyết như thế nào trong thời kì từ khi thành lập Đảng 1930 đến năm 1945.
1. GIAI ĐOẠN 1930 - 1935
a. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng:
- Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng: trên 3 phương
diện chính:
+ Về chính trị: đánh đuổi đế quốc chủ nghĩa thực dân Pháp và bọn phong kiến,

làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập; dựng ra chính phủ công nông, tổ chức
ra quân đội công nông.
+ Về kinh tế: thủ tiêu hết quốc trái, thu hết sản nghiệp lớn của đế quốc Pháp, tư
bản giao cho chính phủ công nông; tịch thu hết ruộng đất của đế quốc làm của
công và chia cho dân cày nghèo; miễn thuế cho dân nghèo, thực thi luật ngày làm
8 giờ….
+Về văn hoá, xã hội: dân chúng được tự do tổ chức; nam nữ bình quyền; phổ
thông giáo dục theo hướng công nông hoá.
Những nhiệm vụ trên đây thể hiện đầy đủ yếu tố dân tộc và dân chủ. Trong đó,
chống đế quốc, giành độc lập dân tộc là nhiệm vụ hang đầu.
- Về lực lượng cách mạng: Công nhân: Đảng phải vận động và thu phục được đông
đảo công nhân làm cho giai cấp công nhân lãnh đạo được dân chúng. Nông dân:
Đảng phải thu phục được đông đảo nông dân, dựa vững vào nông dânnghèo để
lãnh đạo họ làm cách mạng ruộng đất. Đảng phải lôi kéo được tiểu tư sản, trí thức,
trung nông đi về phía giai cấp vô sản, lợi dụng hoặc trung lập phú nông, trung, tiểu
địa chủ và tư sản Việt nam. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh
đổ… Trong khi liên lạc với các giai cấp phải thận trọng, không đi vào con đường
thoả hiệp.
Như vậy, lực lượng cách mạng theo quan điểm của Nguyễn Ái Quốc là rất lớn.
- Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc: Ưu tiên giải quyết vấn đề dân tộc trước, sau đó
mới tiến hành giải quyết mâu thuẫn giữa phong kiến và nông dân.
b. Luận cương chính trị tháng 10-1930
NHÓM 13 CHIỀU THỨ 2
- Nhiệm vụ cách mạng: Luận cương khẳng định nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân
quyền là: đánh đổ phong kiến, thực hành cách mạng ruộng đất triệt để và đánh đổ
đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hai nhiệm vụ
này luôn có quan hệ khăng khít với nhau. trong hai nhiệm vụ này, luận cương xác
định: "Vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền", là cơ sở lãnh
đạo dân cày.
- Lực lượng cách mạng: Giai cấp vô sản vừa là động lực chính của cách mạng tư

sản dân quyền, vừa là giai cấp lãnh đạo cách mạng. Dân cày là lực lượng đông đảo
nhất và là động lực mạnh của cách mạng. Tư sản thương nghiệp thì đứng về phe
đế quốc và địa chủ chống lại cách mạng; còn tư sản công nghiệp thì đứng về phe
quốc gia cải lương và khi cách mạng phát triển cao thì họ sẽ theo đế quốc. Trong
giai cấp tiểu tư sản, bộ phận thủ công nghiệp thì có thái độ do dự; tiểu tư sản
thương gia thì không tán thành cách mạng; tiểu tư sản trí thức thì chỉ hăng hái
chống đế quốc trong thời kỳ đầu. Chỉ có những phần tử lao khổ ở đô thị như
những người bán hàng rong, thợ thủ công nhỏ, trí thức thất nghiệp mới đi theo
cách mạng mà thôi.
- Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc: Giải phóng hoàn toàn cho Đông Dương, khẳng
định cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng thế giới.
c. Đại hội lần I (3/1935) Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng họp ở Ma Cao
(Trung Quốc).
