Tải bản đầy đủ (.pdf) (162 trang)

Giảng dạy thơ mới 1930-1945 trong nhà trường trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.83 MB, 162 trang )


1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC







LÊ THỊ THUÝ HUÂN



GIẢNG DẠY THƠ MỚI 1930 – 1945
TRONG NHÀ TRƢỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG




LUẬN VĂN THẠC SỸ SƢ PHẠM NGỮ VĂN












Hà Nội – 2010

2




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC





LÊ THỊ THUÝ HUÂN




GIẢNG DẠY THƠ MỚI 1930 – 1945
TRONG NHÀ TRƢỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

Chuyên ngành: Lý luận và phƣơng pháp dạy học
(bộ môn Ngữ văn)

Mã số : 60.14.10



LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN



Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Lê Quang Hƣng









Hà Nội - 2010

4
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1. Lí do nghiên cứu 1
2. Lịch sử vấn đề 3
3. Mục đích nghiên cứu 7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 7
4.1. Đối tượng nghiên cứu 7
4.2. Phạm vi nghiên cứu 7
5. Nhiệm vụ nghiên cứu và đóng góp mới của luận văn 7
5.1. Nhiệm vụ nghiên cứu 7

5.2. Đóng góp mới của luận văn 8
6. Phương pháp nghiên cứu 8
7. Cấu trúc luận văn 8
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC GIẢNG DẠY THƠ MỚI
TRONG TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 9
1.1. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học 9
1.2. Đặc trưng thể loại 12
1.3. Phong cách nghệ thuật 19
1.3.1. Phong cách nghệ thuật Xuân Diệu qua bài thơ “Vội vàng” 20
1.3.2. Phong cách nghệ thuật Huy Cận qua bài thơ “Tràng giang” 22
1.3.3. Phong cách nghệ thuật Hàn Mặc Tử qua bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” 24
1.3.4. Phong cách nghệ thuật Nguyễn Bính qua bài thơ “Tương tư” 26
Chƣơng 2: ĐIỀU TRA THỰC TIỄN GIẢNG DẠY THƠ MỚI
1930-1945 TRONG TRƢỜNG TRUNG H ỌC PHỔ THÔNG 29
2.1. Khái quát thực trạng dạy học Ngữ văn ở trường trung học
phổ thông hiện nay 29
2.2. Thực tiễn giảng dạy Thơ mới hiện nay 32
2.3. Những vấn đề đặt ra khi dạy phần Thơ mới 1930-1945 40

5
Chƣơng 3: ĐỀ XUẤT ĐỔI MỚI PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC
THƠ MỚI 1930-1945 TRONG TRƢỜNG
TRUNG H ỌC PHỔ THÔNG 43
3.1. Tổng quan của vấn đề nghiên cứu 43
3.2. Đề xuất nhằm đổi mới phương pháp dạy học Thơ mới 1930-1945 44
3.2.1. Đề xuất 1: Tạo tâm thế cho giờ dạy 44
3.2.2. Đề xuất 2: Phương pháp đọc diễn cảm 51
3.2.3. Đề xuất 3: Phương pháp vấn đáp, đàm thoại 59
3.2.4. Đề xuất 4: Phương pháp giảng bình 68
3.2.5. Đề xuất 5: Phương pháp dạy học với hình thức hợp tác,

thảo luận theo nhóm nhỏ 75
Giáo án thể nghiệm bài “Vội vàng” của Xuân Diệu 89
Giáo án thể nghiệm bài “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử 107
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 125
TÀI LIỆU THAM KHẢO 126
PHỤ LỤC










6
MỘT SỐ QUI ƢỚC VIẾT TẮT CỦA LUẬN VĂN

PGS. TS : Phó giáo sư, Tiến sĩ
GS. TS : Giáo sư, Tiến sĩ
GD & ĐT : Giáo dục và đào tạo
THPT : Trung học phổ thông
ĐHSP : Đại học Sư phạm
SGV : Sách giáo viên
PPDH : Phương pháp dạy học
GV : Giáo viên
NXB : Nhà xuất bản
NCGD : Nghiên cứu giáo dục
HS : Học sinh

ĐHQGHN : Đại học Quốc gia Hà Nội
TCVH : Tạp chí văn học
















7
MỞ ĐẦU

1. Lý do nghiên cứu
Chương trình giáo dục phổ thông ban hành kèm theo Quyết định số
16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 5/6/2006 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã nêu: “Phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với
đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp học:
bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác; rèn luyện kĩ
năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm
vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh”.
Mục đích của việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông là

thay đổi lối dạy học truyền thụ một chiều sang dạy học theo “Phương pháp
dạy học tích cực”. Cần đổi mới nội dung và hình thức hoạt động của giáo viên
và học sinh, đổi mới hình thức tổ chức dạy học. Lâu nay dạy văn trong nhà
trường vẫn được áp dụng phương pháp truyền thụ kiến thức một chiều. Thầy
đọc, trò ghi chép, học thuộc và làm theo. Với phương pháp này, chúng ta mới
chỉ chú ý đến lao động sáng tạo của giáo viên trong quá trình giảng văn, chú ý
đến sự tiếp nhận, cảm thụ mang tính chất cá nhân của giáo viên. Còn học sinh
được coi là khách thể, là đối tượng tiếp thụ. Hơn nữa lâu nay, chúng ta quan
niệm tác phẩm văn chương là một sản phẩm do nhà văn hoàn toàn quyết định.
Từ quan niệm này, tác phẩm văn học được xem như một đối tượng độc lập với
người tiếp nhận. Nghĩa là coi tác phẩm văn học như một sự vật với những đặc
điểm xác định, những giá trị bất biến có thể mô tả, truyền đạt, phân tích một
cách rạch ròi, triệt để. Do vậy mà trong quá trình dạy học văn một số giáo viên
thường quy việc tiếp nhận tác phẩm vào một số “điểm” về nội dung và hình
thức để bắt học sinh học thuộc lòng và giáo viên chấm bài căn cứ vào “ba-
rem”. Những nhu cầu, sở thích của các em ít được giáo viên chú ý đến, chỉ cốt
sao thầy hiểu sâu sắc tác phẩm, lên lớp trình diễn lại một cách bài bản, nghệ
thuật theo một khuôn mẫu nhất định. Trong những giờ giảng như vậy, hiệu quả

8
sẽ không cao và rồi niềm khát khao được khám phá vẻ đẹp văn chương của
học sinh cũng dần bị mai một đi. Trong bài “Văn học nghệ thuật và sự tiếp
nhận”, GS.TS. Nguyễn Thanh Hùng đã viết: “Chỉ khi nào người tiếp nhận
quan tâm thiết tha với tác phẩm nghệ thuật và thường xuyên trở lại với chúng
trong một thời gian dài thì mới có thể tạo nên những thói quen ổn định và thái
độ đúng đắn đối với văn học nghệ thuật”. Như vậy việc đổi mới phương pháp
dạy học phù hợp để tạo sự hứng thú cho học sinh trong việc tiếp nhận tác phẩm
văn chương là một việc làm hết sức quan trọng. Học sinh phải là người tự cảm
nhận, tự khám phá chiếm lĩnh tác phẩm, thầy cô giáo chỉ là người hướng dẫn,
định hướng cho các em chứ không thể cảm thụ thay các em. Sử dụng phương

pháp dạy học tích cực sẽ bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả
năng hợp tác, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tế cuộc sống một
cách hiệu quả nhất.
Việc dạy văn nói chung và việc dạy những tác phẩm Thơ mới nói riêng
trong nhà trường THPT hiện nay gặp những trở ngại nhất định, trong đó có
khó khăn về phương pháp dạy học. Nhiều khi giáo viên bất lực trước một tác
phẩm, giảng nhưng không làm bật được đặc trưng thể loại, thế giới cảm xúc
của tác giả gửi gắm trong văn bản. Phương pháp dạy học mới đặt ra yêu cầu
thay thế và đổi mới phương pháp dạy học cũ để thực sự lấy học sinh làm trung
tâm của quá trình dạy học. Giờ học văn phải là một giờ học sôi nổi, có không
khí văn chương và đem lại niềm say mê, hứng thú cho học sinh. Không còn
tình trạng học sinh là những bình chứa cho giáo viên rót kiến thức vào. Giáo
viên phải là người thắp sáng ngọn hải đăng trí tuệ trong tâm hồn các em, để
văn chương đối với các em thực sự lung linh, thật sự khơi dậy trong các em
những khát vọng được sống, được học tập và được cống hiến cho xã hội, để
các em đến với tác phẩm như đến với một thế giới mới lạ đầy hấp dẫn để tìm
hiểu khám phá, để say mê, để “thoả mãn nhu cầu về cái đẹp”. Giáo viên dạy
văn là chiếc cầu nối giữa nhà văn và bạn đọc-học sinh, là người “nối tâm hồn

9
với những tâm hồn”. Để hoàn thành sứ mệnh đó, người giáo viên cần phải có
phương pháp để dẫn dắt học sinh thâm nhập từng bước vào tác phẩm để nắm
bắt đúng tín hiệu, những điểm sáng thẩm mĩ trong mỗi thi phẩm. Do vậy việc
giảng dạy các tác phẩm thơ cho học sinh trong nhà trường THPT không chỉ
dừng lại ở mức độ tạo cảm hứng hay đồng thể nghiệm mà phải giúp học sinh
tìm ra được thế giới nghệ thuật của tác phẩm, giá trị của cuộc sống mà cao hơn
là hướng cho các em những nhận thức thẩm mĩ, tình cảm thẩm mĩ. Vì thế người
giáo viên phải lựa chọn cho mình những phương pháp dạy học tối ưu nhất để
dạy thơ nói chung và Thơ mới nói riêng. Thơ là “sản phẩm kì diệu của tâm
hồn”, Thơ mới chủ yếu là thơ trữ tình, là thế giới cảm xúc của cái tôi cá nhân, là

tiếng lòng của những người trẻ tuổi, trẻ lòng. Do vậy việc dạy học Thơ mới cần
có một hệ thống phương pháp riêng trên cơ sở đảm bảo những yêu cầu chung.
Những tác phẩm Thơ mới 1930-1945 được đưa vào chương trình lớp 11 ở
trường THPT với dung lượng khá lớn: Xuân Diệu với “Vội vàng”; Hàn Mặc
Tử với “Đây thôn Vĩ Dạ”; Huy Cận với “Tràng giang”; Nguyễn Bính với
“Tương tư”.
Thực hiện tinh thần đổi mới của phương pháp dạy học văn trong nhà trường
THPT của ngành giáo dục, nhằm góp một phần nhỏ bé vào việc giảng dạy Thơ
mới ở trường THPT, tôi tiến hành viết luận văn này.
2. Lịch sử vấn đề
Thơ mới 1930 – 1945 là bộ phận văn học có nhiều đóng góp trong việc đưa
nền văn học Việt Nam phát triển theo hướng hiện đại hoá, song đây cũng là
dòng văn học có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau nhất. Phần văn học này đã
thể hiện được một quan niệm nghệ thuật về con người: đó là con người cá
nhân, cái tôi cá nhân trong cảm xúc ngoại giới với các quan niệm thẩm mĩ mới
mẻ, lạ lẫm. Đây là một hiện tượng văn học phong phú nhưng khá phức tạp. Từ
sự trỗi dậy của cái tôi cảm xúc trữ tình lãng mạn, các tác giả lãng mạn đã tạo
nên một kho báu vô giá về nghệ thuật thơ ca. Nền văn học trong non nửa thế kỉ

10
này có được cái phong phú, đa dạng muôn hình nhiều vẻ, như Hoài Thanh đã
vui sướng và quả quyết: “…trong lịch sử thơ ca Việt Nam, chưa bao giờ có
một thời đại phong phú như thời đại này, chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện
cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư,
hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp…ảo não như
Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên, và thiết tha rạo
rực băn khoăn như Xuân Diệu” [28; Tr.29] là nhờ có cái tôi cá nhân.
Nhiều công trình nghiên cứu về Phong trào Thơ mới đã phần nào đánh giá
một cách khái quát về đóng góp, đặc điểm của Phong trào Thơ mới và chỉ ra
những nét đặc sắc riêng của các thi sĩ lãng mạn tiêu biểu.

Năm 1942, Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh và Hoài Chân ra đời. Cuốn
sách đó đã góp phần tổng kết phong trào “Thơ mới” 1930 - 1945, chọn lọc
được những bài có giá trị, nêu lên những đóng góp về nghệ thuật của “Thơ
mới”, phát hiện một cách tinh tế những nét phong cách độc đáo của mỗi thi sĩ.
Quan điểm của tác giả Thi nhân Việt Nam về căn bản vẫn là quan điểm “nghệ
thuật vị nghệ thuật”. Lối phê bình chủ yếu chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa ấn
tượng, có khi rơi vào chủ nghĩa hình thức.
Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan cũng biểu dương một số thi sĩ phong
trào “Thơ mới” lãng mạn.
Chuyên luận “Phong trào Thơ mới” của giáo sư Phan Cự Đệ (Xuất bản lần
thứ nhất vào năm 1966) có lẽ là cuốn sách đầu tiên phân tích khá toàn diện trào
lưu thơ ca lãng mạn từ quá trình hình thành, phát triển đến quan điểm mỹ học,
từ con đường bế tắc của chủ nghĩa cá nhân tư sản đến những yếu tố tích cực và
tiến bộ còn lại, đến một số vấn đề về nghệ thuật. Nhà nghiên cứu đã thể hiện
cái nhìn khá thấu đáo khi đánh giá Phong trào Thơ mới , một hiện tượng phức
tạp, đã cố gắng xem xét bộ phận văn học này trong “khung” phương pháp sáng
tác lãng mạn chủ nghĩa , trong mối liên hệ với nhiều phía. Song do phạm vi

11
hạn hẹp của một chuyên luận tổng hợp, GS Phan Cự Đệ chưa thể đi sâu khám
phá thế giới nghệ thuật riêng của từng nhà thơ cũng như từng bài thơ cụ thể.
“Phong trào thơ mới” trong cuốn “Lịch sử văn học Việt Nam”(Tập V,
Phần 1, Thời kì 1930-1945) do ông Nguyễn Hoành Khung chấp bút là một
chương viết khá súc tích, tài hoa. Tác giả có cái nhìn tương đối thấu đáo khi
đánh giá những mặt hạn chế, tiêu cực lẫn những nét tiến bộ, đáng cảm thông
của Phong trào Thơ mới, có sự cảm nhận khá tinh tế khi chỉ ra điệu hồn riêng
của các thi sỹ lãng mạn tiêu biểu. Về Xuân Diệu, bên cạnh sự khẳng định
những đặc sắc trong nội dung cảm xúc, Nguyễn Hoành Khung đã nêu lên một
số nhận xét đáng chú ý về hình thức nghệ thuật như ngôn từ, giọng điệu thơ.
Nhưng có lẽ do tính chất của một giáo trình, tác giả vẫn chưa có dịp dừng lại

khảo sát, phân tích cho đầy đủ.
Năm 1941, Trần Thanh Mại viết riêng một cuốn sách nghiên cứu về Hàn
Mặc Tử. Tác giả tuyên bố là đã áp dụng “những phương pháp mới” trong phê
bình văn học “xưa nay chưa từng có trong lịch sử văn học Việt Nam”. Ông đã
nghiên cứu kỹ những đặc điểm của vùng quê hương thi sĩ, những giai thoại về
cuộc đời đau thương của Hàn Mặc Tử, những mối tình của Hàn Mặc Tử với
Mai Đình, Mộng Cầm, Thương Thương, những phút mơ màng của Hàn Mặc
Tử trên bãi biển Quy Nhơn, những đêm trăng lạnh, tâm trạng bệnh hoạn của
thi sỹ ở nhà thương Quy Hoà…, và cho đó là “những cái vòng quyết định của
một sợi dây chuyền” sẽ dẫn tới cái đích “cắt nghĩa thi phẩm nhà thơ”. Ông là
một trong những người đầu tiên có công khám phá, phát hiện Hàn Mặc Tử, từ
những văn bản gốc, nhưng nói chung ông đã quá đề cao nhà thi sĩ vừa lãng
mạn, vừa tượng trưng này.
Năm 1938, Thế Lữ đã viết lời tựa cho tập “Thơ thơ” xuất bản lần thứ nhất:
“Và từ đây, chúng ta có Xuân Diệu!”. Từ niềm đồng cảm của một bạn thơ,
bằng những lời lẽ súc tích và nồng nàn, Thế Lữ đã giới thiệu với bạn đọc chân

12
dung thi sỹ Xuân Diệu-một hồn thơ rộng mở, chờ đón, một tay thơ dẻo dai và
cần mẫn.
Cuốn “Con mắt thơ” của Đỗ Lai Thuý (Nhà xuất bản Lao Động,1992) phản
ánh một cố gắng tìm tòi, phân tích phong cách nghệ thuật độc đáo ở một số
gương mặt thi sĩ lãng mạn tiêu biểu (Thế Lữ, Huy Cận, Xuân Diệu, Hàn Mặc
Tử, Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Chương, Bích Khê)
Trong cuốn “Nhà văn và tác phẩm trong trường phổ thông” nhóm tác giả
trường ĐHSP Hà Nội I đã cung cấp những kiến thức cơ bản, những tư liệu cần
thiết và gợi ý, hướng dẫn những phương hướng, kĩ năng tìm hiểu, cảm thụ…về
cuộc đời, sự nghiệp và những áng văn tiêu biểu của các nhà văn Việt Nam
được giảng dạy trong nhà trường THPT.
Cuốn SGV Ngữ văn 11 của Bộ giáo dục và đào tạo do Giáo sư Trần Đình

Sử tổng chủ biên cũng đưa ra những gợi ý hướng dẫn trả lời các câu hỏi tìm
hiểu bài học của các bài Thơ mới trong chương trình.
Đã có một số luận văn, khóa luận tốt nghiệp, báo cáo khoa học của các bạn
sinh viên viết về cách dạy Thơ mới, nhưng mới chỉ dừng lại ở việc khái quát
cách dạy tác phẩm của từng tác giả như Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Huy Cận,
Nguyễn Bính…
Xin được rút ra một số nhận xét của các bài viết về Thơ mới và cách dạy
Thơ mới : Các bài viết đều đã nêu được những đóng góp cũng như hạn chế của
Phong trào Thơ Mới, đã phân tích phong cách nghệ thuật độc đáo của một số
gương mặt thi sĩ lãng mạn tiêu biểu, đã đưa ra những gợi ý tìm hiểu, cảm thụ
một số tác phẩm tiêu biểu. Những cuốn SGV, Thiết kế bài giảng cũng đã
hướng dẫn, định hướng phương pháp giảng dạy một số tác phẩm Thơ mới
trong trường THPT. Nhưng nhìn chung, các bài viết chỉ đưa ra những gợi ý
chung chung, những lời bình chứ chưa thật sự đề xuất một PPDH mới khi tiếp
cận các tác phẩm Thơ mới. Như vậy chưa có một đề tài nào nghiên cứu về
cách dạy Thơ mới 1930-1945 nói chung được chọn dạy trong chương trình

13
giảng văn lớp 11 (chương trình mới) . Là một giáo viên giảng dạy hơn 10 năm,
đã từng lúng túng khi giảng dạy tác phẩm Thơ mới. Do yêu cầu đổi mới
phương pháp dạy học, do thực tiễn giảng dạy chưa thực sự đạt hiệu quả, luận
văn của tôi xin được đi sâu tìm hiểu phương pháp giảng dạy bốn tác phẩm Thơ
mới đang được giảng dạy trong nhà trường THPT hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu
Thông qua khảo sát sự tiếp nhận phần Thơ mới 1930 – 1945 của học sinh để rút
ra những thực trạng của việc dạy học văn nói chung, dạy các bài Thơ mới nói
riêng. Từ đó đề xuất đổi mới phương pháp dạy học Thơ mới 1930 – 1945 ở lớp
11 nhằm nâng cao chất lượng dạy học bộ phận văn học này ở trường THPT.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu

- Những thi phẩm Thơ mới 1930 - 1945 trong chương trình Ngữ văn lớp 11.
- Học sinh lớp 11 năm học 2009 - 2010.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn này chúng tôi nghiên cứu và đề xuất những phương pháp khi tiến
hành giảng dạy các thi phẩm Thơ mới 1930 – 1945 trong chương trình THPT lớp
11 năm học 2009 - 2010 theo quan điểm của đổi mới phương pháp dạy học.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu và đóng góp mới của luận văn
5.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Điều tra và đánh giá thực tiễn hiệu quả giảng dạy Thơ mới trong nhà trường THPT.
- Khảo sát sự tiếp nhận của học sinh về Thơ mới 1930-1945 ở lớp 11. Tập hợp
kết quả, phân tích, đánh giá và rút ra kết luận cần thiết.
- Trên cơ sở khảo sát, đề xuất đổi mới phương pháp giảng Thơ mới một cách
hiệu quả nhất.
- Thiết kế giáo án thể nghiệm bốn tác phẩm Thơ mới ở lớp 11 theo hướng đổi
mới phương pháp đã đề xuất.


14
5.2. Đóng góp mới của luận văn
Trên cơ sở khảo sát, tổng hợp, đánh giá, luận văn đã chỉ ra được thực trạng
của việc dạy Thơ mới trong nhà trường THPT chưa đạt hiệu quả cao, đề xuất
đổi mới phương pháp dạy học bốn tác phẩm Thơ mới trong nhà trường THPT
để giúp cho giáo viên, học sinh có thêm những gợi mở cần thiết khi dạy học
những tác phẩm này.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp khảo sát, thống kê kết quả tiếp nhận Thơ mới 1930 – 1945 của
học sinh lớp 11.
- Phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu.
- Phương pháp nghiên cứu theo quan điểm liên ngành: vận dụng những kiến
thức về Văn học Việt Nam, những thành tựu về tâm lí học, lí luận dạy học hiện

đại vào quá trình giải quyết đề tài.
- Phương pháp quy nạp, tổng hợp, khái quát.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo, luận văn
được trình bày trong ba chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận của việc giảng dạy Thơ mới 1930 - 1945 trong nhà
trường trung học phổ thông
Chương 2: Điều tra thực tiễn giảng dạy Thơ mới 1930 - 1945 ở trường trung
học phổ thông
Chương 3: Đề xuất đổi mới phương pháp dạy học Thơ mới 1930 – 1945 ở
trường trung học phổ thông






15
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC GIẢNG DẠY THƠ MỚI
TRONG TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Định hƣớng đổi mới phƣơng pháp dạy học
Phương pháp dạy học là con đường để đạt được mục đích dạy học. Phương
pháp dạy học là cách thức hoạt động của giáo viên và học sinh trong quá trình
dạy học. Cách thức hành động bao giờ cũng diễn ra trong những hình thức cụ
thể. Cách thức và hình thức không tách nhau một cách độc lập. Phương pháp
dạy học là những hình thức và cách thức hoạt động của giáo viên và học sinh
trong những điều kiện dạy học xác định nhằm đạt được mục đích dạy học.
Như chúng ta đã biết, mỗi một phương pháp giảng dạy dù cổ điển hay hiện
đại đều nhấn mạnh lên một khía cạnh nào đó của cơ chế dạy-học hoặc nhấn

mạnh lên mặt nào đó thuộc về vai trò của người thầy. Tôi cho rằng, cho dù các
phương pháp thể hiện hiệu quả như thế nào thì nó vẫn tồn tại một vài khía cạnh
mà người học và người dạy chưa khai thác hết. Chính vì thế mà không có một
phương pháp giảng dạy nào được cho là lý tưởng. Mỗi một phương pháp đều có
ưu điểm của nó do vậy người thầy nên xây dựng cho mình một phương pháp
riêng phù hợp với mục tiêu, bản chất của vấn đề cần trao đổi, phù hợp với thành
phần nhóm lớp học, các nguồn lực, công cụ dạy-học sẵn có và cuối cùng là phù
hợp với sở thích của mình. Theo chúng tôi, phương pháp giảng dạy được gọi là
tích cực nếu hội tụ được các yếu tố sau: Thể hiện rõ vai trò của nguồn thông tin
và các nguồn lực sẵn có; thể hiện rõ được động cơ học tập của người học khi bắt
đầu môn học; thể hiện rõ được bản chất và mức độ kiến thức cần huy động; thể
hiện rõ được vai trò của người học, người dạy, vai trò của các mối tương tác
trong quá trình học; thể hiện được kết quả mong đợi của người học.
Thực hiện dạy và học tích cực không có nghĩa là là gạt bỏ các phương pháp
dạy học truyền thống. Các sách lí luận đã chỉ rõ, về mặt hoạt động nhận thức,
thì phương pháp thực hành là “tích cực” hơn phương pháp trực quan, phương

16
pháp trực quan thì sinh động hơn phương pháp thuyết trình. Muốn dạy và học
tích cực thì cần phát triển phương pháp thực hành, phương pháp trực quan. Đổi
mới phương pháp dạy học cần kế thừa, phát triển những mặt tích cực của hệ
thống phương pháp dạy học đã quen thuộc, đồng thời cần học hỏi, vận dụng
một số phương pháp mới, phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện dạy và học. Một số
phương pháp dạy học tích cực gồm: Dạy học vấn đáp, đàm thoại; Dạy học phát
hiện và giải quyết vấn đề; Dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ…
Định hướng đổi mới phương pháp dạy học đã được xác định trong nghị
quyết Trung ương 4 khoá VII (1 – 1993), Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII
(12 – 1996), được thể chế hóa trong Luật Giáo dục (2005), được cụ thể hoá
trong các chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đặc biệt chỉ thị số 14 (4 – 1999).
Luật Giáo dục, điều 28.2, đã ghi “Phương pháp giáo dục phổ thông phải

phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh ; phù hợp với
đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả
năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn;
tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.
Với mục tiêu giáo dục phổ thông là “giúp học sinh phát triển toàn diện về
đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, phát triển năng lực
cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt
nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị
cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động tham gia xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Đổi mới phương pháp dạy học cần có một cuộc cách mạng về tư duy: thay
đổi kiểu tư duy đơn tuyến: là tư duy coi phương pháp là hệ thống các nguyên
tắc, điều chỉnh hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiễn; chuyển
kiến thức của thầy sang trò theo một chiều. Tư duy đơn tuyến là tư duy dễ cả
tin, cần phải khắc phục. Tư duy đa tuyến: là tư duy đặt phương pháp vào hệ
thống hoạt động gồm nhiều thành tố, là tư duy theo hệ hình thái tương tác,

17
bao quát tổng thể mỗi sự vật từ đó nắm bắt được bản chất cụ thể và sâu xa
của sự vật.
Hãy chiêm nghiệm những triết lí về phương pháp: “Phương pháp là linh hồn
của một nội dung đang vận động”; “Học phương pháp chứ không học dữ
liệu”; “Thầy giáo tồi truyền đạt chân lí, Thầy giáo giỏi dạy cách tìm ra chân
lí”; “Phương pháp tốt là làm đơn giản những phức tạp, Phương pháp tồi là
phương pháp làm phức tạp những đơn giản”; “Thầy giỏi dạy cho mọi người
hiểu, đồng thời tối ưu khả năng mỗi người”.
Có thể nói cốt lõi của đổi mới phương pháp dạy học là hướng tới hoạt động
học tập chủ động chống lại thói quen học tập thụ động. Định hướng chung của
đổi mới phương pháp là phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, tự
học, kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; phù hợp với đặc điểm của từng

lớp học, môn học; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, tạo được hứng thú
học tập cho học sinh, tận dụng được công nghệ mới nhất; khắc phục lối dạy
truyền thống truyền thụ một chiều các kiến thức có sẵn. Rất cần phát huy cao
năng lực tự học, học suốt đời trong thời đại bùng nổ thông tin. Tăng cường học
tập cá thể phối hợp với hợp tác. Định hướng vào người học được coi là quan
điểm định hướng chung trong đổi mới phương pháp dạy học. Quan điểm định
hướng chung cần được cụ thể hoá thong qua những quan điểm dạy học khác,
như dạy học giải quyết vấn đề, dạy học theo tình huống (dạy học gắn với tình
huống thực tiễn), dạy học định hướng hành động…cũng như các phương pháp,
kĩ thuật dạy học cụ thể nhằm tăng cường hơn nữa việc gắn lí thuyết với thực
tiễn, tư duy với hành động, nhà trường với xã hội.
Đổi mới phương pháp dạy học được thực hiện theo các định hướng sau:
Bám sát mục tiêu giáo dục phổ thông; phù hợp với nội dung dạy học cụ thể;
phù hợp với đặc điểm lứa tuổi học sinh; phù hợp với cơ sở vật chất, các điều
kiện dạy học của nhà trường; phù hợp với việc đổi mới kiểm tra đánh giá kết
quả dạy - học; kết hợp giữa việc tiếp thu và sử dụng có chọn lọc, có hiệu quả

18
các phương tiện dạy học tiên tiến, hiện đại với việc khai thác những yếu tố tích
cực của các phương pháp dạy học truyền thống; tăng cường sử dụng các
phương tiện dạy học, thiết bị dạy học và đặc biệt lưu ý đến những ứng dụng
của công nghệ thông tin.
1.2. Đặc trƣng thể loại
Thơ mới 1930 – 1945 thuộc thể loại trữ tình. Tính trữ tình trong văn học
bao gồm khía cạnh diễn đạt sự phát triển nội tâm con người, một vấn đề khoa
học về con người. Đặc trưng của loại trữ tình là bộc lộ trực tiếp tư tưởng, cảm
xúc, nhiệt tình, tâm tư, những trạng thái mạnh mẽ, xao động phong phú của
tâm hồn và trí tuệ con người. “Sự rung động truyền cảm của tác phẩm trữ tình
là lời nói tràn đầy cảm xúc, suy nghĩ của nhà thơ, những lời nói thốt ra tự đáy
lòng. Không phải tất cả các tác phẩm bằng thơ đều là tác phẩm trữ tình,

nhưng tác phẩm trữ tình thường được sáng tác bằng thơ, bằng thứ ngôn ngữ
tràn đầy âm thanh, nhịp điệu, ngưng đọng cảm xúc, suy nghĩ của nhà thơ, kết
tinh hiện thực và cuộc sống, có sức xuyên thấm mạnh mẽ vào lòng người đọc”
[22; Tr.4]. Như vậy thơ thể hiện một cách tập trung nhất đặc trưng và sức
mạnh của văn học. Và có lẽ sự tác động mạnh mẽ nhất ở thơ chính là “ý lớn
tình sâu trong lời hay tiếng đẹp”.
“Thơ tức là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp”. “Thơ là
một hình thái nghệ thuật cao quý, tinh vi. Người làm thơ phải có tình cảm
mãnh liệt thể hiện sự nồng cháy trong lòng. Nhưng thơ là tình cảm và lí trí kết
hợp một cách nhuần nhuyễn và có nghệ thuật Tình cảm và lí trí ấy được diễn
đạt bằng những hình tượng đẹp đẽ qua những lời thơ trong sáng vang lên nhạc
điệu khác thường” (Sóng Hồng, Thơ, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội,1966).
Thơ tượng trưng cho những gì đẹp đẽ, tinh tuý, lý tưởng trong cuộc sống và
những gì cao quý, đằm thắm, thiết tha nhất trong lòng người. Cùng với những
đặc trưng như vậy của thơ, lại thêm những nét độc đáo mới lạ của một trào lưu
lãng mạn mà nhà phê bình Hoài Thanh đã gọi là “một thời đại trong thi ca”,

19
“Thơ mới” có khả năng tác động mạnh mẽ tới lí trí và tình cảm, mang lại cho
bạn đọc niềm say mê, hứng thú. Thơ mới ra đời đến nay đã gần một thế kỉ.
Hoàn cảnh xã hội mà Thơ mới ra đời khá phức tạp. Thế hệ học sinh ngày nay
có thể chưa hiểu hết bởi do khoảng cách về thời gian. Bạn đọc nói chung say
mê Thơ mới, tìm đến Thơ mới để đáp ứng những nhu cầu tinh thần hết sức
phong phú của bản thân. Những bài thơ, những câu thơ có cấu trúc tinh vi và dị
biệt đã đem đến cho người đọc những khả năng hình dung liên tưởng tưởng
tượng, những cảm nhận sâu sắc về thiên nhiên và cuộc sống con người. Thơ
mới 1930-1945 chủ yếu là tiếng nói của tầng lớp trí thức tiểu tư sản. Những
thanh niên trí thức yêu đời, đầy nhiệt huyết, nhưng không tìm thấy con đường
đi, họ bế tắc. Họ bất bình “ghét đương thời…ngấy đến cực độ cái đạo lí
Khổng Mạnh treo bày trên vách…ngấy đến cực độ cái văn chương rỗng tuếch

trong các nhà trường, ngấy đến cực độ cái lối sống công thức, công chức đang
bao trùm ở quanh mình” (Lưu Trọng Lư). Họ khao khát được khẳng định
mình, được bộc lộ mình. Họ chọn thơ để kí thác tâm sự, gửi gắm những khao
khát trần thế. Và “cái tôi cá nhân” chính là một phương diện biểu hiện của Thơ
mới Việt Nam 1930 – 1945. Ngay khi ra đời Thơ mới đã nhanh chóng khẳng
định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các “hoàng tử thơ": Thế
Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v
Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau
trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho
đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Huy Cận khẳng định: “Trong
lịch sử văn học Việt Nam Phong trào Thơ mới giữ một vị trí quan trọng. Thơ
mới đã nằm trong mạch của dân tộc như máu thịt trong cơ thể giống nòi”. Nội
dung chính của Thơ mới là khẳng định cái tôi. Cái tôi cá nhân tự ý thức, “bản
ngã đòi được khẳng định” (Nguyễn Hoành Khung). Cái tôi có nhu cầu giao
cảm, thổ lộ mình để mong tìm sự đồng cảm, chia sẻ ở người khác, cá nhân
khác. Hoài Thanh gọi thời đại Thơ mới là “thời đại chữ tôi”: Chữ ta với họ to
rộng quá. Tâm hồn họ chỉ thu trong khuôn khổ chữ tôi. Và nó “mang theo một

20
quan niệm chưa từng có ở xứ này”: quan niệm cá nhân. Cái tôi trong Thơ mới
được đề cao và giữ vị trí trung tâm của những sáng tạo nghệ thuật, được bộc lộ
hết sức phong phú, phức tạp và hấp dẫn. Các nhà Thơ mới sống thành thực với
chính mình, dám bộc lộ những nhiệt thành, những mong muốn của cá nhân
mình. Thơ mới phá bỏ qui phạm, thoát khỏi hệ thống ước lệ có tính phi ngã.
Hoài Thanh, Hoài Chân tổng kết phong trào lại cho rằng: “phong trào Thơ mới
vứt đi nhiều khuôn phép xưa, song cũng nhiều khuôn phép nhân đó sẽ bền
vững trong các khuôn phép mới xuất hiện đều bị tiêu trầm như thơ tự do, thơ
mười chữ, thơ mười hai chữ, hay sắp sửa tiêu trầm như những cách gieo vần
phỏng theo thơ Pháp”. Sau này (1971), GS Hà Minh Đức thống kê 168 bài thơ
của 45 nhà Thơ mới được Hoài Thanh, Hoài Chân tuyển vào tập Thi nhân Việt

Nam và đi đến kết luận: “Nhìn chung các thể thơ 7 từ, 8 từ, lục bát và 5 từ là
những thể thơ được phổ biến nhất trong phong trào Thơ mới”.
Đề tài cảm xúc trong Thơ mới cũng rất phong phú, mới lạ chứ không còn nhất
nhất theo những khuôn mẫu như xưa. Cái tôi Thơ mới nhìn thế giới bằng cặp mắt
“xanh non, biếc rờn”, khiến nó phát hiện ra nhiều điều mới lạ về thiên nhiên và
lòng người. Xuân Diệu cảm nhận được ý tình của hoa lá, cỏ cây:
Một tối bầu trời đắm sắc mây.
Cây tìm nghiêng xuống nhánh hoa gầy,
Hoa nghiêng xuống cỏ, trong khi cỏ
Nghiêng xuống làn rêu, một tối đầy…
( Với bàn tay ấy )
Thế Lữ dù mơ màng theo “Tiếng sáo thiên thai”, đắm mình trong không gian
tiên cảnh: “ Trời cao xanh ngắt- ô kìa! Hai con hạc trắng bay về bồng lai”. Nhưng
rồi lại thấy thấm thía cái “xa vắng , mênh mông” của một nỗi buồn:
Tiếng đưa hiu hắt bên lòng
Buồn ơi! Xa vắng mênh mông là buồn.
( Tiếng sáo thiên thai )

21
Nhà thơ Lưu Trọng Lư lại sống với “những nỗi đau thương thành thực của
loài người” [30;Tr.258]. Giữa không gian yên ắng, âm thanh của tiếng gà gáy
trưa đã khơi dậy nơi tâm hồn nhà thơ một nỗi sầu buồn thương nhớ:
Mỗi lần nắng mới hắt bên song,
Xao xác gà trưa gáy não nùng,
Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng.
Chập chờn sống lại những ngày không.
( Nắng mới )
Có thể nói cảm xúc bao trùm trong thơ vẫn là cảm xúc buồn. “Thơ mới vừa
cất tiếng khóc chào đời đã buồn ngay trong bản chất” (Phan Cự Đệ). Những
thanh niên trí thức thời ấy rất yêu đời nhưng lại nhận thấy “cuộc đời cay cực”.

“Thơ ca của họ phản ánh cái tâm trạng u uất, day dứt của những người không
có lối thoát” (Hồng Chương), nhưng cái tình của họ, cái tình của những người
yêu đời, yêu cuộc sống nhưng “đứng giẫm chân tại chỗ khóc than” (Chế Lan
Viên) cũng rất đáng để chúng ta cảm thông và trân trọng. Thơ Xuân Diệu có
lúc thiết tha dào dạt: “Ta ôm bó cánh tay ta làm rắn. Làm dây da quấn quýt cả
mình xuân”. Nhưng rồi lại tự nhận “Tôi là một con chim không tổ. Lòng cô đơn
hơn một đứa mồ côi” (Dối trá). Nhà thơ Huy Cận cũng có lúc thấy lòng thư
thái: “Cả không gian hồn hậu rất thơm tho. Gió đưa hương mùi, dìu dịu phất
phơ”. Nhưng có lúc lại xót xa, cay đắng: “Nhưng cô độc đã ngầm ghi trên
trán. Lòng lạc loài ngay giữa thuở sơ sinh” (Trình bày). Những vần thơ của họ
là “tiếng hát đau khổ, không chịu vui với cái xã hội ngang trái vùi dập đương
thời”. Đọc Thơ mới, người đọc tiếp xúc với thế giới những cảm xúc khác nhau,
rất phong phú, nhiều sắc điệu. Sức hấp dẫn của Thơ mới không phải chỉ ở sự
cách tân về nghệ thuật mà còn ở “nhạc điệu tâm hồn riêng của người Việt
Nam” thấm nhuần trong đó. Thế hệ học sinh ngày nay tìm thấy trong thơ tiếng
nói của chính mình, tiếng nói của tuổi trẻ sôi nổi, nhiệt thành yêu cuộc sống,
yêu Tổ quốc. Tình yêu đó trong Thơ mới có khi được bộc lộ một cách trực
tiếp, nồng nàn, tha thiết nhưng cũng có lúc lại ẩn sau tâm trạng buồn đau, cô

22
đơn, xót xa. Những con người ý thức được tình cảnh sống của mình, băn khoăn
trăn trở tìm lối ra nhưng bế tắc nên “đau đời”. “Đau đời” nhưng không cứu
được đời. Vì thế mà trong những vần Thơ mới, bóng dáng của nỗi đau nhân
thế, nỗi đau con người luôn hiện hữu. Hình ảnh “củi một cành khô” trôi dạt
giữa mênh mông sông nước không biết đi đâu về đâu trong thơ Huy Cận là
một sự ám ảnh về số phận con người trong cảnh mất nước.
Mặc dù Thơ mới xa rời cuộc đấu tranh chính trị, nhưng “tấm lòng yêu nước
thầm kín”, tấm lòng nhân ái của các nhà Thơ mới không phải không có người
quan tâm. Chắc chắn các thế hệ bạn đọc đều nhận ra được chiều sâu tình cảm,
nhận ra được những rung động sâu xa, những biến thái tinh tế nhất trong tâm

hồn các nhà thơ mới khi tiếp xúc với các vần thơ viết về cảnh vật thiên nhiên,
về cuộc sống con người họ. Thế hệ trẻ ngày nay vẫn có thể tìm thấy trong Thơ
mới lời giải đáp, sự khích lệ động viên và đặc biệt tìm thấy một lí tưởng sống:
không chấp nhận một cuộc đời tù túng, bó buộc, tẻ nhạt, vô vị, không thể là
một kẻ sống hèn, sống nhục. Tiếng gọi của khát vọng tự do, của ước mơ hạnh
phúc sẽ mãi còn ngân vang trong thơ Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn
Bính, Hàn Mặc Tử…
Đặc biệt những bài thơ viết về tình yêu với đủ những sắc thái, cung bậc cảm
xúc sẽ là một đề tài hấp dẫn thế hệ trẻ ở mọi thời đại. Tình yêu gắn liền với
tuổi trẻ. Các nhà Thơ mới, hầu hết là những trí thức trẻ tuổi trẻ lòng, nhiều ước
mơ, hoài bão, nhưng bắt gặp phải hiện thực đen tối, họ không thể thực hiện
được ước mơ của mình. Bất mãn, họ tìm đường thoát ly thực tại, và tình yêu
trở thành cứu cánh cho tâm hồn những tri thức yêu đời nhưng lại đau đời ấy.
Chưa bao giờ đề tài tình yêu lại được nói nhiều như trong Thơ mới. Nếu như
trong thơ xưa tình yêu thường gắn với hôn nhân, với tình nghĩa thì trong Thơ
mới tình yêu có muôn hình vạn trạng, có “cái tình thoáng qua, cái tình đắm
say, cái tình gần gũi, cái tình xa xôi…cái tình trong giây phút, cái tình ngàn
thu…”(Lưu Trọng Lư).

23
Thơ mới đã mang đến cho văn học dân tộc những tiếng nói trong trẻo, trẻ
trung, mới mẻ, làm say lòng người. Mặc dù chịu ảnh hưởng của thơ Pháp, thơ
Đường nhưng Thơ mới không làm mất đi bản sắc dân tộc của thơ Việt Nam
mà trái lại nó làm cho thơ Việt giàu có, phong phú và tinh tế hơn. Thơ mới
không còn những niêm luật chặt chẽ cho nên nó có nhiều khả năng diễn đạt
hơn thơ cũ. Ở Thơ mới cách hiệp vần phong phú, nhạc điệu dồi dào, lối ngắt
nhịp sinh động, ngôn ngữ giàu hình tượng, giàu sức biểu cảm và mang tính cá
thể sâu sắc cũng tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt của Thơ mới.
Thơ mới đã có những cách tân mạnh mẽ về thi hứng cũng như thi pháp
Trước hết, và quan trọng nhất là đổi mới thi hứng. Thi hứng Thơ mới rất

phong phú, phức tạp nhưng có cốt lõi từ thi hứng thiên về cộng đồng, cái ta, bề
rộng của thi hứng trung đại và cận đại chuyển sang thi hứng về cái riêng, cái
tôi, bề sâu của thi hứng hiện đại. Thơ từ chỗ nhìn ra bên ngoài quên chính
mình đến tìm hiểu chính mình mà quên bên ngoài. Bởi vậy trong Thơ mới xuất
hiện nhiều chữ "tôi" với tư cách là đại từ làm chủ ngữ để khẳng định chủ thể
sáng tạo, chủ thể cảm xúc và cũng rất nhiều từ "lòng tôi" nhằm giải thích trạng
thái tâm lý, tình cảm của chủ thể. Trong lịch sử thơ ca Việt Nam, chữ tôi chưa
bao giờ xuất hiện nhiều như thế. Điều ấy cũng dễ hiểu, cá nhân bao đời bị kìm
hãm bởi tư tưởng phong kiến cho nên cái tôi của nhà thơ bị chìm đắm, hòa tan
trong cộng đồng gia tộc xã hội, quốc gia nay được cởi trói, được giải thoát và
được khẳng định. Cá nhân được giải phóng là nhân tố quyết định sự phát triển
con người và cái tôi được đề cao, được tự do, tạo diều kiện cho sự sáng tạo, sự
phát triển cảm xúc. Thơ mới không chỉ biểu hiện cái tôi bề mặt, mà điều quan
trọng tạo nên cái mới là đi sâu khám phá cái tôi cảm xúc thành thật. Mỗi nhà
Thơ mới khai thác cái tôi theo quan niệm của mình nên giữa họ dù rất gần
nhau nhưng khác nhau, mỗi người là một cá tính nên biệt.
Tương ứng với sự thay đổi thi hứng là sự thay đổi thi pháp từ tổng hợp, súc
tích của thơ cũ sang tính phân tích, cởi mở, sự phong phú, đa dạng, nét riêng tư

24
của Thơ mới, thi pháp hiện đại. Thi pháp hiện đại khởi đầu bằng thi pháp lãng
mạn đi vào cái sâu, cái tôi, cái riêng. Các nhà Thơ mới đi tìm cái riêng do đó
phải tìm cách biểu hiện mới. Ban đầu họ tìm hình thức tự do bằng cách đập
phá hình thức thơ cũ. Thơ cũ lạm dụng thể thơ Đường luật (thất ngôn bát cú)
một thể thơ thống trị suốt thời trung đại cho đến đầu thế kỷ XX không còn khả
năng chuyển tải cảm hứng mới mẻ nữa. Thơ mới đã phá thơ Đường luật, cho ra
đời thể thơ tự do. Không dừng lại đó, họ tiếp tục sáng tạo, tìm tòi nhưng vẫn
nằm trong quy luật thơ. Sự thay đổi thi pháp cho phù hợp với thi hứng của
phong trào Thơ mới chứng minh một cách hùng hồn cho quy luật thống nhất
giữa nội dung và hình thức trong thơ ca. Nó nêu bật vai trò quyết định của nội

dung với hình thức, đồng thời cũng cho thấy đây là sự thống nhất có tính chất
biện chứng. Hình thức tuy bị nội dung quy định nhưng đến lượt nó có tác dụng
trở lại tôn vinh nội dung. Thơ mới có một sự đổi mới toàn diện, chính vì thế
mà nó được khẳng định trong nhiều thập kỷ vừa qua, tuy có lúc thăng trầm. Sự
đổi mới thi pháp Thơ mới còn nêu lên bài học: Tiếp thu thơ ca nước ngoài để
đổi mới phải sáng tạo, mọi cái rập khuôn, mô phỏng, trái tinh thần tiếng Việt
đều chết, hay đổi mới phải trên cơ sở truyền thống, truyền thống là nền tảng,
xa truyền thống sẽ mất chỗ dựa.
Như vậy Thơ mới có sự cách tân trong nghệ thuật nhưng vẫn không xa rời
những yếu tố truyền thống. Nội dung tư tưởng, tình cảm gắn với khát vọng
khẳng định cái tôi cá nhân là một sự đổi mới mà đi liền đó là sự cách tân về
phương diện nghệ thuật. Có thể nói Thơ mới là tiếng hát tự bên trong, phơi tỏ
toàn bộ thế giới tinh thần của thi sĩ. Trong Thơ mới giọng điệu cá nhân được
thể hiện một cách triệt để nhất, sâu sắc nhất. Sự cách tân của Thơ mới trên mọi
phương diện đã tạo ra một sức hấp dẫn đặc biệt.
1.3. Phong cách nghệ thuật
“Phong cách” bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp “stylos”- dung để chỉ một cái que,
một đầu nhọn và tù. Người La Mã thì gọi “stylus”, cũng để chỉ cái que đó, đầu

25
nhọn dùng để viết còn đầu tù dùng để thoa trên một cái bảng có thoa sáp. Đến
người Pháp thì dùng “style”, nhưng ban đầu cũng chỉ có nghĩa là nét chữ, sau
mới có nghĩa là bút pháp với những đặc điểm ngôn ngữ và văn thể. Và cuối
cùng nó mới có nghĩa là “phong cách” như trong mệnh đề “phong cách là
người” của Buyphông mà đã có lần Mác nhắc đến.
Trên thế giới xuất hiện nhiều cách hiểu, cách định nghĩa khác nhau về
“phong cách”. Vậy ta nên hiểu khái niệm này như thế nào? “Phong cách nghệ
thuật là chỗ độc đáo về tư tưởng cũng như nghệ thuật có phong cách thẩm mĩ
thể hiện trong những sáng tác của những nhà văn, nhà thơ ưu tú” [31;Tr.89].
Những nét khác biệt, độc đáo đó phải thống nhất trong toàn bộ sáng tác của

nhà văn; phải xuất hiện thường xuyên, có tính bền vững và phát triển theo một
quy luật nhất định. Như vậy một nhà văn ưu tú luôn phải tạo cho mình một
phong cách nghệ thuật độc đáo. Có người đã từng ví văn học là cây đàn nhiều
dây, mỗi nhà văn là một dây căng trên cây đàn ấy. Từng dây phải có cung bậc,
âm điệu riêng dù hợp lại chúng vẫn làm nên một hoà âm. Phong cách nghệ
thuật của nhà văn cũng vậy. Nó giúp nhà văn có một giọng hát riêng, đặc biệt
nổi bật trong thế giới nhiều cung bậc của văn học.
Phong cách nghệ thuật của nhà văn xét đến cùng là cảm quan thế giới của
nhà văn tạo ra, là kết quả cách nhìn nhận, khám phá cuộc sống của nhà văn.
mỗi nhà văn hoàn toàn có khả năng khám phá thế giới một cách khác nhau. Do
đó trang viết của họ cũng mang màu sắc rất khác nhau. Có bao nhiêu yếu tố
trong tác phẩm thì có bấy nhiêu chỗ cho phong cách nghệ thuật phát triển.
Qua phong cách nghệ thuật, độc giả có thể nhận diện tác giả đó về nhiều
mặt. Phong cách thể hiện những nét tài hoa, bản lĩnh của nhà văn nhưng đồng
thời cũng là kết quả của quá trình tìm tòi, khám phá, suy ngẫm, kết quả của
một chặng đường lao động không mệt mỏi của nhà văn. Không có một nhà văn
giỏi nào không có phong cách nghệ thuật độc đáo. Do đó hiểu phong cách
nghệ thuật của nhà văn sẽ giúp ta hiểu rõ những tác phẩm cụ thể của nhà văn

26
đó. Phong cách nghệ thuật có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đọc hiểu
tác phẩm văn chương. Đây là cơ sở tiền đề, màn tính chất kiến thức nền giúp
cho mỗi cá nhân tiếp cận tác phẩm. Mỗi tác phẩm văn học, đặc biệt những tác
phẩm được lựa chọn vào Sách giáo khoa, ít nhiều cũng là sự thể hiện cụ thể
của phong cách nghệ thuật của nhà văn, nhà thơ. Do vậy bên cạnh những kiến
thức liên quan như lịch sử, địa lí…yếu tố quan trọng là những hiểu biết về
phong cách nghệ thuật của nhà văn đó. Chương trình phổ thông luôn tiếp xúc
với những tác phẩm tiêu biểu, điển hình cho phong cách tác giả. Vì vậy việc
tìm hiểu phong cách của từng tác giả rất quan trọng.
1.3.1. Phong cách nghệ thuật Xuân Diệu qua bài thơ “Vội vàng”

Thơ Xuân Diệu trước cách mạng là sự hội tụ đầy đủ những phẩm chất của
Thơ mới hay nói như Hoài Thanh, Xuân Diệu là "nhà thơ mới nhất trong các
nhà thơ mới". Ông đã tạo ra một thế giới nghệ thuật riêng đầy hình tượng và
cảm xúc, trong đó con người cá nhân nhà thơ tự do bộc bạch tư tưởng, quan
niệm, triết lí nhân sinh của mình. “Vậy tư tưởng Xuân Diệu là gì? Xuân Diệu
là nhà thơ của niềm giao cảm hết mình giữa con người và con người. Một phát
hiện về niềm hạnh phúc tuyệt vời mà cuộc sống trần thế này đã ban phát cho
nhân loại. Tư tưởng nghệ thuật Xuân Diệu đã tạo ra cho thơ cũng như văn
xuôi của ông một vũ trụ nghệ thuật riêng, một thế giới hình thể và màu sắc
riêng chứa chan tình tứ và đầy tính sắc dục” (Nguyễn Đăng Mạnh, Con đường
đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2006). Một
trong những nguồn gốc tạo nên cái mới ấy, phải tính đến ảnh hưởng của thơ
lãng mạn Pháp đối với những thi sĩ Tây học thời bấy giờ. Hai tập Thơ thơ và
Gửi hương cho gió được giới văn học xem như là hai kiệt tác ca ngợi tình yêu
và qua các chủ đề của tình yêu là ca ngợi sự sống, niềm vui và đam mê sống.
Và ca ngợi tình yêu thì làm sao mà không ca ngợi tuổi trẻ, mùa xuân, ca ngợi
thiên nhiên là tổ ấm và cái nôi của tình yêu. Và Xuân Diệu cảm nhận sâu sắc
đến đau đớn nỗi thời gian trôi chảy, sự mong manh của đời người cũng như

×