Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Dạy học lịch sử địa phương cấp Trung học cơ sở trên địa bàn huyện Phù Ninh, Tỉnh Phú Thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (948.32 KB, 90 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC





HOÀNG THU GIANG



DẠY HỌC LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG CẤP TRUNG HỌC


CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN PHÙ NINH,
TỈNH PHÚ THỌ


LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM LỊCH SỬ


CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LỊCH SỬ

Mã số: 60 14 10




Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Hữu Chí




HÀ NỘI – 2012

2
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 0

1. Lý do nghiên cứu 4
2. Lịch sử nghiên cứu 6
3. Đối tượng nghiên cứu 11
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 11
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 12
6. Phạm vi nghiên cứu 12
7. Đóng góp của luận văn 13
8. Ý nghĩa luận văn 13
9. Cấu trúc của luận văn 13
Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC
GIẢNG DẠY LỊCH SỬ ĐỊA PHƢƠNG Ở TRƢỜNG PHỔ THÔNG 14
1.1. Cơ sở lý luận 14

1.1.1. Khái niệm “lịch sử địa phương” 14
1.1.2. Vai trò của dạy học lịch sử địa phương trong chương trình giáo dục 16
1.2. Cơ sở thực tiễn 19
1.2.1. Nội dung chương trình lịch sử địa phương ở trường phổ thông 19
1.2.2. Tình hình dạy học lịch sử địa phương trong các trường phổ thông 24
1.2.3. Tình hình dạy học lịch sử địa phương cấp trung học cơ sở trên địa bàn
huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ 27
Chƣơng 2. THIẾT KẾ MỘT SỐ NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP DẠY
HỌC LỊCH SỬ ĐỊA PHƢƠNG Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN PHÙ NINH, TỈNH PHÚ THỌ 32
2.1. Những yêu cầu chung khi thiết kế nội dung và phương pháp dạy học lịch
sử địa phương 32



3
2.1.1. Những yêu cầu chung khi thiết kế nội dung dạy học lịch sử địa phương
32
2.1.2. Những yêu cầu chung khi thiết kế phương pháp dạy học lịch sử địa
phương 34
2.2. Thiết kế một số nội dung giảng dạy lịch sử địa phương cấp trung học cơ
sở trên địa bàn huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ 37
2.2.1. Bài học lịch sử địa phương dưới hình thức một tiết học riêng 37
2.2.2. Bài học lịch sử địa phương lồng ghép với lịch sử dân tộc 46
2.3. Thiết kế một số phương pháp giảng dạy lịch sử địa phương cấp trung học

cơ sở trên địa bàn huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ 55
2.3.1. Một số biện pháp dạy học lịch sử địa phương 55
2.3.2. Giảng dạy các bài lịch sử địa phương cấp trung học cơ sở trên địa bàn
huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ 58
Chƣơng 3. THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM 74
3.1. Mục đích thực nghiệm 74
3.2. Nội dung và phương pháp tiến hành thực nghiệm 74
3.3. Kết luận qua thực nghiệm 76
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO 81



4
MỞ ĐẦU

1. Lý do nghiên cứu
Như chúng ta đã biết, lịch sử dân tộc là bức tranh chung trong đó có lịch
sử của các địa phương. Lịch sử địa phương là biểu hiện cụ thể của lịch sử dân
tộc. Do đó, có thể khẳng định lịch sử dân tộc và lịch sử địa phương có mối
quan hệ hữu cơ với nhau như là những mối quan hệ giữa cái riêng và cái
chung, cái đặc thù và cái phổ biến. Việc tìm hiểu lịch sử địa phương là hoạt
động thiết thực nhằm đảm bảo nguyên tắc “học đi đôi với hành”, “nhà trường
gắn liền với xã hội”. Đồng thời góp phần rèn luyện kĩ năng quan sát cuộc
sống sinh động xung quanh, tập dượt kĩ năng tìm tòi nghiên cứu cho học sinh.

Đây chính là nguồn kiến thức vô cùng quý giá, giáo dục cho học sinh tình
cảm yêu thương, tự hào đối với quê hương, xứ sở và thái độ trân trọng đối với
những giá trị vật chất và tinh thần mà ông cha ta đã để lại. Việc phân phối cụ
thể chương trình Lịch sử địa phương trong các cấp học đều xuất phát từ mong
muốn giúp cho học sinh hiểu biết sâu sắc hơn về mảnh đất, con người, truyền
thống đấu tranh và những di tích lịch sử văn hoá nổi tiếng của quê hương
mình. Từ đó cổ vũ các em, nâng cao ý thức, rèn đức, luyện tài xây dựng quê
hương đất nước ngày thêm giàu đẹp, xứng danh với truyền thống địa phương
mình. Đặc biệt, với những di tích lịch sử, với các nguồn tư liệu lịch sử xác
thực, lịch sử địa phương tạo cơ hội để tổ chức dạy học theo các phương pháp
tích cực, phương pháp nghiên cứu, góp phần hình thành các kĩ năng tự học, tự
khai thác thông tin về lịch sử cho học sinh.

Như vậy, chúng ta thấy rằng dạy học lịch sử địa phương có vai trò, ý
nghĩa to lớn trong việc giáo dưỡng, giáo dục và phát triển toàn diện học sinh.
Tuy nhiên, từ trước đến nay, thực tiễn việc dạy học lịch sử địa phương ở các
trường phổ thông còn nhiều bất cập. Chỉ có một vài nơi, nhất là các trung tâm,

5
thành phố lớn, do nhận thức được tầm quan trọng của dạy học lịch sử địa
phương nên việc tiến hành bài học lịch sử địa phương đã đạt được hiệu quả
nhất định. Còn ở nhiều nơi khác, nhất là những vùng nông thôn, miền núi…
công tác dạy học lịch sử địa phương chưa được chú trọng, thậm chí còn bị bỏ
qua. Những giờ lịch sử địa phương theo quy định của chương trình thường
chuyển sang học lịch sử dân tộc, thế giới hoặc ôn tập, kiểm tra.

Ở các trường trung học cơ sở trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, do nhiều
nguyên nhân chủ quan, khách quan mà việc tiến hành bài học lịch sử địa
phương cũng chưa được quan tâm đúng mức. Tại Phú Thọ, qua thực tế khảo
sát của nhóm nghiên cứu chúng tôi trong nhiều năm về sự hiểu biết của học
sinh phổ thông với những nội dung hết sức cơ bản về lịch sử địa phương Phú
Thọ thì đa số các em còn rất mơ hồ, nhiều học sinh không nắm được. Rõ ràng
vấn đề nêu trên đặt ra cho ngành Giáo dục & Đào tạo Phú Thọ nói riêng và
tỉnh nhà nói chung một yêu cầu giảng dạy lịch sử địa phương cho học sinh
phổ thông trong nhà trường theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo là hết
sức cần thiết.
Bên cạnh đó, phải khẳng định rằng, Phú Thọ với bề dày lịch sử phong
phú là mảnh đất hứa hẹn nhiều khám phá thú vị, bổ ích cho các thế hệ học trò.

Đây là vùng đất khai quốc còn tràn đầy những di tích của thời kì dựng nước,
tồn tại bên những di tích của thời kỳ tranh đấu chống ngoại xâm giữ nước.
Thời lập quốc, Phú Thọ là vùng đất khởi nghiệp của họ Hồng Bàng. Nơi đây
các vua Hùng đã dựng nên nhà nước Văn Lang - quốc gia đầu tiên của Việt
Nam, thủ đô là Phong Châu. Bên cạnh truyền thống dựng nước và giữ nước,
nhân dân Phú Thọ còn sở hữu một nền văn hóa rực rỡ từ lâu đời. Những di
chỉ khảo cổ văn hóa Sơn Vi, Đồng Đậu, Làng Cả và nhiều đình, chùa, lăng
tẩm còn để lại quanh vùng núi Nghĩa Lĩnh cho thấy đất Phong Châu là một
trung tâm văn hóa của dân tộc. Đây là mảnh đất của lễ hội và các làn điệu dân

6
ca nổi tiếng như: hát xoan, hát ghẹo… Những nét đẹp truyền thống này cần

được giáo dục cho học sinh tỉnh nhà thông qua bộ môn Lịch sử và phần Lịch
sử địa phương. Đây là kho tàng lịch sử văn hóa cần được khai thác. Tuy nhiên
ở tỉnh Phú Thọ, việc giảng dạy và học tập lịch sử địa phương chưa chú trọng
khai thác các yếu tố lịch sử quý giá này. Để nhằm mục đích khắc phục phần
nào tình những tồn tại trên, chúng tôi quyết định chọn nghiên cứu đề tài “Dạy
học lịch sử địa phương cấp trung học cơ sở trên địa bàn huyện Phù Ninh, tỉnh
Phú Thọ” làm luận văn Thạc sĩ.
2. Lịch sử nghiên cứu
Công tác dạy học lịch sử địa phương đã được quan tâm nghiên cứu và
thực hiện khá sớm ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
2.1. Tài liệu nước ngoài
Ở Liên Xô (cũ) từ năm 1918, trong văn kiện giáo dục đầu tiên đã có

yêu cầu sử dụng hình thức và phương pháp dạy học lịch sử địa phương trong
giờ nội khóa. Trong cuốn “Phương pháp dạy học lịch sử ở trường phổ thông”,
Nhà xuất bản Matxcơva, 1972, (tài liệu dịch A.A.Vaghin, thư viện trường Đại
học Sư phạm Hà Nội) đã nhấn mạnh đến vị trí, vai trò và cách sử dụng tài liệu
địa phương học trong khóa trình lịch sử phổ thông. Vào những năm 80 của
thế kỉ XX, trong các công trình: “Lịch sử địa phương” do G.N Matixin chủ
biên (1980), “Phương pháp công tác lịch sử địa phương” do N.X Bôrixôp chủ
biên (1982), các tác giả chỉ rõ việc nghiên cứu, biên soạn, dạy học lịch sử địa
phương và đặc biệt nhấn mạnh “phải làm cho học sinh hứng thú trong quá
trình nhận thức lịch sử địa phương mình”.
Việc nghiên cứu, giảng dạy lịch sử địa phương trong nhà trường cũng
được coi trọng và đạt nhiều kết quả ở các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu

trước đây cũng như Trung Quốc, Triều Tiên, Mông Cổ, Cu Ba.

7
Ở Mỹ, trong chương trình các trường tiểu học (từ lớp 1 đến lớp 6) môn
“Nhập môn xã hội học” cũng có một số tiết về “lịch sử và địa lý về tỉnh ta,
bang ta”.
Năm 1980, tại hội nghị sử học quốc tế ở Rumani, vấn đề “lịch sử địa
phương và chuyên ngành” có vị trí đặc biệt quan trọng trong tiểu ban “Giáo
dục lịch sử”. Tài liệu của UNESCO cũng dành phần đáng kể nói về lịch sử địa
phương. Tờ “Người đưa tin UNESCO” (tháng 6/1989 – bản tiếng Việt) giới
thiệu kinh nghiệm sử dụng các bảo tàng, di tích lịch sử địa phương trong giờ
học lịch sử.

Vấn đề lịch sử địa phương cũng được các nước đang phát triển rất quan
tâm, chú ý. Những hội nghị về nghiên cứu và giảng dạy lịch sử địa phương
được tổ chức với quy mô quốc gia hay liên quốc gia đã được tổ chức (tháng
8/1994), Hội thảo khoa học về giáo dục lịch sử được tổ chức hàng năm ở
Trung Quốc.
Như vậy, ở nhiều nước trên thế giới, vấn đề nghiên cứu và giảng dạy
lịch sử địa phương đã được thực hiện ở những mức độ khác nhau.
2.2. Tài liệu trong nước
Ở Việt Nam, việc biên soạn và giáo dục lịch sử dân tộc, lịch sử địa
phương đã được ông cha ta coi trọng. Lịch sử góp phần vào việc đánh giá, lựa
chọn người tài trong các kì thi. Tìm hiểu, học tập lịch sử là việc lấy hành động
của những nhà yêu nước trong cả nước và ngay quê hương làm gương cho thế

hệ trẻ.
Trong thời kì phong kiến, ngoài việc nghiên cứu quốc sử, các triều đại
đã chú ý nghiên cứu lịch sử địa phương, đặc biệt thời Nguyễn, việc chép sử
được mở rộng đến các làng xã, huyện và tiểu sử các nhân vật.
Sau cách mạng tháng Tám 1945, cùng với quá trình xây dựng nền giáo
dục cách mạng, Đảng và Nhà nước ta ngày càng chú ý đến việc nghiên cứu và

8
đưa lịch sử địa phương vào dạy học ở trường phổ thông. Từ sau cuộc cải cách
giáo dục lần thứ nhất (1950) đến nay, vấn đề biên soạn và giảng dạy lịch sử
địa phương ở trường phổ thông luôn chiếm một vị trí quan trọng. Chính vì
thế, việc nghiên cứu về giảng dạy lịch sử địa phương được đẩy mạnh và thu

được nhiều kết quả. Nhiều Sở giáo dục và đào tạo đã tiến hành tổ chức biên
soạn tài liệu lịch sử địa phương đưa vào giảng dạy ở các cấp học và đã đem
lại những kết quả ban đầu rất khả quan. Tiêu biểu như Sở giáo dục và đào tạo
Hà Nội, Hải Phòng, Bình Định,… Tuy nhiên công việc này chưa được tiến
hành đều khắp, thường xuyên và có hiệu quả trong cả nước.
Vấn đề dạy học lịch sử địa phương cũng được nhiều nhà giáo dục lịch
sử quan tâm nghiên cứu.
Trong cuốn “Sơ thảo phương pháp giảng dạy lịch sử ở phổ thông cấp
II, III”, xuất bản năm 1961, các tác giả Lê Khắc Nhãn, Hoàng Triều, Hoàng
Trọng Hanh đã dành chương VIII “ Ngoại khóa, thực hành trong bộ môn lịch
sử” đề cập đến vấn đề giảng dạy lịch sử địa phương ở trường phổ thông,
trong đó, các tác giả đã nêu bật tầm quan trọng của việc giảng dạy môn lịch

sử địa phương ở trường phổ thông, thực trạng và một số biện pháp thực hiện
như tham quan lịch sử, viện bảo tàng, sưu tầm, thu thập, ghi chép tài liệu lịch
sử địa phương.
Cuốn “ Phương pháp giảng dạy lịch sử”, (phần đại cương), tập 1, 2,
xuất bản năm 1966 của Trần Văn Trị, Phan Ngọc Liên, Nguyễn Cao Lũy,
Nguyễn Tiến Cường; trong chương II (tập 2) “Các phương châm giảng dạy
lịch sử ở trường phổ thông”, các tác giả đã khẳng định “giảng dạy lịch sử gắn
liền với đời sống và cần phải liên hệ tri thức lịch sử trong sách vở với cuộc
sống, liên hệ lịch sử toàn quốc với lịch sử địa phương”.
Năm 1968, trong cuốn “Công tác ngoại khóa ở trường cấp II, III” các
tác giả Phan Ngọc Liên, Trần Văn Trị, Nguyễn Phan Quang đã nhấn mạnh


9
việc gắn học tập lịch sử ở nhà trường với đời sống xã hội và việc nghiên cứu,
giảng dạy lịch sử địa phương là một phương thức cần thiết và quan trọng.
Trong tập sách “Mấy vấn đề giảng dạy lịch sử” ở trường phổ thông hiện nay,
do Phan Ngọc Liên làm chủ biên, cụm các trường Đại học Sư Phạm, Hà Nội,
1985, các tác giả Phan Kim Ngọc, Lại Đức Thụ trong bài “Về việc dạy học
lịch sử địa phương ở trường phổ thông” đã xác định nhiệm vụ, chức năng của
việc dạy học lịch sử địa phương, từ đó đi đến khẳng định một lần nữa việc
dạy học lịch sử địa phương có ý nghĩa giáo dưỡng, giáo dục về mọi mặt, nhất
là lòng yêu quê hương.
Cuốn “Lịch sử địa phương”, xuất bản năm 1989, của các tác giả
Trương Hữu Quýnh, Phan Ngọc Liên, Nguyễn Phan Quang, Nguyễn Văn Am

là một công trình khoa học tương đối đầy đủ và có hệ thống về việc nghiên
cứu, biên soạn và giảng dạy lịch sử địa phương ở trường phổ thông.
Trong các giáo trình “Phương pháp dạy học lịch sử” xuất bản năm 1978
(tập 1), 1980 (tập 2), đặc biệt cuốn giáo trình xuất bản năm 1992 và tái bản
năm 1998, 2000, 2001 do Phan Ngọc Liên, Trần Văn Trị chủ biên đều nhấn
mạnh việc nghiên cứu và giảng dạy lịch sử địa phương ở các trường phổ
thông, gắn việc học tập lịch sử với đời sống xã hội. Các tác giả đều khẳng
định ý nghĩa và sự cần thiết phải đưa lịch sử địa phương vào dạy học ở trường
phổ thông.
Trong cuốn giáo trình “Phương pháp dạy học lịch sử”, tập 2, xuất
bản năm 2002, do Phan Ngọc Liên chủ biên, cũng đã dành hai chương
trình bày về hoạt động ngoại khóa trong dạy học lịch sử, trong đó nhấn

mạnh công tác lịch sử địa phương và phòng học lịch sử. Ở phần II,
chương XV của giáo trình này, tác giả Nguyễn Thị Côi đã đi sâu vào việc
hướng dẫn, biên soạn các tiết lịch sử địa phương và hướng dẫn dạy bài
lịch sử địa phương tại thực địa.

10
Đặc biệt trong bài “Nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử địa phương ở
trường phổ thông”, Tạp chí khoa học trường Đại học Sư Phạm Hà Nội, số
6/2002, tác giả Nguyễn Thị Côi đã nêu lên vai trò và tầm quan trọng của lịch
sử địa phương trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông và đề xuất các biện
pháp nâng cao hiệu quả giảng dạy lịch sử địa phương ở trường phổ thông.
Ngoài ra, một số khóa luận, luận văn tốt nghiệp đại học và cao học, đặc

biệt các luận án tiến sĩ ở khoa Lịch sử Đại học Sư Phạm Hà Nội cũng lấy lịch
sử địa phương làm đề tài nghiên cứu. Vấn đề đặt ra cũng như những biện
pháp giải quyết khá đa dạng như “Giáo dục lòng yêu quê hương cho học sinh
phổ thông trung học qua dạy học lịch sử địa phương ở Nghĩa Bình” của Trần
Quốc Tuấn – 1986; “Tăng cường giáo dục truyền thống yêu nước cho học
sinh dân tộc thiểu số miền núi Hà Tuyên qua sử dụng tài liệu lịch sử địa
phương trong dạy khóa trình lịch sử Việt Nam (1930 – 1945)” của Đỗ Hồng
Thái – 1986; “Sử dụng lịch sử địa phương nhằm nâng cao hiệu quả của giờ
dạy cho học sinh lớp 12 phổ thông trung học Hòa Bình” của Hoàng Minh Hảo
– 1989; “Sử dụng tài liệu vê nghề thủ công truyền thống địa phương trong dạy
học lịch sử ở trường phổ thông Việt Nam góp phần giáo dục hướng nghiệp
cho học sinh” (Qua ví dụ ở Nghệ An và Hà Tĩnh) của Trần Viết Thụ. Luận án

phó tiến sĩ của Đặng Công Lộng – 1996 “Nghiên cứu việc giảng dạy lịch sử
địa phương ở trường phổ thông trung học” (qua thực nghiệm ở Bình Định).
Và gần đây nhất là các khóa luận “Tổ chức hoạt động ngoại khóa về lịch sử
địa phương cho học sinh 12 trung học phổ thông tỉnh Bắc Giang” của Nguyễn
Quốc Vương – 2004; các luận văn thạc sĩ “Biên soạn và giảng dạy lịch sử địa
phương cho học sinh trung học cơ sở tỉnh Hà Giang” của Nguyễn Minh
Nguyệt – 2004; “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả bài học lịch sử địa
phương ở trường trung học phổ thông tỉnh Bắc Giang” của Ngọ Văn Giáp –
2005; “Một số biện pháp phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học

11
các bài lịch sử địa phương ở trường trung học phổ thông tỉnh Ninh Bình” của

Vũ Đặng Hà Bình – 2009…
Như vậy, trong tất cả các tài liệu trên đã đề cập đến việc dạy học lịch sử
địa phương ở trường phổ thông với những mức độ khác nhau, ít nhiều liên
quan tới vấn đề mà luận văn nghiên cứu. Đây là cơ sở lý luận quan trọng giúp
chúng tôi tìm hướng giải quyết các nhiệm vụ của đề tài. Tuy nhiên, cho đến
nay chưa có công trình nào đi sâu tìm hiểu công tác giảng dạy lịch sử địa
phương cấp trung học cơ sở trên địa bàn tỉnh Phú Thọ… Vì vậy, chúng tôi đi
sâu vào nghiên cứu đề tài “Dạy học lịch sử địa phương cấp trung học cơ sở
trên địa bàn huyện Phù Ninh – tỉnh Phú Thọ”.
3. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quá trình dạy học lịch sử địa phương
cấp trung học cơ sở trên địa bàn huyện Phù Ninh – tỉnh Phú Thọ.

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở tìm hiểu lý luận bài học lịch sử nói chung, lịch sử địa
phương nói riêng và thực tiễn dạy học lịch sử địa phương cấp trung học cơ sở
trên địa bàn huyện Phù Ninh – tỉnh Phú Thọ, đề tài đi sâu đề xuất một số nội
dung và phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao hiệu quả bài học lịch sử địa
phương trên địa bàn.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu lý luận dạy học lịch sử nói chung, dạy học lịch sử địa
phương nói riêng, lý luận về tâm lý học, giáo dục học, tâm lý lứa tuổi học sinh
có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
- Tìm hiểu khóa trình lịch sử Việt Nam trong chương trình trung học cơ

sở (sách giáo khoa hiện hành).

12
- Tiến hành điều tra thực tiễn tình hình dạy học lịch sử địa phương
hiện nay ở một số trường trung học cơ sở trên địa bàn huyện Phù Ninh – tỉnh
Phú Thọ.
- Sưu tầm các tài liệu lịch sử địa phương có liên quan đến phạm vi
nghiên cứu của đề tài. Từ đó biên soạn một số nội dung, phương pháp giảng
dạy lịch sử địa phương trong các trường trung học cơ sở trên địa bàn.
- Trên cơ sở thực nghiệm sư phạm một số bài lịch sử địa phương tiến
hành đánh giá kết quả nghiên cứu.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở phương pháp luận
- Dựa trên quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về giáo dục, đào tạo.
- Dựa trên quan điểm lý luận giáo dục, tâm lý học, phương pháp dạy
học lịch sử của các nhà giáo dục nói chung và giáo dục lịch sử nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Vận dụng các phương pháp: phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic
- Vận dụng các phương pháp lý luận dạy học thông qua nghiên cứu các
lý luận về giáo dục học và quá trình giáo dục, quá trình dạy học.
- Vận dụng các phương pháp nghiên cứu thực tiễn, điều tra quan sát
khảo sát, tổng hợp thông qua các vấn đề có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
- Ngoài ra còn vận dụng và phối hợp các phương pháp nghiên cứu thực

nghiệm, tâm lý học, xã hội học.
6. Phạm vi nghiên cứu
Từ việc nghiên cứu lý luận về bài học lịch sử địa phương ở trường phổ
thông, đề tài tiến hành tìm hiểu thực tiễn dạy học lịch sử địa phương cấp trung
học cơ sở trên địa bàn huyện Phù Ninh – tỉnh Phú Thọ.

13
Thông qua đó, thiết kế một số bài học lịch sử địa phương cho học sinh
các trường trung học cơ sở trên địa bàn và xác định một số biện pháp sư phạm
trong dạy học.
7. Đóng góp của luận văn
- Điều tra được thực tiễn tình hình dạy học lịch sử địa phương trên địa

bàn huyện Phù Ninh – tỉnh Phú Thọ.
- Thiết kế một số bài lịch sử địa phương thuộc chương trình trung học
cơ sở cho các trường trên địa bàn.
- Đề xuất những biện pháp sư phạm nhằm phát huy tính tích cực, chủ
động của học sinh trong dạy học lịch sử địa phương cấp trung học cơ sở trên
địa bàn.
8. Ý nghĩa luận văn
- Ý nghĩa khoa học: Luận văn góp phần nhỏ làm phong phú lý luận về
dạy học lịch sử địa phương cấp trung học cơ sở.
- Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể vận dụng
rộng rãi trong học lịch sử địa phương cấp trung học cơ sở trên địa bàn huyện
Phù Ninh – tỉnh Phú Thọ nhằm nâng cao chất lượng dạy học bộ môn.

9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của việc giảng dạy lịch
sử địa phương ở trường phổ thông
Chương 2: Thiết kế một số nội dung và phương pháp dạy học lịch sử địa
phương ở trường trung học cơ sở trên địa bàn huyện Phù Ninh – tỉnh Phú Thọ
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm


14
CHƢƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC GIẢNG
DẠY LỊCH SỬ ĐỊA PHƢƠNG Ở TRƢỜNG PHỔ THÔNG

1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm “lịch sử địa phương”
Trong tiếng Việt, thuật ngữ “địa phương” có nghĩa là: “những vùng,
khu vực trong quan hệ với những vùng và khu vực khác trong nước”. Như
vậy, địa phương là những vùng đất nhất định nằm trong quốc gia, có những
sắc thái, đặc thù riêng để phân biệt với những vùng đất khác, là bộ phận cấu
thành của đất nước. Hiểu theo nghĩa cụ thể, địa phương là những đơn vị hành
chính của một quốc gia (tỉnh, thành phố, huyện, xã, phường, thị trấn, thôn sóc,
buôn làng ). Hiểu theo nghĩa trừu tượng, địa phương là những vùng đất, khu

vực nhất định được hình thành trong lịch sử, có ranh giới tự nhiên (không
giống địa giới hành chính) để phân biệt với các vùng khác như: miền Bắc,
miền Trung, miền Nam,
Vậy lịch sử địa phương chính là lịch sử của các làng, xã, huyện, tỉnh,
thành phố hay khu vực, vùng miền. Cụ thể hơn, đó chính là lịch sử quá trình
hình thành, tồn tại và phát triển của địa phương trong công cuộc xây dựng và
bảo vệ quê hương. Lịch sử địa phương còn bao hàm ý nghĩa lịch sử của các
đơn vị hành chính, các trường học, cơ quan, xí nghiệp
Theo định nghĩa trên, lịch sử địa phương có hai đối tượng nghiên cứu chính:
Thứ nhất là lịch sử các đơn vị hành chính với quá trình hình thành, ổn
định và phát triển của nó; những hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội
trong bối cảnh chung của đất nước; những truyền thống chung và riêng Trên

cơ sở đó, khai thác nét độc đáo, đặc thù của địa phương, những giá trị vật chất
và văn hóa tinh thần; từ đó, xác định những đóng góp quý báu của nó đối với

15
việc xây dựng truyền thống chung, bổ sung hoàn chỉnh lịch sử dân tộc. Trong
đối tượng này, có thể phân thành nhiều thể loại khác nhau hẹp hơn hoặc
chung hơn như: thông sử, lịch sử Đảng, lịch sử đấu tranh cách mạng, lịch sử
kinh tế, văn hóa
Thứ hai là các sự kiện lịch sử riêng lẻ có liên quan đến những biến cố
chung của dân tộc, của cả nước: chẳng hạn một cuộc khởi nghĩa, một giai
đoạn kháng chiến, một trận đánh, một cơ sở kinh tế, một khu vực văn hóa,
một cơ sở giáo dục Việc nghiên cứu đối tượng lịch sử địa phương này vừa

có ý nghĩa bổ sung hoặc đính chính lịch sử của dân tộc, vừa có ý nghĩa góp
phần xây dựng lịch sử địa phương. Tuy nhiên, chúng ta cần phân biệt lịch sử
địa phương với lịch sử chuyên khảo về một sự kiện lịch sử lớn của cả nước
như một phong trào nông dân, một cuộc kháng chiến Mặt khác, cũng cần
phân biệt lịch sử địa phương với lịch sử chuyên ngành, vì mặc dầu có chỗ
giống nhau, chúng vẫn có nét cơ bản khác nhau.
Lịch sử địa phương là một bộ phận hữu cơ của lịch sử dân tộc, bất cứ một
sự kiện nào của lịch sử dân tộc đều diễn ra ở một địa phương cụ thể với thời
gian, không gian nhất định. Tùy quy mô, tính chất phản ánh mà sự kiện ảnh
hưởng đến phạm vi của từng địa phương, cả nước và thậm chí mang tầm thế
giới. Lịch sử địa phương là đối tượng nghiên cứu của khoa học lịch sử, có
quan hệ với lịch sử dân tộc, lịch sử thế giới như là những mối quan hệ giữa

cái riêng và cái chung, cái đặc thù và cái phổ biến. Có nhiều sự kiện lịch sử
địa phương đồng thời là sự kiện của lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới. Nó là
sự phản ánh lịch sử dân tộc, cụ thể hóa lịch sử dân tộc, làm cho việc nhận
thức lịch sử dân tộc trở nên cụ thể, sinh động, gắn liền với tình cảm cá nhân,
làm cho quá trình nhận thức lịch sử trở nên có ý nghĩa, có sức hấp dẫn.
Nghiên cứu lịch sử địa phương là một bộ phận của việc nghiên cứu lịch
sử dân tộc, nó vừa phải tuân thủ theo phương pháp nghiên cứu chung của

16
khoa học xã hội, vừa có những đặc điểm riêng của phân ngành chuyên sâu.
Việc thực hiện tốt phương pháp nghiên cứu lịch sử địa phương sẽ giúp cho
công tác tuyên truyền giáo dục quần chúng sâu rộng ở địa phương và đặc biệt

đối với việc giảng dạy, giáo dục thế hệ trẻ trong nhà trường phổ thông.
Trong dạy học lịch sử, chúng ta có thể sử dụng tài liệu lịch sử địa
phương theo hai hình thức. Có thể đưa tài liệu – sự kiện lịch sử địa phương
vào bài giảng lịch sử dân tộc để minh họa, liên hệ, đối chiếu, so sánh; qua đó
giúp học sinh hiểu sâu sắc, cụ thể những sự kiện. Hoặc tiến hành dạy học lịch
sử địa phương thành một tiết riêng theo qui định của chương trình hoặc tổ
chức các hoạt động ngoại khóa về lịch sử địa phương. Việc lựa chọn hình
thức dạy học lịch sử địa phương phải căn cứ vào nội dung kiến thức bài học,
điều kiện phương tiện giảng dạy ở nhà trường, đặc điểm tâm lý của học sinh
và gắn mục tiêu giáo dưỡng – giáo dục bài học với điều kiện kinh tế - xã hội
của địa phương.
Việc nghiên cứu, giảng dạy lịch sử địa phương đòi hỏi người giáo viên

không chỉ có những hiểu biết cơ bản, đúng đắn về lịch sử thế giới, lịch sử dân
tộc, phương pháp luận sử học và các phương pháp nghiên cứu lịch sử cụ thể
mà còn phải biết tổ chức nghiên cứu, biết làm công tác quần chúng phục vụ
nghiên cứu, biết xử lý, xác minh, giám định các nguồn sử liệu địa phương.
1.1.2. Vai trò của dạy học lịch sử địa phương trong chương trình giáo dục
Từ thời cổ đại, Xi-xê-rông - một chính trị gia nổi tiếng của Rô- ma cổ
đã nói: “Lịch sử là thầy dạy của cuộc sống”. Chính vì lẽ đó, sự hiểu biết về
lịch sử dân tộc còn bao hàm cả sự am tường cần thiết về lịch sử địa phương,
hiểu biết về quê hương, xứ sở, nơi chôn nhau cắt rốn của mình, hiểu từ mối
quan hệ giữa lịch sử địa phương và lịch sử dân tộc. Các nhà sử học xưa đã
nói: "Sử để ghi chép việc, mà việc thì hay hoặc dở đều làm gương răn dạy cho
đời sau. Các nước ngày xưa nước nào cũng đều có sử. "Sử phải tỏ rõ được sự


17
phải, trái, công bằng, yêu ghét, vì lời khen của Sử còn vinh dự hơn áo đẹp của
vua ban, lời chê của Sử còn nghiêm khắc hơn búa rìu, Sử thực sự là cái cân,
cái gương của muôn đời".
Xuất phát từ những nhận thức đó, có thể khẳng định rằng việc dạy học
lịch sử địa phương trong dạy học lịch sử Việt Nam là cần thiết ở nhà trường
phổ thông. Lý luận và thực tiễn chỉ rõ rằng, việc dạy học lịch sử địa phương
có ý nghĩa giáo dưỡng – giáo dục sâu sắc.
Trước hết, dạy học lịch sử địa phương góp phần không nhỏ vào việc
giáo dục tư tưởng chính trị, lao động, đạo đức, thẩm mỹ cho học sinh, hình
thành cho các em lòng yêu nước, yêu chế độ xã hội chủ nghĩa. Mỗi sự kiện

lịch sử địa phương đều gắn liền với tên đất, tên người cụ thể, gần gũi với cuộc
sống, qua đó mà gợi ở các em niềm tự hào, lòng biết ơn, góp phần bồi dưỡng
tình yêu quê hương, đây cũng là cội nguồn của lòng yêu nước, tự hào dân tộc.
Lòng yêu nước ấy bắt nguồn từ lòng yêu quê hương, xóm làng, tự hào về
những chiến công của cha anh mình ngay chính trên mảnh đất quê hương khi
đấu tranh chống kẻ thù xâm lược… Học sinh cũng tự hào về những thành tựu
kinh tế, văn hóa và xã hội của địa phương từ trước đến nay, đặc biệt trong
thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Học sinh không những tự hào về truyền
thống anh hùng bất khuất trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ Tổ quốc mà đối
với chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong xây dựng, sản xuất. Đặc biệt, việc
giới thiệu cho các em những ngành nghề thủ công truyền thống của địa
phương là một trong những nội dung hướng nghiệp của môn lịch sử, tạo cho

các em có ý thức bảo vệ và phát triển truyền thống tốt đẹp của quê hương…
Chính lòng yêu quê hương, làng xóm sẽ giúp các em có động cơ vươn lên
trong học tập, rèn luyện và có trách nhiệm hơn đối với quê hương, đất nước.
Trong dạy học lịch sử Việt Nam, dạy học lịch sử dịa phương còn giúp
học sinh thấy được mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng; cái phổ biến và

18
cái đặc thù . Qua đó góp phần phát triển tư duy cho học sinh. Những chất liệu
lịch sử địa phương sẽ làm cho bài học về lịch sử dân tộc, thậm chí cả lịch sử
thế giới thêm sống động, cụ thể và thực hơn, tạo nên những xúc cảm thật của
học sinh trong mỗi bài học lịch sử. Lịch sử địa phương giúp học sinh có sự
hình dung đa dạng về quá khứ, tạo được biểu tượng sinh động, chính xác về

các sự kiện, hiện tượng lịch sử. Từ đó các em có thể dễ dàng lĩnh hội các
thuật ngữ, hình thành các khái niệm lịch sử, nắm được những kết luận khoa
học mang tính khái quát.
Việc giảng dạy lịch sử địa phương có thể làm cho học sinh nắm vững
hơn khái niệm khoa học hiện đại của hệ thống “Tự nhiên – con người – xã
hội”. Thấy được vai trò của con người tác động đến việc cải tạo và chinh phục
tự nhiên một cách hợp quy luật, giúp các em hình dung cụ thể vai trò con
người trong mối quan hệ với môi trường xung quanh, ý nghĩa đầy đủ về trách
nhiệm bảo vệ các di tích lịch sử, văn hóa địa phương… Đặc biệt, với những di
tích lịch sử, với các nguồn tư liệu lịch sử xác thực, lịch sử địa phương tạo cơ
hội để tổ chức dạy học theo các phương pháp tích cực, phương pháp nghiên
cứu, góp phần hình thành các kĩ năng tự học, tự khai thác thông tin về lịch sử

cho học sinh. Đây chính là những yêu cầu rất quan trọng đối với mục tiêu dạy
học lịch sử của chương trình và sách giáo khoa mới.
Dạy học lịch sử địa phương góp phần phát triển các năng lực hoạt
động thực tiễn. Cụ thể như: các em tham gia thiết kế, xây dựng các đồ dùng
trực quan phục vụ cho dạy học lịch sử địa phương, lịch sử dân tộc (vẽ bản
đồ, sơ đồ, đắp sa bàn, phục chế hiện vật…), khả năng miêu tả công trình
kiến trúc, giải thích một hiện tượng lịch sử địa phương…, kỹ năng thói
quen tích cực tham gia hoạt động thực tiễn, công ích xã hội như sưu tầm tài
liệu lịch sử địa phương, tuyên truyền và có hành động cụ thể, thiết thực giữ
gìn các giá trị văn hóa của địa phương. Do đó, “nghiên cứu, học tập lịch sử

19

địa phương cũng là một biện pháp tích cực để thực hiện việc gắn liền nhà
trường với đời sống xã hội”.
Bên cạnh đó, những kết quả dạy và học lịch sử địa phương của thầy và
trò còn có ý nghĩa động viên, tuyên truyền, giáo dục nhân dân và trong chừng
mực nhất định còn góp phần phục vụ những nhiệm vụ chính trị, những mục
tiêu kinh tế - xã hội của mỗi địa phương. Điều này đã được đồng chí Phạm
Văn Đồng khẳng định: “… Giáo dục phổ thông, ngay cả phổ thông cơ sở,
bằng cả việc dạy nội khóa và các hoạt động ngoại khóa phải đạt đến kết
quả làm cho người học biết mình sống trong một huyện, một tỉnh, một
nước, một vũ trụ như thế nào, và mình phải làm gì để cống hiến xứng đáng
với nhân dân và đất nước…” Hơn nữa, tổ chức và thực hiện tốt việc dạy
học lịch sử địa phương còn là nhịp cầu nối tình cảm giữa nhà trường với

nhân dân địa phương.
Tóm lại, việc dạy học lịch sử địa phương trong chương trình giáo dục
có vai trò rất quan trọng và có ý nghĩa to lớn trên cả ba mặt: giáo dưỡng, giáo
dục và phát triển toàn diện học sinh. Với vai trò và ý nghĩa đó, các cấp, bậc
học của nước ta cần nhận thức sâu sắc và hành động đúng đắn với công tác
dạy học lịch sử địa phương. Công việc này đòi hỏi sự quan tâm chỉ đạo của
các cơ quan giáo dục địa phương, sự tham gia tích cực và có hiệu quả của các
thầy giáo, cô giáo và của toàn thể đông đảo học sinh.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Nội dung chương trình lịch sử địa phương ở trường phổ thông
Từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, cùng với việc xây dựng và hoàn
chỉnh nền giáo dục cách mạng, trải qua các thời kì phát triển của cách mạng

nước ta, Đảng và Nhà nước ta đã ngày càng quan tâm đến việc xây dựng và
hoàn chỉnh chương trình dạy học lịch sử ở trường phổ thông, trong đó có các
tiết học lịch sử địa phương. Điều này khẳng định vai trò thiết yếu của lịch sử

20
địa phương trong việc nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo của bộ môn ở
trường phổ thông.
Trong chương trình lịch sử do Bộ giáo dục và Đào tạo Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa ban hành và có hiệu lực từ năm 1948 – 1949, lần đầu tiên lịch
sử địa phương được đề cập. Tuy nhiên, chương trình vẫn không dành tiết
học nào cho giảng dạy nội khóa về lịch sử địa phương mà chỉ quy định các
hoạt động ngoại khóa. Nội dung học tập mới chú ý rèn luyện khả năng thực

hành cho học sinh chứ chưa cung cấp hệ thống kiến thức lịch sử địa phương
đầy đủ.
Chương trình lịch sử các cấp phổ thông năm 1951 – 1953 không có số
tiết dành riêng cho dạy học lịch sử địa phương vì thời gian học tập ít, điều
kiện học tập khó khăn, phải tinh giảm đến mức tối đa – tập trung vào lịch sử
dân tộc. Tuy nhiên, giáo viên vẫn phải tìm hiểu tài liệu lịch sử ở địa phương
để bổ sung khóa trình lịch sử dân tộc hoặc để liên hệ kiến thức lịch sử đang
học với thực tế địa phương.
Trong kháng chiến chống đế quốc Mĩ, đặc biệt từ năm 1960 – 1961,
chương trình môn lịch sử phổ thông ban hành đã kết hợp liên hệ tài liệu lịch
sử địa phương khi học lịch sử dân tộc và giảng dạy một số tiết lịch sử địa
phương, giáo viên tự biên soạn và tổ chức giảng dạy lịch sử địa phương theo

yêu cầu chung. Trong hướng dẫn chương trình môn Lịch sử phổ thông trung
học cơ sở – III (áp dụng từ năm học 1960 – 1961), Bộ Giáo dục đã nêu rõ:
“Mấy điểm cần chú ý “về “cách tiến hành giảng dạy” như sau: “Trong điều
kiện có thể làm được, nên bố trí cho học sinh đi thăm các di tích lịch sử, viện
bảo tàng, phòng triển lãm. Công việc này cần được tổ chức chu đáo, hướng
dẫn kỹ lưỡng” và “phải chú trọng liên hệ thực tế khi giảng dạy lịch sử”.
Việc liên hệ dạy học lịch sử dân tộc với tài liệu lịch sử địa phương, bản
hướng dẫn cũng nhấn mạnh “trong chương trình lịch sử Việt Nam ở lớp 6, 7,

21
9, và 10 có dành một số tiết để liên hệ với lịch sử địa phương, nội dung cụ thể
do các Sở, Ty giáo dục quy định. Ở mỗi địa phương, mỗi khi dạy đến giai

đoạn lịch sử nào, thì sau khi trình bày những sự kiện liên quan đến toàn quốc
cần đi sâu vào những sự kiện xảy ra ở địa phương, ít thì nói ngay trong tiết
học chung, nhiều thì có thể để riêng 1, 2 tiết để dạy cho được đầy đủ và có hệ
thống hơn”. Như vậy, chương trình môn Lịch sử của trường phổ thông năm
học 1960 – 1961 bước đầu đã thể hiện việc đưa lịch sử địa phương vào giảng
dạy ở trường phổ thông và mối quan hệ giữa lịch sử địa phương và lịch sử dân
tộc. Cụ thể, chương trình đã chú trọng nhiều hơn đến lịch sử địa phương và
liên hệ với tài liệu địa phương khi học lịch sử dân tộc và giảng 1, 2 tiết lịch sử
địa phương. Chương trình trên đây được điều chỉnh nhiều lần vào các năm
học 1964 – 1965, 1969 – 1970 cho phù hợp với tình hình nhiệm vụ mới và
việc dạy học lịch sử địa phương ngày càng được coi trọng.
Từ năm học 1974 – 1975, trong phân phối chương trình môn Lịch sử

trung học cơ sở phổ thông đã quy định số tiết và nội dung các giờ học lịch sử
địa phương như sau:
Lớp 5 (1 tiết): Tiết 2: Xem phòng truyền thống của nhà trường hay di
tích lịch sử địa phương
Lớp 6 (2 tiết): Tiết 15: Địa phương chúng ta trong cuộc kháng chiến
chống xâm lược và bọn phong kiến phản động từ thế kỷ XI – XV
Tiết 45: Địa phương chúng ta trong phong trào đấu
tranh chống thực dân Pháp xâm lược
Lớp 7 (2 tiết): Tiết 26: Địa phương chúng ta trong Cách mạng tháng 8
Tiết 45: Địa phương chúng ta trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp 1946 – 1954
Chương trình môn Lịch sử trung học cơ sở phổ thông trên đây mặc dù

thời lượng chương trình còn ít, còn đơn giản song đã quy định số tiết dạy học
lịch sử địa phương một cách rõ ràng.

22
Đến tháng 5 năm 1975 – sau ngày thống nhất đất nước, nền giáo dục
được định hướng xây dựng theo con đường xã hội chủ nghĩa. Chương trình
môn Lịch sử phổ thông từ những năm 1978 – 1979 về cơ bản được thống nhất
trong cả nước. Theo đó, các tiết lịch sử địa phương được chú trọng nhiều hơn
cả về số lượng và chất lượng. Cụ thể, các tiết học lịch sử địa phương được
phân bố như sau: Lớp 5 – 2 tiết, lớp 6 – 4 tiết, lớp 7 – 3 tiết. Các tiết học này
đều có quy định và hướng dẫn nội dung dạy học cụ thể. Tiếp đó, chương trình
trung học cơ sở năm học 1978 – 1979 có thêm 4 tiết lịch sử địa phương. Tuy

nhiên, trong thực tế, các tiết lịch sử địa phương không được thực hiện đầy đủ,
đồng bộ, giáo viên chưa coi trọng và không chuẩn bị tốt về nội dung và
phương pháp dạy học… Do đó, chất lượng giảng dạy lịch sử địa phương
không cao, chưa đáp ứng được yêu cầu giáo dục ở nhà trường phổ thông.
Trong cuộc cải cách giáo dục bắt đầu triển khai từ năm học 1980 –
1981, phân phối chương trình môn Lịch sử phổ thông cơ sở từ năm học 1983
– 1984 dành 9 tiết cho lịch sử địa phương. Trong đó: lớp 6 – 3 tiết, lớp 7 – 3
tiết, lớp 8 – 3 tiết. So với chương trình năm học 1978 – 1979, số tiết và nội
dung dạy học lịch sử địa phương ở trường phổ thông không thay đổi. Đặc
biệt, chương trình lịch sử địa phương được cấu tạo theo nguyên tắc đường
thẳng. Các em được tìm hiểu về một số di tích lịch sử ở địa phương mình
(theo trình tự từ xã đến huyện, tỉnh) và học một số tiết nội khóa (trên lớp hay

thực địa) để nâng dần vốn hiểu biết về quê hương.
Phân phối chương trình kèm theo Quyết định số 2434/QĐ-BGD&ĐT,
ngày 08/07/1999 của Bộ Giáo dục và Đào tạo năm 2000 dành cho khối trung
học cơ sở theo chương trình thí điểm sách giáo khoa mới thì các tiết lịch sử
địa phương được phân bố như sau: lớp 6 – 2 tiết, lớp 7 – 6 tiết, lớp 8 – 3 tiết;
tổng số là 11 tiết. Như vậy, số tiết lịch sử địa phương được nâng lên so với
trước nhằm mục đích đáp ứng yêu cầu đặt ra về khối lượng kiến thức đòi hỏi

23
ngày càng cao đối với học sinh về lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới. Tiếp đó,
Quyết định số 03/2002/QĐ-BGD&ĐT ngày 24/1/2002 của Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo về việc ban hành chương trình trung học cơ sở đã nêu rõ:

“Dùng một thời lượng thích đáng cho các vấn đề của địa phương”. Gần đây,
phân phối chương trình trung học cơ sở môn Lịch sử phần lịch sử địa phương
nhìn chung khá ổn định: năm học 2007 – 2008, tổng số tiết lịch sử địa phương
là 7 tiết, phân bố như sau: lớp 6 – 1 tiết, lớp 7 – 3 tiết, lớp 8 – 1 tiết, lớp 9 – 2
tiết; sang năm học 2008 – 2009, 2009 – 2010, 2010 – 2011 và 2011 – 2012,
chương trình lịch sử địa phương cố định với 6 tiết, phân bố như sau: lớp 6 – 1
tiết, lớp 7 – 2 tiết, lớp 8 – 1 tiết, lớp 9 – 2 tiết. Trong tài liệu phân phối
chương trình trung học cơ sở môn Lịch sử các năm học cũng nhấn mạnh quan
điểm: Trước hết, cần nhận thức rõ về vai trò, ý nghĩa của lịch sử địa phương
trong việc giáo dưỡng, giáo dục đặc biệt là giáo dục truyền thống địa phương
đối với học sinh. Về biên soạn, cần thiết phải tiến hành biên soạn tài liệu lịch
địa phương phục vụ giảng dạy ở trường phổ thông. Tài liệu này sử dụng cho

cả những tiết dạy lịch sử địa phương được quy định trong chương trình, trong
giờ học lịch sử dân tộc và hoạt động ngoại khoá. Tuy nhiên, trong biên soạn
cần lưu ý một số yêu cầu đó là: tính cơ bản, tiêu biểu của sự kiện, đảm bảo
được tính toàn diện, hệ thống của sự kiện và vừa sức với học sinh. Còn về
giảng dạy lịch sử địa phương, giáo viên nhất thiết phải dạy đầy đủ những tiết
lịch sử địa phương được quy định trong chương trình, đồng thời thường
xuyên sử dụng tài liệu lịch sử địa phương trong dạy học những bài học lịch sử
dân tộc. Về phương pháp dạy học lịch sử địa phương, giáo viên cần tuân thủ
theo nguyên tắc dạy học nói chung. Tuy nhiên cần chú ý tính cụ thể, hình ảnh
và xúc cảm cho học sinh. Rèn luyện khả năng tự học của học sinh, đồng thời
tăng cường tổ chức các hoạt động học tập như trao đổi, thảo luận trình bày ý
kiến riêng của mình. Về hình thức tổ chức dạy học, cần phải đa dạng hoá các


24
hình thức tổ dạy lịch sử địa phương như: dạy học trên lớp, tại thực địa, tại bảo
tàng và tổ chức các hoạt động ngoại khoá.
Tóm lại, có thể nói, qua các năm học, lịch sử địa phương đã và đang
khẳng định vai trò, chức năng, ưu thế của mình trong nhà trường phổ thông.
Công tác nghiên cứu giảng dạy lịch sử địa phương ngày càng được quan tâm,
số lượng người tham gia tích cực vào công tác đó càng đông thì yêu cầu xây
dựng chương trình, phương pháp nghiên cứu, biên soạn cụ thể càng cấp thiết
và chặt chẽ.
1.2.2. Tình hình dạy học lịch sử địa phương trong các trường phổ thông
Xuất phát từ nhận thức đúng đắn về vai trò của lịch sử địa phương

trong chương trình giáo dục, công tác nghiên cứu và giảng dạy lịch sử địa
phương đã được đề ra từ rất sớm ở các nước xã hội chủ nghĩa cũng như ở các
nước tư bản chủ nghĩa.
Trong các hội nghị sử học Quốc tế, vấn đề lịch sử địa phương và
chuyên ngành cũng chiếm một vị trí quan trọng trong nội dung thảo luận.
Nhiều nước trên thế giới rất quan tâm đến việc nghiên cứu và giảng dạy lịch
sử địa phương như cộng hòa dân chủ Đức, Hungari… và đặc biệt là Liên Xô
(cũ). Sau cách mạng tháng Mười (1917), chính phủ Xô Viết rất chú ý đến
công tác sử học, đặc biệt là về lịch sử địa phương. Văn kiện đầu tiên về giáo
dục của Liên Bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết (1918) đã đặt ra và
yêu cầu sử dụng hình thức và phương pháp dạy học lịch sử địa phương trong
giờ học nội khóa ở trường phổ thông. Từ năm học 1920 – 1921, môn Địa

phương học được đưa vào giảng dạy ở các trường và sau đó trở thành tài liệu
bắt buộc ở các trường trung học. Đến năm 1930 Địa phương học được đưa
vào giảng dạy ở các trường Đại học Sư phạm. Từ những năm 50 trở đi, với
việc thành lập các “Hội bảo tàng địa phương” (1950), “Hội bảo vệ các di tích

25
lịch sử và văn hóa” (1966) ; hoạt động nghiên cứu lịch sử địa phương ngày
càng được đẩy mạnh.
Ở Hungari trước đây, công tác nghiên cứu, giảng dạy lịch sử địa
phương cũng rất được quan tâm. Những “làng bảo tàng” địa phương được
thành lập trên cơ sở sự kết hợp giữa nhà trường và các cơ quan chuyên môn
lịch sử văn hóa tổ chức cho học sinh sưu tầm tài liệu.

Ở nhiều nước, đặc biệt là khu vực Đông Nam Á, lịch sử địa phương đã
gắn chặt với hoạt động của ngành du lịch. Do đó, môi trường sinh thái nói
chung, môi trường văn hóa nói riêng được bảo vệ chặt chẽ, vốn văn hóa độc
đáo đặc thù trong lịch sử dân tộc được khai thác hợp lý và phát huy được các
giá trị của nó.
Ở Việt Nam, trước cách mạng tháng Tám 1945 đã có nhiều tài liệu lịch
sử địa phương như các gia phả, thần phả, địa phương chí. Từ sau năm 1954,
tầm quan trọng của công tác nghiên cứu lịch sử địa phương được nhấn mạnh.
Tuy nhiên, công tác này chưa được tiến hành đều đặn, kết quả nghiên cứu còn
hạn chế do hoàn cảnh đất nước chia cắt, chiến tranh. Từ những năm 60, việc
nghiên cứu lịch sử địa phương được đẩy mạnh và thu được những kết quả ban
đầu. Các trường đại học sư phạm và phổ thông đã có các hoạt động đưa sinh

viên, học sinh đi nghiên cứu thực địa, tổ chức cho học sinh học lịch sử địa
phương tại thực địa, thăm di tích lịch sử, ngoại khóa về lịch sử địa phương.
Từ sau năm 1975, đất nước hòa bình, thống nhất; việc nghiên cứu và giảng
dạy lịch sử địa phương đã được mở rộng và phát triển. Các Sở giáo dục và
đào tạo ở nhiều tỉnh thành như Hà Nội, Hải Phòng, Bình Định… đã thực hiện
việc biên soạn lịch sử địa phương dùng trong nhà trường phổ thông.
Nhìn chung, hiệu quả giáo dục, giáo dưỡng của lịch sử địa phương
trong nhà trường tuy đã được nâng lên song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu
của công tác giáo dục hiện nay. Mặc dù các môn học về địa phương ở trường

×