1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
NGUYỄN VIỆT HÙNG
BIỆN PHÁP QUẢN LÝ ĐÀO TẠO HỆ BẰNG
KÉP
TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ,
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
HÀ NỘI - 2013
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
NGUYỄN VIỆT HÙNG
BIỆN PHÁP QUẢN LÝ ĐÀO TẠO HỆ BẰNG
KÉP
TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ,
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
CHUYÊN NGÀNH : QUẢN LÝ GIÁO DỤC
MÃ SỐ : 60.14.05
Người hướng dẫn khoa học: TS. Đặng Văn Cúc
HÀ NỘI - 2013
4
KÝ HIỆU VIẾT TẮT DÙNG TRONG LUẬN VĂN
GV
giảng viên
SV
sinh viên
ĐHNN
Đại học Ngoại ngữ
ĐHQGHN
Đại học Quốc gia Hà Nội
TBDH
thiết bị dạy học
QLGD
quản lý giáo dục
CTĐT
chƣơng trình đào tạo
CBVC
cán bộ viên chức
5
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Sơ đồ 1.1. Mối quan hệ giữa các chức năng quản lí 10
Sơ đồ 1.2. Mối quan hệ giữa các hoạt động quản lí 13
Bảng 2.1. Quy mô đào tạo hệ chính quy 34
Bảng 2.2. Quy mô đào tạo hệ không chính quy 35
Bảng 2.3. Quy mô đào tạo liên kết quốc tế 36
Bảng 2.4. Thông tin về đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý và nhân viên
phục vụ của cơ sở giáo dục đại học (Năm học 2012 – 2013) 37
Bảng 2.5. Thực trạng cơ sở vật chất của cơ sở giáo dục đại học
(Năm học 2012 – 2013) 41
Bảng 2.6. Quản lý mục tiêu, nội dung đào tạo hệ bằng kép 56
Bảng 2.7. Quản lý chương trình đào tạo hệ bằng kép 58
Bảng 2.8. Quản lý việc thực hiện các văn bản pháp quy 60
Bảng 2.10. Quản lý hệ thống tài liệu, giáo trình 61
Bảng 2.11. Quản lý kiểm tra, đánh giá hệ đào tạo bằng kép 62
Bảng 2.12. Quản lý hoạt động giảng dạy của giảng viên 64
Bảng 2.13. Thực hiện các hoạt động trên lớp của sinh viên hệ bằng kép 67
Bảng 2.14. Kết quả điều tra thực trạng tự học của sinh viên 68
Bảng 3.1. Tổng hợp kết quả khảo nghiệm tính cấp thiết của các biện pháp 96
Bảng 3.2. Tổng hợp kết quả khảo nghiệm và tính khả thi của các biện pháp 96
6
MỤC LỤC
Trang
Mở đầu 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục đích nghiên cứu 3
3. Nhiệm vụ nghiên cứu 3
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 3
5. Giả thuyết nghiên cứu 3
6. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu 4
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 4
8. Phương pháp nghiên cứu 4
9. Cấu trúc luận văn 5
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ ĐÀO TẠO HỆ
BẰNG KÉP TẠI TRƢỜNG ĐẠI HỌC 6
1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề 6
1.1.1. Nước ngoài 6
1.1.2. Trong nước 6
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài 7
1.2.1. Quản lý 7
1.2.2. Quản lí giáo dục 13
1.2.3. Biện pháp quản lý 17
1.2.5. Đào tạo 17
1.2.6. Đào tạo đại học 17
1.2.7. Đào tạo đại học hệ bằng kép 18
1.3. Các đặc điểm của đào tạo bằng kép ở trường Đại học Ngoại ngữ -
ĐHQGHN 18
1.3.1. Mục tiêu đào tạo 18
1.3.2. Chương trình đào tạo hệ bằng kép 18
1.4. Nội dung quản lý đào tạo hệ bằng kép tại trường Đại học Ngoại ngữ -
7
ĐHQGHN 21
1.4.1. Xác định nhu cầu đào tạo bằng kép 21
1.4.2. Xây dựng các kế hoạch 22
1.4.3. Tổ chức thực hiện kế hoạch đào tạo 23
1.4.4. Kiểm tra đánh giá 23
1.5. Hình thức, phương pháp đào tạo hệ bằng kép 27
1.6. Một số yếu tố ảnh hưởng tới quản lý đào tạo hệ bằng kép 28
Tiểu kết chương 1 29
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO HỆ BẰNG KÉP
TẠI TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ - ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI 30
2.1. Vài nét khái quát về Trường Đại học Ngoại ngữ - ĐHQGHN 30
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển 30
2.1.2. Sứ mạng và mục tiêu 33
2.1.3. Loại hình, quy mô đào tạo 35
2.1.4. Đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý 38
2.1.5. Nghiên cứu khoa học 40
2.1.6. Cơ sở vật chất phục vụ dạy học 41
2.1.7. Khái quát và đánh giá chung về công tác đào tạo đại học bằng kép
của Trường Đại học Ngoại ngữ - ĐHQGHN 43
2.2. Thực trạng đào tạo hệ bằng kép tại Trường Đại học Ngoại ngữ -
ĐHQGHN 47
2.2.1. Đổi mới về tổ chức, quản lí theo hướng quản trị đại học, xây dựng
văn hóa chất lượng 47
2.2.2. Phát triển đội ngũ cán bộ giảng dạy, nghiên cứu và quản lí 48
2.2.3. Hoàn thiện cơ cấu tổ chức theo định hướng đào tạo và nghiên cứu
chất lượng cao 49
2.2.4. Nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác đào tạo hệ bằng kép 49
2.2.5. Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác NCKH 51
