Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Dạy học tác phẩm Chí phèo, Đời thừa của Nam Cao theo đặc trưng thể loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 115 trang )

MỤC LỤC
Trang
Lời cảm ơn .................................................................................................. i
Danh mục viết tắt ........................................................................................ ii
Danh mục các bảng ..................................................................................... iii
Mục lục ........................................................................................................ iv
MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI ........................................... 13
1.1. Thể loại và dạy học tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể loại ..... 13
1.1.1. Thể loại văn học ................................................................................ 13
1.1.2. Dạy học tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể loại ................... 15
1.2. Đặc trưng của loại hình tác phẩm tự sự ............................................... 16
1.3. Đặc trưng thể loại truyện ngắn ............................................................. 21
1.3.1. Nhân vật ........................................................................................... 22
1.3.2. Cốt truyện .......................................................................................... 22
1.3.3. Ngôn ngữ và giọng điệu .................................................................... 23
1.3.4. Kết cấu............................................................................................... 23
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VÀ ĐỊNH HƢỚNG DẠY HỌC TÁC
PHẨM CHÍ PHÈO, ĐỜI THỪA CỦA NAM CAO THEO ĐẶC
TRƢNG THỂ LOẠI ................................................................................. 25
2.1. Thực trạng dạy học tác phẩm Chí Phèo, Đời thừa của Nam Cao ở
trường THPT hiện nay ................................................................................ 25
2.1.1. Vị trí của tác phẩm Chí Phèo, Đời thừa của Nam Cao trong
chương trình Ngữ văn THPT ...................................................................... 25
2.1.2.Những thuận lợi, khó khăn................................................................. 26
2.1.3. Thực trạng dạy học tác phẩm Chí Phèo, Đời thừa của Nam Cao
ở trường THPT hiện nay ............................................................................. 29
2.2.2. Kết quả khảo sát từ học sinh ............................................................ 34

iv



2.2. Định hướng dạy học tác phẩm Chí Phèo, Đời thừa của Nam Cao
theo đặc trưng thể loại ................................................................................. 36
2.2.1. Định hướng chung ............................................................................. 36
2.2.2. Định hướng dạy học truyện ngắn Chí Phèo theo đặc trưng thể
loại ............................................................................................................... 40
2.2.3. Định hướng dạy học truyện ngắn Đời thừa của Nam Cao theo
đặc trưng thể loại ........................................................................................ 46
2.2.4. Kết luận: ............................................................................................ 54
Chƣơng 3: GIÁO ÁN VÀ THỰC NGHIỆM .......................................... 56
3.1. Thiết kế giáo án thực nghiệm ............................................................... 56
3.2. Những vấn đề chung của thực nghiệm................................................. 100
3.2.1.Mục đích thực nghiệm ....................................................................... 101
3.2.2. Đối tượng, địa bàn và thời gian thực nghiệm ................................... 101
3.3. Nội dung và tiến trình thực nghiệm ..................................................... 102
3.3.1. Nội dung thực nghiệm ...................................................................... 102
3.3.2. Tiến trình thực nghiệm ...................................................................... 102
3.4. Kết quả thực nghiệm ............................................................................ 103
3.4.1. Tiến hành kiểm tra ............................................................................ 103
3.4.2. Kết quả kiểm tra ................................................................................ 104
3.5. Đánh giá kết quả thực nghiệm ............................................................. 105
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ........................................................... 109
1. Kết luận............................................................... .................................... 109
2. Khuyến nghị ............................................................................................ 112
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 113
PHỤ LỤC .................................................................................................. 115

v

.........



́
́
DANH MỤC VIÊT TĂT
GV

Giáo viên

HS

Học sinh

SGK

Sách giáo khoa

THPT

Trung ho ̣c phổ thông

TN

Thực nghiệm

ĐC

Đối chứng

Nxb:


Nhà xuất bản

THCS

Trung học cơ sở



Hoạt động

ii


DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1. Bảng thống kê số lượng tác phẩm trữ tình và tự sự(Chương
trình chuẩn) ................................................................................................. 26
Bảng 2.2. Tổng hợp từ 11 giáo viên trường THPT Phúc Thọ và 13
giáo viên trường THPT Ngọc Tảo - huyện Phúc Thọ - Thành phố Hà
Nội ............................................................................................................... 32
Bảng 2.3 .Tổng hợp 175 phiếu của 2 trường THPT Phúc Thọ và
THPT Ngọc Tảo - huyện Phúc Thọ - Thành phố Hà Nội ........................... 34
Bảng 3.1. Tổng hợp kết quả (tính ra %) của lớp thực nghiệm và lớp
đối chứng

................................................................................................. 104

iii



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1.Như đã biết trong xã hội ngày nay ln có nhu cầu truyền thụ, học tập các
kinh nghiệm và tri thức giữa từng cá nhân và nhiều cộng đồng cá nhân. Hoạt
động dạy học phụ thuộc vào các yếu tố người dạy, người học và dựa vào mơi
trường dạy học. Vì vậy, việc đổi mới phươg pháp dạy học được chú trọng và
đề cao, mục đích của đổi mới phương pháp dạy học là để nâng cao hiệu quả
bài học. Thay đổi lối dạy học truyền thụ kiến thức một chiều sang phương
pháp dạy học mới nhằm phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo, rèn luyện
thói quen và khả năng tự học cho học sinh. Học để đáp ứng những yêu cầu
của cuộc sống hiện đại, những điều đã học cần thiết, bổ ích cho bản thân học
sinh và cho sự phát triển trong toàn xã hội. Những năm gần đây toàn ngành
giáo dục không ngừng đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy bộ môn,
phương pháp kiểm tra, đánh giá cho điểm. Đặc biệt là ứng dụng thành tựu
khoa học tiên tiến, ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý và
giảng dạy về cơ bản phù hợp với nguyện vọng của học sinh và đáp ứng yêu
cầu của xã hội. Môn Ngữ Văn trong nhà trường trung học phổ thơng có vai
trị tích cực trong việc đào tạo thế hệ trẻ thành những người công dân tốt,
người lao động tốt, người chiến sĩ tốt, người cán bộ tốt. Nó khơng chỉ đơn
thuần là mơn học cung cấp tri thức cho học sinh mà cịn là mơn học giúp các
em trau dồi vốn sống, kinh nghiệm xã hội phục vụ cho cuộc sống. Cung cấp
kiến thức về văn bản văn học cho học sinh ta cần chú trọng đến phương pháp
dạy học tác phẩm văn học ở trường THPT. Trong đó dạy học tác phẩm Chí
Phèo, Đời thừa của Nam Cao ở nhà trường trung học phổ thông chiếm một vị
trí khá quan trọng.
1.2. Muốn đạt được hiệu quả giáo dục cao nhất, việc giảng dạy Văn học phải
tiến hành sao cho phù hợp với đặc trưng của bộ môn, vừa mang bản chất xã
hội, vừa là một hiện tượng thẩm mỹ, hiện tượng nghệ thuật. Thể loại văn học