- Nội dung đại hội: Đại hội đánh giá cao những thắng lợi của Đảng trong việc khôi
phục hệ thống tổ chức Đảng. Đại hội thừa nhận: Luận cương chính trị tháng
10/1930. Kiểm điểm phong trào cách mạng, tổ chức lãnh đạo cách mạng (1932-
1935)
- Đại hội đề ra 3 nhiệm vụ cụ thể:
1. Xây dựng và phát triển Đảng : Phát triển cơ sở Đảng tại các xí nghiệp, nhà
máy, hầm mỏ, tại các thành thị Kết nạp thêm đảng viên ưu tú trong hàng ngũ giai
cấp công nhân. Đẩy mạnh việc phê và tự phê trong Đảng
2. Thâu phục quảng đại quần chúng: Phát triển hội phụ nữ, các dân tộc thiểu
số Thành lập mặt trận dân tộc thống nhất
NHÓM 13 CHIỀU THỨ 2
3. Đẩy mạnh chống chiến tranh đế quốc
d. Tiểu kết:
- Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã đáp ứng đúng yêu cầu khách quan của
lịch sử, phù hợp với nguyện vọng độc lập tự do của quần chúng nhân dân, làm cho
Đảng nắm quyền lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam và phát động
được một phong trào cách mạng rộng lớn ngay từ đầu năm 1930. Chủ trương tập

hợp lực lượng trên đây phản ánh tư tưởng đại đoàn kết dân tộc, huy động mọi lực
lượng dân tộc vào cuộc đấu tranh chống đế quốc xâm lược, giành độc lập dân tộc.
Cương lĩnh cũng xác định đúng trong mối quan hệ giữa 2 nhiệm vụ thì chống đế
quốc là nhiệm vụ hàng đầu và để thực hiện nhiệm vụ nặng nề đó thì lực lượng
cách mạng phải hết sức rộng mở. Đây là sự sáng tạo lớn của Nguyễn Ái Quốc
xuất phát từ sự thấu hiểu yêu cầu và đặc điểm của một xã hội thuộc địa- phong
kiến.
- Luận cương chính trị khẳng định lại nhiều vấn đề căn bản thuộc về chiến lược
cách mạng mà Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt đã nêu ra. Luận cương đã
cụ thể hóa một số vấn đề của cách mạng Việt nam như phần chiến lược và
phương pháp cách mạng. Bên cạnh mặt thống nhất cơ bản giữa Luận cương chính
trị với Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt có mặt khác nhau: Luận cương
chính trị không nêu ra được mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt
Nam với đế quốc Pháp, từ đó không đặt nhiệm vụ chống đế quốc lên hàng đầu.
Luận cương đã không đề ra được một chiến lược liên minh dân tộc và giai cấp
rộng rãi trong cuộc đấu tranh chống đế quốc xâm lược và tay sai.
- Nguyên nhân hạn chế: Luận cương chính trị chưa tìm ra và nắm vững những đặc
điểm của xã hội thuộc địa, nửa phong kiến Việt Nam là vấn đề độc lập dân tộc là
trên hết. Do nhận thức giáo điều, máy móc về vấn đề dân tộc và giai cấp trong
cách mạng ở thuộc địa và chịu ảnh hưởng trực tiếp khuynh hướng “tả” của Quốc
tế Cộng sản và một số đảng cộng sản khi đó chưa coi trọng vấn đề dân tộc, quá
nhấn mạnh nhiệm vụ đấu tranh giai cấp.
- Đại hội lần I (3/1935) Tuy đã phát triển trong vấn đề tập hợp lực lượng nhưng Đại
hội vẫn chưa tổng kết được những kinh nghiệm lãnh đạo đấu tranh của Đảng từ
NHÓM 13 CHIỀU THỨ 2
khi thành lập, đặc biệt chưa rút ra được bài học sau cao trào cách mạng 1930-
1931. Đại hội không nhạy cảm với thời cuộc nên “chính sách của Đại hội Ma Cao
vạch ra không sát với phong trào cách mạng thế giới và trong nước lúc bấy giờ.