2.2.6. Quản lí và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính, hiện đại hoá
cơ sở vật chất 52
2.2.7. Tăng cường chất lượng và hiệu quả công tác hợp tác quốc tế 53
8
2.3. Thực trạng quản lý đào tạo hệ bằng kép tại Trường Đại học Ngoại ngữ -
ĐHQGHN 54
2.3.1. Thực trạng lĩnh vực tổ chức quản lý hệ bằng kép 55
2.3.2. Thực trạng quản lý hoạt động giảng dạy và học tập hệ đào tạo bằng kép 63
Tiểu kết chương 2 69
Chƣơng 3. BIỆN PHÁP QUẢN LÝ ĐÀO TẠO HỆ BẰNG KÉP
TẠI TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ - ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI 71
3.1. Nguyên tắc đề xuất biện pháp quản lý hệ đào tạo bằng kép 71
3.1.1. Nguyên tắc tính hệ thống 71
3.1.2. Nguyên tắc tính thực tiễn 71
3.1.3. Nguyên tắc tính hiệu quả 72
3.2. Biện pháp quản lý hệ đào tạo bằng kép của trường ĐHNN-ĐHQGHN 72
3.2.1. Tăng cường quản lý việc thực hiện chương trình, lịch trình, kế hoạch
đào tạo, thời khóa biểu, khối lượng giờ dạy 72
3.2.2. Nâng cao nhận thức, xây dựng động cơ và thái độ học tập đúng đắn
cho sinh viên đối với hoạt động tự học 74
3.2.3. Đổi mới phương pháp giảng dạy của GV 79
3.2.4. Tăng cường quản lý đẩy mạnh một số hoạt động nâng cao chất lượng
đội ngũ GV 80
3.2.5. Chỉ đạo đổi mới công tác kiểm tra, đánh giá hoạt động giảng dạy
của giảng viên và kết quả học tập của sinh viên 86
3.2.6. Tăng cường trang bị và quản lý hiệu quả việc sử dụng thiết bị dạy học 89
3.3. Khảo sát mức độ cần thiết và khả thi của biện pháp 93
Tiểu kết chương 3 95
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 96
1. Kết luận 96
2. Khuyến nghị 97
TÀI LIỆU THAM KHẢO 98
PHỤ LỤC
9
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bước vào kỷ nguyên của thế kỷ XXI – thế kỷ của sự phát triển khoa
học, công nghệ và sự toàn cầu hoá một cách rất mãnh liệt đã đặt ra cho thế hệ
trẻ nói chung trên toàn thế giới, cũng như tại Việt Nam không còn thái độ thụ
động trong việc chọn một ngành nghề ổn định sau khi tốt nghiệp. Cuộc sống
xã hội trong nền kinh tế thị trường đã buộc mỗi người học ngay từ khi còn
học phổ thông, cũng như khi quyết định lựa chọn trường dự thi tuyển và cả
khi đã theo học, cũng như sau khi đã tốt nghiệp luôn luôn không bằng lòng
với một ngành đã lựa chọn, người học thực sự phải linh hoạt tìm mọi cách có
thể theo học ít nhất một chuyên ngành khác để tăng khả năng thay đổi được
nghề nghiệp cho phù hợp với nhu cầu đòi hỏi khắt khe, nhưng đồng thời rất
cập nhật của thị trường lao động.
SV hiện nay và trong tương lai để kiếm được việc làm thuận lợi không
thể chỉ tốt nghiệp một chuyên ngành. Điều này càng bức xúc đối với SV các
trường đại học chuyên ngoại ngữ nói riêng, vì ngoại ngữ đã được coi là
phương tiện phổ cập bắt buộc đối với mọi cử nhân trong một tương lai gần
khi điều kiện hội nhập khu vực và quốc tế đã chín muồi như hiện nay. Thực
tế, rất nhiều SV các trường ngoại ngữ trong cả nước đã chủ động theo học
thêm một chuyên ngành khác dựa vào các điều kiện cho phép trong các Quy
chế của Bộ và các trường, nhằm mục đích thích nghi được với thị trường lao
động của xã hội sau khi tốt nghiệp.
Hiện nay các trường thành viên của ĐHQGHN đều xây dựng chiến
lược phát triển theo sự định hướng chung của ĐHQGHN - đào tạo chính quy
đa ngành, đa lĩnh vực, chất lượng cao. Điều này buộc mỗi trường thành viên
phải có sự thay đổi chiến lược đào tạo nhằm phù hợp với sự phát triển đào tạo
của trường và tiếp tục khẳng định vị trí đầu ngành về đào tạo nhân lực ngoại
ngữ tại Việt Nam.
10
Hiện nay nhiều SV ngoại ngữ của các thứ tiếng còn chưa an tâm với
con đường chính quy phía trước - chỉ có một chuyên ngành ngoại ngữ, nên
nhiều SV đã, đang theo học văn bằng hai trong điều kiện học giỏi hay theo
học tại các hệ đào tạo chuyên ngành khác như tại chức, chuyên tu Nói
chung, dù học ở hệ nào các SV cũng gặp nhiều khó khăn về thời gian học tập,
khối lượng chuyên môn, chuyên cần, tài chính, sức khoẻ do sự phát triển
này chỉ mang tính tự giác cá nhân SV mà thôi, còn thực tế các trường chưa có
một chiến lược cụ thể để giúp SV thực hiện được nguyện vọng chính đáng
này một cách hữu hiệu nhất.
Hiện nay theo thống kê cho thấy số lượng SV tiếng Anh do trường
ĐHNN-ĐHQGHN đào tạo rất thấp so với nhu cầu đòi hỏi thực tế của thứ
tiếng này ở phổ thông và trong xã hội. Đề án đào tạo hai bằng sẽ giúp giải
quyết thực tế thiếu hụt trầm trọng GV tiếng Anh có chất lượng bảo đảm ở phổ
thông như hiện nay (cử nhân tiếng Anh hệ chính quy).