vi


là một vấn đề thuộc hình thức nghệ thuật của văn học, có liên quan khăng khít
đến nội dung. Mỗi tác phẩm văn học đều tồn tại dưới hình thức một thể loại
nhất định, địi hỏi phải có một phương pháp, một cách thức phân tích, giảng
dạy phù hợp với nó. Vì vậy, vấn đề thể loại văn học trong thực tế giảng dạy ở
trường phổ thông đặt ra không những như một vấn đề tri thức mà chủ yếu cịn
là vấn đề về phương pháp. Nói đến vấn đề thể loại trong văn học là nói đến
tính chỉnh thể trong một tác phẩm với sự thống nhất của một nội dung nhất
định trong một hình thức nhất định. Việc tìm hiểu đặc trưng thể loại văn học
càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Đó là chìa khố để khám phá những
giá trị đích thực của từng tác phẩm, cùng với sự vận động và phát triển của
nền văn học. Muốn nghiên cứu, giảng dạy thành công một tác phẩm văn
chương thì vấn đề thể loại cần quan tâm hàng đầu. Điều đó nhất thiết địi hỏi
phải có phương pháp và biện pháp dạy học phù hợp để đạt hiệu quả. Thực tế
giảng dạy và học tập cho thấy phương pháp dạy học tác phẩm Chí Phèo, Đời
thừa của Nam Cao ở THPT giáo viên còn lúng túng, chưa tìm ra hướng đi
thật sự hiệu quả do đó dẫn đến dạy học phần nhiều cịn mang tính đối phó với
chương trình. Trong tiết học khơng khí lớp học trầm, không phát huy được
khả năng sáng tạo, khả năng trình bày của học sinh.
1.3.Đổi mới phương pháp dạy học là một q trình lâu dài địi hỏi sự tâm
huyết của nhiều nhà giáo dục và đội ngũ giáo viên khơng chỉ về mặt lý thuyết
mà cịn cả trong thực tiễn. Vì thế dạy học tác phẩm Chí Phèo, Đời thừa của
Nam Cao ở trường THPT đòi hỏi người dạy và người học khơng chỉ tiếp cận
kiến thức mang tính lí luận mà cịn cần phải thơng qua thực hành, khắc phục
tình trạng thụ động trong lĩnh hội kiến thức, khẳng định vai trò chủ động,
sáng tạo của học sinh như vậy mới thực sự mang lại hiệu quả. Do đó việc đổi
mới phương pháp dạy học tác phẩm Chí Phèo, Đời thừa của Nam Cao ở
trường trung học phổ thông là rất quan trọng và cần thiết. Yêu cầu chung của

nền giáo dục nước ta hiện nay là nâng cao hiệu quả học tập và nhận thức của
học sinh, học sinh biết tự chiếm lĩnh tri thức. Bởi vậy, nghiên cứu đề tài này
vii


này chúng tơi hy vọng góp phần vào việc nâng cao hiệu quả giờ dạy học tác
phẩm Chí Phèo, Đời thừa của Nam Cao ở trường trung học phổ thông. Từ đó
có những phương pháp đúng đắn và hợp lý, trên nguyên tắc“vừa sức” để tạo
hiệu quả tốt nhất trong dạy học tác phẩm Chí Phèo, Đời thừa của Nam Cao ở
trường THPT. Tác gia Nam Cao là một nhà văn lớn trong nền văn học Việt
Nam hiện đại và trong nhà trường phổ thông. Các tác phẩm của Nam Cao đã
thể hiện một chủ nghĩa nhân văn cao cả, một phong cách nghệ thuật đa dạng,
phong phú. Tác phẩm Đời thừa là một trong những đại diện xuất sắc cho
phong cách nghệ thuật của Nam Cao theo kiểu kết cấu mới với kiểu diễn biến
tâm lý và một giọng điệu trữ tình khác biệt. Tác phẩm Chí Phèo là hiện thân
khác cho một tài năng phong cách theo lối điển hình hố đầy kịch tính. Với
tác phẩm Chí Phèo trong chương trình THPT, đây là một truyện ngắn rất hay,
rất đặc sắc về đề tài người nông dân của Nam Cao. Còn tác phẩm Đời thừa là
một truyện ngắn rất hay, rất đặc sắc về bi kịch người trí thức. Nhưng khi
giảng dạy, phần lớn giáo viên chỉ đi sâu khai thác, khám phá giá trị hiện thực
chung nhất mà chưa khai thác được chiều sâu tư tưởng tác phẩm, giá trị nghệ
thuật rất riêng của truyện.
Với tất cả những lý do trên chúng tôi tiến hành lựa chọn và thực hiện đề tài
Dạy học tác phẩm Chí Phèo, Đời thừa của Nam Cao theo đặc trưng thể
loại nhằm góp phần làm sáng tỏ bản chất sáng tạo của quá trình tiếp nhận tác
phẩm của Nam Cao ở trường THPT. Bước đầu giúp giáo viên nhận thức,
kiểm soát và điều khiển được q trình tiếp nhận tác phẩm Chí Phèo, Đời
thừa của Nam Cao ở trường THPT; đồng thời góp phần khắc phục những bất
cập của phương pháp dạy học tác phẩm Chí Phèo, Đời thừa của Nam Cao
theo lối truyền thụ một chiều. Hy vọng rằng từ việc ứng dụng lý luận hiện đại

trong thực tiễn giảng dạy tác phẩm Chí Phèo, Đời thừa của Nam Cao đạt kết
quả tốt, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học tác phẩm văn
chương trong nhà trường phổ thơng. Mong muốn của chúng tơi muốn tìm ra
phương pháp, biện pháp dạy học thích hợp trong Chí Phèo, Đời thừa nói
viii


riêng, từ đó áp dụng vào dạy học các thể loại khác trong nhà trường phổ
thông.
2. Lịch sử nghiên cứu
Dạy học tác phẩm Chí Phèo, Đời thừa của Nam Cao theo đặc trưng thể
loại ở trường THPT có vai trị quan trọng trong giảng dạy bộ môn Ngữ văn.
Sự nghiệp văn học của Nam Cao vô cùng phong phú, là một di sản có giá trị
và có ý nghĩa to lớn về nhiều mặt. Tính độc đáo của tư tưởng và phong cách
Nam Cao đã được giới nghiên cứu, phê bình, giảng dạy văn học và đơng đảo
bạn đọc khám phá, khẳng định từ lâu. Gần nửa thế kỷ qua, đã có hơn 200
cơng trình lớn, nhỏ viết về tác phẩm Phí Phèo, Đời thừa của Nam Cao. Trên
cơ sở học hỏi và tiếp thu những thành tựu ở người đi trước tơi tìm hiểu và đề
xuất cụ thể hơn về dạy học tác phẩm Chí Phèo, Đời thừa của Nam Cao ở
trường THPT.
2.1. Tình hình nghiên cứu dạy học tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể
loại
Những năm gần đây do yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, GV
Ngữ Văn các cấp đã được bồi dưỡng nhiều tri thức các thể loại văn học và
dạy học tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể loại. Bên cạnh đó cũng có
nhiều cơng trình nghiên cứu, các tài liệu hướng dẫn phân tích tác phẩm văn
chương theo loại thể. Trên cơ sở những thành tựu về loại thể văn học và thi
pháp học, nhiều nhà nghiên cứu, nhà sư phạm tâm huyết đã đề xuất cách thức,
con đường dạy học sinh cảm thụ, tiếp nhận tác phẩm văn chương nói chung;
tác phẩm văn xi nói riêng theo đặc trưng thể loại. Các tác giả trong chun

