Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Biện pháp quản lý hoạt động dạy và học của giáo vụ ở Trường Đại học Sư phạm Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 108 trang )
















































ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
oOo





PHẠM HẢI HÀ








BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY VÀ HỌC
CỦA GIÁO VỤ Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI








LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC












HÀ NỘI - 2010








DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ

GDMN Giáo dục mầm non
ĐHSP Đại học Sư phạm
CNTT Công nghệ thông tin
SV Sinh viên
HS Học sinh
GV Giáo viên
CTĐT Chương trình đào tạo
GD &ĐT Giáo dục và Đào tạo
NCKH Nghiên cứu khoa học


























DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ

Bảng 2.2: Về quản lý và lập kế hoạch trong quá trình đào tạo
Bảng 2.3: Về quản lý sinh viên và kết quả học tập
Bảng 2.4: Kết quả đánh giá của sinh viên và cán bộ quản lý về quản lý
thông tin sinh viên
Bảng 2.5: Kết quả đánh giá của sinh viên và cán bộ quản lý về quản lý và lập
kế hoạch đào tạo
Bảng 3.1: Tuổi đời, tuổi nghề của giáo viên, cán bộ quản lý
Bảng 3.2: Tổng hợp kết quả khảo sát tính cần thiết của các biện pháp
quản lý hoạt động dạy và học của giáo vụ trường ĐHSP Hà Nội
Bảng 3.3: Tổng hợp kết quả khảo sát tính khả thi của các biện pháp quản
lý hoạt động dạy và học của giáo vụ trường ĐHSP HN





















DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 2.1: Thực trạng điểm trung bình chung về các nội dung quản lý của
công tác giáo vụ (theo đánh giá của cán bộ quản lý và giáo vụ)
Biểu đồ 2.2: Thực trạng quản lý và lập kế hoạch trong quá trình đào tạo
Biểu đồ 2.3: Thực trạng về quản lý sinh viên và kết quả học tập
Biểu đồ 2.4: Thực trạng điểm trung bình chung về các nội dung quản lý của
công tác giáo vụ (theo đánh giá của sinh viên)
Biểu đồ 2.5: Kết quả đánh giá của sinh viên và cán bộ quản lý về quản
lý thông tin sinh viên
Biểu đồ 2.6: Kết quả đánh giá của sinh viên và cán bộ quản lý về quản
lý và lập kế hoạch đào tạo
Biểu đồ 3.1: Biểu đồ tỉ lệ phần trăm về mức độ cần thiết của biện pháp 1
Biểu đồ 3.2: Biểu đồ tỉ lệ phần trăm về mức độ cần thiết của biện pháp 2
Biểu đồ 3.3: Biểu đồ tỉ lệ phần trăm về mức độ cần thiết của biện pháp 4
Biểu đồ 3.4: Biểu đồ tỉ lệ phần trăm về mức độ “rất cần” của 4 biện pháp
Biểu đồ 3.5: Biểu đồ tỉ lệ phần trăm về mức độ “rất khả thi” của 4 biện

pháp




















MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục đích nghiên cứu 2
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 2
4. Giả thuyết nghiên cứu 3
5. Phạm vi nghiên cứu 3

6. Nhiệm vụ nghiên cứu 3
7. Ph-¬ng ph¸p nghiªn cøu 3
8. Cấu trúc luận văn 4
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY VÀ HỌC
Ở TRƢỜNG ĐẠI HỌC 5
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu 5
1.2. Một số vấn đề lý luận về quản lý 7
1.2.1. Khái niệm quản lý 7
1.2.2. Chức năng của quản lý 11
1.3. Một số vấn đề lý luận về quản lý giáo dục………………………… 14
1.3.1. Khái niệm về quản lý giáo dục ………………………………… 14
1.3.2. Quản lý nhà trường ……………………………………………… 17
1.3.3. Quản lý hoạt động dạy và học …………………………………. 18
1.3.4. Quản lý hoạt động dạy và học trong trường Đại học ………… 20
1.4. Công tác giáo vụ trong trường Đại học ………………………… 23
1.4.1. Khái niệm về giáo vụ …………………………………………… 23
1.4.2. Những đặc trưng của công tác giáo vụ ở trường đại học ……… 23
1.4.3. Nhiệm vụ cụ thể của công tác giáo vụ ở trường đại học ………… 25
1.4.4. Nhiệm vụ cụ thể của giáo vụ khoa ………………………………. 29


Kết luận chƣơng 1 31

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY VÀ HỌC
CỦA GIÁO VỤ Ở TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI …………. 33
2.1. Vài nét về trường Đại học sư phạm Hà Nội 33
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển 33
2.1.2. Một số thành tích cơ bản trong quản lý họat động dạy và học
của trường Đại học Sư phạm 33
2.1.3. Thực trạng công tác giáo vụ ở trường Đại học Sư phạm Hà Nội trong

giai đoạn đầu của quản lý hoạt động dạy và học theo tín chỉ 36
2.2. Thực trạng biện pháp quản lý hoạt động dạy và học của giáo vụ ở
trường Đại học Sư phạm Hà Nội 46
2.2.1 Quản lý tuyển sinh của Trường 47
2.2.2 Quản lý kết quả học tập 47
2.2.3 Quản lý công tác nghiên cứu khoa học của sinh viên 48
2.3. Thực trạng quản lý hoạt động dạy và học của giáo vụ khoa GDMN
trường ĐHSP Hà Nội………………………………………………… 49
2.3.1 Vài nét về khoa GDMN trường ĐHSP Hà Nội 49
2.3.2 Thực trạng công tác giáo vụ của khoa GDMN trường ĐHSP
Hà Nội 51
2.4. Đánh giá công tác giáo vụ của trường Đại học Sư phạm nói chung
của khoa GDMN nói riêng 54
2.5. Nguyên nhân của hạn chế trong công tác quản lý hoạt động dạy và học
của giáo vụ Trường ĐHSP Hà Nội nói chung và của khoa GDMN
nói riêng 56
Kết luận chƣơng 2 57
Chƣơng 3: BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY VÀ HỌC
CỦA GIÁO VỤ Ở TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 59
3.1 Cơ sở định hướng cho việc đề xuất các biện pháp 59
3.1.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về giáo dục, đào tạo 59


3.1.2. Chiến lược phát triển Giáo dục- Đào tạo ở nước ta 59
3.1.3. Chiến lược phát triển của trường ĐHSP Hà Nội đến năm 2010… 60
3.2. Đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động dạy và học của giáo vụ ở
Trường ĐHSP Hà Nội nói chung và khoa GDMN nói riêng …… 63
3.2.1. Lập kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý, cán bộ giáo vụ
của trường, khoa 63
3.2.2. Tăng cường sử dụng công nghệ thông tin trong quản lý

hoạt động dạy và học của giáo vụ ……………………………………… 67
3.2.3. Tăng cường kiểm tra, đánh giá hoạt động dạy và học 75
3.2.4. Quản lý và sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất phục vụ cho
hoạt động dạy và học 80
3.3. Khảo sát, kiểm nghiệm tính cần thiết, tính khả thi của một số
biện pháp đề xuất 82
Kết luận chƣơng 3 90
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 91
1. Kết luận 91
2. Khuyến nghị 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………………… 94
PHỤ LỤC






















MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Công tác giáo vụ là một bộ phận hợp thành không thể thiếu được
trong công tác quản lý đào tạo của cấp khoa nói riêng và của cấp trường đại
học nói chung với nhiệm vụ cơ bản là quản lý hoạt động giảng dạy và học
tập.
Công tác giáo vụ giúp cho các nhà quản lí nắm bắt được chất lượng
giáo dục (giảng dạy, học tập) và tình hình thực hiện chương trình, kế hoạch
công tác chuyên môn của đối tượng quản lý. Trên cơ sở đó, người làm quản
lý sẽ có những biện pháp điều chỉnh, định hướng đối tượng thực hiện đúng
nội dung chương trình, kế hoạch, phương pháp giảng dạy cho phù hợp với
thực tiễn, nâng cao hiệu quả đào tạo.
Trường Đại học Sư phạm (ĐHSP) Hà Nội đã có bề dày 60 năm về
hoạt động dạy và học. Quán triệt tư tưởng của Đảng và Nhà nước về chiến
lược phát triển giáo dục đào tạo từ nay đến 2020, Trường ĐHSP Hà Nội đã
nhận thức sâu sắc và kịp thời việc cải tiến, đổi mới nhiều hoạt động giáo
dục. Tuy nhiên, việc đổi mới công tác quản lý giảng dạy và học tập của nhà
trường nói chung, cũng như quản lý dạy và học của giáo vụ mỗi khoa trong
trường nói riêng còn nhiều vấn đề cần phải được quan tâm giải quyết. Về
mặt nhân sự, một số cán bộ lớn tuổi, trình độ tin học còn hạn chế, không có
khả năng khai thác và làm việc với mạng máy tính. Điều đó đã và đang đặt
ra không ít khó khăn trong việc phục vụ hoạt động dạy và học hiện nay.
Bên cạnh đó sau nhiều năm quen làm việc với kiểu quản lý sinh viên học
tập trung (đào tạo theo niên chế) khi chuyển sang đào tạo theo tín chỉ,
nhiều vấn đề mới nảy sinh đã khiến cho số cán bộ lớn tuổi này rất khó theo
kịp với yêu cầu của thực tiễn. Trong thời đại khoa học kỹ thuật đang phát

triển như vũ bão, khoa học công nghệ thông tin hiện đại đang được ứng


dng khp mi ni v mi lnh vc, yờu cu kh nng t cp nht thụng tin,
tớnh c lp trong vic hoch nh k hoch hc tp ca sinh viờn ngy
cng c nõng cao. Thc t ny ũi hi cỏn b giỏo v phi thụng hiu
cỏc phn mm c ng dng trong hot ng qun lý sinh viờn, qun lý
im, lp thi khoỏ biu, khai thỏc thụng tin phc v o to t kho d liu
ca trng. Vic liờn kt o to gia cỏc khoa ca Trng HSP H Ni
vi cỏc a phng ngy cng m rng ỏp ng vn o to liờn
thụng, o to theo a ch. Nh vy cú ngha l s lng cỏc lp s ngy
cng tng, vn qun lý giỏo v s ngy cng phc tp. Nu khụng cú cỏc
bin phỏp c th, khoa hc v linh hot thỡ cụng tỏc giỏo v s ht sc ln
xn, khụng m bo tớnh chớnh xỏc v hiu qu. iu ú s dn ti vic dy
v hc khụng m bo cht lng.
Nhn thc c ý ngha ca vn ny chỳng tụi chn ni dung
nghiờn cu: Bin phỏp qun lý hot ng dy v hc ca giỏo v
trng i hc S phm H Ni lm ti lun vn. õy l mt cụng
vic cp bỏch nhm nõng cao hiu qu o to trờn nn c s vt cht cng
nh i ng ging viờn v sinh viờn hin cú trong bi cnh mi hin nay.
2. Mục đích nghiên cứu
ti nghiờn cu nhm xut mt s bin phỏp nõng cao hiu qu
cụng tỏc qun lý ca giỏo v trng v khoa i vi hot ng dy v hc.
3. Khách thể và đối t-ợng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Cụng tỏc qun lý hot ng dy v hc trng i hc.
3.2. Đối t-ợng nghiên cứu
Cỏc bin phỏp qun lý hot ng dy v hc ca giỏo v trng
HSP H Ni.



4. Giả thuyết nghiên cứu


Biện pháp quản lý hoạt động dạy và học của giáo vụ có mối quan hệ
chặt chẽ với hiệu quả chất lượng công tác quản lý nói riêng và chất lượng
đào tạo nói chung. Nếu đề xuất được một số biện pháp quản lý của giáo vụ
cụ thể như: Lập kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý cán bộ giáo vụ
của trường, khoa; Tăng cường sử dụng công nghệ thông tin trong quản lý
hoạt động dạy và học của giáo vụ; Tăng cường kiểm tra, đánh giá hoạt
động dạy và học; Quản lý và sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất thì sẽ nâng
cao chất lượng và hiệu quả công tác quản lý hoạt động dạy và học của giáo
vụ ở trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
5. Phạm vi nghiên cứu
Công tác quản lý hoạt động dạy và học của giáo vụ dành cho hệ cử
nhân chính quy Trường Đại học Sư phạm Hà Nội và khoa Giáo dục mầm
non.
- Điều tra thực trạng quản lý của giáo vụ từ năm 2007 đến năm 2009.
- Một số nội dung quản lý chủ yếu và một số biện pháp.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1. Nghiên cứu cơ sở lí luận về công tác giáo vụ dưới góc độ khoa học
quản lí.
6.2. Phân tích thực trạng các biện pháp quản lý hoạt động dạy và học của
giáo vụ trường ĐHSP Hà Nội và khoa GDMN.
6.3. Đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý của
giáo vụ đối với hoạt động dạy và học ở trường ĐHSP Hà Nội.
7. Ph-¬ng ph¸p nghiªn cøu
Sử dụng phối kết hợp các phương pháp nghiên cứu sau đây:
7.1. Nhóm phương pháp lý luận: So sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát,
hệ thống hoá lý luận liên quan đến đề tài.

7.2. Nhóm phương pháp thực tiễn
7.2.1. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: chỉ ra những thuận lợi, khó khăn
của công tác giáo vụ của trường ĐHSP Hà Nội và khoa GDMN để rút ra


những kết luận (cả về lí luận và thực tiễn) làm cơ sở cho việc đề xuất một
số biện pháp cải tiến công tác này.
7.2.3. Phương pháp chuyên gia: Xin ý kiến các chuyên gia về công tác
quản lí và công tác giáo vụ để thu thập thông tin xử lí kết quả.
7.2.4. Phương pháp điều tra: Điều tra cán bộ quản lý, cán bộ giảng dạy,
sinh viên (khoa, trường) để thu thập thông tin giúp đề ra một số biện pháp
cải tiến hữu hiệu công tác quản lý của giáo vụ.
7.2.5. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lý thông tin thu thập
được.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo, bản
luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận về quản lý hoạt động dạy và học của trường Đại
học.
Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động dạy và học của giáo vụ ở Trường
ĐHSP Hà Nội.
Chương 3: Biện pháp quản lý hoạt động dạy và học của giáo vụ ở Trường
ĐHSP Hà Nội



Chƣơng 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
DẠY VÀ HỌC Ở TRƢỜNG ĐẠI HỌC


1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Vấn đề quản lý Nhà nước về quá trình đào tạo đại học đều được các
nước nói chung và Việt Nam nói riêng quan tâm thích đáng; nó được thể
hiện trên các mặt: ban hành hệ thống văn bản pháp luật, quản lý các nội
dung cụ thể như quản lý mục tiêu, chương trình, nội dung đào tạo, quản lý
quá trình dạy – học, quản lý thi, kiểm tra và cấp bằng, kiểm tra, thanh tra
đào tạo, khen thưởng, kỷ luật. Hàng năm Bộ Giáo dục và Đào tạo đều tổ
chức họp các trường đại học, cao đẳng trong cả nước để bàn về các biện
pháp nâng cao chất lượng đào tạo đại học và cao đẳng. Có rất nhiều bài
tham luận, bài viết của các nhà quản lý, của các nhà nghiên cứu và của các
giảng viên – người tham gia trực tiếp vào quá trình đào tạo đề cập đến vấn
đề này.
Ở các nước có nền giáo dục tiên tiến, họ liên tục đổi mới tư duy về
giáo dục - đào tạo, thường xuyên cải tiến chương trình, nội dung đào tạo và
theo đó là cách tạo ra các nguồn lực tương ứng để đáp ứng mục tiêu đào tạo
đại học. Chính nguồn nhân lực với kiến thức, kỹ năng đầy đủ này lại góp
phần thúc đẩy nền kinh tế – xã hội của các nước ngày càng phát triển nhanh
chóng. Trong những năm gần đây, kinh nghiệm đào tạo nguồn nhân lực có
trình độ cao của Mỹ, Anh, các nước phương Tây, CHLB Đức, Nhật Bản,
Hàn Quốc, Singgapo, Trung Quốc, làm chúng ta phải suy nghĩ và học
tập. Họ có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, có chương trình đào tạo được đổi
mới thường xuyên và quản lý tốt quá trình đào tạo để tạo nguồn nhân lực
biết làm việc, thích ứng trong thế giới đa cực hoá và toàn cầu hoá hiện nay.
Nhận thức sâu sắc vấn đề đó, Bộ GD & ĐT, các Viện và các Trường
đã có nhiều đề tài nghiên cứu, nhiều hội thảo, nhiều ý kiến chuyên gia về


vấn đề quản lý Giáo dục- Đào tạo nói chung và chủ yếu đề cập đến những
vấn đề lớn như:

Thứ nhất là nhóm các công trình nghiên cứu đề cập đến hoạt động
tổ chức và quản lý Giáo dục- Đào tạo ở cấp vĩ mô, có thể kể ra đây một số
công trình tiêu biểu như:
- “Tổ chức quản lý quá trình giáo dục - đào tạo” của nhà nghiên cứu
Nguyễn Minh Đường Hà Nội, 1996. Đây là một công trình nghiên cứu
công phu, đề cập đến những khía cạnh cơ bản của hoạt động tổ chức quản
lý Giáo dục- Đào tạo của nước ta qua các giai đoạn lịch sử, đặc biệt là từ
khi đất ta tiến hành đổi mới từ năm 1986 đến nay.
- Tác giả Phan Văn Kha với công trình nghiên cứu: “Quản lý nhà
nước về giáo dục đào tạo” Hà Nội, 1999 đã nêu bật được những vấn đề
liên quan đến vai trò của các cấp chính quyền, hệ thống văn bản pháp luật,
các quy định của các cấp đào tạo nhằm nâng cao chất lượng của công tác
GD& ĐT của nước ta hiện nay.
- Liên quan đến việc nghiên cứu về công tác quản lý quá trình triển
khai các hoạt động GD & ĐT có công trình “Quản lý quá trình giáo dục
đào tạo” của Nguyễn Đức Trí, Hà Nội, 1999. Tác giả đã đưa ra những
biện pháp nhằm nâng cao chất lượng của việc quản lý giáo dục và đào tạo ở
các bậc học.
Thứ hai là nhóm gồm một số đề tài nghiên cứu của các luận văn
Thạc sĩ quản lý giáo dục, đề cập đến nội dung quản lý hoạt động dạy học
của giáo viên và quản lý hoạt động học của học sinh trong trường như:
- “Một số biện pháp quản lý hoạt động dạy học ở trường Đại học Công
nghiệp HN” Nguyễn Thị Minh, 2006.
- “Những biện pháp quản lý hoạt động dạy học của Trung tâm giáo
dục từ xa trường ĐHSP Hà Nội. Phùng Thị Lệ Hằng, 2007.
- “Một số biện pháp quản lý hoạt động dạy học ở trường Trung học
điện tử điện lạnh Hà Nội.” Vũ Quốc Dũng, 1999.


- “Các biện pháp quản lý dạy học của Học viện Kỹ thuật quân sự

theo hướng phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo của học viên.” Trương
Hữu Thông. Hà Nội, 1999.
- “Một số giải pháp tăng cường quản lý quá trình dạy - học trong
trường trung học kinh tế - kỹ thuật tỉnh Kiên Giang”. Nguyễn Văn Lâu. TP
Hồ Chí Minh, 2000.
- “Các biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên trường cao
đẳng kinh tế tài chính Thái Nguyên.” Phạm Trí Cường. Hà Nội, 2004.
- “Một số biện pháp tăng cường quản lý hoạt động dạy học của
Khoa tự nhiên, trường Cao đẳng sư phạm Quảng Ninh”. Võ Tiến Quang.
Hà Nội, 2004.
- “Một số biện pháp cải tiến công tác giáo vụ ở khoa Sư phạm kỹ thuật
trường ĐHSP Hà Nội”. Nguyễn Thị Tự, 1999
Như vậy, việc nghiên cứu, đánh giá hoạt động dạy và học trong
trường Đại học nói chung và Trường ĐHSP nói riêng thông qua công tác
giáo vụ thì hoàn toàn chưa được đề cập đến. Tuy nhiên những công trình
nghiên cứu kể trên cũng là cơ sở, điều kiện để chúng tôi tiếp tục nghiên cứu
đề tài của mình.
1.2. Một số vấn đề lý luận về Quản lý
1.2.1. Khái niệm Quản lý
Quản lý là nhân tố không thể thiếu được trong đời sống và sự phát
triển của xã hội. Loài người đã trải qua nhiều thời kỳ phát triển với nhiều
hình thái xã hội khác nhau nên cũng đã trải qua nhiều hình thức quản lý
khác nhau. Các triết gia, các nhà chính trị từ thời cổ đại đến nay đều rất coi
trọng vai trò của quản lý trong sự ổn định và phát triển của xã hội. Nó là
một phạm trù tồn tại khách quan và là một tất yếu lịch sử. Ở mỗi góc độ
tiếp cận và hoạt động, người ta có thể đưa ra một quan niệm và quản lý
khác nhau.
Các Mác viết: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động
chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng đều cần



đến một sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân và thực hiện
những chức năng chung phát sinh từ vận động của toàn bộ cơ thể khác với
sự vận động của những khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm
tự điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng”
[27].
Hoạt động quản lý bắt nguồn từ phân công lao động của xã hội loài
người nhằm đạt mục đích, hiệu quả cao hơn, năng suất cao hơn. Đó chính
là hoạt động giúp con người đứng đầu tổ chức phối hợp sự nỗ lực các thành
viên trong nhóm, trong cộng đồng nhằm đạt mục tiêu đề ra.
Trong quá trình tồn tại và phát triển của quản lý, đặc biệt trong quá
trình xây dựng lý luận về quản lý, khái niệm quản lý được nhiều nhà lý
luận đưa ra, nó thường phụ thuộc vào lĩnh vực hoạt động, nghiên cứu của
mỗi người. Chẳng hạn:
- Theo quan điểm triết học, quản lý được xem như một quá trình liên
kết thống nhất giữa chủ quan và khách quan để đạt mục tiêu đề ra.
- Theo quan điểm kinh tế học, nhà kinh tế học người Mỹ- Frederic
Wiliam Taylor (1856- 1915) cho rằng: “Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng,
chính xác cái gì cần làm và làm cái đó thế nào bằng phương pháp tốt nhất
và rẻ tiền nhất” [44].
Với nhà lý luận quản lý kinh tế Pháp A.Fayon (1841- 1925) thì:
“Quản lý là đưa xí nghiệp tới đích, cố gắng sử dụng các nguồn lực (nhân,
tài, vật, lực) của nó” [20].
- Dưới góc độ điều khiển học, A.I.Beng cho rằng: “Quản lý là quá
trình chuyển một hệ động lực phức tạp từ trạng thái này sang trạng thái
khác nhờ sự tác động vào các phần tử biến thiên của nó [41].
- Nhà toán học A.N.Kolmogorov cho rằng: Quản lý là quá trình gia
công thông tin thành tín hiệu điều chỉnh hoạt động của máy móc hay cơ thể
sống [40].
Khi nói về vai trò của quản lý trong xã hội, ý kiến của Paul Hersay và