Việc đào tạo cử nhân hai bằng đã được triển khai ở nhiều nước trên thế
giới. Tuy về nội dung và hình thức có khác nhau, nhưng cùng chung một mục
đích cuối cùng là đào tạo ra các cử nhân có hai chuyên ngành hệ chính quy
trong một thời lượng liên tục của một khoá đào tạo chung nhất định.
Chính vì vậy, nghiên cứu các biện pháp quản lý đối với hệ đào tạo
bằng kép sao cho công tác tổ chức quản lý đạt hiệu quả cao nhất, góp phần
nâng cao chất lượng đào tạo hệ đại học là vấn đề được Đảng uỷ, Ban Giám
hiệu Trường Đại học Ngoại ngữ - ĐHQGHN đặc biệt quan tâm.
Với những lý do nêu trên, tôi đã chọn đề tài “biện pháp quản lý đào
tạo hệ bằng kép tại Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội”
làm vấn đề nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quản lý giáo dục.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về hệ đào tạo bằng kép Trường Đại học
Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội, tìm hiểu và đề xuất các biện pháp quản
lý đào tạo hệ bằng kép nhằm nâng cao chất lượng đào tạo.
11
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện các mục đích đề ra, luận văn tập trung triển khai các
nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý đào tạo hệ bằng kép tại trường Đại học.
- Khảo sát đánh giá thực trạng quản lý đào tạo hệ bằng kép của Trường
Đại học Ngoại ngữ - ĐHQGHN.
- Đề xuất những biện pháp quản lý đào tạo hệ bằng kép của Trường Đại
học Ngoại ngữ - ĐHQGHN.
4. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu: Đào tạo hệ bằng kép của Trường Đại học Ngoại
ngữ - ĐHQGHN.
4.2. Đối tượng nghiên cứu: Quản lý đào tạo hệ bằng kép của Trường Đại học
Ngoại ngữ - ĐHQGHN.
5. Giả thuyết nghiên cứu
Chất lượng đào tạo đại học bằng kép của Trường Đại học Ngoại ngữ -
ĐHQGHN muốn đạt được kết quả tốt cần chú trọng công tác quản lý. Chất
lượng đào tạo sẽ được nâng lên, góp phần không nhỏ vào việc đạt mục tiêu
giáo dục hệ đào tạo bằng kép của nhà trường nếu có sự nghiên cứu đổi mới,
hoàn thiện những biện pháp quản lý.
6. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu
- Đề tài tập trung nghiên cứu về quản lý đào tạo hệ bằng kép giữa
trường ĐH Kinh tế - ĐHQGHN và trường ĐH Ngoại ngữ - ĐHQGHN.
- Số liệu khảo sát khoá QH.2008.F.10.E (2008 - 2011) và
QH.2009.F.10.E (2009 - 2012) ngành Tiếng Anh - Tài chính Ngân hàng.
- Trong khảo sát thực tế và đề xuất biện pháp luận văn sẽ tập trung vào
quản lý đào tạo bằng kép đảm bảo chất lượng cơ bản và ảnh hưởng trực tiếp đến
công tác đào tạo hệ bằng kép như: Tổ chức và quản lý, Giảng dạy và học tập, Cơ
sở vật chất.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
12
7.1. Ý nghĩa khoa học: Luận văn góp phần làm sáng tỏ các vấn đề về quản lý
đào tạo hệ bằng kép.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn đưa ra một số biện pháp có thể áp dụng để
triển khai quản lý đào tạo hệ bằng kép nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và
góp phần đảm bảo mục tiêu giữ vững vị thế trường đầu ngành ngoại ngữ của
Trường Đại học Ngoại ngữ, phát huy sự kết hợp đào tạo giữa các trường
thành viên, phát huy sức mạnh của Đại học Quốc Gia Hà Nội.
8. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ nghiên cứu đề ra cho luận văn,
chúng tôi tập trung sử dụng một số phương pháp sau:
- Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận: Tham khảo, phân tích tài
liệu, sách, báo có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
- Nhóm phương pháp thực tiễn: khảo sát, điều tra, thống kê toán học,
phân tích số liệu, lấy ý kiến chuyên gia, phỏng vấn sâu, tổng hợp, phân tích.
9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, mục lục, tài liệu tham khảo
và phụ lục, luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận của quản lý đào tạo hệ bằng kép ở trường
Đại học.
Chƣơng 2: Thực trạng quản lý đào tạo hệ bằng kép tại trường Đại học
Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Chƣơng 3: Biện pháp quản lý đào tạo hệ bằng kép tại trường Đại học
Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội.
13
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ ĐÀO TẠO HỆ BẰNG KÉP
TẠI TRƢỜNG ĐẠI HỌC
1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Nước ngoài
Việc đào tạo cử nhân hai bằng đã được triển khai ở nhiều nước trên thế
giới. Tuy về nội dung và hình thức có khác nhau, nhưng cùng chung một mục
đích cuối cùng là đào tạo ra các cử nhân có hai chuyên ngành hệ chính quy
trong một thời lượng liên tục của một khoá đào tạo chung nhất định. Xin đưa
ra một số mô hình đang hoạt động cụ thể:
- Tại Úc và Mỹ: Đào tạo và cấp bằng kép: Combined/Doubled.
- Tại Singapor: Có hệ đào tạo cấp hai bằng Double-degree.
(Theo “Singapore 2003/2004. Education guide”)
- Tại Mỹ: Đào tạo liên tục và cấp hai bằng: Ví dụ tại University of
Rhode Island đào tạo 01 bằng kỹ thuật và 01 bằng tiếng Đức.
- Tại Nga: Đào tạo bằng kép 2 chuyên ngành: Диплом двух
специальностей.