Đại hội chưa khắc phục được tư tưởng “tả khuynh”, vẫn đứng trên lập trường của
“Luận cương” để phê phán “Chính cương”, vẫn coi cương lĩnh chính trị đầu

tiên là “sai lầm chánh trị rất lớn và nguy hiểm”
- Nhận xét: Như vậy trong những năm đầu thành lập đến đại hội I (3/1935) do ảnh
hưởng của Quốc tế cộng sản và hạn chế về tầm nhìn chiến lược Đảng đã mắc
không ít sai lầm. Tuy nhiên Đảng vẫn đứng vững, cơ sở Đảng và cơ sở chính trị
quần chúng vẫn tồn tại cũng như mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng luôn luôn
được duy trì. Trải qua cuộc đấu tranh sống mái với kẻ thù, Đảng nhanh chóng
trưởng thành, tích lũy được nhiều kinh nghiệm đấu tranh quý báu. Đội ngũ cán bộ,
đảng viên và quần chúng cách mạng được rèn luyện và sàng lọc. Với bản lĩnh
chính trị vững vàng và ý chí chiến đấu kiên cường, không những Đảng đã khắc
phục được những khó khăn trước mắt, hàn gắn nhanh những vết thương, chuẩn bị
lực lượng tốt cho cuộc đấu tranh trong giai đoạn tiếp theo. Đồng thời đã khẳng
định được sự đúng đắn của cương lĩnh chính trị đầu tiên do Nguyễn Ái Quốc soạn
thảo.
2. GIAI ĐOẠN 1936 - 1939
Hậu quả trầm trọng của cuộc khủng hoảng kinh tế trong những năm 1929-1933 của các
nước thuộc hệ thống tư bản chủ nghĩa đã làm cho mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư
bản thêm gay gắt và phong trào cách mạng của quần chúng dâng cao. Chủ nghĩa phátxít
xuất hiện và thắng thế ở một số nơi, như phátxít Hítle ở Đức, phátxít Phrăngcô ở Tây
Ban Nha, phátxít Mútxôlini ở Italia và phái Sĩ quan trẻ ở Nhật Bản. Đây là chế độ độc
tài có nền chuyên chế phản động, tàn bạo và dã man nhất. Chúng liên kết với nhau thành
khối “Trục” ráo tiết chuẩn bị chiến tranh để chia lại thế giới và tiêu diệt Liên Xô – thành
trì cách mạng thế giới nhằm đẩy lùi phong trào cách mạng vô sản. Nguy cơ chủ nghĩa
phátxít và chiến tranh thế giới đe doạ nghiêm trọng nền hòa bình và an ninh quốc tế.
Còn ở trong nước, cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 đã ảnh hưởng đến mọi tầng lớp
NHÓM 13 CHIỀU THỨ 2
nhân dân kể cả tư sản, địa chủ vừa và nhỏ. Trong khi đó bọn cầm quyền phản động ở
Đông Dương ra sức vơ vét , bóc lột, bóp nghẹt quyền tự do, dân chủ, thi hành chính sách
khủng bố và đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân ta. Chính điều này đã làm cho
các tầng lớp, giai cấp khác nhau trong cả nươc đều căm thù thực dân Pháp và có nguyện
vọng đấu tranh đòi quyền sống, quyền tự do, dân củ, dân sinh. Hệ thống Đảng và các cơ

sở cách mạng quần chúng đã được khôi phục. Ngoài ra chính phut mặt trận Pháp ban
hành một số chính sách dân chủ có lợi cho các nước thuộc địa. Đây chính là yếu tố quan
trọng quyết định chủ trương đấu tranh của cách mạng ta.
a. CHỦ TRƯƠNG ĐẤU TRANH ĐÒI QUYỀN DÂN CHỦ DÂN SINH (7/1936)
 Nhiệm vụ
- Ban Chấp hành Trung ương xác định cách mạng ở Đông Dương vẫn là "cách mạng tư
sản dân quyền - phản đế và điền địa - lập chính quyền của công nông bằng hình thức
Xôviết, để dự bị điều kiện đi tới cách mạng xã hội chủ nghĩa"
- Kẻ thù trước mắt nguy hại nhất của nhân dân Đông Dương cần tập trung đánh đổ là bọn
phản động thuộc địa và bè lũ tay sai của chúng
- Do đó nhiệm vụ trước mắt của cách mạng là: chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc,
chống bọn phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình
 Tập trung lực lượng
- Thành lập Mặt trận nhân dân phản đế, bao gồm các giai cấp, dân tộc, đảng phái, đoàn thể
chính trị, xã hội và tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau với nòng cốt là liên minh công – nông.
Sau đó mặt trận nhân dân phản đế đã được đổi tên thành mặt trận dân chủ Đông Dương.
- Để cô lập và chĩa mũi nhọn đấu tranh vào bọn phản động thuộc địa và tay sai của chúng,
đòi các quyền dân chủ, dân sinh, không những phải đoàn kết chặt chẽ với giai cấp công
nhân và Đảng Cộng sản Pháp, "Ủng hộ Mặt trận nhân dân Pháp", mà còn đề ra khẩu hiệu
"Ủng hộ Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp" để cùng nhau chống lại kẻ thù chung là bọn
phátxít ở Pháp và bọn phản động thuộc địa.
- Hoàn cảnh mới, chủ trương mới đòi hỏi phải có một đường lối tổ chức mới. Vì vậy, phải
chuyển hình thức tổ chức bí mật không hợp pháp sang các hình thức tổ chức và đấu tranh
công khai, nửa công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp, nhằm làm cho Đảng mở rộng sự
NHÓM 13 CHIỀU THỨ 2
quan hệ với quần chúng, giáo dục, tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh bằng các
hình thức và khẩu hiệu thích hợp. Tuy nhiên không sa ngã vào chủ nghĩa công khai và
phải đảm bảo sự lãnh đạo của tổ chức đảng bí mật đối với những tổ chức và hoạt động
công khai, hợp pháp .
 Phạm vi : khắp cả nước và liên kết với cộng sản Pháp

b. CHUNG QUANH VẤN ĐỀ CHÍNH SÁCH MỚI
 Nhiệm vụ
Đảng nêu một quan điểm mới: "Cuộc dân tộc giải phóng không nhất thiết phải kết chặt
với cuộc cách mạng điền địa. Nghĩa là không thể nói rằng: muốn đánh đổ đế quốc thực
dân phải phát triển cách mạng điền địa, muốn giải quyết vấn đề điền địa thì cần phải
đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có chỗ không xác đáng” Vì rằng, tùy hoàn cảnh hiện thực
bắt buộc, nếu nhiệm vụ chống đế quốc là cần kíp cho lúc hiện thời, còn vấn đề điền địa
tuy quan trọng nhưng chưa phải trực tiếp bắt buộc, thì có thể trước hết tập trung đánh đổ
đế quốc, rồi sau mới giải quyết vấn đề điền địa. Nhưng cũng có khi vấn đề điền địa và
phản đế phải liên tiếp giải quyết, vấn đề này giúp cho vấn đề kia làm xong mục đích của
cuộc vận động. Nghĩa là cuộc phản đế phát triển tới trình độ võ trang tranh đấu kịch liệt,
đồng thời vì muốn tăng thêm lực lượng tranh đấu chống đế quốc, cần phải phát triển cuộc
cách mạng điền địa. Nói tóm lại, nếu phát triển cuộc tranh đấu chia đất mà ngăn trở cuộc
tranh đấu phản đế thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết trước.
Nghĩa là chọn địch nhân chính, nguy hiểm nhất, để tập trung lực lượng của một dân tộc
mà đánh cho được toàn thắng
 Tập trung lực lượng và phạm vi: giống với chủ trương đấu tranh đòi quyền dân chủ
dân sinh, tạo sự liên minh dân tộc và giai cấp rộng rãi trong cuộc đấu tranh chống đế
quốc xâm lược và tay sai.
Đây là nhận thức mới phù hợp với tinh thần trong Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của
Đảng, bước đầu khắc phục hạn chế của Luận cương chính trị tháng 10-1930.
NHÓM 13 CHIỀU THỨ 2
TIỂU KẾT
- Dưới sự lãnh đạo của Đảng, thời kì 1936-1939 phong trào cách mạng diễn ra sôi nổi, lôi
cuốn đông đảo quần chúng tham gia, thông qua cao trào cách mạng khẳng định đường lối
đánh đế quốc và người cày có ruộng tiến lên chủ nghĩa xã hội là chính xác. Vận dụng
trong thời kì 1936-1939 là chống bọn phản động thuộc đĩa, chống phát xít, chống chiến
tranh, đòi quyền dân chủ dân sinh, đó là những mục tiêu trước mắt phù hợp với tình hình
so sánh lực lượng, trình độ giác ngộ và khả năng đấu tranh của quần chúng, nhằm tạo
điều kiện thuận lợi mới để tiến lên đấu tranh cho mục tiêu lâu dài.

- Do có đường lối đúng đắn, mục tiêu sát hợp, đáp ứng nguyện vọng cấp thiết của quần
chúng nên phong trào đấu tranh rộng khắp, sôi nổi trong phạm vi cả nước.
- Trên cơ sở khối liên minh công-nông vững chắc, Đảng xây dựng Mặt trận dân tộc thống
nhất, một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cuộc cách mạng.
- Đảng đã khéo léo kết hợp các hình thức tổ chức, hình thức đấu tranh công khai và nửa
công khai, hơp pháp và bất hợp pháp để xây dựng lực lượng cách mạng. Thông qua thực
hiện đấu tranh Đảng đã xây dựng được đội quân chính trị đông đảo có giác ngộ, có tổ
chức. Đây là thành quả lớn nhất Đảng có được trong thời kì 1936-1939, đồng thời là nhân
tố, điều kiện chuẩn bị cho thắng lợi cao trào cách mạng 1939-1945.
- Cao trào dân chủ 1936-1939 thực sự là một cuộc cách mạng sâu rộng, hiếm có ở một xứ
thuộc địa, gắn kết phong trào cách mạng Đông Dương với cuộc đấu tranh chung chống
chủ nghĩa phát xít của nhân dân thế giới.
NHẬN XÉT
Những chủ trương của Đảng trong giai đoạn 1936-1939 hết sức đúng đắn, tiến bộ, phù
hợp với hoàn cảnh lịch sử và mở ra một cao trào mới trong cả nước :
- Về nhiệm vụ: Kết hợp đúng đắn mối quan hệ giữa mục tiêu chiến lược và mục tiêu
cụ thể trước mắt của cách mạng mà nhiệm vụ dân tộc là trên hết, bước phát triển
mới về nhận thức đã tạo điều kiện để giành thắng lợi hoàn toàn.
NHÓM 13 CHIỀU THỨ 2
- Về tập hợp lục lượng cách mạng: Đảng đã xây dựng được mặt trận dân tộc thống
nhất rộng rãi tạo điều kiện cho quần chúng đấu tranh, hình thức tổ chức và hoạt
động phong phú linh hoạt, động viên kịp thời trong đấu tranh.
- Về phạm vi: Không những phát triển mạnh khắp cả nước, mà còn tranh thủ được
sức mạnh giữa phong trào cách mạng ở Đông Dương, phong trào cách mạng ở
Pháp và trên thế giới.
3. GIAI ĐOẠN 1939 – 1945
a Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng:
• Sự phát triển trong tư duy của Đảng:
- Giai đoạn 1930 – 1935:
+ Trong cương lĩnh tháng 2 xác định mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn của dân tộc

Việt Nam với đế quốc => đặt nhiệm vụ chống đế quốc lên trên nhiệm vụ chống
phong kiến.
+ Luận cương tháng 10 cho rằng mâu thuẩn chủ yếu ở nước ta là giữa nông dân
với phong kiến => đặt nhiệm vụ chống phong kiến lên hàng đầu.
- Giai đoạn 1936 – 1939: xác định cách mạng Đông Dương vẫn là cách mạng tư sản
dân quyền – phản đế và điền địa. Nhưng yêu cầu trước mắt là đấu tranh đòi tự do
dân chủ, cải thiện đời sống. Khẳng định hai nhiệm vụ chống đế quốc và phong
kiến không nhất thiết phải cùng tồn tại, phải tuỳ hoàn cảnh và kẻ thù trước mắt mà
đặt nhiệm vụ nào quan trọng hơn.
- Giai đoạn 1939 – 1941: có sự chuyển hướng trong chỉ đạo chiến lược của Đảng:
Đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
• Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược để giành chính quyền của Đảng đã được
hình thành, phát triển qua Hội nghị Trung ương 6 (tháng 11/1939), hội nghị Trung
ương 7 (tháng 11/1940 và được hoàn thiện tại Hội nghị Trung ương 8 (tháng
5/1941) với những nội dung chính sau đây:
- Một là: Đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
+ Đảng ta đã xác định được mâu thuẫn chủ yếu ở Đông Dương nói chung và nước
ta nói riêng là mâu thuẫn giữa dân tộc bị áp bức và đế quốc Pháp- Nhật. Vì thế
“trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi
được độc lập, tự do thì chẳng những toàn thể dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu
mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
NHÓM 13 CHIỀU THỨ 2
+ Để tập trung cho nhiệm vụ hàng đầu là giải phóng dân tộc thì vấn đề ruộng đất
lùi xuống vị trí thứ hai và phải phục tùng nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Đảng nhấn
mạnh: “Đứng trên lập trường giải phóng dân tộc, lấy quyền lợi dân tộc làm tối
cao, tất cả mọi vấn đề của cách mạng, kể cả vấn đề điền địa cũng phải nhằm vào
mục đích ấy mà giải quyết”
+ Trong hoàn cảnh đặc biệt khi dân tộc ta rơi vào cảnh “một cổ hai tròng”, tại hội
nghị Trung ương 8( tháng 5/1941), Đảng ta xác định “Cuộc cách mạng Đông
Dương hiện tại không phải là cuộc cách mạng giải quyết hai vấn đề : phản đế và

điền địa nữa, mà là cuộc cách mạng chỉ giải quyết một vấn đề giải phóng dân tộc.
Vì vậy, cách mạng Đông Dương lúc này là cách mạng dân tộc giải phóng”…Việc
xác định nhiệm vụ duy nhất - giải phóng dân tộc ở đây là sự phát triển lên một
tầm cao mới, trong một hoàn cảnh mới của tư tưởng chống đế quốc là nhiệm vụ
hàng đầu.
- Hai là: Đảng quyết định thành lập ở mỗi nước Đông Dương một mặt trận dân tộc
riêng nhằm khơi dậy tinh thần dân tộc mạnh mẽ và phát huy tính tự lập, tự cường
của các dân tộc. Ở Việt nam mặt trận đó là Mặt trận Việt minh. Các tổ chức quần
chúng của mặt trận đều lấy tên là Cứu quốc (Công nhân cứu quốc, nông dân cứu
quốc, phụ nữ cứu quốc, thanh niên cứu quốc, thiếu nhi cứu quốc…) để thu hút tất
cả mọi người dân yêu nước tham gia công cuộc giải phóng dân tộc.
- Ba là: Quyết định xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, coi việc chuẩn bị khởi
nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và nhân dân ta trong giai đoạn
hiện tại.
+ Để chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, đầu tiên phải xây dựng lực lượng vũ trang và
căn cứ địa cách mạng. Đảng quyết định duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn và
thành lập các đội du kích hoạt động vũ trang; xây dựng căn cứ địa Bắc Sơn - Vũ
Nhai, căn cứ địa Cao bằng…
+ Đảng đã xác định hình thái khởi nghĩa ở Việt nam là “đi từ khởi nghĩa từng phần
tiến tới Tổng khởi nghĩa”.
- Bốn là: Khẳng định việc sau khi cách mạng thành công, Việt Nam sẽ tách ra khỏi
liên bang Đông Dương thành lập một nước riêng và thể chế chính quyền trong
tương lai của Việt Nam là thể chế “dân chủ cộng hòa”- một chính phủ chung cho
NHÓM 13 CHIỀU THỨ 2
mọi giai tầng trong xã hội. Còn Lào và Campuchia có thể liên kết thành liên bang
hay tách riêng tùy ý. Mỗi dân tộc đều có “quyền tự quyết’. Bên cạnh đó, Ban Chấp
hành Trung ương còn đặc biệt chú trọng tới công tác xây dựng Đảng nhằm nâng
cao năng lực tổ chức và lãnh đạo của Đảng, đồng thời chủ trương gấp rút đào tạo
cán bộ, cán bộ lãnh đạo, cán bộ công vận, nông vận, binh vận, quân sự và đẩy
mạnh công tác vận động quần chúng.

b Tiểu kết :
- Đường lối cách mạng giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên
hàng đầu đã phát huy cao độ tiềm năng, sức mạnh của toàn dân tộc và trở thành
ngọn cờ tập hợp lực lượng toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập.
- Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược là sự kế tục và phát triển hoàn chỉnh tư tưởng
giải phóng dân tộc đã được vạch ra trong Cương lĩnh tháng 2/1930 của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc và chứng tỏ tính đúng đắn của tư tưởng đó.
- Sự chuyển hướng chiến lược đã đánh dấu sự trưởng thành trong nhận thức của
Đảng ta về mối quan hệ giữa 2 nhiệm vụ dân tộc và giai cấp, phản đế và phản
phong ở một nước phong kiến - thuộc địa.
- Sự chuyển hướng chiến lược đúng đắn với phương châm “lấy quyền lợi dân tộc
làm tối cao” là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến thắng lợi của cách
mạng Tháng Tám.
c Chớp thời cơ cách mạng Tháng Tám:
- Trong thời kì trực tiếp vận động giải phóng dân tộc 1939 – 1945, Đảng và Hồ Chí
Minh hết sức nhấn mạnh về thời cơ trong khởi nghĩa vũ trang. Hội nghị lần thứ 8
của ban chấp hành trung ương Đảng (5/1941) khẳng định: “Cách mạng Đông
Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang”. Chúng ta phải luôn luôn
chuẩn bị một lực lượng sẵn sàng, nhằm vào cơ hội thuận tiện mà đánh vào quân
thù. Các điều kiện được xác định là:
1 Mặt trận cứu quốc đã thống nhất toàn quốc.
2 Nhân dân không thể sống được với ách thống trị của Pháp – Nhật mà đã
sẵn sàng hy sinh vào con đường khởi nghĩa.
NHÓM 13 CHIỀU THỨ 2
3 Phe thống trị Đông Dương đã bước vào cuộc khủng hoảng phổ thông
cực điểm về chính trị kinh tế lẫn quân sự.
4 Những điều kiện khách quan cho khởi nghĩa Đông Dương là: quân Tàu
đại thắng quân Nhật, cách mạng Pháp hay cách mạng Nhật nổi dậy, phe
dân chủ đại thắng ở Thái Bình Dương, Liên Xô đại thắng, cách mạng
các thuộc địa Pháp, Nhật sôi nổi nhất là quân Tàu hay quân Anh – Mỹ

tràn vào Đông Dương.
- Thời cơ cách mạng phụ thuộc vào điều kiện chủ quan và khách quan. Vì vậy,
trong khi đợi điều kiện khách quan thuận lợi, Đảng đã chuẩn bị điều kiện chủ quan
như lãnh đạo nhân dân đánh Pháp đuổi Nhật giúp quân đồng minh đánh phátxit.
Đó là tinh thần chủ động sang tạo thời cơ.
- Khi sự chuẩn bị của Đảng sẵn sàng, thì chiến tranh thế giới thứ II kết thúc, Nhật
đầu hàng đồng minh vô điều kiện. “ những điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương đã
chín muồi”, cơ hội rất tốt cho ta giành lại độc lập đã tới”.
- Nhưng một nguy cơ mới xuất hiện, quân đội của đồng minh sắp vào Đông Dương
để giải giáp quân Nhật, mà trước đó khi vào Philipin và Miến Điện họ không
những giải giáp quân Nhật mà còn giải tán lực lượng kháng chiến chống Nhật ở
các nước này. Anh được gia nhiệm vụ giải giáp quân Nhật tại Đông Dương tuy
nhiên Anh đang lo cho các thuộc địa của mình không có điều kiện ở lại Đông
Dương, nhưng cũng không muốn Mĩ chi phối toàn bộ khu vực này nên việc cho
Pháp núp bóng quay lại Đông Dương là hoàn toàn có thể.
- Vì vậy thời cơ chỉ xuất hiện khi Nhật đầu hàng đồng minh và trước khi quân đồng
minh vào Đông Dương. Kiên quyết chớp thời cơ, Hội nghị toàn quốc của Đảng
họp tại Tân Trào (14 – 15/08/1945) chỉ rõ tình thế vô cùng khẩn cấp, tất cả mọi
việc nhằm vào 3 nguyên tắc:
1 Tập trung lực lượng vào việc chính.
2 Thống nhất về mọi phương diện quân sự, chính trị, hành động và chỉ huy.
3 Kịp thời hành động không bỏ lỡ cơ hội.
- Trong thư kêu gọi tổng khởi nghĩa Hồ Chí Minh đã viết : “ giờ quyết định cho vận
mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải
phóng cho ta”. Nhờ sự chuẩn bị chu đáo, cuộc tổng khởi nghĩa cách mạng Tháng
Tám đã thắng lợi “nhanh, gọn, ít đổ máu”.
NHÓM 13 CHIỀU THỨ 2

×