Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Nâng cao kỹ năng đọc hiểu 2 đoạn trích Cảnh ngày xuân và Kiều ở lầu Ngưng Bích cho học sinh lớp 9, Trung học cơ sở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 119 trang )

ĐAI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

NGUYỄN THỊ DUYÊN

NÂNG CAO KỸ NĂNG ĐỌC HIỂU 2 ĐOẠN TRÍCH
“CẢNH NGÀY XUÂN” VÀ “KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH”
CHO HỌC SINH LỚP 9 TRUNG HỌC CƠ SỞ

CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
(BỘ MÔN NGỮ VĂN)
Mã số: 60 14 10
LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. Nguyễn Thanh Hùng

HÀ NỘI - 2012


MỤC LỤC
Trang
Lời cảm ơn ..................................................................................... …
i
Danh mục viết tắt.............................................................................. ..
ii
Danh mục các bảng ........................................................................... ..
iii
Mục lục ............................................................................................ ..
iv
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI .................................................... 12


1.1. Những vấn đề chung về đọc hiểu tác phẩm văn chương ....................................12
1.1.1. Quan niệm về đọc văn ............................................................................ 12
1.1.2. Quan niệm về hiểu văn ........................................................................... 13
1.1.3. Bản chất đọc - hiểu ................................................................................. 14
1.2. Nội dung đọc - hiểu tác phẩm văn chương.........................................................18
1.2.1. Tầng cấu trúc ngôn ngữ (cấu trúc ngơn từ tác phẩm) .............................. 18
1.2.2.Tầng cấu trúc hình tượng thẩm mỹ .......................................................... 19
1.2.3. Đọc - hiểu ý nghĩa tầng cấu trúc tư tưởng và ý vị nhân sinh của tác
phẩm văn chương ............................................................................................. 21
1.3. Kỹ năng đọc - hiểu tác phẩm văn chương ..........................................................22
1.3.1. Kĩ thuật đọc - hiểu.................................................................................... 22
1.3.2. Kĩ năng đọc hiểu..................................................................................... 25
Tiểu kết chương 1 ............................................................................................ 30
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG DẠY HỌC ĐỌC - HIỂU VÀ MỘT SỐ BIỆN
PHÁP NÂNG CAO KỸ NĂNG ĐỌC - HIỂU HAI ĐOẠN TRÍCH ...................... 31

2.1. Cơ sở thực tiễn ...................................................................................................31
2.1.1. Vị trí Truyện Kiều trong chương trình Ngữ văn Trung học cơ sở ........... 31
2.1.2. Thực trạng dạy đọc- hiểu 2 đoạn trích “Cảnh ngày xuân” và “Kiều ở lầu
Ngưng Bích” ở bốn lớp 9 Trường Trung học cơ sở Đồng Phú và Trung học cơ sở
Trọng Quan - Đông Hưng - Thái Bình ................................................................ 31
2.2. Nhận định riêng về nội dung phương pháp dạy đọc - hiểu.................................34
2.3. Những nguyên tắc và biện pháp hướng dẫn đọc - hiểu hai đoạn trích "Cảnh
ngày xuân" và "Kiều ở lầu Ngưng Bích" trong chương trình sách giáo khoa và
sách giáo viên ...........................................................................................................34
2.3.1. Trong sách giáo khoa .............................................................................. 34
iv


2.3.2. Trong sách giáo viên .............................................................................. 36

2.4. Những nô ̣i dung và cách thức da ̣y trong các sách tham kh .............................42
ảo
2.4.1. Tiến sĩ Nguyễn Tro ̣ng Hoàn trong cuố n “Đo hiể u văn bản Ngữvăn 9” ......... 42
- ̣c
2.4.2. Đọc hiểu hai đoạn trích bằng hệ thống câu hỏi - tài liệu tham khảo của
Thạc sĩ Trần Đình Chung ................................................................................. 50
2.4.3. Tác giả Nguyễn Xuân Lạc - Bùi Tất Tươm - Đỗ Việt Hùng "Hướng
dẫn tự học Ngữ văn 9" ...................................................................................... 61
2.4.4. Một vài nhận xét về cách hướng dẫn đọc - hiểu hai đoạn trích trong
các tài liệu sách giáo viên, sách giáo khoa, sách tham khảo ............................. 70
2.5. Những biện pháp nâng kỹ năng đọc - hiểu hai đoạn trích “Cảnh ngày xuân”
và “Kiều ở lầu Ngưng Bích” .....................................................................................71
2.5.1. Đọc - hiểu tầng cấu trúc ngơn từ ............................................................. 71
2.5.3. Đọc hiểu tầng cấu trúc tư tưởng thẩm mỹ ............................................... 76
Chƣơng 3: THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM ......................................................... 80
3.1. Các vấn đề chung ...............................................................................................80
3.1.1. Ý nghĩa, mục đích của thực nghiệm ........................................................ 80
3.1.2. Nội dung thực nghiệm ............................................................................ 80
3.1.3. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm .......................................................... 80
3.1.4. Phương pháp thực nghiệm ...................................................................... 81
3.2. Thiết kế kế hoạch bài thể nghiệm .......................................................................83
3.3. Kết quả thể nghiệm và đánh giá ......................................................................104
3.3.1. Kết quả thể nghiệm ............................................................................... 104
3.3.2. Phân tích và đánh giá kết quả thể nghiệm ............................................. 106
Tiểu kết chương 3 .......................................................................................... 107
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ................................................................... 109

1. Kết luận ...............................................................................................................109
2. Khuyến nghị........................................................................................................110
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 113


v


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ĐHSP:

Đại học Sư phạm

GV:

Giáo viên

GS:

Giáo sư

HS:

Học sinh

Nxb:

Nhà xuất bản

THCS:

Trung học cơ sở

TPVC:


Tác phẩm văn chương

TS:

Tiến sĩ

PGS:

Phó giáo sư

SGK:

Sách giáo khoa

SGV:

Sách giáo viên

STK:

Sách tham khảo

ii


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Trang
Bảng 3.1. Thông tin về các lớp thể nghiệm và lớp đối chứng ...................


81

Bảng 3.2. Bảng khảo sát lực học ban đầu của học sinh .............................

82

Bảng 3.3. Kết quả điểm số của các lớp sau khi dạy thực nghiệm .............. 105
Bảng 3.4. Bảng tổng hợp kết quả trung bình chung số HS tham gia thể
nghiệm và đối chứng ................................................................................ 105
Biểu đồ 3.1. Biểu đồ so sánh kết quả ........................................................ 106

iii


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việc hình thành và phát triển năng lực tiếp nhận văn học cho HS trong
việc học Ngữ văn ở nhà trường phổ thông hiện nay là một bài tốn khá nan
giải, địi hỏi ngành Giáo dục có những giải pháp mới. Để giúp HS năng lực
đó, có rất nhiều kỹ năng, trong đó những kỹ năng đọc hiểu văn bản là một
trong những vấn đề quan trọng và cần thiết.
Truyện Kiều của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du là một kiệt tác không
những của văn học Việt Nam mà còn là kiệt tác của văn học thế giới. Đọc
Truyện Kiều, mỗi người Việt Nam đều thấy có mình trong đó, thấy q
hương, đất nước, thấy những buồn vui, những số phận, những cuộc đời. Với
Truyện Kiều, Nguyễn Du được mệnh danh là nhà nhân đạo chủ nghĩa. Đây
cũng là một nội dung lớn của văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ
XIX. Ngồi phương diện nội dung thì Truyện Kiều còn là áng văn mẫu mực
về phương diện nghệ thuật: Nghệ thuật tả người, tả cảnh, tả tình, tự sự… đem
lại cho người đọc nhiều hứng thú văn chương thi vị. Do cuộc đời từng trải

“Mười năm gió bụi thập phương” (1786 - 1796) nếm đủ mùi cay đắng kết hợp
với vốn sống Truyện Kiều của Nguyễn Du đã đem đến cho văn học dân tộc
một ngôn ngữ văn hóa đặc sắc nhất của tiếng Việt. Tiếng Việt đã phản ánh thứ
ngôn ngữ trong sáng, trau chuốt và tài tình của người Việt. Nói như nhà ngơn
ngữ học Phạm Quỳnh: “Truyện Kiều còn tiếng ta còn, tiếng ta còn nước ta
còn…”. Như vậy, ảnh hưởng của Truyện Kiều rất lớn đối với các thế hệ người
Việt. Nếu tìm hiểu Truyện Kiều nói chung, một số đoạn trích đọc hiểu đưa vào
chương trình lớp 9 nói riêng chúng ta có thể hiểu thi pháp của văn học trung đại
Việt Nam, hiểu tiếng Việt. Với học sinh sẽ giúp họ học tốt phần văn học trung đại.
Ở các nhà trường phổ thơng hiện nay, có một thực tế đáng buồn là HS
ngày càng chán học văn, sợ học văn, học văn theo mẫu. Trong cách dùng từ, cịn
q nhiều sai sót, diễn đạt yếu, chưa cảm nhận được cái hay, cái đẹp của tác
phẩm văn chương. Có thể thấy nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ cách dạy của

1


thày. Những thiếu sót đầu tiên của GV như chưa chú trọng rèn luyện cách đặt
câu, sử dụng từ, sửa lỗi chính tả cho HS,... Giáo viên chưa thực hiện tốt chức
năng, nhiệm vụ của mơn văn.
Bên cạnh đó, trong cách dạy của GV còn nặng về thuyết giảng. Lên lớp
chỉ giảng dạy theo bài soạn mà chưa có những tình huống sư phạm. Nói thay,
làm thay, cảm thụ thay những cái hay cái đẹp của TPVC. HS chỉ có nhiệm vụ
ghi chép lại, học thuộc rồi làm bài. HS chưa thực sự, chủ động chiếm lĩnh tác
phẩm. Từ đó dẫn đến thói quen lười suy nghĩ, lười tư duy, thiếu sáng tạo. Muốn
nâng cao kỹ năng tiếp nhận văn học cho HS cần phải thay đổi cách dạy. Cần
phải đổi mới phương pháp - tìm ra những phương pháp dạy học văn thích hợp.
Đổi mới phương pháp giảng dạy ở môn Văn là sự vận dụng linh hoạt các
nguyên tắc, các thao tác giảng dạy khác nhau, nhằm phát huy tối đa tinh thần
chủ động tích cực, sáng tạo của HS, giúp các em tự tìm tịi khám phá ra chân lý

thay vì cách học thụ động, một chiều trước đây.
Phương pháp dạy đọc - hiểu phải đi từ khâu hướng dẫn HS đọc các văn
bản, bám sát câu chữ văn bản để chỉ ra nội dung tư tưởng, tự khám phá ra cái
hay cái đẹp của văn bản theo ý mình. Từ đó, hình thành phương pháp đọc hiểu
các tác phẩm cùng loại. Với phương pháp dạy như vậy thì dạy đọc - hiểu văn
bản sẽ đáp ứng được yêu cầu đổi mới phương pháp, phát huy tính tích cực, chủ
động sáng tạo của học sinh.
Là GV dạy văn với hai mươi năm trong nghề, bản thân vốn tha thiết yêu
văn, yêu Truyện Kiều, khi có điều kiện học lên càng thấy giá trị của tác phẩm này
và khao khát tìm một hướng đi để làm nên chất lượng dạy học bộ môn trong cuộc
đời dạy học của mình. Trong các đoạn trích của Truyện Kiều có mặt trong
chương trình Ngữ văn Trung học cơ sở (THCS), đoạn nào cũng lấp lánh một vẻ
đẹp riêng. Trong thời lượng có hạn, đề tài này của tơi nhằm đưa ra một số biện
pháp hướng dẫn kỹ năng đọc hiểu văn bản văn chương, giúp HS lớp 9 đọc - hiểu
hai đoạn trích trong Truyện Kiều: Cảnh ngày xuân và Kiều ở lầu Ngưng Bích một
cách có hiệu quả. Việc nghiên cứu này đều nhằm mục đích nâng cao chất lượng

2


dạy văn học nói chung và dạy học một số đoạn trích trong Truyện Kiều nói riêng.
Đó chính là lý do mà tôi chọn đề tài Nâng cao kỹ năng đọc hiểu 2 đoạn trích
“Cảnh ngày xuân” và “Kiều ở lầu Ngưng Bích” cho học sinh lớp 9 THCS.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Ngôn ngữ tồn tại dưới hai hình thức cơ bản là nói và viết. Khi văn bản
được lưu giữ dưới hình thức chữ viết, xuất hiện hoạt động đọc. Đọc là quá chuyển
hóa nội dung ý nghĩa từ chữ viết sang âm thanh. Đã có nhiều cơng trình nghiên
cứu hoạt động đọc. Trên thế giới là cơng trình nghiên cứu của A.Nhi-kơn-xki.
Trong “Phương pháp giảng dạy văn học ở trường phổ thông”, sách khảng
định “Học sinh là độc giả tác phẩm văn học” và quá trình đọc các tác phẩm văn

học là một quá trình sáng tạo. Tác giả cũng cho rằng việc đọc diễn cảm của GV
sẽ gây ấn tượng sâu sắc về tác phẩm văn học cho học sinh, kích thích hoạt động
tưởng tượng, giúp học sinh hiểu được nội dung biểu cảm của tác phẩm và làm
tăng hứng thú của học sinh đối với nhà văn. Như vậy, cơng trình của A.Nhi-kơnxki nhấn mạnh đến việc đọc diễn cảm.
Bên cạnh cơng trình của A.Nhi-kơn-xki, Ia. Rez trong cuốn giáo trình
“Phương pháp luận dạy văn học” đã đặt phương pháp đọc sáng tạo lên vị trí
hàng đầu như là phương pháp đặc biệt nhất đối với văn học nhằm phát triển cảm
thụ nghệ thuật hình thành những thể nghiệm nghệ thuật, những khuynh hướng
và năng khiếu nghệ thuật cho học sinh bằng phương diện nghệ thuật.
Tác giả đã cụ thể hóa thành những biện pháp như đọc diễn cảm, dạy học
sinh đọc diễn cảm, GV đọc văn bản nghệ thuật kèm theo lời bình luận, đàm
thoại, gợi mở nhằm gợi cho học sinh những ấn tượng trực tiếp về tác phẩm vừa
đọc và các bài tập mà học sinh thu nhận được từ văn bản. Đọc là hoạt động khởi
động và đi sâu cho quá trình tiếp nhận và đọc là để bộc lộ kết quả cảm thụ hiểu
biết về tác phẩm.
Quan niệm của hai cuốn giáo trình có uy tín nói trên đều tập trung vào đọc
diễn cảm trong quá trình hiểu văn. Thực chất của việc đọc văn là quá trình phát
hiện và tổng hợp những tầng ý nghĩa được nhà văn mã hóa trong một hệ thống

3


kí hiệu ngơn ngữ nghệ thuật. Mỗi giai đoạn của quá trình ấy lại đặt ra những
nhiệm vụ cấp thiết phải giải quyết. Vì vậy hoạt động đọc sẽ được vận dụng dưới
nhiều hình thức phong phú đa dạng, linh hoạt hơn.
Ở Việt Nam, ngay từ những năm đầu thập kỷ XXI đọc - hiểu đã trở thành
một khái niệm khá quen thuộc. Giờ giảng văn trong nhà trường đã được gọi
bằng tên mới “Đọc hiểu văn bản ngữ văn”. Từ tên gọi này chúng ta thấy được sự
chú trọng của những nhà nghiên cứu giáo dục với việc khẳng định vai trò của
đọc - hiểu trong giờ học Ngữ văn.

Tác giả Nguyễn Duy Bình trong bài viết “Coi trọng sự cảm thụ của học
sinh trong giảng dạy văn học” (Tạp chí nghiên cứu giáo dục tháng 11 năm
1980) đã khẳng định quan niệm của mình về đọc hiểu “Nhiệm vụ then chốt trước
hết của giáo viên đối với học sinh là giúp các em biết đọc tác phẩm, rèn luyện kỹ
năng đọc, cảm thụ phân tích tác phẩm văn học để sau này suốt cuộc đời có thể
tự mình biết đọc,…”.
Như vậy hoạt động đọc được đánh giá rất cao. Mục đích của việc đọc văn
khơng chỉ dừng lại trong phạm vi người học trong nhà trường mà còn là hành
trang trong suốt cuộc đời mỗi con người.
Ngoài ra, cịn phải kể đến các cơng trình nghiên cứu của các nhà khoa học
Việt Nam. Tiêu biểu là GS Phan Trọng Luận với chuyên luận “Cảm thụ văn
học, giảng dạy văn học” (Nxb Giáo dục, 1983) và giáo trình “Phƣơng pháp
dạy học văn” (Nxb ĐHSP, 2007), GS đã phân tích rõ tầm quan trọng của hoạt
động đọc: “Đọc từ chữ đầu đến chữ cuối, đọc cho âm vang, đọc để tri giác, cảm
giác được bằng tai từ ngữ, hình ảnh chi tiết,… bài thơ”. Q trình đọc chính là
q trình từng bước tiếp cận và thâm nhập vào tác phẩm. Tác giả khẳng định
“Trong khi đọc, những tín hiệu ngơn ngữ, những hình ảnh cuộc sống trong bài
hiện lên tuần tự sáng rõ dần”. Trong đó tác giả cũng chỉ rõ vai trò của liên
tưởng, tưởng tượng đối với hiệu quả của trình đọc sách như sau: “Đọc sách là
liên tưởng, là hồi ức, là tưởng tượng. Sức hoạt động của liên tưởng càng mạnh
bao nhiêu thì sức cảm thụ càng sâu bấy nhiêu”.

4


Trong cuốn giáo trình “Phƣơng pháp dạy học văn” (2011) tác giả xem
đọc diễn cảm là một trong ba phương pháp thường dùng trong quá trình thâm
nhập tác phẩm văn chương, cùng với phương pháp so sánh và phương pháp tái
hiện hình tượng. Đọc văn là để vang lên cái chủ quan của tác giả “Đọc cho sáng
rõ từng ý nghĩa tình cảm thái độ, tâm trạng mà nhà văn định gửi gắm cho người

nghe, người đọc”. Tác giả đề xuất, việc đọc có thể thực hiện dưới nhiều hình
thức khác nhau như đọc to, đọc thầm, đọc theo vai. Hoạt động đọc không chỉ
dừng lại ở việc đọc thông, viết thạo mà còn phải được theo sát ở các cấp học.
Chương trình Tiếng Việt ở cấp Tiểu học xác định nội dung phát triển kĩ
năng đọc qua yêu cầu hiểu nghĩa các từ thông thường, hiểu được diễn đạt trong
câu; tìm và nắm ý chính của đoạn; tập chia đoạn; tập đặt đầu đề cho đoạn văn;
tập nhận xét về hình ảnh từ ngữ trong các bài tập đọc; tìm ý chính tập tóm tắt bài
văn, chia đoa ̣n rút ra dàn ý chinh của bài ; nhận biết mối quan hệ giữa thông tin
́
trong bài văn ; tâ ̣p nhâ ̣n xét ,… Lên THCS học sinh hoàn thiện bốn kỹ năng:
Nghe, nói, đọc, viết.
Giáo sư Nguyễn Khắc Phi trong lời mở đầu cuốn sách giáo viên Ngữ Văn 6
(tập 1, Nxb Giáo dục, 2000) đã nhấn mạnh “Đọc - hiểu văn bản là hoạt động
quan trọng và trực tiếp giúp học sinh đạt được kết quả đọc văn trong mục tiêu
Ngữ văn tích hợp”.
Chương trình THCS đã chỉ rõ, mục tiêu của môn Ngữ văn về kĩ năng là
“học sinh phải có kĩ năng nghe đọc một cách thận trọng,... quan trọng nhất đối
với kĩ năng nghe là nghe hiểu, đọc - hiểu và cảm thụ được giá trị nghệ thuật của
văn bản”.
Đọc - hiểu là một hoạt động cơ bản của con người để chiếm lĩnh văn hóa.
Khái niệm đọc - hiểu có nội hàm phong phú, có nhiều cấp độ gắn liền với lí luận
dạy học văn, lí thuyết tiếp nhận, tâm lí học nghệ thuật, lí thuyết giao tiếp, tâm lí
học, thi pháp học,…
Giáo sư, TS Nguyễn Thanh Hùng - người có thể được coi là đặt nền móng
đầu tiên cho vấn đề đọc - hiểu ở Việt Nam, với tiểu luận khoa học mang tên

5


“Dạy đọc - hiểu là nền tảng văn hoá cho người đọc” trình bày tại Hội thảo khoa

học chương trình và SGK thí điểm tổ chức tháng 9/2000 tại Hà Nội. Tại đây
giáo sư đã trình bày những phác thảo mang tính nền tảng hết sức cơ bản cho việc
nghiên cứu và ứng dụng việc dạy đọc - hiểu TPVC trong nhà trường. Trong tiểu
luận này tác giả đã xác định được “Đặt vấn đề đọc - hiểu vào trong vùng trời
của nó sẽ thấy hiện lên một hệ thống những nhân tố có mối quan hệ mật thiết
với nhau. Trong hệ thống ấy, hoạt động đọc là cơ bản và có tầm quan trọng hết
sức to lớn cần giải quyết thấu đáo. Cịn hiểu thì khơng nên xem là một hoạt
động mà chỉ là kết quả mong muốn của hoạt động đọc và là mục đích duy nhất
của bất cứ hoạt động đọc nào”. GS cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của đọc,
“Đọc được xem như năng lực văn hóa có ý nghĩa cơ bản đối với sự phát triển
nhân cách bởi vì phần lớn những tri thức hiện đại được truyền thụ qua việc đọc
của học sinh. Trên cơ sở đó sự phát triển kỹ năng đọc của học sinh trong nhà
trường phổ thông là nhiệm vụ cơ bản của giáo viên Ngữ văn…”.
Giáo sư đã chỉ rõ rằng, “Hình thành năng lực đọc tác phẩm cho học sinh
không thể không dựa vào những kết quả nghiên cứu sự hiểu biết về đặc điểm
ngôn ngữ văn học và loại thể”. Từ những nghiên cứu ấy tác giả tập trung khẳng
định tầm quan trọng, vai trị, vị trí của đọc - hiểu trong việc phát triển năng lực
nắm vững và sử dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ của HS, giúp HS có thể hịa nhập
với sự phát triển của thế giới.
Gần đây nhất, kế thừa và phát triển những thành tựu của lí thuyết tiếp
nhận, trong bài viết “Đọc và tiếp nhận văn chƣơng” GS đã đưa “đọc” về đúng
vị trí của nó trong q trình khám phá chiều sâu của tác phẩm văn chương. Tác
giả khẳng định, “Tiếp nhận văn học là một q trình vì nó chỉ diễn ra theo một
thứ hoạt động duy nhất là đọc văn”. Thơng qua q trình đọc văn, với những
u cầu riêng của một hoạt động tinh thần dựa trên một đối tượng thẩm mĩ, mục
đích tiếp nhận là để hiểu được TPVC. Như vậy, đọc là hoạt động bao trùm,
xuyên suốt mọi nấc thang của cảm thụ và hiểu biết về tác phẩm văn chương
trong hệ thống các hoạt động tiếp cận, phân tích, cắt nghĩa và bình giá.

6



Từ đặc trưng nghệ thuật của tác phẩm văn chương, từ những thành tựu
của lí thuyết tiếp nhận, chuyên luận đã kiến giải sâu hơn hoạt động đọc văn với
các luận điểm cơ bản. Đọc văn chương - một con người mới ra đời, đọc văn
chương là “một lao động khoa học”, đọc văn chương là cách phát huy “trực
cảm”, đọc văn chương là hoạt động ngôn ngữ trong môi trường văn hóa thẩm
mĩ, đọc văn chương là q trình sáng tạo, đọc văn chương là quá trình tiếp nhận
nội sinh và ngoại sinh từ tác phẩm. Dựa trên những phân tích và kiến giải ấy mà
người viết đã đề ra phương hướng cơ bản nhằm hướng dẫn HS một cách đọc
vừa tôn trọng bản chất nghệ thuật của tác phẩm văn chương, vừa phát huy tính
năng động của chủ thể”, trong đó đề án tiếp nhận đóng vai trị cầu nối giữa tác
giả và người đọc nhằm tạo nên một cách đọc.
GS Trần Đình Sử trong bài viết “Đọc - hiểu văn bản, một khâu đột phá
trong nội dung và phương pháp dạy Văn hiện nay” đã thẳng thắn nhìn nhận về
phương pháp dạy cũ mà trong đó theo GS: “Cách giảng, phương pháp giảng của
thày sao cho đúng, cho hay và người học trò chỉ là người học cái hay cái đẹp do
thày mang lại”. Trong khi đó, bản thân mỗi TPVC là sự sáng tạo cho từng người
đọc, và mỗi người lại có một hình tượng cảm xúc riêng. Người ta không thể cảm
hộ nhau, thưởng thức cái hay cái đẹp cho nhau được. Do vậy, người GV dạy văn
là phải “dạy cho người học cách hiểu văn, mà cơ sở của nó là đọc hiểu”. Từ
những kiến giải trên GS đã nêu ra yêu cầu của việc đọc văn không chỉ biết đọc
chữ, đọc diễn cảm mà phải “Qua một văn bản biết đâu là nơi quy tụ thông tin,
đâu là câu then chốt biểu hiện tư tưởng của tác giả…Nhà trường phải đào tạo
mỗi học sinh thành một người đọc đích thực, đọc chủ động sáng tạo. Với một tác
phẩm văn chương thì đọc văn chính là con đường đi tìm ý nghĩa nhân sinh qua
văn bản thẩm mĩ của văn học bằng chính tâm hồn người đọc”. Như vậy, qua
nhận định của giáo sư về vấn đề đọc - hiểu ở cấp độ tiếp nhận văn bản đã tạo
nền tảng cho việc vận dụng đọc - hiểu vào quá trình tiếp nhận.
Tiến sĩ Nguyễn Trọng Hoàn, một người rất tâm huyết với vấn đề đọc hiểu

có nhiều đóng góp cho đề tài đọc hiểu qua nhiều chuyên luận:

7


Quan niệm và giải pháp đọc - hiểu văn bản Ngữ văn trong cuốn "Đọc hiểu
văn bản Ngữ văn 6".
Một số vấn đề đọc - hiểu thơ văn trữ tình và tác phẩm văn chương nghị
luận trong cuốn "Đọc hiểu văn bản Ngữ văn 7" - Nxb Giáo dục 2005.
Một số vấn đề đọc - hiểu văn bản kịch trong cuốn "Đọc hiểu văn bản Ngữ
văn 8" - Nxb Giáo dục 2005.
"Đọc hiểu văn bản Ngữ văn 9" - Nxb Giáo dục 2007.
"Một số vấn đề về đọc tác phẩm kí, tác phẩm truyện hiện đại trong cuốn
SGK Ngữ văn 7" - Tạp chí Văn học tuổi trẻ số 3 (93) tháng 3 năm 2004.
Cốt lõi của vấn đề đọc - hiểu mà tác giả trình bày đó là: “Việc đọc gắn
liền với tài năng, phong cách tác giả; gắn liền với vấn đề loại thể, chú giải văn
bản và mở rộng các lớp nghĩa từ văn bản… để từ đó người đọc vượt lên những
kinh nghiệm, vươn tới những chân trời rộng lớn và mới lạ của tri thức nhân
loại”. Do vậy, đọc được xem như khởi đầu cho những năng lực khác, đặc biệt là
năng lực nhận biết, phân loại và tri giác các văn bản.
Theo tác giả, đọc văn chương có nghĩa là tháo gỡ, mã hóa những kí hiệu
văn chương trong văn bản, là tìm hiểu ý nghĩa của tác phẩm thông qua cấu trúc
của văn bản (cốt truyện, kết cấu, nhân vật đối thoại, không gian, thời gian,…).
Đọc là mã hóa cách đọc, là tổng hợp các khâu của việc đọc, phát biểu cảm
tưởng, phân tích, đối chiếu, tổng hợp, đánh giá, là phát hiện và sáng tạo,… Đọc
là mã hóa một hoạt động tích cực; người đọc nhập cuộc, hóa thân với những
cảm xúc của riêng mình, những kỉ niệm, kí ức phát hiện riêng. Do vậy, trong
nhà trường cần “dạy đọc” tức là dạy để học sinh có khả năng tự đọc. Từ đó, tác
giả đã đưa ra những mục đích rất phù hợp với quan điểm dạy học hiện đại. Đó là
“Dạy đọc - hiểu phải tác động đến nhu cầu đọc của học sinh, đến những vấn đề

của cuộc sống, để học sinh biết quan tâm đến những vấn đề thời sự,… của cuộc
sống hôm nay, làm cho cuộc sống của học sinh thêm phong phú, đào tạo nên
những thế hệ học sinh có đủ bản lĩnh và khả năng hịa nhập với xã hội hiện đại
mà yêu cầu đầu tiên là biết vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống”.

8


Mở rộng sâu hơn về mối quan hệ giữa đọc - hiểu văn bản với các phân
môn khác, TS Nguyễn Trọng Hồn có bài viết nhan đề “Dạy đọc - hiểu văn bản
môn Ngữ văn Trung học cơ sở”. Trong bài viết này TS khẳng định một cách chắc
chắn ngay từ đầu, “đọc hiểu văn bản đối với học sinh không chỉ là hoạt động
chiếm lĩnh kiến thức phân môn văn học mà còn là đầu mối cho việc vận dụng và
liên thông kiến thức đối với các phân môn Tiếng Việt và Tập làm văn”….
Thạc sĩ Trần Đình Chung cũng là người có nhiều nghiên cứu đóng góp tích
cực và thiết thực cho đề tài khoa học này. Trong bài viết “Tiến tới một quy trình
đọc - hiểu trong bài học Ngữ văn mới” tác giả quan niệm bản chất của đọc - hiểu
“là tìm hiểu phân tích để chiếm lĩnh văn bản bằng nhiều biện pháp và hình thức
dạy học văn, trong đó dạy học bằng hệ thống câu hỏi cảm thụ văn bản được thực
hiện dưới hình thức đối thoại sẽ là biện pháp và hình thức dạy học chủ đạo”.
Lấy cơ sở từ lí thuyết tiếp nhận văn học, PGS. TS Nguyễn Huy Quát
trong cuốn “Phương pháp dạy học văn dành cho sinh viên khoa Ngữ văn” đã coi
đọc văn sáng tạo là phương pháp đặc thù của phương pháp dạy văn học.
Trong cuộc giao tiếp giữa người đọc và nhà văn qua tác phẩm văn chương
người đọc có thể thâm nhập, qn mình và phân thân cùng tác giả, tác phẩm
nhưng vẫn giữ khoảng cách thẩm mĩ để nhìn nhận đánh giá tác phẩm. Từ những
ý kiến trên, PGS đưa ra khái niệm về đọc sáng tạo là người đọc đem kinh
nghiệm sống, vốn sống, vốn văn hóa của mình vào việc tiếp nhận văn bản, tác
phẩm một cách chủ động sáng tạo theo hướng đúng. Trực tiếp tiếp xúc với văn
bản, tác phẩm của người đọc là yêu cầu cơ bản tạo nên sự tiếp nhận ấy.

Qua các cơng trình nghiên cứu, các bài viết, các tác giả thể hiện rõ ràng
quan điểm của mình về vấn đề đọc hiểu văn bản ngữ văn, đánh giá rất cao vai
trò của đọc hiểu đối với việc dạy học văn trong nhà trường phổ thông hiên nay.
Tuy nhiên, các bài viết của các tác giả đã cung cấp những lý thuyết chung mà
chưa đi vào cụ thể rèn luyện kỹ năng đọc - hiểu ở những đối tượng học sinh,
những vùng khác nhau. Đây cũng là nội dung nghiên cứu của tơi trong đề tài
này. Đó là cụ thể hóa những vấn đề lý thuyết về đọc hiểu văn bản Ngữ văn mà

9


các tác giả đã đặt ra và nâng cao kĩ năng đọc hiểu cho đối tượng học sinh của
mình như thế nào.
Đối với Truyện Kiều của Nguyễn Du, đã có rất nhiều cơng trình, bài viết
tiêu biểu. Bài viết “Nguyễn Du trong nền văn hóa Việt Nam” của GS. TS Mai
Quốc Liên đã đánh giá ý nghĩa của Nguyễn Du trong nền văn học Việt Nam:
“Nguyễn Du vừa là sản phẩm của một thời đại vừa là vượt thời đại và thuộc về
mọi thời đại, chủ nghĩa nhân đạo của ông như một ngọn đuốc chiếu sáng trong
đêm đen của lịch sử loài người”. Bài viết cũng đã nêu lên những thành tựu trong
sáng tác văn chương của Nguyễn Du, đặc biệt là Truyện Kiều. Cuối bài viết tác
giả kết luận “Nguyễn Du là một nghệ sĩ, một nghệ sĩ vô song, Nguyễn Du là một
trái tim lớn mà nhịp đập của nó đập cùng trái tim của hàng triệu người qua các
thế kỉ….”. Bài viết này được in trong “Dưới góc me vườn Nguyễn Huệ” - Sở
văn hố thơng tin Nghĩa Bình - 1986 và được Lê Thu Yến trích in lại trong
quyển “Nhà văn trong nhà trường - Nguyễn Du”, Nxb GD, 2002.
Trong bài “Chân dung Nguyễn Du trong Truyện Kiều” tác giả Trần Đình
Sử đã nghiên cứu và nêu ra “Chân dung của Nguyễn Du qua ngôn ngữ của ơng,
một chân dung được dệt bằng chính những từ mà ơng thường dùng và thích
dùng” bài viết được in trong “Những thế giới nghệ thuật thơ” - Nxb GD, 1995
và Lê Thu Yến trích in trong sách vừa dẫn ở trên.

Nghiên cứu về Nguyễn Du và các tác phẩm của ơng cịn có rất nhiều cơng
trình nghiên cứu của các tác giả nổi tiếng như GS Lê Trí Viễn trong cuốn “Lịch
sử văn học Việt Nam - tập III”; Nguyễn Lộc trong cuốn “Văn học Việt Nam nửa
cuối thế kỉ XVIII, nửa đầu thế kỉ XIX”; HoàiThanh với bài viết trong cuốn
“Nguyễn Du - về tác giả và tác phẩm”;… Và một số cơng trình nghiên cứu về
nghệ thuật thơ Nguyễn Du của các tác giả như: Phan Ngọc, Trần Đình Sử,…
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu vừa nêu đã đi sâu vào nghiên cứu cặn kẽ
cuộc đời, sự nghiệp sáng tác và những thành công của đại thi hào dân tộc.
Đối với hai đoạn trích “Cảnh ngày xn” và “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đã có
rất nhiều bài viết: "Đến với những bài giảng văn hay" của tác giả Lê Xuân Lít - Nxb

10


Trẻ, năm 2000; "Giảng văn Truyện Kiều" của tác giả Đặng Thanh Lê - Nxb Giáo
dục; và các bài bình giảng, giảng văn của nhiều tác giả khác.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa các vấn đề lý thuyết có liên quan đến đọc - hiểu văn bản. Các
nguyên tắc nhằm giúp học sinh lớp 9 nắm vững các kỹ năng đọc hiểu các đoạn trích
trong Truyện Kiều một cách có hiệu quả;
- Nghiên cứu một số vấn đề lí luận về đổi mới phương pháp dạy văn, nhiệm
vụ của bộ môn theo hướng nâng cao kĩ năng đọc hiểu;
- Khảo sát tình hình dạy học theo hướng kĩ năng đọc hiểu ở hai đoạn trích.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đọc - hiểu là tên gọi một bộ phận chương trình Ngữ văn.
Truyện Kiều lên Trung học phổ thông cũng tiếp tục được học, luận văn tập
trung nghiên cứu nâng cao kỹ năng đọc - hiểu hai đoạn trích trong sách giáo khoa
Ngữ văn 9 tập I: Cảnh ngày xuân, Kiều ở lầu Ngưng Bích.
Kỹ năng dạy đọc hiểu hai trích đoạn trong Truyện Kiều.
Khảo sát học sinh bốn lớp 9 của trường THCS Đồng Phú và trường THCS

Trọng Quan - Đông Hưng - Thái Bình.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu khái qt hóa, tổng hợp tài liệu từ những cơng trình
có liên quan đến đề tàì.
Phương pháp khảo sát, thống kê, so sánh.
Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị và tài liệu tham khảo, luận văn
được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và của đề tài.
Chương 2: Cơ sở thực tiễn và đề xuất một số biện pháp nâng cao kỹ năng đọc
- hiểu hai đoạn trích.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.

11


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Những vấn đề chung về đọc hiểu tác phẩm văn chƣơng
1.1.1. Quan niệm về đọc văn
Trong lịch sử nhân loại, khi nào xuất hiện những văn bản kí tự dưới hình
thức cố định thì bắt đầu có hoạt động đọc. Vậy đọc là gì? Có rất nhiều quan về
đọc. Tiêu biểu là cơng trình nghiên cứu của GS. TS Nguyễn Thanh Hùng - người
đã quan tâm sâu sắc và có những kiến giải mang tính khoa học về vấn đề đọc.
Theo GS, đọc là q trình chuyển hố nội dung ý nghĩa từ kí tự sang âm thanh
lời nói và âm vang trong óc. “Là sự thu nhận thơng tin có nội dung ý nghĩa nào
đó. Vì thế, đọc lại liên quan đến khả năng nhận thức, đến nhu cầu sống và giao
tiếp của con người với sự sáng tạo ngày càng cao…” [17 tr. 24].
Trong cuốn “Đọc và tiếp nhận văn chương", Nxb Giáo dục - 2002” tác giả

khẳng định: “Đọc văn chương là đọc cái chủ quan của người viết bằng cách
đồng hóa tâm hồn, tình cảm, suy nghĩ của mình vào trang sách. Hoạt động đó
khơng chỉ là tái tạo âm thanh từ chữ viết mà còn là quá trình thức tỉnh cảm xúc,
quá trình tri giác nhuần thấm tín hiệu để giải mã ngơn ngữ, mã nghệ thuật, mã
văn hóa đồng thời với việc huy động vốn sống, kinh nghiệm cá nhân người đọc,
để lựa chọn giá trị tư tưởng thẩm mĩ và ý nghĩa vốn có của tác phẩm. Đọc là đón
đầu những gì mình đang đọc qua để kiểm chứng và đi tìm sự hợp sức của tác giả
để tác phẩm được tái tạo trong tính cụ thể và giàu tưởng tượng” [14 Tr. 29].
Thạc sỹ Trần Đình Chung cũng có quan niệm và những kiến giải sâu sắc về
đọc. Đọc là một quá trình hoạt động tâm lý nhằm tiếp nhận ý nghĩa từ kí hiệu ngơn
ngữ được in hay viết (Đại bách khoa tồn thư của Trung Quốc, quyển Giáo dục).
Đọc có những nội dung phong phú sau:
Đọc là quá trình tiếp nhận ý nghĩa từ văn bản, tất phải hiểu ngôn ngữ của
văn bản (ngôn ngữ dân tộc, ngôn ngữ nghệ thuật, ngôn ngữ thể loại của văn bản)
phải dựa vào tính tích cực của chủ thể (nhu cầu, hứng thú, năng lực) và tác động
qua lại giữa chủ thể và văn bản.

12


Đọc là quá trình giao tiếp và đối thoại với người tạo ra văn bản. Đó chính
là tác giả, là xã hội, là văn hóa. Đọc là q trình tiêu dùng văn hóa văn bản như
hưởng thụ, giải trí, học tập. Và đặc biệt hơn đọc là quá trình tạo ra năng lực
người, năng lực hiểu mình, hiểu văn hóa và hiểu thế giới.
Như thế, đọc là một hoạt động văn hóa có tầm nhân loại và có ý nghĩa
giáo dục sâu sắc. Là một khái niệm có tính lịch sử, là biểu hiện của sự tiến hóa
của con người mang bản chất văn hóa nhận thức bằng ngơn từ để giao tiếp và
phát triển cá thể cùng xã hội.
Tiến sĩ Nguyễn Trọng Hoàn quan niệm: Đọc là một hoạt động nhận thức
nhằm hiểu nghĩa thơng qua q trình chủ thể người đọc làm việc với văn bản.

Trước văn bản người đọc vận dụng những kiến thức đã có cùng với những gợi
ý (trực tiếp và gián tiếp, hiển ngôn và hàm ngôn) trong bài đọc để hiểu ý nghĩa
tác phẩm.
1.1.2. Quan niệm về hiểu văn
Hiểu là nhận ra, giải thích và áp dụng. Hiểu khơng hạn chế vào tri thức về
đối tượng, không hạn chế vào kinh nghiệm chủ quan mà mở rộng chủ quan của
mình tới những chân trời mới, tự mở rộng bản thân mình. Hiểu là hội ngộ, gặp
gỡ, giao tiếp, cảm thông, hội nhập. Từ đó, hiểu là sống, là ý thức của chủ thể
đang tác động tới cuộc sống. Theo GS, hiểu tức là nắm vững và vận dụng được.
Hiểu tức là biết kỹ và làm tốt. Hiểu một đối tượng không chỉ dừng ở quan sát
nắm bắt bề ngoài. Quan trọng hơn cả, hiểu tác phẩm văn chương là phát hiện ra
và đánh giá mối quan hệ hữu cơ giữa các tầng cấu trúc trên, trong tính chỉnh thể
và tồn vẹn của tác phẩm. Tri thức cần có để đọc - hiểu mối quan hệ phức tạp,
đa dạng ấy trong tác phẩm văn chương. Với sự kiến giải, giáo sư đã đưa ra khái
niệm “Đọc hiểu văn chương là phân tích mối quan hệ biện chứng giữa ba tầng
cấu trúc của tác phẩm, tìm ra sự quy chiếu và giá trị riêng của nó” [13 tr. 88].
GS. TS Nguyễn Thanh Hùng quan niệm, “Hiểu là nắm vững và vận dụng được.
Hiểu tức là biết kĩ và làm tốt. Hiểu một đối tượng không chỉ dừng ở quan sát
nắm bắt cái bề ngoài. Càng là đối tượng phi vật chất như các tác phẩm văn

13


chương lại càng không thể chỉ dùng năng lực quan sát”. Vì thế, muốn đọc hiểu
tác phẩm văn chương, người đọc phải được trang bị những tri thức nhiều loại.
Tri thức để hiểu cấu trúc ngôn ngữ là đời sống xã hội (Ngôn ngữ và tiếng mẹ
đẻ). “Tri thức để hiểu cấu trúc thẩm mỹ là thể loại, là thi pháp, là phương thức
trình bày nghệ thuật. Tri thức tối cần thiết để hiểu cấu trúc tư tưởng là quan
niệm nghệ thuật về con người, là thế giới quan, là triết học, chính trị, tơn giáo,
đạo đức,…” [16, tr.27]

1.1.3. Bản chất đọc - hiểu
Đọc hiểu là hành động nhận thức tích cực. Nói đến bản chất của bất kỳ sự
vật, hiện tượng nào trong tự nhiên, xã hội và con người là nói đến đặc tính cốt
lõi nhất của chúng để phân biệt ranh giới giữa chúng với những sự vật, hiện
tượng khác trong thế giới khách quan. Bản chất chỉ ra tính độc đáo, riêng biệt
của sự vật hiện tượng để nó là chính nó mà khơng lẫn với một đối tượng nào
khác. Tìm ra được bản chất của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan là
việc làm không dễ dàng. Nghiên cứu sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ tương
tác có quy luật như thế sẽ nhận ra bản chất của việc đọc hiểu là một hoạt động
của con người trong đó có các hoạt động thu và phát tín hiệu để hiểu nhau. Đọc
là lao động cơ bắp diễn ra với luồng mắt theo dõi lia lướt trên dòng chữ, trang
viết, là sự điều tiết của cơ quan phát âm là toàn bộ cơ thể được trưng thu như tay
cầm sách, chân nâng đỡ sức mạnh phát âm. Đọc hiểu là quá trình phân tích, tổng
hợp so sánh, liên tưởng, ghi nhớ, suy luận diễn ra liên tục trong một khoảng thời
gian. Đọc mang bản chất lao động tất cả. Đọc là hoạt động nhất định tác động
vào đối tượng để nhận thức và cải tạo bản thân. Đọc là lao động là hoàn tồn có
lý. Đọc sáng tạo trong đọc là nằm ở đâu? Hoạt động đọc hiểu diễn ra với ngôn
ngữ. Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu thứ hai trong hoạt động sống của con người.
Nó bỏ qua những phản xạ có điều kiện mà đi thẳng vào kí hiệu ngơn ngữ. Chúng
ta đều biết, ngơn ngữ là hình thức vật chất bảo tồn ý nghĩa chung của cộng đồng
xã hội để người nói, người nghe, người viết, người đọc hiểu nhau và bổ sung
phần cá nhân của mình vào. Nói cách khác, khi sử dụng ngôn ngữ, người viết,

14


người nói đều phải dùng hệ thống mã hóa đã được quy ước để người đọc, người
nghe có cơ sở hiểu những gì được truyền đạt. Nhưng vì hoạt động nói hay viết
được thực hiện với mục đích nào đó trong một ngữ cảnh, văn cảnh nhất định nên
người nghe, người đọc không phải chỉ tiếp thu những ý chung, nghĩa chung của

thơng báo mà cịn xen vào đó cả tính sáng tạo của mình. Vì vậy, người đọc phải
tận dụng năng lực tư duy, vốn tri thức và kinh nghiệm sống để hiểu trọn vẹn ý
nghĩa khơng được nói ra một cách trực tiếp hiển ngôn mà hàm chứa và chìm sâu
vào phương thức biểu hiện ngầm ẩn. Đọc quả là hoạt động sáng tạo vì đó là q
trình phát hiện ra sự sáng tạo của người viết và cả người đọc như đã nói, và nếu
có điều kiện lại bổ sung thêm ý nghĩa bên ngoài dự liệu và ý đồ của tác phẩm.
Đọc với bất cứ hình thức kiểu dạng gì cũng là một hoạt động cụ thể hóa
bằng các thao tác, hành động và kĩ năng. Trước hết, đọc hiểu là hoạt động đọc.
Đọc để thu nhận thơng tin, chính là học hỏi để hiểu những gì trước đó chưa hiểu.
Q trình học hỏi của việc đọc hiểu trước hết là để biết một điều gì đó đúng hay
sai để mở rộng tầm hiểu biết và biết rõ bản chất vấn đề trong tương quan với các
dữ liệu cho rằng đọc là học mà chỉ vận dụng mỗi trí nhớ thì sẽ khơng thu nhận
được gì thêm ngồi thơng tin. Đọc mà đưa vào nhận thức một trình độ mới của
việc nắm vững ý nghĩa được tác giả ngụ ý và thể hiện sự ngụ ý ấy như thế nào
thì việc đọc để học đã được khai sáng. Đọc nhiều không đồng nghĩa với việc học
nhiều và đọc có hiệu quả. Cần phân biệt cách học bằng việc đọc. Sự phân biêt
này có quan hệ mật thiết với toàn bộ vấn đề đọc và mối quan hệ giữa việc đọc
với giáo dục nói chung. Đừng nghĩ rằng đọc và nghe là thụ động. Nói và nghe,
viết, đọc đều là hành động chủ động liên quan đến tính tích cực của con người.
Đọc một văn bản, người đọc có thể tiếp thu một lượng thơng tin ít hay nhiều và
nắm vững ý nghĩa văn bản đến đâu, đạt mức độ nào đều phụ thuộc vào các dạng
thức hoạt động thể hiện trong thao tác và hành động, kĩ năng cụ thể được dùng
đến trong q trình đọc.
Tóm lại, đọc là một hoạt động phức tạp bao gồm trong đó những hành
động liên tiếp. Ai thực hiện nhiều hành động phù hợp hơn sẽ đọc tốt hơn. Không

15


tìm thấy nội dung ý nghĩa trong văn bản thì việc đọc trở nên hư ảo, vô bản chất.

Nội dung ý nghĩa của văn bản được người viết thể hiện và gợi ra từ xương thịt
của ngôn từ, từ những mối quan hệ thống nhất, chỉnh thể của văn bản và từ suy
nghiệm, phát hiện kiến tạo ở người đọc. Đọc mà nắm vững nội dung ý nghĩa của
văn bản ngay từ khi bắt đầu chỉ là ý nghĩa bên ngoài. Nghĩa và ý nghĩa được gửi
gắm và vùi lấp vào trong văn bản và nó có lộ diện ra hay khơng, cịn tùy thuộc
vào năng lực của người đọc. Rõ ràng, đọc là một quá trình cảm nhận hiểu biết
dần ý nghĩa của văn bản. Nghĩa có nghĩa đen, nghĩa bóng, nghĩa đơn trị, đa trị,
nghĩa văn cảnh,... Bao giờ cũng phải tự mình vừa đọc vừa nhận ra trong mỗi
câu, mỗi đoạn, mỗi chương, mỗi phần đang nói về cái gì và nói gì, rồi sau đó
hình dung rõ trong tồn bộ văn bản nói về chủ đề nào, nội dung nào là chính.
Người đọc khơng những tiếp thu cái “nghĩa”, cái “ý” mà còn phải đi sâu vào “ý
nghĩa’ của cái “ý” tùy thuộc vào xu hướng của "ý nghĩa" đó được hé lộ ra bằng
những từ ngữ then chốt hay trọng điểm logic nào để diễn đạt nội dung văn bản.
Ý nghĩa thu nhận được qua việc đọc văn bản là chiều sâu và chiều rộng
của “nghĩa” và “ý”, chủ yếu tác động đến quan niệm của người viết và người
đọc về thế giới, xã hội, con người, về sự cao thượng và vẻ đẹp, về những giá trị
đạo đức, tư tưởng, lối sống của con người trong xã hội. Nó phản ánh cái mới
trong ý nghĩa mà người đọc cần thấu hiểu nhờ tác động phát hiện, thức tỉnh của
người viết và khả năng thể hiện, khơi gợi từ văn bản đọc. Hành động đọc cũng
cho ta thấy rõ điều ấy. Văn bản đọc chỉ là giấy trắng mực đen của chữ. Khi đọc
người ta phải tái tạo trong trí óc mình hình thù của dòng chữ, con chữ và kết hợp
chúng với âm thanh. Người đọc phải kết hợp chúng thành một từ, rồi kết hợp từ
ấy với một hay nhiều âm thanh để cho chữ nghĩa. Người ta không đọc chữ cái
này sau chữ cái nọ mà đọc tổng hợp một từ kết hợp với ý nghĩa trong ý thức, đó
là sự tái tạo một ý nghĩa do người viết tạo ra trong văn bản. Quá trình tạo nghĩa
này lặp lại với việc nắm ý nghĩa một câu, môt đoạn thể hiện nội dung tư tưởng
nào đó. Ý nghĩa câu văn hồn tồn không phải là tổng số chữ nghĩa của những
từ trong câu mặc dù trong khi ta đọc đều phải thực hiện hành động đọc tuần tự

16



từ này tới câu kia. Nhưng điều mà ý thức người đọc mong chờ sẽ là xuất hiện ý
nghĩa tổng hợp của câu văn đó.
Viết trong q trình thực hiện là hành động mang tính phân tích để rồi tập
hợp thành văn bản. Đọc là hành động tổng hợp, qua đó và đằng sau những kí
hiệu, người ta sẽ tái tạo một ý nghĩ cho những gì đã đọc. Ý nghĩa của văn bản tự
biểu lộ trong quá trình đọc. Nó được sáng tạo trong khi hình thành văn bản và
trong khi tái tạo văn bản bằng đọc. Vấn đề ý nghĩa của ngôn ngữ là nội dung
khoa học cực kì phức tạp. Nó là hình thái vật chất để truyền tải hình thái tinh
thần hay cả vật chất và tinh thần. Khoa học chưa có câu trả lời hợp lí, tuy nhiên
từ chuỗi âm thanh nói ra có giọng điệu nhưng không tồn tại lâu bền nên ngôn ngữ
phải được ghi lại bằng chữ viết và văn bản. Đó là hình thái tồn tại độc lập của
ngơn ngữ trong kí ức để biến thành khái niệm có thể tái tạo khi dùng nó để hiểu
một ý nghĩa đã được tích lũy và truyền bá kiến thức kinh nghiệm của xã hội con
người. Sinh nghĩa và tạo nghĩa của ngôn từ diễn ra thế nào để đọc có thể nắm được ý
nghĩa trọn vẹn được trình bày tiếp và sâu hơn trong phần mơ hình đọc hiểu TPVC.
Thạc sỹ Trần Đình Chung trong cuốn “Mấy vấn đề lý thuyết đọc văn”
(Đọc - hiểu) cũng cho ta một cách hiểu về bản chất đọc - hiểu văn bản.
Về phương diện khách quan của đọc, người đọc phải nhận biết, hiểu được
từ ngữ, câu đoạn, các phương diện tu từ, các mối liên kết văn bản, làm nền tảng
để hiểu văn bản. Người đọc cũng phải phát hiện hệ thống kí hiệu thẩm mĩ chung,
truyền thống và đặc thù do nhà văn sáng tạo ra trong văn bản làm cơ sở để hiểu
ý tứ của văn bản. Người đọc cũng phải tìm hiểu ngữ cảnh của văn bản để hiểu
văn bản.
Về phương diện chủ quan của đọc, vì văn bản khơng có khoảng trống về ý
nghĩa, ý nghĩa không xác định, buộc người đọc phải suy đốn, kiến tạo ý nghĩa,
do đó tính chủ quan rất đậm.
Về mặt tâm lí, hiểu là người đọc cảm nhận được ý nghĩa của những kích
thích mà văn bản gợi lên cho mình, là tìm thấy câu trả lời mà mình đặt ra khi

tiếp xúc với văn bản, tự giải đáp được các nghi vấn do văn bản gợi lên. Hiểu là

17


một q trình từ hiểu bộ phận tới hiểu tồn thể, từ hiểu bề mặt tới hiểu bề sâu. Đọc
hiểu là một khâu đột phá trong nội dung và phương pháp dạy học văn hiện nay.
Trên thế giới, người ta quan niệm môn văn trong nhà trường là môn đọc
văn. Dạy văn là dạy cho HS phương pháp đọc, kỹ năng đọc, năng lực đọc để HS
có thể đọc hiểu bất cứ văn bản nào cùng loại. Từ đọc hiểu văn bản là trực tiếp
tiếp nhận các giá trị văn học, trực tiếp thể nghiệm các tư tưởng và cảm xúc được
truyền đạt bằng nghệ thuật ngơn từ, hình thành cách đọc riêng có cá tính. Đó là
con đường duy nhất để bồi dưỡng cho học sinh năng lực của chủ thể tiếp nhận
thẩm mĩ. Do đó, hiểu bản chất môn văn là môn dạy đọc văn vừa thể hiện cách
hiểu thực sự bản chất của văn học, vừa hiểu đúng thực chất của dạy văn là dạy
năng lực, phát triển năng lực của chủ thể HS. Ở nước ta, hầu như chưa có khái
niệm đọc hiểu văn.
1.2. Nội dung đọc - hiểu tác phẩm văn chƣơng
Q trình phân tích bản chất, cơ sở khoa học và nghệ thuật của hoạt động
đọc- hiểu đã đồng thời cho ta thấy rõ nội dung đọc – hiểu trong nhà trường. Đó
là quá trình kích hoạt HS tham gia vào việc vừa đọc vừa tìm hiểu văn bản theo
mục tiêu cụ thể của phần văn học vừa là mục tiêu chung của bài học Ngữ văn.
“Giảng văn, bình văn cũng là đọc hiểu, nhưng đó là đọc hiểu của người dạy,
cịn đọc hiểu của người học sẽ là chiếm lĩnh văn học bằng đối thoại, lấy câu hỏi
do thày thiết kế làm phương tiện” [3, tr. 5]. Như vậy nội dung đọc hiểu mang
tính định hướng dạy học cụ thể hơn, tích cực hơn so với khái niệm tìm hiểu,
phân tích trong các giáo án truyền thống.
Tiếp tục nội dung trên, GS. TS Nguyễn Thanh Hùng trình bày khá cụ thể ,
chi tiết về nội dung đọc hiểu trong TPVC. Một TPVC tồn tại ba loại cấu trúc.
Đó là cấu trúc ngơn ngữ, cấu trúc hình tượng và cấu trúc ý nghĩa. Khi đọc hiểu

tác phẩm là hiểu ba bình diện cấu trúc: Nội dung sự kiện, nội dung hình tượng,
và nội dung quan niệm của tác giả.
1.2.1. Tầng cấu trúc ngôn ngữ (cấu trúc ngơn từ tác phẩm)
Ngơn ngữ chính là chất liệu, là hiện tượng của đời sống mang ý nghĩa phổ

18


biến và ý nghĩa sáng tạo của cá nhân. Ngôn ngữ khơng chỉ là chất liệu, là
phương tiện mà cịn là “kí hiệu của tình cảm”. Hình thức ngơn ngữ của tác phẩm
văn chương là sự nắm bắt quy luật hình thức của đời sống tự nhiên. Nắm vững
cấu trúc ngơn ngữ của tác phẩm là nắm vững hình thức tái hiện cuộc sống. Đọc
hiểu tầng cấu trúc ngôn từ tác phẩm là điều quan trọng nhất để thông qua lớp
hiển ngôn mà phân giải lớp hàm ngôn. Văn bản nghệ thuật được viết ra mới là
thông tin một chiều. Đọc - hiểu một TPVC, người đọc được khích lệ khả năng
cảm thụ và tưởng tượng. Ngôn ngữ TPVC bao giờ cũng mang sắc thái cá biệt
của nhà văn như một sự phát hiện cuộc sống bằng chính ngơn ngữ sáng tạo của
mình. Bởi vậy mỗi nhà văn phải có giọng điệu và nghệ thuật vận dụng ngôn từ
riêng. Nhà văn nhìn đời, nhìn người trong từng tác phẩm khơng lặp lại với chính
mình. Do đó, đây là một việc rất khó đối với người đọc.
Hiểu tầng cấu trúc ngơn từ là hiểu nội dung được kể và tả những gì quan
trọng trong sự lựa chọn, đánh giá của nhà văn. Tầng cấu trúc ngôn từ cho phép
người đọc hiểu khung cảnh xã hội của tác phẩm với sự kiện, con người, khơng
gian, thời gian trong những biến cố chính.
u cầu trước hết đối với việc nắm vững tầng cấu trúc ngơn từ là hiểu
chính xác ngơn ngữ và phương thức trình bày nghệ thuật của nhà văn. Hiểu nghĩa
cụ thể của phạm vi đề tài, chủ đề và sự triển khai chúng, đồng thời hiểu được cái
hay cái đẹp của cách dùng từ, tạo câu, hình thành nhịp điệu và giọng điệu riêng
của ngôn ngữ tác phẩm. Tầng cấu trúc ngôn từ mới làm hiện ra phạm vi cuộc
sống của tác phẩm.

1.2.2.Tầng cấu trúc hình tượng thẩm mỹ
Trong tác phẩm văn học là kết quả của sự liên hệ mật thiết và hoàn thiện
dần kinh nghiệm sống và kinh nghiệm thẩm mĩ. Hình tượng nghệ thuật làm nên
tính chỉnh thể nghệ thuật của TPVC. Hiểu tầng cấu trúc này, người đọc có điều
kiện thâm nhập vào sự sáng tạo nghệ thuật mới mẻ trong tác phẩm một cách đầy
đủ, trọn vẹn nhất. Tuy nhiên, hiểu tầng cấu trúc hình tượng nghệ thuật của tác
phẩm là việc hết sức khó khăn. Bởi hình tượng nghệ thuật được kiến tạo bằng

19


ngơn ngữ nghệ thuật. Nó cũng đa tầng, đa nghĩa và vận động biểu đạt.
Để nhận biết, hình tượng nghệ thuật khơng chỉ là nhân vật văn học mà
cịn là tồn bộ chỉnh thể tác phẩm. Hình tượng nghệ thuật là hình thể phản ánh
thực tại có hiệu quả thẩm mĩ. Muốn nắm vững hình tượng nghệ thuật trong đọc
hiểu cần phân biệt hình tượng trung tâm, hình tượng tính cách, hình tượng cảm
nghĩ, hình tượng tác giả. Cấu trúc hình tượng nghệ thuật của tác phẩm văn
chương thường được tổ chức thành mối quan hệ phức tạp giữa ý thức và vơ
thức, chúng thường khơng mạch lạc, tuyến tính, thẳng băng, khơng thể đối chiếu
với lơ gích hiện thực cuộc sống và hợp với suy nghĩ kiểu lí trí đời thường mà tự
nó là sự tổng hợp khái quát và huyền ảo hoá đời sống mà ta gọi là tư duy hình
tượng. Do vậy mà “thế giới nghệ thuật mang đậm tính ảo giác huyễn tưởng làm
cho tác phẩm văn chương mơ hồ đa nghĩa”. Chẳng hạn, với bài thơ “Đợi anh
về” của Xi-mô-nốp qua bản dịch của Tố Hữu, bài thơ trở thành lời thề thủy
chung với tình yêu, thành biểu tượng tình chồng vợ thiêng liêng, thành khẩu
lệnh của niềm hi vọng trong nỗi tuyệt vọng. Đó là chiều sâu khám phá sự thật
cuộc đời hòa trong chân lý nghệ thuật của bài thơ. Hình tượng nghệ thuật được
tạo hình bằng những biểu tượng thời gian, nhất là thời gian tâm lí với nỗi niềm
khẩn khoản của người lính vì biết đó là thời gian vơ định. Bài thơ cũng là một
trường nghĩa của sự chờ đợi. Đối với cấu trúc hình tượng nghệ thuật của tác

phẩm chỉ có một cách đọc thơng qua bản thân, tự chiêm nghiệm mà tích luỹ kinh
nghiệm nghệ thuật mới có thể cảm nhận được sự tồn tại của tầng cấu trúc này.
Như vậy, muốn đọc hiểu tầng cấu trúc hình tượng nghệ thuật của TPVC
phải có cái nhìn sâu sắc về hệ thống ngôn từ. Người đọc phải so sánh đối chiếu
những hình ảnh có liên quan với nhau để xác định hình tượng trung tâm của tác
phẩm. Hình tượng ấy có thể là một nhân vật, cũng có thể là sự chung đúc của
nhiều nhân vật. Ví dụ, hình tượng con người lao động mới trong “Lặng lẽ Sa Pa”
là hình tượng của nhiều nhân vật. Có nhân vật đậm nét như anh thanh niên, lại
có những nhân vật khơng xuất hiện mà chỉ thống qua lời kể của anh thanh niên,
như anh kĩ sư lập bản đồ sét, ông kĩ sư vườn rau ở Sa Pa,… Hình tượng ấy cũng

20


×