1.1.2. Trong nước
Hiện tại ở Việt Nam loại hệ đào tạo 2 chuyên ngành cũng đã được triển
khai. Tuy vậy về mặt hình thức và nội dung cũng rất đa dạng. Có hai khuynh
hướng tồn tại:
+ Các SV chủ động dựa vào Quy chế của Bộ và Trường cụ thể để có
thể làm đơn xin được xét theo học các khoá văn bằng hai chính quy.
+ Các trường chủ động mở hệ đào tạo cử nhân hai chuyên ngành cho
SV ngay từ khi thông báo tuyển sinh đại học. Hiện mới có 02 trường bắt đầu
trong lĩnh vực lập Đề án và bắt đầu triển khai hệ đào tạo này là trường Đại
học Ngoại ngữ thuộc Đại học Đà Nẵng và trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội.
Trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội với mô hình đào tạo bằng kép 2 chuyên
14
ngành tiếng, còn trường Đại học Ngoại ngữ thuộc trường Đại học Đà Nẵng
với mô hình 2 bằng chuyên ngành tiếng
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Quản lý
* Khái niệm quản lý
Như chúng ta đã biết, từ khi xã hội loài người xuất hiện bắt đầu hình
thành các nhóm người, để thực hiện các mục tiêu mà họ không thể đạt được
với tư cách là một cá nhân riêng lẻ, thì quản lí xuất hiện như một yếu tố cần
thiết để phối hợp nỗ lực cá nhân hướng tới những mục tiêu chung. Xã hội
ngày càng phát triển, quản lí có vai trò quan trọng trong việc điều khiển các
hoạt động xã hội. Xã hội loài người đã trải qua nhiều phương thức sản xuất
khác nhau, phương thức sản xuất sau tiến bộ hơn phương thức sản xuất trước,
kéo theo đó là trình độ tổ chức quản lí ngày càng cao làm cho năng suất lao
động ngày càng tăng cùng với sự tiến bộ trong lĩnh vực đời sống xã hội trong
đó có lĩnh vực giáo dục và đào tạo.
Quản lí là khái niệm đang có những ý kiến khác nhau. Tuy nhiên, ở góc
độ quản lí với tư cách là một chức năng xã hội dưới dạng chung nhất thì quản
lí được xác định là cơ chế để thực hiện sự tác động có mục đích nhằm đạt
được những kết quả nhất định. Đề cập đến hoạt động quản lí, người ta thường
nhắc đến ý tưởng sâu sắc của Karl Marx: “Một nghệ sĩ vỹ cầm thì tự điều
khiển mình còn dàn nhạc thì cần nhạc trưởng” [22].
K.Marx coi việc xuất hiện của quản lí như một dạng hoạt động đặc thù
của con người được gắn liền với sự phân công và hợp tác lao động; QL là kết
quả tất yếu của sự chuyển những quá trình lao động cá biệt, tản mạn, độc lập
với nhau thành một quá trình lao động xã hội được tổ chức lại: “Trong tất cả
những công việc mà có nhiều người hợp tác với nhau thì mối liên hệ chung và
sự thống nhất của quá trình tất phải biểu hiện ra ở trong một ý chí điều khiển
và trong những chức năng không có quan hệ với những công việc bộ phận,
mà quan hệ với toàn bộ hoạt động của công xưởng, cũng giống như trường
15
hợp nhạc trưởng của một dàn nhạc vậy. Đó là một thứ lao động sản xuất cần
phải được tiến hành trong một phương thức sản xuất có tính chất kết hợp”
[12].
Theo Frederick, W.Taylo (1856-1915) người Mỹ được coi là “cha đẻ
của Thuyết quản lí khoa học”, là một trong những người mở ra “Kỷ nguyên
vàng” trong quản lí đã thể hiện tư tưởng cốt lõi của mình trong quản lí là
“Mỗi loại công việc dù nhỏ nhất đều phải chuyên môn hóa và đều phải quản lí
chặt chẽ”. Ông cho rằng “Quản lí là biết được chính xác điều bạn muốn người
khác làm và sau đó hiểu được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt
nhất, rẻ nhất” [22].
Theo quan điểm của lí thuyết hệ thống, quản lí là “Phương thức tác
động có chủ đích, có kế hoạch của chủ thể quản lí lên hệ thống, bao gồm hệ
thống các quy tắc, các ràng buộc về hành vi đối với mọi đối tượng ở các cấp
trong hệ thống nhằm duy trì tính trội hợp lí của cơ cấu và đưa hệ thống sớm
đạt được những mục tiêu dự kiến” [22].
Theo các nhà nghiên cứu quản lí XHCN thì quản lí là: “đảm bảo tối đa
sự phù hợp của nhân tố chủ quan hoạt động tự giác của quần chúng nhân dân
với những yêu cầu của các qui luật khách quan của sự phát triển xã hội”
[23]. Đây là quan niệm quản lí theo nghĩa rộng. Quan niệm này đã nhấn
mạnh cả yếu tố con người và yếu tố khoa học (tức là nắm vững và hành
động phù hợp với qui luật khách quan) của quản lí. Ở Việt Nam, các nhà
nghiên cứu về khoa học quản lí cũng bàn nhiều về khái niệm quản lí.
Tác giả Nguyễn Văn Lê viết “Quản lý là một hệ thống xã hội, là khoa
học và nghệ thuật tác động vào từng thành tố của hệ thống bằng những
phương pháp thích hợp, nhằm đạt các mục tiêu đề ra cho hệ và từng thành tố
của hệ" [23].
Như vậy, cần hiểu khái niệm quản lí bao hàm những khía cạnh sau:
16
- Đối tượng tác động của quản lí là một hệ thống hoàn chỉnh giống như
một cơ thể sống. Nó được cấu tạo liên kết hữu cơ từ nhiều yếu tố theo một quy
luật nhất định. Ví dụ: Một nhà trường, một bệnh viện, một doanh nghiệp…
- Hệ thống quản lí gồm có sự liên kết hữu cơ giữa chủ thể quản lí và
chủ thể bị quản lí.