Ken Blanc Heard trong cuốn “Quản lý nguồn nhân lực” là: “Quản lý là một


quá trình cùng làm việc giữa nhà quản lý với người bị quản lý, nhằm thông
qua hoạt động của cá nhân, của nhóm, huy động các nguồn lực khác để đạt
mục tiêu của tổ chức [24].
- Theo quan điểm của hệ thống thế giới quan Mác-Lênin cho rằng:
“Toàn bộ thế giới vật chất đang tồn tại, mọi sự vật, hiện tượng là một chỉnh
thể, một hệ thống. Trong công tác điều hành xã hội thì quản lý cũng vật,
cũng là hệ thống. Theo quan điểm này thì quản lý một đơn vị với tư cách là
hệ thống xã hội là khoa học và nghệ thuật tác động vào hệ thống, vào từng
thành tố của hệ thống bằng các phương pháp thích hợp nhằm đạt mục tiêu
đặt ra trong điều kiện biến đổi của môi trường”.
- Quan niệm về quản lý của một số nhà khoa học Việt Nam
Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt cho rằng: “Quản lý là một quá trình
định hướng, quá trình có mục tiêu, quản lý một hệ thống nhằm đạt được
những mục tiêu nhất định” [24].
Theo tác giả Nguyễn Minh Đạo “Quản lý là quá trình tác động liên
tục có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý
(S-O) về các mặt chính trị, xã hội, kinh tế, văn hoá bằng một hệ thống các
nguyên tắc pháp luật, chính sách, phương pháp và giải pháp quản lý tạo ra
những điều kiện cho sự phát triển của khách thể và tạo ra uy tín [12].
Tác giả Hồ Văn Vĩnh cho rằng: “Quản lý là sự tác động có tổ chức,
có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu
đã đề ra” [42].
Theo quan điểm của Nguyễn Quang Toản- Trung tâm quản lý chất
lượng quốc tế (IQC) thì: Quản lý là các hoạt động có phối hợp để định
hướng và kiểm soát một tổ chức trong việc đạt mục đích đề ra [41].
Theo tác giả Nguyễn Đức Trí: “Quản lý là một quá trình tác động có
định hướng (có chủ đích), có tổ chức, có lựa chọn trong số các tác động có

thể có, dựa trên các thông tin về tình trạng và môi trường, nhằm giữ cho sự
vận hành của đối tượng được ổn định và làm cho nó phát triển tới mục tiêu
đã định [40].


Nhìn chung các tác giả đã nêu quan niệm của mình về quản lý với
những cách tiếp cận khác nhau nhưng từ những quan niệm đó có thể thấy
rõ được nội hàm khái niệm quản lý như sau:
- Quản lý là hoạt động lao động, hoạt động này để điều khiển lao
động.
- Trong quản lý bao giờ cũng có chủ thể quản lý và đối tượng quản lý
quan hệ với nhau bằng những tác động quản lý. Những tác động quản lý
chính là những quyết định quản lý, là những nội dung và chủ thể quản lý
yêu cầu đối với đối tượng quản lý.
- Quản lý là một thuộc tính bất biến nội tại của mọi quá trình lao
động xã hội. Lao động quản lý là điều kiện quan trọng để làm cho xã hội
loài người tồn tại, vận hành.
- Quản lý là một hệ thống xã hội trên nhiều phương diện. Điều đó
cũng xác lập rằng quản lý phải có một cấu trúc và vận động trong một môi
trường xác định.
Hoạt động “quản lý” bao giờ cũng gắn với hoạt động có ý thức của
con người và toàn xã hội dưới tác động của hoàn cảnh nhằm định hướng sự
vận động và phát triển của đối tượng cần quản lý theo một mục đích nhất
định. Khái niệm đó phải bao quản được tất cả mọi hoạt động của con
người. Đồng thời khái niệm “quản lý” cũng như bất kỳ một khái niệm nào
khác cũng phải xây dựng theo những quy tắc khái niệm và không phạm
phải sai lầm có thể có khi khái niệm sẽ thuộc loại khái niệm chính xác.
Trong các quan điểm về quản lý đã nêu trên chúng ta nhận thấy hầu
như các quan điểm đó chưa bao quát được mọi hoạt động của con người.
Có định nghĩa chưa nêu được khuynh hướng vận động của đối tượng quản

lý theo mục đích hoạt động của con người. Để tài của chúng tôi sử dụng
quan niệm của Nguyễn Đức Trí về “quản lý” nêu trên:
Quản lý là một quá trình tác động có định hƣớng (có chủ đích), có
tổ chức, có lựa chọn trong số các tác động có thể có, dựa trên các thông


tin về tình trạng và môi trƣờng, nhằm giữ cho sự vận hành của đối
tƣợng đƣợc ổn định và làm cho nó phát triển tới mục tiêu đã định [40].
1.2.2. Chức năng của quản lý
Thứ nhất, chức năng kế hoạch hoá
Peter Drucker, một trong những chuyên gia quản lý hàng đầu đương
đại đã đề xuất tiêu chuẩn về tính hiệu nghiệm (tức là khả năng làm những
việc “đúng”) và tính hiệu quả (tức là khả năng làm đúng việc). Ông cho
rằng tính hiệu nghiệm là quan trọng hơn, bởi vẫn có thể đạt được hiệu quả
khi chọn sai mục tiêu. Hai tiêu chuẩn này song hành cùng với hai khía cạnh
của kế hoạch: xác định những mục tiêu “đúng” và lựa chọn những giải
pháp “đúng” để đạt các mục tiêu này. Cả hai khía cạnh đó đều có ý nghĩa
sống còn đối với quá trình quản lý.
Để phản ánh bản chất của khái niệm chức năng kế hoạch hoá, chúng
ta có thể định nghĩa như sau: Chức năng kế hoạch hoá là quá trình xác định
mục tiêu và quyết định những giải pháp tốt nhất để thực hiện mục tiêu đó.
Như vậy, thực chất của kế hoạch hoá là đưa toàn bộ những hoạt động vào
công tác kế hoạch hoá với mục đích, giải pháp rõ ràng, bước đi cụ thể và ấn
định tường minh các điều kiện cung ứng cho việc thực hiện mục tiêu.
Nhiều lý thuyết quản gia cho rằng, kế hoạch là cái khởi nguyên của
mọi hoạt động, mọi chức năng quản lý khác. Họ ví kế hoạch như một chiếc
đầu tầu kéo theo các toa “tổ chức”, “chỉ đạo”, “kiểm tra”. Như vậy, người
quản lý, nếu không có kế hoạch thì không biết phải tổ chức nhân lực và các
nguồn nhân lực khác như thế nào, thậm chí học còn không rõ phải tổ chức
cái gì nữa. Không có kế hoạch, người quản lý không thể chỉ dẫn, lãnh đạo

người thuộc quyền hành động một cách chắc chắn với những kỳ vọng đặt
vào kết quả mong đạt tới. Cũng vậy, không có kế hoạch thì cũng không xác
định được tổ chức hướng tới đúng hay chệch mục tiêu, không biết khi nào
đạt được mục tiêu và sự kiểm tra trở thành vô căn cứ.
Kế hoạch hoá là một chức năng quan trọng của quá trình quản lý vì
trên cơ sở phân tích các thông tin quản lý, căn cứ vào những tiềm năng đã


có và những khả năng sẽ có mà xác định rõ hệ thống mục tiêu, nội dung
hoạt động, các giải pháp cần thiếu để chỉ rõ trạng thái mong muốn của đối
tượng khi kết thúc các hoạt động. Kế hoạch hoá có vai trò to lớn như vậy
với bản thân nó có những chức năng cơ bản cụ thể sau:
Chức năng chuẩn đoán: Bao gồm việc xác định trạng thái xuất phát và
những phân tích về trạng thái đó.
Chức năng dự báo: Bao gồm việc xác định nhu cầu và các mục tiêu để suy
ra những hướng phát triển cơ bản, trong đó có tính tới nhu cầu bên ngoài và
bên trong. Lựa chọn những hướng ưu tiên, dự kiến những mục tiêu cần đạt
và các tiêu chuẩn đánh giá.
Chức năng dự đoán: Bao gồm việc phát hiện các phương án chọn lựa có
tính đến tiềm năng của nguồn lực dự trữ và những mong muốn chủ quan.
Thứ hai, chức năng tổ chức
Bamard định nghĩa tổ chức như là “hệ thống các hoạt động hay tác
động có ý thức của hai hay nhiều người”. Cuốn “Cơ sở khoa học của quản
lý” đã xác định: “Tổ chức là hoạt động hướng tới hình thành cấu trúc tối ưu
của hệ thống quản lý và phối hợp tốt nhất giữa các hệ thống lãnh đạo và bị
lãnh đạo (chấp hành) [12].
Nhờ chức năng tổ chức mà hệ thống quản lý trở nên có hiệu quả, cho
phép các cá nhân góp phần tốt nhất vào mục tiêu chung. Tổ chức được coi
là điều kiện của quản lý, đúng như V.I.Lê-Nin đã khẳng định: “Chúng ta
phải hiểu rằng muốn quản lý tốt – còn phải biết tổ chức về mặt thực tiễn

nữa”. Thực chất của tổ chức là thiết lập mối quan hệ bền vững giữa con
người, giữa các bộ phận trong hệ thống quản lý. Tổ chức tốt sẽ khơi nguồn
các động lực, tổ chức không tốt sẽ làm triệt tiêu động lực và giảm sút hiệu
quả quản lý.
Thứ ba, chức năng chỉ đạo
Chỉ đạo là quá trình tác động ảnh hưởng của chủ thể quản lý đến hành
vi và thái độ của những người khác nhằm đạt các mục tiêu đã đề ra. Chỉ


đạo thể hiện quá trình ảnh hưởng qua lại giữa chủ thể quản lý và mọi thành
viên trong tổ chức nhằm góp phần thực hiện hoá các mục tiêu đã đặt ra.
Chức năng chỉ đạo, xét cho cùng là sự tác động lên con người, khơi
dậy động lực của nhân tố con người trong hệ thống quản lý, thể hiện mối
quan hệ giữa con người với con người và quá trình giải quyết những mối
quan hệ đó do họ tự nguyện và nhiệt tình phấn đấu.
Thứ tư, chức năng kiểm tra
Sau khi xác định các mục tiêu, quyết định những giải pháp tốt nhất để
đạt tới các mục tiêu và triển khai các chức năng tổ chức, chỉ đạo để hiện thực
hoá các mục tiêu đó cần phải tiến hành những hoạt động kiểm tra để xem xét
việc triển khai các quyết định trong thực tiễn, từ đó có những điều chỉnh cần
thiết trong các hoạt động để góp phần đạt tới mục tiêu đã xác định.
Như vậy, kiểm tra có vị trí quan trọng trong việc đổi mới công tác
quản lý như: Đổi mới công tác kế hoạch hoá, công tác tổ chức, chỉ đạo
cũng như đối với cơ chế quản lý, phương pháp quản lý nhằm nâng cao chất
lượng và hiệu quả quản lý.
Tóm lại: Sự phân công và chuyên môn hoá trong hoạt động quản lý
đã hình thành nên các chức năng quản lý. Đó là chức năng kế hoạch hoá,
chức năng tổ chức, chức năng chỉ đạo và chức năng kiểm tra.
Qua phân tích các chức năng quản lý, chúng ta thấy rằng các chức
năng này có mối quan hệ chặt chẽ tác động qua lại với nhau, chi phối lẫn

nhau tạo thành một thể thống nhất của hoạt động quản lý. Mối quan hệ đó,
chúng tôi thể hiện ở sơ đồ sau đây:




1.3. Một số vấn đề lý luận về quản lý giáo dục
1.3.1. Khái niệm quản lý giáo dục
Quản lý giáo dục là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý đến
khách thể quản lý nhằm đưa hoạt động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt
tới kết quả mong muốn bằng cách hiệu quả nhất. Quản lý giáo dục theo
nghĩa tổng quan là một hoạt động điều hành, phối hợp giữa các lực lượng
trong xã hội nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát
triển ngày càng cao của xã hội.
Theo Phạm Minh Hạc: “Quản lý giáo dục là tổ chức các hoạt động
dạy học. Có tổ chức được các hoạt động dạy học, thực hiện được các tính
chất của nhà trường phổ thông Việt Nam xã hội chủ nghĩa mới quản lý
được giáo dục, tức là cụ thể hóa đường lối của Đảng và biến đường lối đó
thành hiện thực, đáp ứng nhu cầu của nhân dân, của đất nước” [23].
Theo Nguyễn Quang Học, quản lý giáo dục là hệ thống tác động có
mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nằm làm cho hệ
thống vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện
được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm
hội tụ là quá trình dạy học.
Có thể nói rằng quản lý giáo dục chứa đựng những đặc trưng sau:
Kế hoạch
hoá

Kiểm tra


Chỉ đạo

Tổ chức


- Chủ thể quản lý ở tầm vĩ mô: Là quản lý của nhà nước mà cơ quan
quản lý trực tiếp là Bộ giáo dục, Sở giáo dục, Phòng giáo dục.
- Chủ thể quản lý ở tầm vi mô: Là quản lý của Hiệu trưởng các
trường dưới Hiệu trưởng là các Chủ nhiệm khoa, Trưởng các phòng ban,
Giám đốc các trung tâm, Viện trưởng các viện nghiên cứu.
Quản lý giáo dục có tính chất xã hội cao bởi vì luôn luôn trong nó
cần phải được tập trung giải quyết các vấn đề có tính thời sự như: Kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng để phục vụ tốt cho công
tác giáo dục.
- Khách thể quản lý giáo dục là đội ngũ giáo viên, sinh viên và học
viên, có thể nói trong giáo dục và đào tạo thì đây là đối tượng khách thể
quan trọng nhất nhưng đồng thời ở một lĩnh vực nào đó đội ngũ này cũng là
chủ thể quản lý trực tiếp quản lý quá trình giáo dục. Khách thể quản lý là
những con người cụ thể, trong họ có rất nhiều mối quan hệ đan xen, phức
tạp, đa dạng mà người quản lý phải đối phó, xử lý khi thực hiện chức năng
quản lý của mình. Vì vậy người quản lý phải biết biến các mối quan hệ trên
trở thành các yếu tố tích cực tạo nên môi trường thuận lợi nhất để hướng tới
hoàn thành mục tiêu chung.
Như vậy quản lý giáo dục là sự tác động có định hướng, có mục đích
vào khách thể quản lý. Đó là việc tổ chức, định hướng và duy trì các hoạt
động giáo dục nhằm làm cho bộ máy, cho cá nhân và tổ chức các cán bộ
giảng viên và tập thể nhà trường, sinh viên và cả cộng đồng xã hội thực
hiện đầy đủ đúng đắn những đường lối, chủ trương và quan điểm giáo dục
của Đảng. Với phương pháp quản lý nghệ thuật, người quản lý giáo dục
phải biết tổ chức các hoạt động giáo dục đi đến mục đích bằng nhiều cách,

ứng xử các tình huống trong quản lý giáo dục một cách linh hoạt mau lẹ và
tinh tế, biết tìm ra phương án tối ưu, biết cách huy động mọi lực lượng cả
về vật chất và tinh thần.
Quản lý giáo dục là một hoạt động khó khăn, phức tạp bởi vì sản
phẩm giáo dục là “con người”. Do vậy người cán bộ quản lý giáo dục cần


phải có nhân cách quản lý vì con người, cho con người và xuất phát từ con
người. Quản lý giáo dục trong giai đoạn cách mạng hiện nay, khi mà đất
nước chúng ta đang tiến hành tiến trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa.
Khái quát về vấn đề quản lý giáo dục Khuđôninski, trong cuốn
“Quản lý giáo dục quốc dân ở địa bàn huyện, quận” đã viết: “Quản lý
khoa học hệ thống giáo dục có thể xác định nhƣ là tác động có hệ
thống, có kế hoạch, có ý thức và hƣớng đích của chủ thể quản lý ở các
cấp khác nhau đến tất cả các mắt xích của hệ thống (từ Bộ đến các
Trƣờng, các cơ sở giáo dục khác ) nhằm mục đích bảo đảm việc giáo
dục- Xã hội chủ nghĩa cho thể hệ trẻ, trên cơ sở nhận thức và vận dụng
những quy luật chung của quá trình giáo dục, của sự phát triển thể lực
và tâm lý của trẻ em, thiếu niên và thanh niên”.
1.3.2 Quản lý nhà trường
Nhà trường là đối tượng cơ bản nhất của quản lý giáo dục trong đó
đội ngũ giáo viên và sinh viên là đối tượng quản lý và cũng là chủ thể trực
tiếp quản lý quá trình giáo dục. Thực chất của quản lý giáo dục xét cho
cùng là tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động của nhà trường được vận
hành theo đúng mục tiêu. Trường học là những tế bào quan trọng của hệ
thống giáo dục, mà những tế bào này hoạt động có tốt thì hệ thống giáo dục
mới thực hiện được đúng mục tiêu mà xã hội giao phó.
Vì vậy quản lý nhà trường có thể coi như một bộ phận không thể
thiếu của quản lý giáo dục.
Quản lý nhà trường là quá trình thực hiện đường lối giáo dục của

Đảng trong phạm vi quyển hạn và trách nhiệm của mình tức là phải đưa
nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục.
Quản lý nhà trường chính là quản lý giáo dục nhưng trong một phạm
vi xác định của một đơn vị giáo dục nền tảng đó là nhà trường. Vì thế quản
lý nhà trường phải vận dụng tất cả các nguyên lý chung của quản lý giáo
dục để đẩy mạnh mọi hoạt động củ nhà trường theo mục tiêu đào tạo.


Tóm lại bản chất của quản lý nhà trường là quản lý mọi hoạt động
dạy và hoạt động học làm sao để đưa hoạt động đó từ trạng thái này sang
trạng thái khác để dần dần tiến tới mục tiêu giáo dục. Một nhà trường có tổ
chức dạy và học tốt là nhà trường đã cụ thể hóa được đường lối chủ trương
của Đảng và Nhà nước Việt Nam thành hiện thực, đáp ứng được nhu cầu
học tập suốt đời của nhân dân. Tạo mọi điều kiện để mọi người dân đều
được đến trường, đều có cơ hội học tập như nhau, học tập suốt đời.
Ở đây chúng tôi lấy định nghĩa về quản lý nhà trường của tác giả
Phạm Viết Vượng: “Quản lý trường học là lao động của các cơ quan quản
lý, nhằm tập hợp và tổ chức các lao động của giáo viên, học sinh sinh viên
và các lực lượng giáo dục khác, cũng như huy động tối đa các nguồn lực
giáo dục để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo trong nhà trường”.
Quản lý nhà trường về cơ bản khác với quản lý ở các lĩnh vực khác,
vì ở đây những tác động của chủ thể quản lý là những tác động của công
tác tổ chức sư phạm đến đối tượng quản lý nhằm giải quyết những nhiệm
vụ giáo dục của nhà trường. Đó là một hệ thống có tác động, có phương
hướng, có mục đích, có kế hoạch, có mối quan hệ qua lại lẫn nhau, phụ
thuộc vào nhau.
1.3.3. Quản lý hoạt động dạy và học
* Dạy học là quá trình tác động qua lại giữa người dạy và người học
nhằm giúp cho người học lĩnh hội những tri thức khoa học, kỹ năng hoạt
động nhận thức và thực tiễn, phát triển các năng lực hoạt động sáng tạo,

trên cơ sở đó hình thành thế giới quan và các phẩm chất nhân cách của
người học theo mục tiêu giáo dục.
* Hoạt động dạy học: là hoạt động mà trong đó dưới sự tổ chức, điều
khiển, lãnh đạo của người dạy làm cho người học tự giác, tích cực, chủ
động tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động nhận thức - học tập của mình
nhằm thực hiện những nhiệm vụ dạy học.
Trong nhà trường, hoạt động dạy học nhằm thực hiện mục tiêu giáo
dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri


thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm
chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ tổ quốc. (Điều 2 Luật Giáo dục 2005) [31].
Hoạt động dạy học chiếm hầu hết thời gian trong các hoạt động giáo
dục, nó chi phối các hoạt động khác trong nhà trường. Trong hoạt động dạy
học thầy và trò là hai yếu tố chính, ngoài ra những yếu tố khác như cơ sở
vật chất của nhà trường, thông tin phục vụ dạy học và các lực lượng xã hội
trong và ngoài trường cũng ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động dạy học.
Muốn hoạt động dạy học đạt hiệu quả phải tác động quản lý đến tất
cả các yếu tố trên.
Vậy quản lý hoạt động dạy học trong nhà trường là hệ thống những
tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của cán bộ quản lý tới các
yếu tố tác động đến hoạt động dạy học nhằm làm cho quá trình dạy học vận
hành theo đường lối giáo dục của Đảng, thực hiện được mục tiêu đào tạo
đặt ra cho nhà trường. Chính vì vậy, khi nói đến quản lý hoạt động dạy và
học, người ta thường nói ngay tới các biện pháp quản lý hoạt động đó như
thế nào.
Theo định nghĩa triết học ngắn gọn thì: “Biện pháp là con đường
chuyển tải nội dung”. Như vậy, nội dung là thành tố có trước chi phối quyết

định việc lựa chọn biện pháp.
Theo từ điển tiếng Việt của Minh Tâm (Nxb TH 1998) thì biện pháp
là cách làm, cách giải quyết một vấn đề cụ thể.
Theo từ điển học sinh (Nxb GD 1971): Biện pháp là cách làm, cách
giải quyết cụ thể một vấn đề căn cứ vào những phương pháp nào đó.
Như vậy, khái niệm biện pháp có thể được hiểu một cách khái quát là
cách làm, cách giải quyết một vấn đề cụ thể có căn cứ vào phương pháp để
đạt được mục tiêu đã xác định. Biện pháp có quan hệ chặt chẽ với phương
pháp. Phương pháp thường mang tính định hướng, biện pháp thường có

×