luận của mình khi nói về vấn đề giảng dạy và phân tích tác phẩm văn chương
đều không bỏ qua đặc thù thẩm mĩ của thể loại tác phẩm cần phân tích. Tiêu
biểu là các cơng trình của các tác giả:
- Trần Thanh Đạm: Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể (NXB
Giáo dục, 1971)

ix


- Lê Huy Bắc, Phan Huy Dũng, Nguyễn Văn Hiếu: Những vấn đề thể loại và
lịch sử văn học (NXB Giáo dục, 2008)
- Phan Trọng Luận Xã hội – Văn học – Nhà trường (1996), Văn học trong nhà
trường nhận diện, tiếp cận đổi mới (NXB Đại học Sư phạm, 2007), Cảm thụ
văn học - giảng dạy văn học (1983), Phương pháp dạy học văn (NXB Đại học
Sư phạm, 2008)
- Nhóm tác giả trường ĐHSP Hà Nội I: Nhà văn và tác phẩm trong trường
phổ thông, NXB Đa ̣i ho ̣c Sư pha ̣m, 2001.
- Nguyễn Viết Chữ: Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương theo loại thể
(NXB Đại học Sư phạm, 2006)
- Hoàng Ngọc Hiến: Năm bài giảng về thể loại (Trường viết văn Nguyễn Du,
Hà Nội, 1992)…
Trong cuốn Phân tích tác phẩm văn học trung đại Việt Nam từ góc
nhìn thể loại, tác giả Lã Nhâm Thìn cũng khẳng định việc phân tích tác phẩ m
văn học từ góc nhìn thể loại là một trong những hướng khoa học nhất, hiệu
quả nhất, vừa có ý nghĩa về khoa học cơ bản, vừa thiết thực về khoa học sư
phạm, là một công đôi việc, là mũi tên đạt được hai đích, là cần thiết với nhà
nghiên cứu đồng thời cần thiết với người giảng dạy.
Ngoài ra, trong cuốn Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể,
tác giả Trần Thanh Đạm đã giải đáp phần nào những thắc mắc, băn khoăn của
giáo viên trong vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể. Vì thế trong

cơng trình nghiên cứu này, một mặt tác giả giới thiệu một số kiến thức cơ bản
nhất về các loại, thể văn học chủ yếu có liên quan đến chương trình văn học
THPT nhất là phần văn học Việt Nam xưa và nay. Mặt khác, tác giả cũng đưa
ra phương pháp vận dụng đặc trưng các loại thể vào việc giảng dạy các tác
phẩm trong chương trình Ngữ Văn THPT, có kết hợp phân tích một số bài
tiêu biểu thuộc các thể loại khác nhau.
2.2. Các cơng trình nghiên cứu về Nam Cao

x


Trong cuốn Nam Cao - nhà văn hiện thực xuất sắc in năm 1961 Hà
Minh Đức đã chỉ ra nét độc đáo trong tác phẩm của Nam Cao và cho rằng:
Nam Cao thiên về phân tích những biểu hiện nội tâm của nhân vật. Do đó hầu
hết các tác phẩm của Nam Cao thường kết cấu theo lối tâm lý. Phong Lê trong
bài Đặc trưng bút pháp hiện thực Nam Cao cũng đã có những nhận định sâu
sắ nói bút pháp Nam Cao là nói một bút pháp hiện thực nghiêm ngặt. Một bút
pháp chủ trương lách vào tận đáy sâu sự thật. Lách vào từng ý nghĩ, từng suy
tính cùng cực chi lý. Nguyễn Đăng Mạnh trong cuốn Nhà văn - tư tưởng và
phong cách (NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2001) đã chỉ ra vẻ đẹp tư tưởng
nhân đạo trong tác phẩm của Nam Cao. Trong bài Nhớ Nam Cao và những
bài học của ông, Nguyễn Đăng Mạnh đã có nhận định sắc sảo về Nam Cao là
người hay băn khoăn về vấn đề nhân phẩm, về thái độ khinh, trọng đối với
con người. Bích Thu với bài Sức sống của một sự nghiệp văn chương in trong
cuốn Nam Cao tác gia và tác phẩm nhận xét về ngôn ngữ trong sáng tác của
Nam Cao là ngôn ngữ đa âm, phức điệu hiện đại, dù được viết vào thời đại
ông nhưng bây giờ đọc vẫn thấy mới. Lại Nguyên Ân trong Nam Cao và cuộc
cách tân văn học đầu thế kỷ XX cho rằng đóng góp vào việc xây dựng và phát
triển văn xuôi mới của Nam Cao bộc lộ đặc biệt rõ trong ngôn ngữ văn xuôi.
Phong Lê nhận xét về giọng điệu trong văn của Nam Cao trong cuốn Nam

Cao - Văn và đời, lời giới thiệu tuyển tập Nam Cao, Nxb văn học, Hà Nội,
1987.
Vấn đề cốt truyện và cách kể chuyện của nhà văn cũng được khá nhiều
nhà nghiên cứu, phê bình quan tâm chú ý: Nhìn chung tất cả các ý kiến nhận
định đánh giá hầu như đều thống nhất với nhau ở quan điểm: Truyện ngắn
Nam Cao là truyện viết rất ít sự kiện, ít nhân vật và chủ yếu là truyện xoay
quanh cuộc sống đời thường, kết cấu truyện thường là kết cấu tâm lý bỏ ngỏ,
kết cấu vòng tròn. Trần Đăng Suyền trong Nam Cao - nhà văn hiện thực xuất
sắc, nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn cũng đã đưa ra ý kiến về cái chân thật của tư
tưởng, của nội tâm nhân vật trong văn của Nam Cao. Phong Lê trong bài Cấu
xi


trúc và ngôn ngữ truyện ngắn Nam Cao (Văn nghệ quân đội số tháng 10 1987). Bích Thu trong bài Sức sống của một sự nghiệp văn chương đã nhận
xét về phong cách Nam Cao rất độc đáo tạo là sự pha trộn tài tình các giọng
điệu trong mỗi tác phẩm.
Đặc biệt, trong thời gian gần đây các nhà nghiên cứu, phê bình, người
thưởng thức tác phẩm mở ra hướng tìm hiểu, nghiên cứu Nam Cao ở chiều
sâu thế giới nghệ thuật, khám phá ở nhiều bình diện, nhiều góc độ: Phạm
Quang Long có bài nghiên cứu Một đặc điểm của thi pháp truyện Nam Cao
(Tạp chí Văn học số 2 – 1994), in lại trong Nam Cao về tác gia và tác phẩm
Nxb Giáo dục – Hà Nội,1998. Trần Đăng Suyền có bài nghiên cứu Thời gian
và khơng gian trong thế giới nghệ thuật của Nam Cao (Tạp chí Văn học số 5,
1991). Hà Minh Đức có bài Tầm quan trọng của hoàn cảnh trong tác phẩm
của Nam Cao (in trong Nam Cao đời văn và tác phẩm – Nxb Văn học, Hà
Nội, 1997).
Như vậy, qua việc trình bày tình hình nghiên cứu ở trên về tác gia Nam
Cao cũng như những giá trị qua các sáng tác của ông, chúng tôi có thể đi đến
kết luận rằng: Đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu, tìm hiểu về tác gia Nam
Cao và các tác phẩm của ông ở nhiều góc độ, bình diện khác nhau mà thật sâu

sắc như: về nội dung tác phẩm, ngôn ngữ, giọng điệu, kết cấu, thi pháp phong
cách… Song những bài nghiên cứu, chuyên luận nghiên cứu sâu về những nét
riêng thi pháp truyện ngắn Nam Cao chưa có nhiều, đặc biệt là mảng các
truyện ngắn giàu chất hiện thực. Những năm gần đây, có nhiều luận án tiến
sỹ, luận văn thạc sỹ về các tác phẩm của Nam Cao song chưa có cơng trình
nào trực tiếp bàn về hướng dạy truyện ngắn này. Chính vì vậy, việc đưa ra
hướng dạy học truyện ngắn hiện thực trong văn học Việt Nam 1930-1945 nói
chung và truyện ngắn hiện thực Nam Cao nói riêng cần được quan tâm nghiên
cứu để tìm ra hướng dạy học phù hợp đạt hiệu quả. Luận văn của chúng tôi
nghiên cứu về đề tài này trên cơ sở gợi mở của những người đi trước.

xii


2.3. Tình hình nghiên cứu của chuyên ngành phương pháp dạy học văn về tác
phẩm của Nam Cao ở trường phổ thông
Nam Cao và các tác phẩm của ông luôn là mối quan tâm trăn trở của
nhiều giáo viên dạy văn và của học sinh, đặc biệt là của các nhà nghiên cứu
chuyên ngành phương pháp. Về tài liệu hướng dẫn giảng dạy và học tập: Bên
cạnh các sách giáo khoa, sách giáo viên và sách tham khảo cũng có một số
cuốn sách tham khảo và hướng dẫn của một số nhà phương pháp như: Cuốn
Nam Cao - một đời văn của Lê Tiến Dũng (Hội nghiên cứu và giảng dạy văn
học Thành phố Hồ Chí Minh phát hành năm 2001); Phân tích tác phẩm Nam
Cao trong nhà trường của Nguyễn Văn Tùng (Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1997);
Nhà văn và tác phẩm trong nhà trường – Nam Cao Văn Giá tuyển chọn và
biên soạn (Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1999); Phương pháp giảng dạy tác phẩm
văn chương theo loại thể Nguyễn Viết Chữ (Nxb Đại học Sư phạm, 2002); …
Có thể nói đây là những tài liệu bổ ích và thiết thực cho công việc giảng dạy
và học tập về các tác phẩm của Nam Cao trong nhà trường phổ thông.
Với truyện ngắn Đôi mắt của Nam Cao đã có nhiều nhà phương pháp đưa

ra các cách tiếp cận và giảng dạy như: Giáo sư Phan Trọng Luận trong cuốn
Văn học - xã hội - nhà trường (Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội - 1996) đề ra
hướng khai thác và giảng dạy truyện ngắn này theo quan điểm lịch sử nhằm
hướng đến cho học sinh những giá trị nhân văn cao cả và đúng đắn, tránh
khuynh hướng xã hội học dung tục trong dạy học văn ở nhà trường hiện nay
vẫn cịn tồn tại. Nguyễn Thanh Hùng có bài Sống với đôi mắt mở (Báo Văn
nghệ số 24 – 1992) và in trong cuốn Đến với Nam Cao của nhiều tác giả.
Nghiên cứu, khám phá những tác phẩm của Nam Cao, PGS. TS Nguyễn
Thị Thanh Hương có bài Những tác động thẩm mĩ tiềm tàng trong tác phẩm
của Nam Cao.
Bên cạnh đó cịn có một số luận văn, khoá luận nghiên cứu về phương
pháp dạy học các tác phẩm của Nam Cao trong nhà trường phổ thông như:
Châu Thị Kim Ngân với đề tài: Nghiên cứu, tiếp thu và đi tới một cách dạy
xiii


thích hợp truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao trong chương trình bậc THCS;
Đỗ Bích Liên với đề tài Đặc sắc nghệ thuật tác phẩm Chí Phèo và biện pháp
giáo dục thẩm mỹ cho học sinh lớp 11; Nguyễn Văn Thắng với đề tài Một số
biện pháp hướng dẫn học sinh tiếp nhận ngôn ngữ người kể chuyện trong
truyện ngắn Nam Cao ở trường THPT; Trần Thị Thu Hà với đề tài khoá luận
Vận dụng tri thức đọc hiểu để hướng dẫn học sinh đọc tác phẩm Chí Phèo
của Nam Cao trong nhà trường THPT.
2.4. Tình hình nghiên cứu về truyện ngắn Chí Phèo
Chí Phèo là truyện ngắn có sức thu hút kỳ lạ đối với giới nghiên cứu phê
bình văn học và đông đảo bạn đọc. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Chí Phèo được
xem xét theo các thời kỳ.
Trước Cách mạng tháng Tám:
Mặc dù là một kiệt tác, Chí Phèo chỉ được một bài viết phê bình giới
thiệu của Lê Văn Trương trong lời Tựa Đôi lứa xứng đôi (Nxb Đời mới,

1941 - được in trong Nam Cao tác gia và tác phẩm Nxb Giáo dục, Hà Nội,
1998).
Sau Cách mạng Tháng Tám:
Trong bài Nam Cao, in trên Tạp chí Văn nghệ tháng 12/1952, in lại
trong Mấy vấn đề văn học, NXB Văn nghệ, H, 1956. Nguyễn Đình Thi đã cho
rằng tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao nổi bật và thật xuất sắc. Trong bài Qua
truyện ngắn Chí Phèo bàn thêm về cái nhìn hiện thực của Nam Cao (Tạp chí
Văn học số 4/1964 – in lại trong Nam Cao về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo
dục, 1998) nhà nghiên cứu Trần Tuấn Lộ cho rằng truyện ngắn Chí Phèo của
Nam Cao đã khẳng định ngay từ đầu sự hình thành của một phong cách mới,
vững vàng và sắc sảo.
Bài viết của nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh Lưỡi dao Chí Phèo là
ánh chớp trước cơn giơng tố viết năm 1980 in lại trong Nhà văn tư tưởng và
phong cách, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2001 nêu lên dự cảm hiện thực
của Nam Cao. Nguyễn Quang Trung viết về tính chất lưỡng hố trong nhân
xiv


vật Chí Phèo, đăng trên tập san THPT số 1/1988 (in lại trong Nam Cao về tác
gia và tác phẩm, Nxb, 1998), nhà nghiên cứu đã nêu lên sự khác nhau cơ bản
của tính cách chị Dậu, anh Pha, Chí Phèo. Phân tích truyện ngắn Chí Phèo,
nhà nghiên cứu Trần Đăng Suyền khẳng định Chí Phèo chứng tỏ biệt tài miêu
tả, phân tích tâm lý của Nam Cao. Qua ngịi bút Nam Cao, thế giới bên trong,
thế giới tâm hồn của những con người bé nhỏ, những kẻ khốn khổ, tủi nhục
nhất, té ra là cả một vũ trụ bao la.
Như vậy, có thể nói rằng tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao đã có nhiều
nhà nghiên cứu phê bình, nhà sư phạm quan tâm, chú ý, khám phá ở nhiều
phương diện, nhiều góc độ khía cạnh cả nội dung cũng như nghệ thuật của tác
phẩm.
2.5. Tình hình nghiên cứu về truyện ngắn Đời thừa

Trong mấy chục năm qua, nhất là khoảng mười năm trở lại đây đã có
nhiều nhà phương pháp với nhiều kinh nghiệm, nhiều thầy cô giáo đầy tâm
huyết đã mở ra nhiều hướng nghiên cứu ở nhiều góc độ, khía cạnh cùng với
những tìm tịi phát hiện đầy mới mẻ nhằm tìm ra hướng dạy, phương pháp,
biện pháp dạy học những tác phẩm của Nam Cao, trong đó có tác phẩm Đời
thừa ở nhà trường phổ thông sao cho đạt hiệu quả tốt nhất, nhằm nâng cao
chất lượng dạy học văn ở trường phổ thông trong giai đoạn hiện nay. Cụ thể
có các cơng trình nghiên cứu:
- Phân tích bình giảng tác phẩm văn học 11 - Nguyễn Đăng Mạnh chủ biên.
- Tác phẩm văn chương trong nhà trường phổ thông – Những con đường
khám phá của Vũ Dương Quỹ - Lê Bảo.
- Thiết kế bài học Ngữ văn 11(Tập 1) - Phan Trọng Luận (chủ biên).
- Thiết kế bài giảng Ngữ văn 11(Tập 1) - Nguyễn Văn Đường (chủ biên).
- Sách giáo viên Ngữ văn 11, tập 1 do Trần Đình Sử (Chủ biên), Nxb Giáo
dục, 2007.
- Phân tích, bình giảng tác phẩm văn học 11 do Nguyễn Đăng Mạnh (chủ
biên), Nxb Giáo dục Việt Nam, 2003.
xv


3.Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài dạy học tác phẩm Chí Phèo, Đời thừa của Nam Cao
theo đặc trưng thể loại nhằm mục đích hồn thiện phương pháp dạy học hiện
nay thơng qua tích hợp cơng nghệ trong dạy học, giúp học sinh tiếp cận nôi
dung kiến thức tốt hơn, hiệu quả hơn. Đồng thời chúng tơi mong muốn góp
phần nâng cao hiệu quả dạy học tác phẩm văn học ở trường trung học phổ
thông, đặc biệt là dạy học tác phẩm Chí Phèo, Đời thừa của Nam Cao. Giúp
học sinh nắm vững phương pháp học tập bộ môn Ngữ Văn - mơn học có tính
logic cao; giáo dục học sinh tính kiên trì, chịu khó, rèn luyện kỹ năng ghi nhớ,

suy luận logic.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Đề tài thực hiện nhiệm vụ tìm hiểu về tác phẩm văn học, đặc trưng loại hình
tác phẩm tự sự, đặc trưng của thể loại truyện ngắn.
- Tìm hiểu về thực trạng dạy học tác phẩm Chí Phèo, Đời thừa của Nam
Cao, ở một số trường trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Hà Nội.
- Tiến hành nghiên cứu, khảo sát tực tiễn để từ đó xác định hướng dạy học
hợp lý và hiệu quả cho việc dạy học tác phẩm Chí Phèo, Đời thừa của Nam
Cao ở trường trung học phổ thông.
- Khảo sát bằng thực nghiệm, đánh giá kết quả nghiên cứu để có cái nhìn tổng
thể về dạy học tác phẩm Chí Phèo, Đời thừa của Nam Cao.
4.Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng được lựa chọn nghiên cứu là phương pháp dạy học tác phẩm
Chí Phèo, Đời thừa của Nam Cao theo đặc trưng thể loại.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trong phạm vi cụ thể là tác phẩm Chí Phèo, Đời
thừa của Nam Cao trong chương trình Ngữ văn lớp 11 ở trường THPT. Đối

xvi


tượng được áp dụng thực nghiệm nghiên cứu là học sinh lớp 11 trường THPT
Phúc Thọ - huyện Phúc Thọ - Thành phố Hà Nội.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, xây dựng đề tài chúng tơi đã vận dụng
nhiều phương pháp nghiên cứu như:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tham khảo các tài liệu, giáo trình có nội
dung liên quan.
- Phương pháp phân tích, khảo sát thực tế, thống kê, thực nghiệm.

- Phương pháp nghiên cứu theo quan điểm liên ngành.
- Phương pháp tổng hợp, quy nạp, khái quát.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và khuyến nghị, nội dung chính của luận
văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài
Chương 2: Thực trạng và định hướng dạy học tác phẩm Chí Phèo, Đời
thừa của Nam Cao ở trường trung học phổ thông.
Chương 3: Giáo án và thực nghiệm.

xvii


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Thể loại và dạy học tác phẩm văn chƣơng theo đặc trƣng thể loại
1.1.1. Thể loại văn học
Tìm hiểu kiến thức về đặc trưng thể loại sẽ giúp ta có căn cứ để xác
định được những tính chất của loại ở trong một thể nào đó và khai thác đúng
trọng tâm nội dung tác phẩm và tư tưởng mà nhà văn gửi gắm trong tác phẩm
đó.
Từ điển thuật ngữ văn học, do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc
Phi (đồng chủ biên) xác định thể loại văn học như sau:
Thể loại văn học là dạng thức của tác phẩm văn học, được hình thành
và tồn tại tương đối ổn định trong quá trình phát triển lịch sử văn học, thể hiện
ở sự giống nhau về cách thức tổ chức tác phẩm, về đặc điểm của các loại hiện
tượng đời sống được miêu tả và về tính chất của mối quan hệ của nhà văn đối
với các hiện tượng đời sống ấy.
Trong quá trình sáng tác, các nhà văn thường sử dụng những phương
pháp chiếm lĩnh đời sống khác nhau, thể hiện những quan hệ thẩm mĩ khác

nhau đối với hiện thực, có những cách thức xây dựng hình tượng khác nhau.
Các phương thức ấy ứng với những hình thức hoạt động nhận thức khác nhau
của con người - hoặc trầm tư, chiêm nghiệm, hoặc qua biến cố liên tục, hoặc
qua xung đột,… làm cho tác phẩm văn học bao giờ cũng có sự thống nhất quy
định lẫn nhau về các loại đề tài, cảm hứng, hình thức nhân vật, hình thức kết
cấu và hình thức lời văn. Người ta có thể tập hợp thành từng nhóm những tác
phẩm văn học giống nhau về phương thức miêu tả và hình thức tồn tại chỉnh
thể ấy. Đó là cơ sở khách quan tồn tại thể loại văn học và cũng là điểm xuất
phát để xây dựng nguyên tắc phân chia thể loại văn học.
Thể loại văn học trong bản chất phản ánh những khuynh hướng phát
triển vững bền, vĩnh hằng của văn học, và các thể loại văn học tồn tại để gìn

xviii


giữ, đổi mới thường xuyên các khuynh hướng ấy. Do đó mà thể loại văn học
ln ln vừa cũ, vừa mới, vừa biến đổi, vừa ổn định.
Lí luận văn học dựa vào yếu tố ổn định mà chia tác phẩm văn học thành
các loại và thể (hoặc thể loại, thể tài). Loại rộng hơn thể, thể nằm trong loại.
Bất kì tác phẩm nào cũng thuộc một loại nhất định và quan trọng hơn là có
một hình thức thể nào đó. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng có ba loại: tự sự,
trữ tình, kịch. Mỗi loại lại bao gồm một số thể.
Nguyễn Văn Long trong cuốn Phân tích tác phẩm văn học hiện đại Việt
Nam từ góc nhìn thể loại, Nxb Giáo dục Việt Nam cũng chỉ rõ:
Thể loại là một phạm trù cơ bản và phổ biến của văn học, chi phối cả
sáng tác, lưu truyền, tiếp nhận văn học.
Bất kì tác phẩm văn học nào cũng đều tồn tại trong một dạng thức nhất
định. Đó là sự thống nhất mang tính chỉnh thể của một loại nội dung với
những phương thức biểu đạt và hình thức tổ chức tác phẩm, tổ chức lời văn.
Thể loại văn học chính là sự phân chia loại hình tác phẩm theo những căn cứ

nêu trên. Thể loại văn học là sự thống nhất giữa một loại nội dung với một
dạng hình thức văn bản và phương thức tái hiện đời sống.
Đọc và phân tích một tác phẩm văn học khơng thể khơng quan tâm đến
đặc điểm thể loại của tác phẩm ấy. Bởi vì thể loại chính là cơ sở tạo nên tính
thống nhất chỉnh thể của một tác phẩm, tổ chức liên kết các yếu tố nội dung
và hình thức, từ đề tài, chủ đề, cảm hứng đến hệ thống nhân vật, kết cấu và lời
văn nghệ thuật. Thể loại không những quy định cách thức tổ chức tác phẩm
mà còn định hướng cho việc tiếp nhận của độc giả, tạo nên kênh giao tiếp
giữa tác phẩm và người đọc. Thể loại của tác phẩm vừa có tính kế thừa, tính
liên tục, lại vừa có tính độc đáo, tính biến đổi do sự sáng tạo của tác giả. Vì
thế, phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại không thể chỉ dừng lại ở những
đặc điểm chung của một thể loại thể hiện trong tác phẩm, mà còn cần phải chỉ
ra nét riêng biệt, độc đáo, thể hiện sự sáng tạo không lặp lại của tác giả.

xix


Các tác giả trong cuốn Lý luận văn học (tập 2): Phương Lựu, Trần
Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam quan niệm thể loại tác phẩm văn học là khái
niệm chỉ quy luật, loại hình của tác phẩm, trong đó ứng với một nội dung nhất
định có một hình thức nhất định, tạo cho tác phẩm một hình thức tồn tại chỉnh
thể.
Từ những điều trên, chúng tôi cùng thống nhất cách hiểu về khái niệm thể loại
văn học như sau:
Thể loại Văn học là phương thức tái hiện đời sống và thể thức cấu tạo văn
bản.
Tên gọi thể loại của tác phẩm cho ta biết: phạm vi và phương thức tiếp xúc,
tái hiện đời sống; hệ thống các phương tiện, phương pháp thể hiện tương ứng.
Phân loại tác phẩm văn chương chủ yếu dựa vào phương thức tái hiện đời
sống; cấu tạo tác phẩm; loại đề tài; chủ đề; thể văn. Tác phẩm văn học được

chia ra làm ba loại chính: loại tác phẩm tự sự, loại tác phẩm trữ tình, loại tác
phẩm kịch. Mỗi loại tác phẩm văn học lại có một phương thức kết cấu hình
tượng văn học để phản ánh cuộc sống và biểu hiện tư tưởng của nhà văn.
1.1.3. Dạy học tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể loại
Thể loại chi phối tất cả các yếu tố của hình thức tác phẩm . Khơng phải
ngẫu nhiên mà sách giáo khoa hiện hành sắp xếp tác phẩm theo thể loại và
mỗi khi dạy - học tới một thể loại nào đó sách giáo khoa thường nêu chú
thích về đặc trưng thể loại đó. Có một số thể loại có thể nói lướt qua nhưng
cũng có một số thể loại cần phải được học thật kỹ trên lớp. Vấn đề dạy học
theo đặc trưng thể loại đã được các nhà lý luận nghiên cứu phương pháp quan
tâm. Không thể có chung một loại phương pháp, cách thức dạy và học cho tất
cả các loại tác phẩm nói chung và từng tác phẩm nói riêng. Tác phẩm thuộc
thể loại nào đòi hỏi cách dạy theo đặc trưng của thể loại ấy. Khi xác định
đúng đặc trưng thể loại của tác phẩm thì GV sẽ lựa chọn được cách thức tổ
chức, hướng dẫn định hướng phù hợp để giúp HS nắm được toàn bộ nội dung
và nghệ thuật của tác phẩm để quá trình dạy học thực sự đạt kết quả.
xx


Tìm hiểu thi pháp thể loại là cơ sở để phát hiện nét độc đáo của thi pháp
tác giả, thi pháp tác phẩm. Tiếp cận thi pháp thể loại không tách rời với việc
tiếp cận đồng bộ tác phẩm văn chương trong nhà trường. Thi pháp thể loại là
vấn đề có tính ngun tắc chi phối q trình đến với tác phẩm, giải mã tác
phẩm nhưng những hiểu biết về hồn cảnh lịch sử, văn hóa, tư tưởng thời đại
và cá nhân con người , tiểu sử nhà văn thì có thể lý giải được các yếu tố mờ
ẩn trong tác phẩm . Vận dụng thi pháp vào giảng dạy tác phẩ m văn chương
phải gắn liền với lý luận dạy học hiện đại: phải đọc kỹ văn bản , xác định
được “chất của loại” của tác phẩm ; phải nắm được những đặc điểm của hoạt
động tiếp nhận tác phẩ m văn chương ; giáo viên Văn vừa là nhà khoa học,
nhà sư phạm vừa là người nghệ sỹ.

Dạy học tác phẩm văn chương giúp học sinh nhận thức được cái hay,
cái đẹp của tác phẩm. Moi phương pháp dạy học đều phải xuất phát từ việc
cảm thụ tác phẩm văn chương của các lứa tuổi học sinh. Như vậy, đặc trưng
thể loại của tác phẩm là điều kiện đầu tiên quyết định hiệu quả của quá trình
tiếp nhận của HS. Người GV khi định hướng dạy học tác phẩm văn chương
phải biết xuất phát từ đặc trưng thể loại của tác phẩm, đối tượng tác động, đối
tượng tiếp nhận để tổ chức hướng dẫn học sinh phân tích, cảm thụ tác phẩm,
từ đó tìm ra khả năng tác động đặc biệt của tác phẩm đó đối với HS trong lớp,
đề ra yêu cầu về hoạt động của HS và GV soạn giáo án và lập kế hoạch giảng
dạy, tránh lối dạy dập khuôn, đơn điệu, không hiệu quả.
1.3. Đặc trƣng của loại hình tác phẩm tự sự
Loại hình tự sự khác hẳn loại trữ tình và kịch. Loại trữ tình biểu hiện trực
tiếp thế giới chủ quan của con người. Trong tác phẩm trữ tình, tình cảm, cảm
xúc, tâm trạng, suy nghĩ, được trình bày trực tiếp và làm thành nội dung chủ
yếu của tác phẩm. Tác giả có thể biểu hiện cảm xúc cá nhân mình mà không
cần kèm theo bất cứ một sự miêu tả biến cố, sự kiện nào. Kịch bắt đầu từ
xung đột, đó là sự phát triển cao nhất sự mâu thuẫn của hai hay nhiều lực
lượng đối lập thông qua một sự kiện hay một diễn biến tâm lí cụ thể được thể
xxi


hiện trong mỗi màn, mỗi hồi kịch. Còn loại tự sự phản ánh đời sống trong tính
khách quan của nó qua con người, hành vi, sự kiện được kể lại bởi một người
kể chuyện nào đó. Tác phẩm tự sự hầu như không bị hạn chế bởi không gian
và thời gian. Nó có thể kể về những khoảnh khắc hay những sự kiện xảy ra
hàng trăm năm. Tầm bao quát cuộc sống trong tác phẩm rộng lớn. Nhịp điệu
trong tác phẩm nhìn chung là khoan thai. Nhân vật tự sự được khắc họa đầy
đặn nhiều mặt: bên trong, bên ngoài, cả điều nói ra và khơng nói ra, cả ý nghĩ
và cả cái nhìn, cả cảm xúc, tình cảm, ý thức và vô thức, cả quá khứ, hiện tại
và tương lai. Tác phẩm tự sự nào cũng có hình tượng người trần thuật của nó.

Hình tượng người trần thuật, kể chuyện rất đa dạng: khách quan, ngôi thứ
nhất, thông suốt, thơng suốt có chọn lựa… và cũng có khi người kể chuyện
như một nhân vật… khi nhập thân, khi gián cách, khi đứng ngồi, khi hịa
nhập… ít nhiều ta vẫn nhận ra thái độ của họ. Lời văn của loại tự sự có thể là
văn vần hay văn xi nhưng luôn hướng người đọc ra thế giới đối tượng, khác
hẳn lời trữ tình hướng sự chú ý tới cảm xúc, ý định chủ quan của người nói,
khác hẳn lời thoại trong kịch. Lời nói của nhân vật tự sự là một thành phần,
một yếu tố của văn tự sự. Nó xuất hiện gắn liền với sự miêu tả. Trong tự sự,
khơng có chỗ cho những lời thổ lộ trữ tình độc lập, hay tự biểu hiện một cách
trực tiếp, cái đó chủ yếu dành cho nhân vật. Vì vậy mà trong tự sự vẫn chấp
nhận ngôn ngữ đa thanh, đa nghĩa, nửa trực tiếp, nửa gián tiếp. Văn tự sự có
chức năng tái hiện, phân tích sự vật qua miêu tả và thuyết minh.
Tái hiện toàn bộ thế giới bao gồm những sự kiện bên ngoài và bên trong của
con người nhưng đều xem chúng như là những sự kiện khác nhau về đời sống
con người, xã hội. Không gian và thời gian khơng bị hạn chế, nhà văn có thể
thể hiện những vùng đất khác nhau, có thể lùi về dĩ vãng hay đắm mình trong
hiện tại, có thể lướt qua hoặc tập trung miêu tả một mặt nào đó mà mình cho
là quan trọng.
Trong tác phẩm tự sự, hình tượng người trần thuật giữ một vai trị hết sức
quan trọng và luôn luôn muốn hướng dẫn, gợi ý cho người đọc nên hiểu nhân
xxii


vật, hoàn cảnh, thế này hoặc thế khác. Nếu truyện ngắn trữ tình với nét nổi bật
là tính “phi cốt truyện”, truyện khơng kể lại được vì cốt truyện khơng tiêu
biểu, thì truyện ngắn tự sự cốt truyện rất rõ nét, trong mỗi cốt truyện lại được
đan cài bởi các chi tiết, sự kiện, tình tiết, phản ánh trong mối quan hệ xã hội,
cuộc đời với những xung đột, mâu thuẫn gay gắt. Cốt truyện đóng vai trị
quan trọng trong tác phẩm tự sự, nó được xây dựng từ những sự kiện, hành
động của nhân vật.

Loại hình tác phẩm tự sự gồm có các thể nhỏ: tiểu thuyết, truyện ngắn,
kí, tản văn… Cách phân loại trên là cần thiết khi bước đầu tiếp cận các tác
phẩm văn học trong nhà trường. Chúng ta cần chú ý đến “chất của loại” trong
thể khi phân tích tác phẩm văn học. Vì chính “tính chất loại thể” làm ra diện
mạo tinh thần của tác phẩm. Nó giúp ta tiếp nhận “đúng”, “trúng” với tác
phẩm cụ thể. Làm thành “loại” và thể hiện “loại” phải nhờ các “thể”. Nhưng
khơng ít “thể” của tác phẩm thuộc loại này nội dung lại mang tính chất ở loại
kia. Ví dụ như Đời thừa là truyện (thuộc loại tự sự), nhưng mang chất trữ
tình. Truyện Chí Phèo vừa giàu chất trữ tình, vừa giàu kịch tính. Nếu chỉ chú
ý vào thể mà quên đi tính chất loại trong thể trong tác phẩm, chúng ta rất dễ
phân tích tác phẩm một cách dập khuôn, sai lệch. Như vậy, chúng ta cần quan
tâm và tìm ra các phương pháp, biện pháp thích hợp để giải quyết những tồn
tại và mâu thuẫn này trong quá trình dạy học tác phẩm văn chương. Điểm qua
một vài đặc điểm các thể tiểu thuyết, truyện ngắn, kí, tản văn trong loại hình
tác phẩm tự sự:
Tiểu thuyết: là thể loại không bị giới hạn về dung lượng phản ánh hiện
thực, cả về không gian cũng như thời gian. Qua tiểu thuyết, người đọc có thể
hiểu được một giai đoạn lịch sử với nhiều sự kiện, nhiều cảnh ngộ, địa điểm,
tình huống, miêu tả cuộc sống từ góc độ đời tư. Các yếu tố khác của tác phẩm
văn học, từ đề tài, chủ đề, nhân vật, kết cấu...cũng chịu sự chi phối của đặc
điểm. Người trần thuật được chứng kiến câu chuyện và có khả năng kể lại
tồn bộ câu chuyện theo cách riêng của mình. Lời trần thuật ở đây cịn có
xxiii


nhiệm vụ tái hiện và phân tích, lý giải thế giới khách quan vật chất, sự việc,
con người; tái hiện và phân tích, lý giải lời nói, ý thức người khác. Ngôn ngữ
nhân vật là một trong những phương tiện quan trọng được nhà văn sử dụng
nhằm thể hiện cuộc sống và cá tính nhân vật. Ngơn ngữ trần thuật của nhân
vật là lời trực tiếp của nhân vật trong tác phẩm, là thứ ngơn ngữ được miêu tả.

Đó thực chất cũng là ngôn ngữ của tác giả nhưng tác giả để cho nhân vật tự
giãi bày về mình. Ngơi kể của nhân vật trần thuật là ngôi thứ hai, thứ ba
nhưng vẫn được trần thuật ở ngôi thứ nhất, xưng tôi trong đối thoại. Ngôn
ngữ trần thuật của nhân vật có thể là đối thoại hay độc thoại. Đối thoại gắn
liền với việc những người nói hướng vào nhau và tác động vào nhau; độc
thoại không nhằm hướng đến người khác và tác động qua lại giữa người và
người. Ngơn ngữ trần thuật của nhân vật có nhiều chức năng khác nhau như:
chức năng phản ánh hiện thực, chức năng tự bộc lộ của nhân vật, chức năng là
đối tượng miêu tả của tác giả hoặc chức năng thể hiện nội tâm…. Qua trần
thuật, nhân vật kể lại cuộc đời của mình, bộc lộ tâm tư, suy nghĩ, chiêm
nghiệm về cuộc đời, lẽ sống, giúp người đọc lĩnh hội được tư tưởng, quan
niệm của nhà văn. Trong khi trần thuật, tác giả sử dụng nhiều giọng điệu,
nhiều sắc thái trên cơ sở một giọng điệu cơ bản chủ đạo, chứ khơng đơn
điệu.Tính chất hiện đại thể hiện trong ngơn ngữ trần thuật gần với ngơn ngữ
đời sống hơn, tính chất văn hoá vùng miền thể hiện ở chất giọng nhà văn,
người trần thuật khơng những kể chuyện mà cịn chuyển tải những giá trị văn
hoá nằm sâu dưới lớp ngôn ngữ, làm cho nội dung trần thuật phong phú, đặc
trưng.
Truyện ngắn: là loại văn xi tự sự có hình thức ngắn gọn, nắm bắt và thể
hiện hiện thực cuộc sống. Nhà văn thường hướng tới khắc họa một hiện
tượng, phát hiện một nét bản chất nào đó trong quan hệ nhân sinh hay đời
sống tâm hồn con người. Tập trung về sự kiện, về chủ đề, về ấn tượng, luôn
luôn chú ý vào một vấn đề cơ bản với sự tỉ mỉ, chi tiết, loại bỏ những gì thiếu
súc tích. Nhân vật thường khơng nhiều và cuộc đời của nhân vật cũng thường
xxiv


chỉ được miêu tả như một khoảnh khắc, mảnh nhỏ, nhưng lại có ý nghĩa trong
cả cuộc đời nhân vật nên nhịp điệu truyện ngắn khẩn trương, gấp rút, có nhiều
yếu tố bất ngờ, chuyển đoạn đột ngột trong giới thiệu, bố cục, kết thúc câu

chuyện.
Kí: mang tính tổng hợp về đối tượng mơ tả và người ta có thể tìm thấy ở
đó khơng chỉ là những số phận mà là những bức tranh về phong tục, về đời
sống kinh tế, chính trị...Ðặc trưng này thực ra có thể được xác định rõ nét hơn
trong tiểu thuyết. Do kí là một thể loại có tính chất ghi chép nên kí phản ánh
người thật, việc thật, có tính ngun tắc. Kí viết về sự thật nhưng thực ra, nhà
văn có tư tưởng, tình cảm hồn tồn đúng đắn chỉ việc ghi chép lại thì trước
khi ghi chép, ít nhất cũng phải nghe hoặc thấy, tức là nghe kể lại hoặc chứng
kiến. Nhà văn có thể được hư cấu rộng rãi hơn với những thành phần không
xác định như nội tâm nhân vật, cảm xúc, thiên nhiên, những nhân vật phụ,
cũng như việc sắp xếp, tổ chức hệ thống cốt truyện.
Tản văn: nói lên điều suy nghĩ, nung nấu, cảm xúc trong lịng về con người,
thế sự, đạo lí, về thiên nhiên, mơi trường, chính trị, văn nghệ. Có thể có nhiều
phong cách: nghiêm túc, cười cợt, trữ tình, chính luận, triết lí Tản văn có hình
thức đa dạng, cũng có thể là tạp bút, tạp văn, bút ký, du ký… Ngoài ra, tản
văn cịn có đề tài rộng mở, khơng bị hạn chế bởi thời gian, không gian. Tản
văn thường mang ý nghĩa sâu sắc, thâm thúy, ngôn từ cô đọng, súc tích, thể
hiện rõ cảm nhận của tác giả về đời sống hàng ngày. Tản văn trữ tình nghiêng
về cảm nhận tư tưởng, xuất phát từ tư tưởng, tình cảm của tác giả. Tản văn trữ
tình miêu tả sự vật cụ thể, tình tiết khơng xâu chuỗi, có đặc điểm nổi bật là
giàu chất trữ tình, hàm chứa tư tưởng tình cảm và nội dung xã hội sâu sắc.
Tản văn tả cảnh chủ yếu miêu tả cảnh vật, thường xuất phát từ cảm nhận của
tác giả hay mượn cảnh tả tình, nắm bắt được đặc trưng cảnh vật, quan sát sự
thay đổi của toàn cảnh. Tản văn tả cảnh thường sinh động, khơng những có
thể thay thế bối cảnh mà cịn mượn tư tưởng, tình cảm nhân vật biểu hiện rõ
hơn chủ đề. Có thể thấy, tản văn trữ tình và tản văn tả cảnh chuyển tải quá
xxv


nhiều ký ức và ấn tượng. Tạp văn, tạp bút là chân trời rộng mở về đời sống

hiện thực. Mạch viết ngắn, những suy tư bất chợt, những trăn trở của tác giả
lại khiến độc giả phải nặng lòng suy ngẫm xem ý tưởng của tác giả hướng về
đâu, gợi mở điều gì. Tản văn triết lý có sự cảm nhận sâu sắc, tư tưởng bao
trùm, triết lý rõ ràng, có đề tài sáng tác rộng lớn, nội hàm phong phú, bao gồm
toàn bộ xã hội nhân sinh, thể hiện cảnh quan đời sống thiên biến vạn hóa. Tác
giả tản văn triết lý thường có kiến thức sâu rộng, biết chớp thời điểm triết lý.
Tản văn triết lý có sự kết hợp các loại hình tượng với sự sống, xuyên qua bản
chất sự vật, đạt hiệu quả thẩm mỹ cao. Tư duy trong tản văn triết lý khá sâu
sắc, dù là vấn đề hạn hẹp cũng thể hiện được tư tưởng, tình cảm cao thâm,
vượt qua loại tình cảm thơng thường mà thăng hoa đến cảnh giới tinh thần. Tư
duy trong tản văn triết lý là hệ thống tư duy tổng hợp, thông qua liên tưởng để
phản ánh chung về tự nhiên, xã hội, con người ở nhiều góc độ. Tư tưởng
trong tản văn triết lý là tư tưởng tình cảm trong đời sống con người, có giá trị
thẩm mỹ cao độ.
1.3. Đặc trƣng thể loại truyện ngắn
Truyện ngắn là một thể loại văn học. Nó thường là các câu chuyện được kể
bằng văn xi và có xu hướng ngắn gọn, súc tích; nắm bắt cuộc sống của thể
loại, tác giả truyện ngắn thường hướng tới khắc hoạ một hiện tượng, phát hiện
một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn con người,
thường rất ít nhân vật, ít sự kiện phức tạp. Dựa vào nội dung phân chia ra
truyện ngắn sử thi (Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành; Số phận một con
người của M.Sôlôkhôp); truyện ngắn thế sự (Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công
Hoan); truyện ngắn đời tư (Nam Cao, Thạch Lam). Dựa vào khuynh hướng
cảm xúc phân chia ra: truyện ngắn trào phúng (Nguyễn Cơng Hoan); truyện
ngắn trữ tình (Thạch Lam). Dựa vào cốt truyện phân chia thành: truyện ngắn
sự kiện (Nguyễn Công Hoan); truyện ngắn tâm lý (Nam Cao). Trên cơ sở dựa
vào nội dung, hình thức của tác phẩm mà có nhiều cách phân chia loại trong
thể truyện ngắn như vậy. Song chúng ta cũng cần hiểu rằng: truyện ngắn là
xxvi



×