Tác động quản lí thường mang tính chất tổng hợp, hệ thống tác động
quản lí gồm nhiều giải pháp khác nhau thường thể hiện dưới dạng tổng hợp
của một cơ chế quản lí.
Cơ sở của quản lí là các qui luật khách quan và điều kiện thực tiễn của
môi trường. Mục tiêu cuối cùng của quản lí là tạo ra, tăng thêm và bảo vệ lợi
ích cho con người. Mọi giải pháp quản lí đều không có hiệu quả nếu không
chú ý đến con người.
Tóm lại, quản lí là sự tác động có ý thức nhằm điều khiển, hướng dẫn
các quá trình xã hội, những hành vi hoạt động của con người, huy động tối đa
các nguồn lực khác nhau để đạt tới mục đích theo ý chí của nhà quản lí và phù
hợp với quy luật khách quan. Người quản lí tiến hành nhiều hoạt động khác
nhau. Nghiên cứu những hoạt động này người ta cố gắng tách riêng từng hoạt
động ra, dựa trên tính tương đối độc lập của mỗi hoạt động. Mỗi hoạt động
tương đối độc lập được tách ra trong hoạt động quản lí gọi là chức năng quản
lí. Trong quá trình quản lí cần phải đáp ứng ba yêu cầu cơ bản là tính quy
hoạch, tính khả thi và tính định lượng và phải thực hiện theo các chức năng:
Lập kế hoạch, Tổ chức, Chỉ đạo, Kiểm tra, trong đó thông tin có thể coi là
“mạch máu” của quản lí. Các chức năng trên có mối quan hệ qua lại khăng
khít với nhau.
Mối quan hệ giữa chức năng quản lý và hệ thống thông tin được biểu
diễn bằng chu trình quản lý sau:
Kế hoạch
Thông tin
Tổ chức
Kiểm tra
17
Sơ đồ 1.1. Mối quan hệ giữa các chức năng quản lí
* Chức năng của quản lý
a. Chức năng kế hoạch hoá
Peter Drucker, một trong những chuyên gia quản lý hàng đầu đương đại
đã đề xuất tiêu chuẩn về tính hiệu nghiệm (tức là khả năng làm những việc
"đúng") và tính hiệu quả (tức là khả năng làm đúng việc). Ông cho rằng tính
hiệu nghiệm là quan trọng hơn, bởi vẫn có thể đạt được hiệu quả khi chọn sai
mục tiêu. Hai tiêu chuẩn này song hành cùng với hai khía cạnh của kế hoạch:
xác định những mục tiêu "đúng" và lựa chọn những giải pháp "đúng" để đạt
các mục tiêu này. Cả hai khía cạnh đó đều có ý nghĩa sống còn đối với quá
trình quản lý.
Để phản ánh bản chất của khái niệm chức năng kế hoạch hoá, chúng
ta có thể định nghĩa như sau: Chức năng kế hoạch hoá là quá trình xác định
mục tiêu và quyết định những giải pháp tốt nhất để thực hiện mục tiêu đó.
Như vậy: Thực chất của kế hoạch hoá là đưa toàn bộ những hoạt động
vào công tác kế hoạch hoá với mục đích, giải pháp rõ ràng, bước đi cụ thế và
ấn định tường minh các điều kiện cung ứng cho việc thực hiện mục tiêu.
Nhiều lý thuyết gia quản lý cho rằng, kế hoạch là cái khởi nguyên của
mọi hoạt động, mọi chức năng quản lý khác. Họ ví: Kế hoạch như một chiếc
đầu tầu kéo theo các toa "tổ chức", "chỉ đạo", "kiểm tra". Như vậy, người
quản lý, nếu không có kế hoạch thì không biết phải tổ chức nhân lực và các
nguồn nhân lực khác như thế nào, thậm chí họ còn không rõ phải tổ chức cái
18
gì nữa. Không có kế hoạch, người quản lý không thế chỉ dẫn, lãnh đạo người
thuộc quyền hành động một cách chắc chắn với những kỳ vọng đặt vào kết
quá mong đạt tới.
Cũng vậy, không có kế hoạch thì cũng không xác định định được tổ
chức hướng tới đúng hay chệch mục tiêu, không biết khi nào đạt được mục
tiêu và sự kiểm tra trở thành vô căn cứ.
Kế hoạch hoá là một chức năng quan trọng của quá trình quản lý vì trên
cơ sở phân tích các thông tin quản lý, căn cứ vào những tiềm năng đã có và
những khả năng sẽ có mà xác định rõ hệ thống mục tiêu, nội dung hoạt động,
các giải pháp cần thiết để chỉ rõ trạng thái mong muốn của đối tượng khi kết
thúc các hoạt động.
Kế hoạch hoá có vai trò to lớn như vậy bởi bản thân nó có những chức
năng cơ bản cụ thể sau:
* Chức năng chẩn đoán: Bao gồm việc xác định trạng thái xuất phát và
những phân tích về trạng thái đó.
* Chức năng dự báo: Bao gồm việc xác định nhu cầu và các mục tiêu
để suy ra những hướng phát triển cơ bản, trong đó có tính tới nhu cầu bên
ngoài và bên trong. Lựa chọn những hướng ưu tiên, dự kiến những mục tiêu
cần đạt và các tiêu chuẩn đánh giá.
* Chức năng dự đoán: Bao gồm việc phát hiện các phương án chọn lựa
có tính đến tiềm năng của nguồn lực dự trữ và những mong muốn chủ quan.
b. Chức năng tổ chức
Bamard định nghĩa tổ chức như là “hệ thống các hoạt động hay tác
động có ý thức của hai hay nhiều người". Cuốn “Cơ sở khoa học của quản lý"
đã xác định: “Tổ chức là hoạt động hướng tới hình thành cấu trúc tối ưu của
hệ thống quản lý và phối hợp tốt nhất giữa các hệ thống lãnh đạo và bị lãnh
đạo (chấp hành)"[16].
