Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Nghiên cứu một số chỉ số sinh học và hoạt động thần kinh cấp cao của học sinh tiểu học và trung học cơ sở xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (872.43 KB, 127 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2







LÊ THỊ NHỊ




NGHIÊN CỨU MỘT SỐ CHỈ SỐ
SINH HỌC VÀ HOẠT ĐỘNG THẦN KINH
CẤP CAO CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC VÀ
TRUNG HỌC CƠ SỞ XÃ ĐÌNH TỔ,
HUYỆN THUẬN THÀNH,
TỈNH BẮC NINH

Chuyên ngành : Sinh học thực nghiệm
Mã số : 60 42 30

LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC


Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS TRẦN THỊ LOAN








HÀ NỘI, 2009
2


LI CM N


Em xin chân thành cm n PGS.TS Trn Th Loan, ngi ã tn tâm hng dn,
giúp , ng viên em trong sut quá trình thc hin lun vn.
Em cng xin bày t lòng bit n sâu sc n GS.TSKH T Thúy Lan, TS. Mai Vn
Hng ã nhit tình giúp  em trong quá trình thc hin lun vn.
Em xin chân thành cm n Ban Giám hiu, phòng Sau i hc, các thy, cô trong
Ban Ch nhim Khoa Sinh hc Trng i hc S phm Hà Ni 2 ã to iu kin
giúp  em hoàn thành lun vn này.
Tôi xin cm n các thy giáo, cô giáo Trng Tiu hc và Trng Trung hc c s
xã ình T, huyn Thun Thành, tnh Bc Ninh ã tn tình giúp  tôi trong sut
quá trình hc tp và nghiên cu.
Tôi xin chân thành cm n các bn bè, ng nghip cùng gia ình ã quan tâm,
ng viên tôi trong quá trình thc hin lun vn.
Hà Ni, tháng 10 nm 2009

Tác gi



Lê Th Nh

3

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và kết quả
nêu trong luận văn là chân thực và chưa từng được công bố trong bất cứ một công
trình khoa học nào.

Tác giả



Lê Thị Nhị






4

MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu viết
Danh mục các bảng
Danh mục các hình vẽ, đồ thị

Trang
MỞ ĐẦU 01
NỘI DUNG 03
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 03
1.1. Đặc điểm về thể lực 03
1.2. Các chỉ số hoạt động thần kinh cấp cao 07
1.2.1. Đặc điểm về trí tuệ 07
1.2.2. Đặc điểm về trí nhớ 12
Chương 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 14
2.1. Đối tượng nghiên cứu 14
2.2. Phương pháp nghiên cứu 15
Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 21
3.1. Các chỉ số thể lực của học sinh 21
3.1.1. Chiều cao của học sinh 21
3.1.2. Cân nặng của học sinh 29
3.1.3. Vòng ngực trung bình của học sinh 36
3.1.4. Chỉ số pignet của học sinh 44
3.1.5. Chỉ số BMI của học sinh 47
3.2. Các chỉ số hoạt động thần kinh cấp cao của học sinh 50
3.2.1. Chỉ số IQ và các mức trí tuệ 50
3.2.2. Trí nhớ của học sinh 57
Chương 4. BÀN LUẬN 66
4.1. Các chỉ số thể lực của học sinh 66
4.1.1. Chiều cao của học sinh 66
4.1.2. Cân nặng của học sinh 69
4.1.3. Vòng ngực trung bình của học sinh 71
4.1.4. Chỉ số pignet và chỉ số BMI của học sinh 73
4.2. Một số chỉ số hoạt động thần kinh cấp cao của học sinh 77
4.2.1. Chỉ số IQ và các mức trí tuệ 77
4.2.2. Trí nhớ của học sinh 78

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 83

5
CHỮ VIẾT TẮT
TƯ : Trung ương
BMI : Chỉ số khối cơ thể (Body mass index)
cs : Cộng sự
HSSH : Hằng số sinh học
IQ : Intelligence Quotient (Chỉ số thông minh)
Nxb : Nhà xuất bản
SD : Standard Diviation (Độ lệch chuẩn)
THCS : Trung học cơ sở
MA : Tuổi trí tuệ
CA : Tuổi thực
WHO : Tổ chức Y tế thế giới



6
DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN VĂN
Bảng 2.1. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo tuổi và giới tính
Bảng 2.2. Phân loại theo chỉ số pignet
Bảng 2.3. Bảng phân loại theo chỉ số BMI
Bảng 2.4. Phân loại theo mức trí tuệ
Bảng 3.1. Chiều cao (cm) của học sinh nam
Bảng 3.2. Chiều cao (cm) của học sinh nữ
Bảng 3.3. Chiều cao (cm) của học sinh theo giới tính
Bảng 3.4. Cân nặng (kg) của học sinh nam
Bảng 3.5. Cân nặng (kg) của học sinh nữ

Bảng 3.6. Cân nặng (kg) của học sinh theo giới tính
Bảng 3.7. Vòng ngực trung bình (cm) của học sinh nam
Bảng 3.8. Vòng ngực trung bình (cm) của học sinh nữ
Bảng 3.9. Vòng ngực trung bình (cm) của học sinh theo giới tính
Bảng 3.10. Chỉ số pignet của học sinh theo giới tính
Bảng 3.11. Chỉ số BMI của học sinh theo giới tính
Bảng 3.12. Chỉ số IQ của học sinh
Bảng 3.13. Chỉ số IQ của học sinh theo giới tính
Bảng 3.14. Phân bố học sinh theo các mức trí tuệ
Bảng 3.15. Phân bố học sinh theo các mức trí tuệ và theo giới tính
Bảng 3.16. Trí nhớ thị giác của học sinh
Bảng 3.17. Trí nhớ thính giác của học sinh
Bảng 3.18. So sánh trí nhớ thị giác và trí nhớ thính giác
của học sinh nam
Bảng 3.19. So sánh trí nhớ thị giác và trí nhớ thính giác của học sinh nữ
Bảng 4.1. Chiều cao đứng (cm) của học sinh theo nghiên cứu
của các tác giả khác nhau
Bảng 4.2. Cân nặng (kg) của học sinh theo nghiên cứu của
các tác giả khác nhau
Bảng 4.3.Vòng ngực trung bình (cm) của học sinh theo nghiên cứu
của các tác giả khác nhau
Bảng 4.4. Chỉ số pignet của học sinh theo nghiên cứu
của các tác giả khác nhau
Bảng 4.5. Chỉ số BMI của học sinh theo nghiên cứu của
các tác giả khác nhau








7











8
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ TRONG LUẬN VĂN
Hình 3.1. Chiều cao (cm) của học sinh nam
Hình 3.2. Chiều cao (cm) của học sinh nữ
Hình 3.3. Chiều cao (cm) của học sinh theo giới tính
Hình 3.4. Mức tăng chiều cao (cm) của học sinh theo giới tính
Hình 3.5. Cân nặng (kg) của học sinh nam
Hình 3.6. Cân nặng (kg) của học sinh nữ
Hình 3.7. Cân nặng (kg) của học sinh theo giới tính
Hình 3.8. Mức tăng cân nặng (kg) của học sinh theo giới tính
Hình 3.9. Vòng ngực trung bình (cm) của học sinh nam
Hình 3.10. Vòng ngực trung bình (cm) của học sinh nữ
Hình 3.11. Vòng ngực trung bình (cm) của học sinh theo giới tính
Hình 3.12. Mức tăng vòng ngực trung bình (cm) của học sinh
theo giới tính
Hình 3.13. Chỉ số pignet của học sinh theo giới tính

Hình 3.14. Sự biến đổi chỉ số pignet của học sinh theo giới tính
Hình 3.15. Chỉ số BMI của học sinh theo giới tính
Hình 3.16. Sự biến đổi chỉ số BMI của học sinh theo giới tính
Hình 3.17. Chỉ số IQ của học sinh
Hình 3.18. Chỉ số IQ của học sinh theo giới tính
Hình 3.19. Phân bố học sinh theo các mức trí tuệ và theo giới tính
Hình 3.20. Trí nhớ thị giác của học sinh
Hình 3.21. Trí nhớ thị giác của học sinh theo giới tính
Hình 3.22. Trí nhớ thính giác của học sinh
Hình 3.23. Trí nhớ thính giác của học sinh theo giới tính
Hình 4.1. Đồ thị biểu diễn chiều cao đứng (cm) của học sinh
theo nghiên cứu của các tác giả khác nhau
Hình 4.2. Đồ thị biểu diễn cân nặng (kg) của học sinh theo
nghiên cứu của các tác giả khác nhau
Hình 4.3. Đồ thị biểu diễn vòng ngực trung bình (cm) của học sinh
theo nghiên cứu của các tác giả khác nhau
Hình 4.4. Đồ thị biểu diễn chỉ số pignet của học sinh theo
nghiên cứu của các tác giả khác nhau
Hình 4.5. Đồ thị biểu diễn chỉ số BMI của học sinh theo nghiên cứu
của các tác giả khác nhau

PHẦN MỞ ĐẦU


1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
9
Thế kỷ XXI là thế kỷ của nền kinh tế tri thức, để bắt kịp và hội nhập với xu
thế phát triển chung của thế giới, thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước cần phải có những con người phù hợp với nó. Phát triển con người là mục
tiêu của sự phát triển kinh tế xã hội, là nhân tố cơ bản để đi vào công mghiệp hoá,

hiện đại hoá đất nước. Chính vì vậy, trong các văn kiện đại hội VIII và nghị quyết
TƯ II của Đảng về giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ đã khẳng định “Giáo
dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ phải thực sự trở thành quốc sách
hàng đầu”. Muốn xây dựng đất nước giàu mạnh văn minh phải có những con người
phát triển toàn diện về mặt trí tuệ, đạo đức, lối sống mà còn phải cường tráng về thể
chất. Hơn thế nữa, soạn giả Đông Các Đại Học Sỹ Thân Nhân Trung đã từng viết:
“Hiền tài là nguyên khí quốc gia. Nguyên khí vững thế nước mạnh và thịnh.
Nguyên khí kém thế nước yếu và suy”, (Trích trong bia văn miếu Quốc tử giám).
Vì vậy, việc nâng cao chất lượng giáo dục là một nhu cầu thiết yếu của mỗi
quốc gia, mỗi dân tộc và ở mọi thời đại. Các biện pháp nâng cao chất lượng giáo
dục và đào tạo chỉ được đưa ra một cách đúng đắn và phù hợp với thực tế của từng
địa phương trên cơ sở có các kết quả điều tra cơ bản về sự phát triển thể lực và trí
lực của học sinh.
Bắc Ninh là tỉnh nằm ở phía Bắc của thủ đô Hà Nội và đang trên đà đô thị
hoá, công nghiệp hóa rất mạnh. Do vậy, nhu cầu về nguồn lao động có sức khoẻ có
trình độ khoa học kỹ thuật là rất lớn. Với truyền thống hiếu học của đất Kinh Bắc
xưa, trong những năm gần đây nền giáo dục Bắc Ninh đang hoà chung cùng với sự
phát triển của công tác giáo dục và đào tạo trong toàn quốc. Để có phương pháp tác
động tối ưu nhất đến sự phát triển toàn diện của con người ở Bắc Ninh chúng tôi
chọn đề tài: “Nghiên cứu một số chỉ số sinh học và hoạt động thần kinh cấp cao
của học sinh tiểu học và trung học cơ sở xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh
Bắc Ninh.”
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Xác định được các chỉ số thể lực của học sinh tiểu học và trung học cơ sở
10
- Xác định được các chỉ số trí tuệ của học sinh tiểu học và trung học cơ sở.
- Xác định được các chỉ số trí nhớ của học sinh tiểu học và trung học cơ sở.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu được các chỉ số thể lực của học sinh như chiều cao, cân nặng,
vòng ngực, chỉ số pignet và chỉ số BMI.

- Nghiên cứu được các chỉ số trí tuệ của học sinh như chỉ số thông minh (IQ)
và sự phân bố học sinh theo các mức trí tuệ.
- Nghiên cứu được các chỉ số trí nhớ của học sinh như trí nhớ thị giác và trí
nhớ thính giác.
4. Những đóng góp mới của đề tài
Đánh giá đặc điểm phát triển của một số chỉ số thể lực và hoạt động thần
kinh cấp cao của học sinh tiểu học và trung học cơ sở xã Đình Tổ, huyện Thuận
Thành, tỉnh Bắc Ninh. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm
cơ sở cho nghiên cứu và giảng dạy về đặc điểm sự phát triển thể lực và trí tuệ của
trẻ em ở lứa tuổi học đường. Từ đó, đề ra các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác giáo dục, bảo vệ và chăm sóc trẻ em.
11
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
1.1. ĐẶC ĐIỂM VỀ THỂ LỰC
1.1.1. Các chỉ số về thể lực
Thể lực là khái niệm phản ánh cấu trúc tổng hợp của cơ thể, nó liên quan chặt
chẽ tới sức lao động và thẩm mỹ của con người. Chính vì vậy, từ lâu vấn đề thể lực
đã được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu [8], [9], [10], [17], [19], [33], [46],
[48], [51], [53], [57], [71], [74]
Các chỉ số thể lực của con người phản ánh mức độ phát triển tổng hợp của
các hệ thống cơ quan trong một cơ thể hoàn chỉnh, thống nhất. Ở bất kỳ người nào
cũng đều có mức độ phát triển thể lực nhất định.
Sự phát triển thể lực là quá trình thay đổi hình dáng, chức năng của cơ thể
con người trong đời sống cá thể. Các đặc điểm về hình thái thể lực còn mang tính
đặc thù về mặt chủng tộc, giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp được thể hiện trong môi
trường sống nhất định.
Trong mối quan hệ giữa môi trường và sức khoẻ các thông số hình thái thể
lực được coi là thước đo sức khoẻ và khả năng lao động của con người. Hay nói

cách khác, thể lực con người là một chỉ tiêu phức hợp. Thể lực của con người được
phản ánh qua những số đo kích thước cơ bản của cơ thể như chiều cao, cân nặng,
vòng ngực, chỉ số pignet, chỉ số BMI. Các chỉ số này, phản ánh sự tăng trưởng của
cơ thể con người từ lức mới sinh đến lúc chết đồng thời mang tính di truyền của
mỗi dân tộc và từng cá thể [70].
Trong các chỉ số trên, chiều cao là dấu hiệu được nhận biết sớm hơn cả, nó là
một trong những kích thước được sử dụng trong hầu hết các lĩnh vực của nhân trắc
học. Chiều cao phản ánh quá trình phát triển của các xương (xương đầu, xương
12
thân, xương chi), chiều cao nói lên tầm vóc của một người. Chiều cao mang đặc
tính của từng chủng tộc, giới tính và chịu ảnh hưởng của môi trường sống.
Trọng lượng cơ thể cũng là một số đo thường được sử dụng trong tất cả các
công tác điều tra cơ bản cũng như hàng ngày. “Trọng lượng là biểu hiện thực chất
của thể lực” [14]. Trọng lượng cơ thể gồm có 2 phần: là phần cố định và phần thay
đổi. Phần cố định bao gồm: xương, da, các tạng và thần kinh chiếm 1/3 tổng số cân
nặng của cơ thể. Phần còn lại chiếm 2/3 tổng số cân nặng là phần thay đổi, trong đó
trọng lượng cơ chiếm 3/4 còn 1/4 là mỡ và nước. Như vậy, khi tăng trọng lượng thì
phần thay đổi chủ yếu là cơ. Trọng lượng cơ thể liên quan chặt chẽ tới dinh dưỡng
ít phụ thuộc vào di truyền. Mặc dù trọng lượng cơ thể không nói nên tầm vóc của
con người nhưng sự phát triển của nó liên quan đến nhiều kích thước khác nên
thường được khảo sát để đánh giá thể lực [14].
Một đặc trưng tiêu biểu khác của thể lực là vòng ngực. Một người có vòng
ngực rộng thì có thể lực tốt [46].
Việc nghiên cứu thể lực đã có từ rất lâu đời nhưng sang đến đầu thế kỷ 20
nhà nhân trắc học R.Martin được coi là người đặt nền móng cho nhân trắc học hiện
đại với hai cuốn sách nổi tiếng của mình là “Giáo trình về nhân học” và “Chỉ nam
đo đạc cơ thể và xử lý thống kê”. Ông đã đưa ra các phương pháp đo đạc cơ thể, có
những phương pháp được sử dụng cho đến ngày nay (theo [51]).
Năm 1962, tác giả P.N. Baskirop đã xuất bản cuốn sách “Học thuyết về sự
phát triển cơ thể người”. Từ đó, ông nhận thấy rằng sự phát triển của cơ thể con

người chịu ảnh hưởng của điều kiện sống (theo [70]). Còn tác giả F.Vandervael
(1964) với cuốn sách “ Nhân trắc học” thì cho rằng, sự phát triển thể lực của con
người chịu ảnh hưởng của giới tính, lứa tuổi và nghề nghiệp (theo [74]). Ông đã
xây dựng thang phân loại thể lực theo các chỉ số thể lực dựa vào trung bình cộng và
độ lệch chuẩn. Cùng với sự phát triển của các ngành khoa học khác như Di truyền
học, Sinh lý học, Sinh thái, Toán thống kê xác suất, việc nghiên cứu các chỉ số thể
lực của con người ngày càng đa dạng hơn.
13
Năm 1754, tác giả C.F.Jumpert (theo [70]) là người đầu tiên nghiên cứu các
chỉ số hình thái của con người. Dựa vào phương pháp cắt ngang ông đã nghiên cứu
sự tăng trưởng chiều cao, cân nặng và vòng ngực của con người ở giai đoạn từ 1 –
25 tuổi. Cũng trong thời gian đó P.Monbeilard (theo [70]) nghiên cứu dọc trên con
trai của mình trong suốt 18 năm liên tục.
Năm 1875, tác giả Mondier là người đầu tiên tiến hành nghiên cứu hình thái
thể lực của người Việt Nam (theo [70]).
Các công trình nghiên cứu trước năm 1975 được Nguyễn Tấn Gi Trọng và
các tác giả khác tổng kết và trình bày trong quyển “Hằng số sinh học người Việt
Nam” [71]. Các thông số trong quyển sách này đã cho biết tương đối đầy đủ các trị
số về thể lực người Việt Nam ở mọi lứa tuổi. Sau đó, đã có một số công trình
nghiên cứu về đặc điểm thể lực của người Việt Nam [14], [19], [24], [33], [51],
[54], [57], [60], [66], [74] Kết quả nghiên cứu của một số tác giả cho thấy, chiều
cao, trọng lượng cơ thể trung bình của người Việt Nam nhỏ hơn so với người Âu,
Mỹ ở mọi lứa tuổi, nhịp độ tăng trưởng chậm, thời kỳ tăng trưởng kéo dài hơn và
bước vào thời kỳ nhảy vọt tăng trưởng dậy thì cũng muộn hơn [70], [71]. Tăng
trưởng nhảy vọt về chiều cao của nữ xuất hiện ở thời điểm 12 – 13 tuổi, còn của
nam là 13 – 16 tuổi và đến 23 tuổi đạt giá trị tối đa, còn tăng trưởng nhảy vọt về
cân nặng ở nữ xuất hiện lúc 13 tuổi và ở nam lúc 15 tuổi. Thời điểm kết thúc tăng
trưởng cân nặng của cơ thể diễn ra lúc 19 tuổi ở nữ và 20 tuổi ở nam. Như vậy, nữ
bước vào thời kỳ tăng tiến, thời kỳ ổn định chiều cao và cân nặng sớm hơn so với
nam [51].

Tác giả Trịnh Văn Minh và cs [60] đã nghiên cứu các chỉ tiêu nhân trắc hình
thái thể lực người miền Bắc Việt Nam trưởng thành trong thập niên 90. Kết quả
nghiên cứu của các tác giả này cho thấy, sau tuổi dậy thì ở lứa tuổi thanh niên các
kích thước hình thái thể lực của cơ thể vẫn tiếp tục tăng và đạt đỉnh cao vào lúc 20
– 21 tuổi ở nữ và 22 tuổi ở nam. Trong giai đoạn này, chiều cao, cân nặng và các
kích thước liên quan đến thể lực của nam giới luôn cao hơn so với nữ giới, còn các
14
chỉ số hình thái khác liên quan đến dinh dưỡng, khối mỡ thì ở nữ lại cao hơn so với
nam.
Trong đề tài KX – 07 – 07, Lê Nam Trà và cs nhận thấy, không chỉ ở trẻ em
mà ngay cả ở thanh niên trong giai đoạn từ 18 – 25 tuổi cơ thể vẫn tiếp tục tăng
trưởng. Tuy nhiên, mức độ tăng trưởng không nhiều như ở những giai đoạn trước
đó. Đến tuổi 25, ở cả hai giới các chỉ số thể lực ổn định như ở tuổi trưởng thành
[70].
Khi nghiên cứu các chỉ số nhân trắc trên 8000 người Việt Nam từ 1 – 55
tuổi trên toàn quốc, Thẩm Thị Hoàng Điêp và cs [19] đã thu được kết quả: Chiều
cao trung bình của nam trưởng thành là 163 cm và ở nữ là 158 cm. Chiều cao của
nam tăng nhanh đến 18 tuổi, còn của nữ tăng nhanh đến 14 tuổi. Vòng ngực trung
bình của nam trưởng thành là 78 cm và của nữ là 79 cm.
Đào Huy Khuê [33] nghiên cứu các đặc điểm về kích thước hình thái, về sự
tăng trưởng và sự phát triển cơ thể của học sinh phổ thông 6 – 17 tuổi ở thị xã Hà
Đông cũng nhận thấy, các chỉ số hình thái của học sinh tăng dần theo tuổi, nhưng
tốc độ tăng không đồng đều giữa các năm.
Năm 1993, Nghiêm Xuân Thăng [66] đã tiến hành nghiên cứu 17 chỉ số hình
thái của người Việt Nam từ 1 – 25 tuổi ở tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Kết quả nghiên
cứu cho thấy, các chỉ số về chiều cao, cân nặng, vòng ngực, vòng đầu… của cư dân
Nghệ Tĩnh phần lớn thấp hơn so với các chỉ số này của dân cư vùng đồng bằng Bắc
Bộ. Tác giả còn nhận thấy, có sự khác biệt về các chỉ số hình thái thể lực theo giới
tính. Ở tất cả các độ tuổi, chiều cao của nam luôn lớn hơn của nữ. Theo tác giả,
điều kiện sống đã ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển các chỉ số hình thái

của con người.
Công trình nghiên cứu “Đặc điểm nhân trắc học” của Nguyễn Đức Hồng
[28] trên đối tượng người Việt Nam trong lứa tuổi lao động. Tác giả nhận thấy,
chiều cao người Việt Nam trong lứa tuổi lao động (trung bình là 163 cm ở nam và
15
153 cm ở nữ) thuộc loại trung bình thấp so với thế giới, trọng lượng nhẹ, một số chỉ
số nhân trắc hình thái có số đo tăng dần từ Bắc vào Nam.
Năm 1996, Trần Đình Long và cs khi nghiên cứu trên học sinh phổ thông từ
17 – 18 tuổi tại một số trường học ở Hà Nội thì nhận thấy, sự phát triển cơ thể ở cả
hai giới đều chậm lại rõ rệt hoặc chững [53], [54].
Tác giả Đào Mai Luyến [56] nghiên cứu thể lực của người Ê Đê và người
Kinh định cư ở ĐakLak nhận thấy rằng, hình thái thể lực của người Ê Đê tốt hơn
của người Kinh định cư ở ĐakLak. Tác giả cũng lý giải rằng, khả năng tăng trưởng
hình thái thể lực chịu ảnh hưởng của chủng tộc, môi trường sống.
Tác giả Trần Thị Loan đã nghiên cứu một số chỉ số thể lực và trí tuệ của học
sinh từ 6 – 17 tuổi tại quận Cầu Giấy – Hà Nội. Kết quả cho thấy, trong cùng thời
điểm nghiên cứu, các chỉ số chiều cao, trọng lượng cơ thể của học sinh ở Hà Nội có
trị số lớn hơn so với học sinh ở Thái Bình và Hà Tây và cũng lớn hơn các kết quả
nghiên cứu của các tác giả từ những thập kỷ 80 trở về trước. Điều đó được giải
thích bằng sự ảnh hưởng của điều kiện sống tới sự sinh trưởng và phát triển, đồng
thời cũng phản ánh hiện tượng tăng tốc sinh trưởng và phát triển của trẻ em trong
những năm gần đây.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về hình thái thể lực của học sinh, sinh
viên và thanh niên Việt Nam khá phong phú và đa dạng. Các kết quả nghiên cứu
đều cho thấy, các chỉ số hình thái thể lực đều có sự tăng lên đáng kể so với số liệu
trong các nghiên cứu từ nhiều năm trước đây. Đặc biệt là từ khi đất nước được đổi
mới, các điều kiện kinh tế – xã hội trở nên tốt hơn, đã có ảnh hưởng lớn tới sức
khoẻ và tầm vóc của người Việt Nam. Các chỉ số này đều được xác định là có sự
biến đổi theo lứa tuổi và giới tính. Trong quá trình phát triển của trẻ em có hai giai
đoạn tăng trưởng nhảy vọt và có sự khác biệt giữa nam và nữ, giữa các vùng miền

khác nhau.
1.2. Các chỉ số hoạt động thần kinh cấp cao
1.2.1. Đặc điểm về trí tuệ
16
Theo tiếng Latinh, trí tuệ (Intellectus) có nghĩa là hiểu biết, thông tuệ. Theo
“Từ điển tiếng Việt” [64], trí tuệ là khả năng nhận thức lý tính đạt đến một trình độ
nhất định. Trí tuệ là khả năng hoạt động trí óc của con người. Vì vậy, việc nghiên
cứu trí tuệ là một trong số những vấn đề liên ngành được nhiều người quan tâm.
Các nhà khoa học đã dùng thuật ngữ “năng lực trí tuệ” để biểu thị cho năng lực
hoạt động của chủ thể. Xung quanh vấn đề này, có rất nhiều quan điểm khác nhau.
Muốn nghiên cứu và đánh giá trí tuệ thì trước tiên phải hiểu khái niệm về trí tuệ, có
rất nhiều quan điểm về trí tuệ.
Theo F.Raynal, A.Rieunier (theo [35]), trí tuệ là khả năng xử lý thông tin để
giải quyết vấn đề một cách nhanh chóng, thích nghi với tình huống mới.
Còn N.Sillamy (theo [35]), thì cho rằng trí tuệ là khả năng hiểu các quan hệ
sẵn có giữa các yếu tố của tình huống và thích nghi để thực hiện lợi ích của bản
thân.
Đa số các nhà tâm lý học (theo [35]) thì cho rằng, trí tuệ là khả năng giải đáp
các vấn đề mới bằng cách thích nghi kinh nghiệm và tri thức riêng với tình huống
cụ thể và thoát khỏi các khó khăn gặp phải ngoài các phương thức đã học.
Tác giả nguyễn Khắc Viện (theo [35]), thì gọi intelligent là “Trí” mang nhiều
nghĩa về khả năng hiểu biết, suy luận, sáng tạo. Ông cho rằng, hành động thích
nghi với biến động của hoàn cảnh thiên về hành động thì gọi là trí khôn, thiên về tư
duy trừu tượng thì gọi là trí tuệ.
Tác giả E.Thordike (theo [68]) thì cho rằng, có ít nhất 3 kiểu trí tuệ. Đó là trí
tuệ trừu tượng, trí tuệ thực tiễn và trí tuệ sáng tạo.
Dearben thì coi trọng năng lực luyện tập, L.Terman nhấn mạnh vào năng lực
tư duy trừu tượng (theo [68]). Stern (1952) lại cho rằng, trí tuệ là năng lực thích
ứng với ngoại cảnh, A.Binet (theo [68]) lại xem năng lực trí tuệ gồm nhiều năng
lực riêng rẽ, còn N.X.Laytex cho rằng: “Năng lực trí tuệ trước hết phản ánh bản

chất trí tuệ, biểu thị khả năng nhận thức lí luận và hoạt động của con người” (theo
[68]). Sở dĩ, năng lực trí tuệ được hiểu theo nhiều cách như vậy là vì nó biểu hiện
17
ra nhiều mặt và liên quan đến nhiều hiện tượng tâm lý khác nhau. Năng lực trí tuệ
có thể biểu hiện ở mặt nhận thức như nhanh biết, nhanh nhớ hoặc biết suy xét
nhanh chóng để tìm ra các quy luật. Năng lực trí tuệ liên quan đến các chức năng
tâm lý như nhận thức được đặc điểm bản chất của tình huống mới hoặc tự mình nêu
ra được vấn đề cần giải quyết. Đồng thời sáng tạo ra công cụ mới, phương pháp
mới, cách thức mới phù hợp với hoàn cảnh mới trên cơ sở những tri thức và kinh
nghiệm vốn có [69].
Ngoài các cách hiểu như trên, năng lực trí tuệ còn được hiểu ở các phẩm chất
khác như óc tò mò, lòng say mê, sự hứng thú, sự kiên trì và miệt mài. Năng lực trí
tuệ còn thể hiện ra hành động như nhanh trí, tháo vát, linh hoạt sáng tạo hay thể
hiện ở khả năng tưởng tượng như óc tưởng tưởng tượng phong phú, hình dung ngay
và đúng điều người khác nói. Do đó, có thể nói năng lực trí tuệ biểu hiện ở cả hai
mặt nhận thức và hành động. Như vậy, trong ba quan điểm trên thì quan điểm thứ
ba là đúng đắn nhất và được nhiều người ủng hộ.
Xung quanh vấn đề trí tuệ, các nhà khoa học còn dùng các thuật ngữ “trí
khôn”, “trí lực”, “trí thông minh”. Trí khôn là một sự thích nghi tinh thần vào các
hoàn cảnh mới [62]. Buller thì cho rằng: “Trí khôn chỉ xuất hiện với những hành vi
nắm hiểu đột ngột” (theo [62]). Còn D.Wechsler [78] lại coi trí khôn là tổng thể của
nhiều chức năng trí tuệ, gắn chặt với nhiều điều kiện văn hoá xã hội nơi con người
sinh ra và lớn lên.
Trí lực là năng lực hoạt động của cá nhân trong những hoàn cảnh nhất định.
Tuy nhiên, khi xem xét trí lực cần tính đến các yếu tố nhân cách của cá nhân đó.
Thông minh là một phẩm chất tổng hợp của trí tuệ. Cốt lõi của trí thông minh là
phẩm chất tư duy tích cực, độc lập, linh hoạt, sáng tạo trước những vấn đề thực tiễn
hoặc lí luận và sự liên quan chặt chẽ của nó với trình độ văn hoá của mỗi người
[47].
Như vậy, các thuật ngữ trí tuệ, trí khôn, trí thông minh đều được dùng để chỉ

khả năng hoạt động trí óc của con người. Tuy nhiên, các thuật ngữ trên không đồng
18
nhất với nhau. “Trí khôn”, “trí thông minh”, “trí lực” là các phạm trù hẹp hơn nằm
trong nội hàm trí tuệ.
Đánh giá năng lực trí tuệ của con người là một vấn đề rất phức tạp. Có nhiều
phương pháp đo lường trí tuệ khác nhau như quan sát, điều tra, thực nghiệm, trắc
nghiệm …Tuy nhiên, phương pháp được sử dụng phổ biến hơn cả là phương pháp
trắc nghiệm (test). Mục đích của trắc nghiệm trí tuệ là xác định được năng lực trí
tuệ của con người qua các chỉ số cơ bản như chỉ số IQ và mức trí tuệ.
Năm 1905, A.Binet và T.Simon đã dùng test nghiên cứu trí tuệ để phân biệt
trẻ em học kém bình thường với trẻ em học kém do trí tuệ phát triển chậm (theo
[69]). Sau đó, test nghiên cứu trí tuệ của A.Binet và T.Simon đã được cải tiến nhiều
lần để dùng cho trẻ em và người lớn.
Năm 1912, V.Stern đã đưa ra cách tính chỉ số thông minh để đánh giá trình
độ phát triển trí tuệ của trẻ em ở từng độ tuổi (theo [69]). Theo ông, chỉ số IQ là
thương số giữa tuổi trí tuệ (MA) và tuổi thực tính theo ngày tháng năm sinh (CA).
R. Meili đã dùng test trí tuệ vào công việc tư vấn học đường và tư vấn nghề
nghiệp (theo [69]).
Để nghiên cứu trình độ phát triển trí tuệ của trẻ em, người ta còn sử dụng
nhiều loại test đo lường trí tuệ khác như test phân tích nghiên cứu trí tuệ của Meili
(1828), test khuôn hình tiếp diễn của Raven (1936), test trí tuệ đa dạng của Gille
(1944), test trí thông minh của người lớn WAIS (1955) của D. Wechslerr, test cấu
trúc trí tuệ của Anthauer (1953) (theo [69]).
Như vậy, test đã trở thành phương pháp cơ bản của khoa học chẩn đoán trí
tuệ từ cuối thế kỷ XIX đến nay.
Việc nghiên cứu trí tuệ ở Việt Nam được tiến hành chậm hơn so với thế giới.
Trước năm 1975, việc nghiên cứu trí tuệ của con người chưa được quan tâm nhiều.
Chỉ có rất ít công trình được thực hiện trong nghành Y tế với mục đích chẩn đoán
trí tuệ của bệnh tâm thần ở một số bệnh viện [68]. Từ cuối thập niên 80 cho đến
nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu trí tuệ của người Việt Nam.

19
Năm 1989, Trần Trọng Thuỷ [67] nghiên cứu sự phát triển trí tuệ của học
sinh quận Hoàn Kiếm, Hà Nội bằng test Raven. Ông đã nghiên cứu chiều hướng,
cường độ và chất lượng phát triển của học sinh và nhận thấy rằng, trình độ phát
triển trí tuệ của học sinh Việt Nam không thua kém so với học sinh nước ngoài.
Năm 1994, Trịnh Văn Bảo và cs đã nghiên cứu mối liên quan giữa yếu tố di
truyền và sự phát triển trí tuệ ở học sinh. Kết quả cho thấy, di truyền là tiền đề cho
sự phát triển trí tuệ của con người [2], [3].
Các tác giả Tạ Thuý Lan và Võ Văn Toàn khi nghiên cứu khả năng trí tuệ
của học sinh tiểu học và trung học cơ sở Hà Nội và Quy Nhơn đã xác định được
rằng trí tuệ của học sinh phát triển theo lứa tuổi và năng lực trí tuệ của học sinh
Quy Nhơn thấp hơn so với học sinh Hà Nội. Khả năng hoạt động trí tuệ của học
sinh liên quan với quá trình hoàn chỉnh hoá điện não đồ, đặc biệt là ở thùy chẩm và
thùy trán [39], [65].
Tạ Thuý Lan, Mai Văn Hưng khi nghiên cứu trí tuệ học sinh Thanh Hoá
nhận thấy rằng, năng lực trí tuệ của học sinh tăng theo tuổi, đồng thời năng lực trí
tuệ có mối tương quan thuận với học lực [44].
Tạ Thuý Lan và Trần Thị Loan [40], [42] khi nghiên cứu trí tuệ của học sinh
nông thôn và thành phố Hà Nội bằng test Raven cho thấy, khả năng hoạt động trí
tuệ của học sinh nông thôn thấp hơn so với học sinh ở Hà Nội, không có sự khác
biệt rõ rệt giữa học sinh nam và học sinh nữ về năng lực trí tuệ.
Trần Thị Loan [50], [51] khi nghiên cứu mối quan hệ giữa năng lực trí tuệ
và học lực của học sinh phổ thông thì nhận thấy rằng, trí tuệ và học lực của học
sinh có mối tương quan thuận nhưng không chặt chẽ.
Trần Thị Loan đã nghiên cứu trí tuệ của học sinh từ 6 – 17 tuổi thuộc quận
Cầu Giấy - thành phố Hà Nội. Kết quả nghiên cứu của tác giả cho thấy, quá trình
phát triển trí tuệ của học sinh diễn ra liên tục với tốc độ tương đối đồng đều giữa
các năm và không có sự khác biệt theo giới tính. Chỉ số thông minh (IQ) của học
sinh có mối tương quan nghịch với chỉ số pignet và tương quan thuận với chỉ số
20

BMI nhưng mối tương quan này không chặt chẽ. Chỉ số thông minh (IQ) của học
sinh có mối tương quan thuận với trí nhớ và năng lực học tập của các em [51].
1.2. Đặc điểm về trí nhớ
Trí nhớ là hình thức hoạt động liên quan đến toàn bộ đời sống tâm lý của con
người và là thành phần quan trọng của trí tuệ. Trí nhớ là sự tiếp nhận, sự tái tạo
những sự vật những hiện tượng mà con người đã cảm giác, đã suy nghĩ, đã hành
động. Trí nhớ của con người có bản chất là sự hình thành các đường liên hệ thần
kinh tạm thời, lưu giữ và tái hiện chung các cảm giác đơn lẻ được tạo ra khi các sự
vật, hiện tượng trong thế giới khách quan tác động vào cơ thể. Trên cơ sở các cảm
giác đơn lẻ, não đã phân tích, tổng hợp để cho tri giác trọn vẹn các sự vật hiện
tượng và để lại dấu vết của chúng trên vỏ não [67].
Các nhà khoa học đã chia trí nhớ thành hai nhóm chính là trí nhớ dài hạn và
trí nhớ ngắn hạn. Trong đó, trí nhớ dài hạn là sự lưu giữ thông tin trong một khoảng
thời gian dài, như trong vài ngày, vài tuần hoặc lâu hơn. Nó liên quan đến sự thay
đổi bền vững về mặt vi thể hình thành các protein hoạt hoá. Còn trí nhớ ngắn hạn,
là sự lưu giữ thông tin trong khoảng thời gian ngắn, có khi chỉ đến vài giây. Nó liên
quan đến sự lưu thông hưng phấn trong các vùng noron [37], [38]. Có nhiều quan
điểm khác nhau để lí giải cơ chế ghi nhớ.
Hyden thì cho rằng, cơ sở của trí nhớ là sự thay đổi trong cấu trúc của phân
tử axit ribonucleic (theo [52]). Để giải thích cơ sở sinh lý học của trí nhớ, Tạ Thúy
Lan cho rằng, khi một kích thích nào đó tác động nhiều lần vào vùng noron sẽ làm
xuất hiện các điện thế hoạt động đặc trưng cho nó và làm thay đổi sự cân bằng ion
trong sinh chất của tế bào thần kinh liên hợp, Từ đó, hoạt hoá axit deoxyribonucleic
(AND) trong nhân tế bào, làm thay đổi cấu trúc của nó theo một cách nhất định
nhằm tạo ra axit ribonucleic (ARN), ARN trung gian đặc biệt sẽ tham gia vào quá
trình hình thành protein trong sinh chất đặc trưng cho từng cá thể. Protein đặc biệt
xuất hiện dưới tác động của các xung điện với tần số thay đổi theo một cách nhất
định có thể tồn tại trong một khoảng thời gian dài và có thể tái hiện lại. Việc cải tổ
21
ARN và hình thành protein đặc trưng xảy ra ngay từ lần kích thích đầu tiên và tồn

tại rất lâu [37].
Tác giả Levitov thì giải thích rằng, mỗi lần tế bào bị hoạt hoá lại xuất hiện
ARN trung gian và một loại protein hoạt hoá [56]. Song các chất này không mang
tính đặc trưng cho từng trường hợp cụ thể như Hyden dự đoán. Chúng chỉ khác
nhau về nồng độ và cách phân bố bên trong tế bào tuỳ thuộc vào vùng sau xynap bị
hoạt hoá. Khi các vùng noron bị hoạt hoá thì protein hoạt hoá bền vững không chỉ
xuất hiện theo cách nguyên phát tại vùng sau xynap của các noron liên hợp. Nó còn
chịu tác động của hưng phấn thứ phát ngược chiều từ các sợi trục tới. Nhờ vậy, chỉ
cần tác động vào một phần nào đó của vật thể hay vào môi trường tồn tại của nó
cũng đủ để làm cho toàn bộ vòng noron hoạt động [38].
Còn W. Penfield lại cho rằng, trong não có trung khu nhớ và mọi kích thích
tác động lên cơ thể đều được giữ lại dưới dạng lưu trữ (theo [52]).
Khi nghiên cứu trên một số địa bàn tỉnh Hà Tĩnh và Nghệ An, Nghiêm Xuân
Thăng nhận thấy, khả năng ghi nhớ của con người biến đổi theo sự biến động của
nhiệt độ, độ ẩm, cường độ bức xạ và sự đối lưu không khí trong môi trường sống
[66].
Trịnh Văn Bảo [2], [3] nghiên cứu trí nhớ của học sinh trường năng khiếu
Marie - Curie và trường phổ thông cơ sở Tô Hoàng Hà – Nội nhận thấy, trí nhớ
gần của nhóm học sinh năng khiếu tốt hơn so với nhóm học sinh bình thường.
Khi nghiên cứu trí nhớ của học sinh phổ thông từ 6 đến 17 tuổi thuộc quận
Cầu Giấy – Hà Nội, Trần Thị Loan đã nhận thấy, khả năng ghi nhớ của học sinh
tăng dần theo tuổi nhưng tốc độ tăng không đều giữa các năm. Khả năng ghi nhớ
của học sinh tăng nhanh ở giai đoạn 6 – 17 tuổi và tăng chậm ở giai đoạn 11 – 15
tuổi. Trong cùng một độ tuổi, không có sự khác biệt rõ rệt về trí nhớ giữa học sinh
nam và học sinh nữ [51].
22
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là học sinh tiểu học và trung học cơ sở xã Đình Tổ-

huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh với độ tuổi từ 7 – 15. Tất cả các đối tượng
nghiên cứu có sức khoẻ và trạng thái tâm lý bình thường. Tổng số đối tượng nghiên
cứu là 987 học sinh, trong đó có 520 nam và 467 nữ. Trong tổng số 987 học sinh
có 528 học sinh tiểu học và 459 học sinh trung học cơ sở. Sự phân bố đối tượng
theo tuổi và giới tính được trình bày trong bảng 2.1.
Bảng 2.1. Phân bố đối tượng theo tuổi và giới tính
Tuổi Nam Nữ Chung
7 44 50 94
8 56 47 103
9 49 61 110
10 60 48 108
11 53 60 113
12 67 49 116
13 62 52 114
14 61 54 115
15 68 46 114
Tổng số 520 467 987

23
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Các chỉ số được nghiên cứu
- Chỉ số về hình thái thể lực gồm 5 chỉ số:
+ Chiều cao đứng
+ Cân nặng (trọng lượng cơ thể)
+ Vòng ngực trung bình
+ Chỉ số pignet
+ Chỉ số BMI.
- Các chỉ số hoạt động thần kinh cấp cao gồm 4 chỉ số:
+ Chỉ số IQ
+ Sự phân bố học sinh theo các mức trí tuệ

+ Trí nhớ thị giác
+ Trí nhớ thính giác
2.2.2. Phương pháp nghiên cứu các chỉ số
2.2.2.1. Phương pháp nghiên cứu các chỉ số thể lực
- Chiều cao: Khi đo chiều cao, học sinh phải ở tư thế đứng thẳng trên nền
phẳng, hai gót chân sát vào nhau, mắt nhìn thẳng, đồng thời đảm bảo 4 điểm (chẩm,
lưng, mông, gót) chạm vào thước đo. Tư thế thẳng đứng được xác định khi đuôi
mắt và lỗ tai ngoài cùng ở trên đường thẳng nằm ngang, song song với mặt bàn
cân. Thước đo bằng polyme có độ chính xác đến 0,1 cm do Trung tâm thiết bị
trường học – Bộ Giáo dục và Đào tạo sản xuất. Lấy trị số chiều cao chính xác đến
0,1 cm.
- Vòng ngực trung bình: Được xác định bằng số trung bình cộng của số đo
vòng ngực lúc hít vào tận lực và lúc thở ra gắng sức. Vòng ngực được đo ở tư thế
thẳng đứng, đo bằng thước dây quấn quanh ngực qua mũi ức, dưới núm vú sao cho
mặt phẳng của thước dây tạo ra song song với mặt đất. Thước dây không co giãn và
vạch chia đến 0,1 cm. Trước khi đo hướng dẫn học sinh cách hít vào tận lực và thở ra
24
gắng sức. Khi đo, học sinh chỉ mặc áo mỏng. Lấy trị số vòng ngực chính xác đến
0,1 cm.
- Cân nặng: Được xác định bằng cân đồng hồ có vạch chia đến 0,1 kg. Khi
đo, đối tượng chỉ mặc quần áo mỏng, không mang dày, dép và đặc biệt phải đứng
yên (không cử động) ở giữa bàn cân. Lấy trị số cân nặng chính xác đến 0,1 kg.
- Chỉ số pignet được tính theo công thức sau:
Pignet = Chiều cao (cm) - [Cân nặng (kg) + Vòng ngực trung bình (cm)]
Chỉ số Pignet được đánh giá dựa theo thang phân loại của Nguyễn Quang
Quyền và Đỗ Như Cương (theo [14]).
Bảng 2.2. Phân loại chỉ số pignet
Số TT Chỉ số pignet Loại
1 < 23,0 Cực khỏe
2 23,0 – 28,9 Rất khỏe

3 29,0 – 34,9 Khỏe
4 35,0 – 41,0 Trung bình
5 41,1 – 47,0 Yếu
6 47,1 – 53,0 Rất yếu
7 > 53,0 Cực yếu

- Chỉ số BMI được tính theo công thức sau:

BMI =

Chỉ số BMI được đánh giá theo tiêu chuẩn của Tổ Chức Y tế thế giới (WHO)
(theo [70]).
Bảng 2.3. Phân loại chỉ số BMI
Cân nặng (kg)
[Chiều cao (m)]
2

25
Số TT Chỉ số BMI Loại
1 < 18,5 Gầy
2 18,5 – 22,9 Bình thường
3 ≥ 23,0 Béo
4 + 23,0 – 24,9 Có nguy cơ
5 + 25,0 – 29,9 Béo độ 1
6 + ≥ 30,0 Béo độ 2

2.2.2.2. Phương pháp nghiên cứu các chỉ số hoạt động thần kinh cấp cao
- Trí tuệ: Được xác định bằng phương pháp trắc nghiệm và sử dụng test
“Khuôn hình tiếp diễn” của Raven loại A, B, C, D và E (dùng cho người từ 6 tuổi
trở lên).

Toàn bộ bài trắc nghiệm test Raven gồm 5 bộ, mỗi bộ gồm 12 bài tập. Mức
độ phức tạp tăng dần từ bộ A đến bộ E, và trong mỗi bộ độ phức tạp cũng tăng dần
(dễ nhất là bài tập 1của bộ A và khó nhất là bài tập 12 của bộ E). Tuy nhiên, mỗi bộ
được xây dựng theo nguyên tắc khác nhau.
Bộ A được xây dựng theo nguyên tắc trọn vẹn và toàn bộ của cấu trúc, các
chi tiết trong cấu trúc ấy được sắp xếp một cách liên tục, gắn liền với nhau trong
một chỉnh thể. Nên giải được các bài trong bộ A là tìm được mối liên hệ liên tục
trong các chỉnh thể ấy. Do vậy, ở bộ này đòi hỏi ở đối tượng khả năng tri giác toàn
bộ sự vật. Bộ này có khả năng đo tri giác khái quát chung của đối tượng.
Bộ B được xây dựng theo nguyên tắc giống nhau của các cặp hình. Do đó, bộ
B có thể giúp chúng ta đo khả năng phân tích trong tư duy để tìm ra mối quan hệ
giống và tương đồng của các sự vật hiện tượng.
Bộ C được xây dựng theo nguyên tắc tiếp diễn logic của sự biến đổi các cấu
trúc. Bài tập của bộ C chứa đựng những sự thay đổi của các hình phù hợp với
nguyên tắc phát triển phong phú, độ khó tăng dần theo chiều nằm ngang và thẳng
đứng. Bộ C có thể đo đạc được khả năng khái quát hoá, trừu tượng hoá để suy diễn
ra một logic, tức là một tư duy theo kiểu toán học.

×