Nhờ chức năng tổ chức mà hệ thống quản lý trở nên có hiệu quả, cho
phép các cá nhân góp phần tốt nhất vào mục tiêu chung. Tổ chức được coi là
19
điều kiện của quản lý, đúng như V.I. Lê-Nin đã khẳng định: “Chúng ta phải
hiểu rằng muốn quản lý tốt - còn phải biết tổ chức về mặt thực tiễn nữa". Thực
chất của tổ chức là thiết lập mối quan hệ bền vững giữa con người, giữa các bộ
phận trong hệ thống quản lý. Tổ chức tốt sẽ khơi nguồn các động lực, tổ chức
không tốt sẽ làm triệt tiêu động lực và giảm sút hiệu quả quản lý.
c. Chức năng chỉ đạo
Chỉ đạo là quá trình tác động ảnh hưởng của chủ thể quản lý đến hành
vi và thái độ của những người khác nhằm đạt các mục tiêu đã đề ra. Chỉ đạo
thể hiện quá trình ảnh hướng qua lại giữa chủ thể quản lý và mọi thành viên
trong tổ chức nhằm góp phần thực hiện hoá các mục tiêu đã đặt ra.
Chức năng chỉ đạo, xét cho cùng là sự tác động lên con người, khơi dậy
động lực của nhân tố con người trong hệ thống quản lý, thể hiện mối quan hệ
giữa con người với con người và quá trình giải quyết những mối quan hệ đó
do họ tự nguyện và nhiệt tình phấn đấu.
d. Chức năng kiểm tra
Sau khi xác định các mục tiêu, quyết định những giải pháp tốt nhất để
đạt tới các mục tiêu và triển khai các chức năng tổ chức, chỉ đạo để hiện thực
hoá các mục tiêu đó cần phải tiến hành những hoạt động kiểm tra để xem xét
việc triển khai các quyết định trong thực tiễn, từ đó có những điều chỉnh cần
thiết trong các hoạt động để góp phần đạt tới mục tiêu đã xác định.
Như vậy, kiểm tra có vị trí quan trọng trong việc đổi mới công tác quản
lý như: đổi mới công tác kế hoạch hoá, công tác tổ chức, chỉ đạo cũng như đối
với cơ chế quản lý, phương pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng và hiệu
quả quản lý.
Tóm lại:
Sự phân công và chuyên môn hoá trong hoạt động quản lý đã hình
thành nên các chức năng quản lý. Đó là chức năng kế hoạch hoá, chức năng tổ
chức, chức năng chỉ đạo và chức năng kiểm tra.
20
Qua phân tích các chức năng quản lý, chúng ta thấy rằng các chức năng
này có mối quan hệ chặt chẽ tác động qua lại với nhau, chi phối lẫn nhau tạo
thành một thể thống nhất của hoạt động quản lý. Mối quan hệ đó, chúng tôi
thể hiện ở sơ đồ sau đây:
Sơ đồ 1.2. Mối quan hệ giữa các hoạt động quản lí
1.2.2. Quản lí giáo dục (QLGD)
Giáo dục: “Giáo dục là quá trình đào tạo con người một cách có mục đích,
nhằm chuẩn bị cho con người tham gia đời sống xã hội, tham gia lao động sản
xuất, nó được thực hiện bằng cách tổ chức việc truyền thụ và lĩnh hội những
kinh nghiệm lịch sử, xã hội của loài người” [27].
Mỗi xã hội, mỗi hoàn cảnh lịch sử cụ thể bao giờ cũng có một nền giáo
dục tương ứng, trong đó mục đích, nhiệm vụ, nội dung, phương pháp và hình
thức tổ chức giáo dục phản ánh quy định của hoàn cảnh lịch sử của toàn xã
hội đối với giáo dục. Những tinh hoa văn hóa của loài người, của dân tộc đều
được giáo dục chuyển tải tới thế hệ trẻ nhằm giúp họ khả năng tham gia mọi
hoạt động xã hội, góp phần cải tiến và phát triển xã hội. Chủ tịch Hồ Chí
Minh khi bàn về giáo dục đã chỉ rõ: “Không có giáo dục, không có cán bộ thì
KÕ ho¹ch
ho¸
ChØ ®¹o
KiÓm tra
Tæ chøc
21
không nói gì đến kinh tế, văn hóa” [25]. Giáo dục là một hoạt động xã hội
rộng lớn, có liên quan trực tiếp đến lợi ích, nghĩa vụ và quyền lợi của mọi
người dân, mọi tổ chức kinh tế xã hội, là động lực phát triển và là nhân tố
quyết định tương lai của mỗi quốc gia. Giáo dục có thể được xem như một hệ
thống có tính xã hội khi xuất phát từ nhiều góc độ khác nhau. Các nhà giáo
dục học quan niệm giáo dục như một hệ thống bao gồm các thành tố: Mục
tiêu giáo dục, nội dung, phương pháp, phương tiện, kết quả giáo dục.
Theo sơ đồ phân loại khoa học (Tam giác khoa học của B.MKêdrốp thì
quản lí giáo dục thuộc ngành khoa học xã hội). Do mỗi phương thức xã hội
đều có một cách quản lí khác nhau, cho nên khái niệm quản lí giáo dục đã ra
đời và hình thành nên từ nhiều quan niệm khác nhau.
Ở các nước TBCN, do vận dụng lí luận quản lí xí nghiệp vào quản lí cơ
sở giáo dục (trường học) nên quản lí giáo dục được coi như một loại (xí
nghiệp đặc biệt).
Ở các nước XHCN, do vận dụng quản lí xã hội vào QLGD nên QLGD
thường được xếp trong lĩnh vực quản lí văn hoá tư tuởng như A.Faraxep đã
phân chia trong cuốn sách kinh điển nổi tiếng của mình “Con người trong
quản lí xã hội” [1].
Như vậy, quản lí giáo dục được coi là bộ phận nằm trong lĩnh vực quản
lí văn hoá tinh thần.
Còn ở Việt Nam, QLGD cũng là một lĩnh vực đặc biệt quan tâm. Nghị
quyết hội nghị lần 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá 8 đã viết “QLGD
là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lí tới khách thể quản lí nhằm đưa ra
hoạt động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt tới kết quả mong muốn bằng
cách hiệu quả nhất” [6].
Theo tác giả Đỗ Hoàng Toàn “QLGD là tập hợp những biện pháp tổ
chức, phương pháp giáo dục, kế hoạch hoá tài chính, cung tiêu… nhằm đảm
bảo sự vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo dục, đảm
22
bảo sự tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống cả về mặt số lượng, cũng như
về chất lượng” [29].
Hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam là một chỉnh thể thống nhất, bao
gồm các bậc giáo dục cơ bản từ giáo dục Mầm non, tiểu học, THCS, THPT và
Đại học với nhiều loại hình đa dạng (chính quy, không chính quy; công lập,
ngoài công lập; nhà trường, ngoài nhà trường) trên cơ sở các bậc giáo dục cơ
bản theo trình độ giáo dục, có các phân hệ giáo dục theo mục tiêu, tính chất
và nội dung giáo dục xuyên suốt qua các bậc học như phân hệ giáo dục Mầm
non, giáo dục phổ thông, giáo dục kĩ thuật- nghề nghiệp, giáo dục Đại học.
QLGD: theo nghĩa tổng quát, quản lí giáo dục là sự tác động của chủ thể quản
lí đến các khách thể, đối tượng quản lí trong hoạt động công tác giáo dục.
QLGD còn được hiểu là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội
nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển của xã hội.
QLGD có thể coi là khâu then chốt nhằm đảm bảo thắng lợi mọi hoạt động
bởi thông qua quản lí Nhà nước về giáo dục mà việc thực hiện các chủ
trương, chính sách giá dục quốc gia, nâng cao hiệu quả đầu tư cho giáo dục,
chú ý thực hiện các mục tiêu giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục mới
được triển khai, thực hiện có hiệu quả. Cũng như đối với quản lí, có nhiều
quan niệm khác nhau về quản lí giáo dục. Tuỳ theo việc xác định đối tượng
quản lí mà QLGDcó nhiều cấp độ khác nhau ở cả tầm vĩ mô và ở tầm vi mô.
ở tầm vĩ mô, toàn quốc gia, người ta thường nói đến quản lí hệ thống giáo
dục, nên quản lí giáo dục được hiểu là sự tổ chức chỉ đạo, điều hành và kiểm
soát hệ thống giáo dục quốc dân, các trường trong hệ thống quốc dân nhằm
thực hiện mục tiêu: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Nhìn chung, các định nghĩa về QLGD được các tác giả nêu trên đưa ra
vừa khái quát vừa cụ thể, hợp lí và dễ hiểu. Như vậy, QLGD có thể xem là sự
tác động có ý thức nhằm điều khiển, hướng dẫn các quá trình giáo dục,
những hoạt động của cán bộ, GV và SV, SV, huy động tối đa các nguồn lực
23
khác nhau để đạt tới mục đích của nhà quản lí giáo dục và phù hợp với quy
luật khách quan.
QLGD là một hoạt động khó khăn, phức tạp bởi vì sản phẩm giáo dục
là : “con người” và phục vụ chính cho “ con người”.
Do vậy người cán bộ QLGD (Nhà quản lí) cần phải có nhân cách quản
lý: Vì con người, cho con người và xuất phát từ con người.
QLGD trong giai đoạn cách mạng hiện nay, khi mà đất nước chúng ta
đang tiến hành tiến trình công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước. Đặc biệt
khi Việt Nam đã trở thành nước thứ 150 của WTO, thì Người lãnh đạo,
Người quản lý giáo dục không chỉ có dựa vào tinh thần, ý chí, kinh nghiệm
mà phải lãnh đạo bằng trí tuệ, khối óc, dựa trên những cơ sở khoa học năng
động, sáng tạo, biết khơi dạy nguồn lực trong mỗi trập thể nhà trường, cơ
sơr giáo dục, phát huy tài năng trong đội ngũ GV mình quản lý, để thực hiện
và làm tốt công tác quản lý của mình, phải linh hoạt, biết vận dụng khoa học
công nghệ tiến tiến của nhân loại vào công việc quản lý giáo dục của mình.
Hệ thống QLGD như là hệ thần kinh của con người nó điều khiển toàn
Ngành giáo dục, mỗi cán bộ quản lý là đại diện cho một tế bào của hệ thần kinh
đó. Nếu một tế bào nào đó không lành mạnh, không tích cực hoạt động thì cả
hệ thống thần kinh sẽ bị giảm sút, guồng máy hoạt động sẽ bị trì trệ.
Mỗi cán bộ quản lý ngoài việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ đã
được định sẵn trong hệ thống còn phải góp phần làm cho hệ thống đó ngày
càng hoàn thiện và phát triển .
Do vậy: yêu cầu đặt ra đối với người QLGD là hết sức quan trọng.
Đóng vai trò then chốt và quyết định cho sự nghiệp giáo dục. Chúng ta phải
coi QLGD cũng là một nghề cũng phải được đào tạo công phu, bài bản, như
chúng ta đào tạo để làm người GV khi đứng trên bực giảng. Có làm được như
vậy chúng ta mới tạo ra được những nhà cán bộ quản lý giỏi, tâm huyết với
nghề, biết thực hiện quá trình quản lý của mình bằng nghệ thuật dựa trên cơ
sở khoa học.
24
1.2.3. Biện pháp quản lý
- Biện pháp theo Từ điển Tiếng Việt là cách làm, cách thức tiến hành
một vấn đề cụ thể nào đó.
- Biện pháp quản lý là tổ hợp nhiều cách thức tiến hành của chủ thể
quản lí nhằm tác động đến đối tượng quản lí để giải quyết các vấn đề trong
công tác quản lí làm cho hệ thống quản lí vận hành đạt mục tiêu mà chủ thể
quản lí đã đề ra phù hợp với quy luật khách quan.
1.2.5. Đào tạo
Theo tác giả Vũ Xuân Tiến: "Đào tạo là hoạt động làm cho con người
trở thành người có năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định. Là quá trình
học tập để làm cho người lao động có thể thực hiện chức năng, nhiệm vụ có
hiệu quả hơn trong công tác của họ [28 ].
1.2.6. Đào tạo đại học
Đào tạo đại học là một hoạt động, một tiến trình nhằm giúp người học
hình thành nhân cách theo mục tiêu của giáo dục đại học.
1.2.7. Đào tạo đại học hệ bằng kép
- Là chương trình đào tạo được thiết kế dựa trên hai chương trình
đào tạo, gồm 2 phần: phần 1 là các môn học chung của hai chương trình
đào tạo, SV chỉ cần tích lũy một lần; phần 2 là các môn học còn lại của
hai chương trình đào tạo, SV phải tích lũy đủ tín chỉ theo yêu cầu của hai
chương trình đào tạo và khi tốt nghiệp được cấp hai bằng [14].
1.3. Các đặc điểm của đào tạo bằng kép ở trƣờng Đại học Ngoại ngữ -
ĐHQGHN
1.3.1. Mục tiêu đào tạo
- Tạo điều kiện thuận lợi cho SV học và tốt nghiệp cùng lúc 2 ngành
(double degrees).
- Tạo sự liên thông, gắn kết và khai thác thế mạnh đa ngành, đa lĩnh
vực của các đơn vị thành viên ĐHQGHN.
25
- Nâng cao chất lượng đào tạo, coi đây là biện pháp tích cực tiến dần
đến chất lượng, đẳng cấp khu vực và quốc tế.
1.3.2. Chương trình đào tạo hệ bằng kép
Chương trình đào tạo bằng kép được thiết kế dựa trên hai chương
trìnhđào tạo chuẩn có khối lượng kiến thức trùng nhau ít nhất là 40 tín chỉ,
gồm 2 phần: phần 1 là các môn học chung của hai chương trình đào tạo, sinh
viên chỉ cần tích lũy một lần; phần 2 là các môn học còn lại của hai chương
trình đào tạo, sinh viên phải tích lũy đủ. Sinh viên tích lũy đủ số tín chỉ theo
yêu cầu của cả hai chương trình đào tạo, khi tốt nghiệp được cấp hai bằng.
1.3.2.1. Chương trình đào tạo bằng kép ngành tiếng Anh và tiếng Trung Quốc
Chương trình đào tạo bằng kép ngành tiếng Anh và tiếng Trung Quốc
được xây dựng trên cơ sở khung chương trình đào tạo của ngành Ngôn ngữ
Anh và Ngôn ngữ Trung Quốc. SV CTĐT Bằng kép được bảo lưu các môn
học, tín chỉ tương đương giữa hai CTĐT của ngành 1 và Bằng kép và chỉ tích
lũy những môn học, tín chỉ còn lại theo khung CTĐT đã được phê duyệt.
Kể từ năm học 2011-2012 nhằm nâng cao chất lượng đào tạo của SV
mới trúng tuyển theo học CTĐT Bằng kép tại ĐHNN nhà Trường đã mở
những lớp môn học tăng cường nghe nói tiếng Anh (không thu học phí) song
song với các lớp môn học mà SV đã đăng ký học theo khung CTĐT của
mình để nâng cao trình độ tiếp thu ngoại ngữ cho SV mới đến từ các
Trường, các khoa khác nhau trong Đại học Quốc gia đảm bảo chất lượng về
năng lực tiếng đồng đều khi SV học tiếp các môn học sau.
1.3.2.2. Chương trình Double Degrees
* Chương trình đào tạo liên thông ngoại ngữ lấy bằng cử nhân kinh
tế/QTKD
- Chương trình học bằng tiếng Anh (sử dụng các chương trình nước
ngoài)
(i) Quản trị kinh doanh (sử dụng chương trình đạt trình độ quốc tế)
(ii) Tài chính ngân hàng
26
(iii) Kinh tế quốc tế
* Chương trình học bằng tiếng Việt (sử dụng các chương trình trong
nước)
(i) Quản trị kinh doanh
(ii) Tài chính ngân hàng
(iii) Kinh tế quốc tế
Sau khi so sánh, đối chiếu các chương trình hiện tại của 2 trường, thì
mô hình đào tạo sẽ là:
30 tín chỉ
(chung ở cả 2
ngành)
102 tín chỉ
(kiến thức
riêng của
bằng 1)
5 tín chỉ
(khóa luận
hoặc thi
tương đương)
93 – 94 tín
chỉ
(kiến thức
riêng của
bằng 2)
5 tín chỉ
(khóa luận
hoặc tương
đương)
Bằng cử nhân Tiếng Anh (bằng 1)
(4 năm)
Bằng cử nhân thứ 2 (ngành
KTĐN, QTKD, TCNH)
(1, 5 – 2 năm)
* Chương trình đào tạo liên thông kinh tế/QTKD lấy bằng cử nhân
tiếng Anh
- Quản trị kinh doanh
- Tài chính ngân hàng
- Kinh tế quốc tế
- Kinh tế phát triển
- Kinh tế chính trị
Sau khi so sánh, đối chiếu các chương trình hiện tại của 2 trường, thì mô hình
đào tạo sẽ là: