Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Tổ chức dạy học theo dự án phần văn học nước ngoài chương trình ngữ văn 11 trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 128 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC






PHẠM THỊ THÚY CHINH





TỔ CHỨC DẠY HỌC DỰ ÁN PHẦN VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI
CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 11 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG







ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN
Chuyên ngành: LL&PP dạy học (bộ môn Ngữ Văn)
Mã số: 601410













HÀ NỘI – 2010


1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nâng cao chất lƣợng dạy và học, đáp ứng mục tiêu đào tạo nguồn nhân
lực trong thực tế và tƣơng lai, cần thiết phải đổi mới giáo dục một cách toàn
diện. Trong nghị quyết số 40/2000/QH10 ngày 19-12-2000 của Quốc hội
khóa 10 đã khẳng định mục tiêu đổi mới chƣơng trình giáo dục phổ thông là:
“Xây dựng nội dung chương trình, phương pháp giáo dục, sách giáo khoa
phổ thông nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng
yêu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, phù hợp điều kiện và truyền thống Việt Nam, tiếp cận trình độ giáo dục
phổ thông ở nước trong khu vực và trên thế giới” [3, tr.1]. Xuất phát từ mục
tiêu này, các nhà quản lí, các nhà giáo dục đã xác định một trong những trọng
tâm hàng đầu của việc đổi mới lần này là đổi mới phƣơng pháp dạy học. Yêu
cầu của phƣơng pháp giáo dục phổ thông hiện nay đƣợc ghi rõ trong điều 28.2
- Luật Giáo dục 2005: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính
tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng
lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận
dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú
học tập cho học sinh” [3, tr.28]. Nhƣ vậy, cốt lõi của việc đổi mới phƣơng

pháp là nhằm tăng cƣờng tính tích cực, chủ động, hƣớng tới hoạt động tự học
của học sinh, khắc phục thói quen học tập thụ động.
Chủ trƣơng đổi mới phƣơng pháp dạy học theo hƣớng tích cực, lấy
ngƣời học làm trung tâm mở ra cơ hội cho giáo dục nƣớc ta ứng dụng nhiều
thành tựu của phƣơng pháp dạy học hiện đại trên thế giới, trong đó có những
phƣơng pháp dạy học tích cực nhƣ: dạy học tình huống, dạy học qua đóng
vai, dạy học theo dự án…
Nằm trong xu thế chung của chƣơng trình đổi mới giáo dục phổ thông,
việc đổi mới nội dung và phƣơng pháp dạy học môn Ngữ văn cũng là việc cần
thiết và tất yếu. Trong những năm qua, tại các hội nghị thay sách giáo khoa


2
Ngữ văn hay đổi mới phƣơng pháp dạy học môn học này, các nhà giáo đã
kiến nghị việc đổi mới nội dung phải song song với đổi mới phƣơng pháp dạy
học. Trên thực tế, chất lƣợng dạy học môn học thời gian qua giảm sút mạnh,
học sinh tỏ ra thờ ơ và ngại học môn học này. Hơn nữa, trong điều kiện
phƣơng tiện dạy học hiện đại nhƣ hiện nay cùng với việc chƣơng trình Ngữ
văn THPT hiện hành biên soạn lại theo hƣớng tích hợp kiến thức, tập trung
phát triển năng lực tự học của học sinh, yêu cầu đổi mới phƣơng pháp dạy học
môn học này càng trở nên cấp thiết. Việc đổi mới phƣơng pháp dạy và học
Ngữ văn với những phƣơng pháp và hình thức tổ chức dạy học tích cực có sự
trợ giúp của công nghệ thông tin và phƣơng tiện dạy học hiện đại đang là một
hƣớng mới đƣợc đẩy mạnh áp dụng, trong đó có dạy học theo dự án.
Dạy học theo dự án đã có từ lâu trong thực tiễn dạy học ở Việt Nam,
nhƣng với sự trợ giúp của công nghệ thông tin và phƣơng tiện dạy học hiện đại
nhƣ hiện nay, dạy học theo dự án đang trở nên có nhiều ƣu việt, thu hút sự chú
ý quan tâm của giáo viên và học sinh. Dạy học theo dự án có đặc trƣng là tổ
chức dạy học gắn với thực tiễn, học sinh phải tự học là chủ yếu, thầy cô chỉ là
ngƣời tổ chức, ngƣời hƣớng dẫn học sinh thực hiện nhiệm vụ học tập. Dạy học

theo dự án đã bắt đầu triển khai áp dụng ở một số trƣờng đại học, một số
trƣờng THPT ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng, ở một số môn
học nhƣ vật lý, sinh học, hóa học, tin học, địa lý và toán - là những môn học
cung cấp kiến thức về tự nhiên, môi trƣờng, có khả năng khai thác và giải quyết
nhiều vấn đề thực tiễn. Riêng đối với các môn khoa học xã hội mà tiêu biểu là
Ngữ văn, việc tổ chức dạy học theo dự án còn rất ít đƣợc triển khai áp dụng.
Qua thực tế, có thể thấy dạy học theo dự án đáp ứng đƣợc các yêu cầu
về đổi mới phƣơng pháp dạy học, phát huy đƣợc vai trò tích cực chủ động của
học sinh qua các hoạt động và nhiệm vụ học tập cụ thể. Nếu áp dụng cho môn
Ngữ văn có thể nhìn thấy khả năng của dạy học theo dự án sẽ khắc phục đƣợc
tình trạng đọc - chép, tạo động cơ và hứng thú học tập cho học sinh. Tuy
nhiên, việc ứng dụng tổ chức dạy học theo dự án vào dạy học cụ thể cho các
phần kiến thức, các bài học sẽ triển khai nhƣ thế nào? Có phù hợp và nâng


3
cao hiệu quả dạy học môn học hay không? Đó là những vấn đề cần đƣợc
nghiên cứu và giải đáp.
Mặt khác, tuy dạy học theo dự án đã bƣớc đầu đƣợc quan tâm nghiên
cứu và áp dụng nhƣng nhƣ thế không phải là các vấn đề về mặt lí luận và thực
tiễn triển khai đã đƣợc nắm bắt cụ thể và có hệ thống trong quá trình dạy học.
Việc hiểu rõ vai trò của giáo viên và học sinh, các công việc cần thực hiện và
cụ thể hóa thành quy trình dạy học, đánh giá trong dạy học dự án…vẫn còn là
những điều mà giáo viên còn nhiều bỡ ngỡ, nhất là đối với các thầy cô giáo ở
các trƣờng trung học phổ thông.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu ―Tổ chức
dạy học theo dự án phần văn học nước ngoài chương trình Ngữ văn 11 trung
học phổ thông”, nhằm xây dựng một quy trình tổ chức dạy học dự án cho dạy
học phần kiến thức này để trang bị cho giáo viên có thể vận dụng vào giảng dạy,
góp phần vào đổi mới phƣơng pháp và nâng cao chất lƣợng dạy học Ngữ văn.

2. Lịch sử nghiên cứu
Những ý tƣởng đầu tiên về dạy học dự án xuất hiện ở Mỹ từ những
năm 30 của thế kỷ XX và sau đó đƣợc tiếp tục đƣợc nghiên cứu, tiếp cận với
những quan điểm khác nhau. Hai nhà sƣ phạm Mỹ là John Dewey (1859-
1952) và William H. Kilpatrick (1871-1965) là những ngƣời đặt nền móng
cho phƣơng pháp dạy học dự án, dựa trên những cơ sở lý luận về tính tích cực
của ngƣời học xuất phát từ sự quan tâm đối với chính môn học.
John Dewey đƣợc coi là ngƣời đầu tiên khởi xƣớng phƣơng pháp dạy
học dự án, dựa trên cơ sở lý luận là lý thuyết học sinh là trung tâm. Ông đề
cập đến việc xây dựng các dự án trong dạy học theo cách tạo điều kiện cho
học sinh tƣ duy các vấn đề và tìm cách giải quyết các vấn đề đó. Ông đánh
giá tầm quan trọng của dạy học dự án là việc ngƣời học tự rút kinh nghiệm
trong quá trình triển khai giải quyết vấn đề có liên quan đến thực tế, qua đó
tiếp thu kiến thức và kỹ năng mới, trau dồi những hiểu biết đã có mà không
phải kết quả cuối cùng của dự án. Với phƣơng pháp dạy học này, học sinh trở
thành trung tâm của quá trình dạy học, thầy cô có vai trò ngƣời tổ chức và


4
hƣớng dẫn. Sau tiền đề nghiên cứu của John Dewey, trong suốt thời gian dài,
dạy học theo dự án đã tạo nên sự vận động lớn trong nền giáo dục Mỹ. Các
nhà giáo dục đã có rất nhiều báo cáo chỉ ra những lợi ích của việc học dựa
trên kinh nghiệm, thực hành hƣớng vào ngƣời học.
Tiếp sau John DeWey, tiếp cận vấn đề dƣới quan điểm của một nhà tâm
lý học, nhà giáo dục William H.Kilpatric đã bổ sung vào hệ thống quan điểm
của John Dewey về dạy học theo dự án ở góc độ phƣơng pháp thực hành dự
án. Trong bài báo “Phương pháp dự án” (1925), ông đã chứng minh rằng học
sinh có thể dễ dàng bị thu hút bởi những hoạt động có mục đích đòi hỏi khả
năng tƣ duy và kỹ năng thực tế. Ông cũng đặc biệt nhấn mạnh dự án là một
hoạt động có mục đích cụ thể và diễn ra trong môi trƣờng học tập dân chủ,

khuyến khích sáng tạo của ngƣời học.
Ở châu Âu, nhà giáo dục ngƣời Pháp Celestin Freinet (1869-1966) là
ngƣời tiên phong trong việc nghiên cứu và thực hiện phƣơng pháp dạy học
theo dự án. Freinet cho rằng học sinh nên học từ các buổi thảo luận và dã
ngoại nhƣ một quá trình học tâp từ việc ―thử - sai‖. Lớp học khi đó không còn
là một lớp học khép kín mà là môi trƣờng diễn ra các hoạt động phức hợp:
nghiên cứu, điều tra, khảo sát ở những phạm vi, bối cảnh khác nhau. Những
khẳng định này là tiền đề đƣa đến yêu cầu học sinh phải đóng các vai xã hội
khác nhau để giải quyết các vấn đề có tính thực tế trong dạy học dự án.
Tại Việt Nam, dạy học dự án bƣớc đầu đƣợc giới thiệu một cách tổng
quan qua cuốn “Giáo dục học” (2002) của tác giả Phạm Viết Vƣợng. Với
những vấn đề lý luận vững chắc và cụ thể, tác giả đã khẳng định ƣu thế của
dạy học theo dự án nhƣ là một minh chứng cho việc cần có sự đổi mới, hƣớng
tới các phƣơng pháp dạy học hiện đại cho tƣơng lai.
Trong cuốn sách “Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục trung học
phổ thông môn Ngữ Văn”, tác giả Nguyễn Hải Châu đã có phần giới thiệu và
phân tích về dạy học theo dự án. Đây cũng là một dấu hiệu khẳng định quá
trình hoàn thiện hóa hệ thống lý luận về phƣơng pháp dạy học tích cực này.


5
Bên cạnh các công trình trên thì thành tựu nổi bật nhất trong việc
nghiên cứu ứng dụng dạy học theo dự án phải kể đến ―chƣơng trình dạy học
cho tƣơng lai‖ trong chƣơng trình giáo dục của tập đoàn Intel tại Việt Nam
với tập tài liệu “Teach to the Future” (dạy học cho tƣơng lai). Cuốn sách này
kèm theo đĩa CD chƣơng trình đƣợc coi là cẩm nang hỗ trợ, hƣớng dẫn cho
ngƣời dạy cách tiếp cận và tiến hành tổ chức dạy học theo dự án theo từng
giai đoạn cụ thể từ lập kế hoạch, xây dựng hồ sơ bài dạy, đánh giá dự án, các
mẫu sản phẩm dự án, cách sử dụng công nghệ thông tin và trang web học tập.
Ngoài các công trình nghiên cứu trên về dạy học dự án, còn có các bài

viết nghiên cứu trên các báo, tạp chí khoa học, giáo dục và các luận án xung
quanh vấn đề dạy học dự án. Tiểu biểu nhƣ các bài viết và nghiên cứu của các
tác giả Nguyễn Văn Cƣờng và Nguyễn Thị Diệu Thảo (2004), Đỗ Hƣơng Trà
(2007), Trần Thị Hoàng Yến (2010) đăng trên tạp chí giáo dục. Các bài viết
của các tác giả trên chủ yếu đi sâu vào tiến trình thực hiện dạy học theo dự án
thông qua việc ứng dụng trong một lĩnh vực hay một nội dung kiến thức cụ
thể của các bộ môn khoa học tự nhiên
Qua một số thống kê việc nghiên cứu và ứng dụng dạy học dự án, có
thể thấy rằng dạy học theo dự án không phải là xa lạ trong lĩnh vực giáo dục ở
nƣớc ta và trên thế giới. Tuy nhiên hầu hết các nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở
những vấn đề về mặt lí thuyết của dạy học dự án, chƣa cung cấp một sự hỗ trợ
thực sự đầy đủ để ngƣời dạy có thể dễ dàng triển khai áp dụng, nhất là trong
lĩnh vực khoa học xã hội, khi mà việc triển khai dạy học theo dự án còn nhiều
khó khăn. Việc hiểu rõ ràng và cụ thể về dạy học theo dự án, quy trình hóa
việc tổ chức dạy học theo dự án, đánh giá trong dạy học dự án vẫn còn là
những vấn đề còn cần đƣợc nghiên cứu thêm.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài luận văn này là xây dựng và đề xuất quy trình tổ
chức dạy học theo dự án trang bị cho giáo viên Ngữ văn vận dụng vào dạy
học văn học nƣớc ngoài lớp 11, góp phần đổi mới và nâng cao hiệu quả dạy
học môn học.


6
4. Đối tƣợng, khách thể nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Quá trình dạy học Ngữ văn lớp 11 ở trƣờng THPT.
- Đối tƣợng nghiên cứu: Khả năng vận dụng quy trình tổ chức dạy học theo dự
án cho dạy học Ngữ văn: phần văn học nƣớc ngoài lớp 11 (chƣơng trình nâng cao).
5. Giả thuyết nghiên cứu
Xây dựng và ứng dụng đƣợc quy trình tổ chức dạy học theo dự án phần

văn học nƣớc ngoài lớp 11 sẽ phát huy đƣợc vai trò tích cực, chủ động và
sáng tạo của học sinh, góp phần vào việc đổi mới phƣơng pháp dạy học, nâng
cao hiệu quả dạy học Ngữ văn.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu một số vấn đề lí luận, các quan điểm về dạy học dự án
- Khảo sát, phân tích, đánh giá thực tế dạy học phần văn học nƣớc
ngoài hiện nay, khả năng áp dụng dạy học theo dự án trong dạy học Ngữ văn
và dạy học văn học nƣớc ngoài lớp 11.
- Xây dựng quy trình tổ chức dạy học theo dự án cho phần văn học
nƣớc ngoài lớp 11:
+ Xây dựng cơ sở lí luận của việc áp dụng dạy học theo dự án vào dạy
học Ngữ văn nói chung và phần văn học nƣớc ngoài nói riêng.
+ Xây dựng đƣợc các bƣớc trong quy trình tổ chức dạy học theo dự án
cho dạy học phần văn học nƣớc ngoài lớp 11.
+ Vận dụng quy trình trên vào soạn giáo án giảng dạy.
- Tổ chức thực nghiệm sƣ phạm.
7. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: phần văn học nƣớc ngoài lớp 11, chƣơng trình
nâng cao.
- Phạm vi khảo sát: Một số trƣờng THPT ở Hà Nội, Thái Bình, Bắc
Ninh, Hải Phòng.
8. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu tài liệu: tham khảo tài liệu, sách, bài báo đề cập tới vấn đề
nghiên cứu.


7
- Phƣơng pháp quan sát: quan sát dự giờ, quan sát phƣơng pháp giảng
dạy các bài văn học nƣớc ngoài trong trƣờng THPT.
- Phƣơng pháp điều tra phỏng vấn: phỏng vấn giáo viên và học sinh để

thu thập ý kiến về việc sử dụng phƣơng pháp dạy học Ngữ văn hiện tại đang
đƣợc sử dụng.
- Phƣơng pháp thực nghiệm: xây dựng quy trình tổ chức dạy học theo
dự án và vận dụng soạn giáo án, thực nghiệm giảng dạy để kiểm tra tính khả
thi của phƣơng pháp dạy học cho phần kiến thức này.
- Phƣơng pháp xử lí thông tin, phân tích kết quả: xử lý thông tin thu
thập đƣợc và đƣa ra những đánh giá riêng.
9. Những đóng góp của luận văn
- Hệ thống hóa đƣợc một số vấn đề lí luận của dạy học theo dự án và làm
rõ đƣợc sự phù hợp của dạy học theo dự án khi áp dụng cho dạy học Ngữ văn ở
trƣờng THPT (phần văn học nƣớc ngoài chƣơng trình Ngữ văn 11 nâng cao).
- Xây dựng và đề xuất vận dụng quy trình dạy học theo dự án cho giáo viên
THPT trong dạy học phần văn học nƣớc ngoài lớp 11 chƣơng trình nâng cao.
10. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận văn có kết cấu gồm có 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Những vấn đề lí luận về dạy học dự án
Chƣơng 2: Khả năng vận dụng dạy học theo dự án trong dạy học văn
học nƣớc ngoài lớp 11 chƣơng trình nâng cao.
Chƣơng 3: Quy trình tổ chức dạy học theo dự án và thực nghiệm sƣ phạm


8
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ DẠY HỌC DỰ ÁN
1.1. Khái niệm dạy học dự án
Thuật ngữ dự án, tiếng Anh là project, có nguồn gốc từ tiếng La tinh và
ngày nay đƣợc hiểu theo nghĩa phổ thông là một đề án, một dự thảo hay một kế
hoạch trong đó đề án, dự thảo hay kế hoạch này cần đƣợc thực hiện nhằm đạt
mục đích đề ra. Khái niệm dự án đƣợc sử dụng phổ biến trong hầu hết các lĩnh
vực kinh tế - xã hội, trong sản xuất kinh doanh, trong nghiên cứu khoa học

cũng nhƣ trong quản lý xã hội. Khái niệm dự án đã đi từ lĩnh vực kinh tế - xã
hội vào lĩnh vực giáo dục đào tạo không chỉ với ý nghĩa là các dự án phát triển
giáo dục mà còn đƣợc sử dụng nhƣ một phƣơng pháp hay hình thức dạy học.
Khái niệm Project đƣợc sử dụng trong các trƣờng dạy kiến trúc xây
dựng ở Ý từ cuối thế kỷ XVI. Từ đó tƣ tƣởng dạy học theo dự án lan sang
Pháp cũng nhƣ một số nƣớc Châu Âu khác và Mỹ, trƣớc hết trong các trƣờng
đại học và chuyên nghiệp. Đầu thế kỷ XX, các nhà sƣ phạm Mỹ đã xây dựng
cơ sở lí luận cho phƣơng pháp dự án (the project method) và coi đó là phƣơng
pháp dạy học quan trọng nhất để thực hiện quan điểm dạy học lấy học sinh
làm trung tâm, nhằm khắc phục nhƣợc điểm của dạy học truyền thống coi
thầy giáo là trung tâm.
Phƣơng pháp dạy học dự án hƣớng học sinh đến việc tiếp thu kiến thức
và kỹ năng thông qua giải quyết một bài tập tình huống đƣợc gọi là một dự án
học tập. Dự án học tập này có thể là một vấn đề trong bài, một bài hoặc nhóm
bài học, trong đó các nhiệm vụ học tập đƣợc gắn với những vấn đề thực tiễn
quen thuộc hoặc ý nghĩa đối với ngƣời học. Ngƣời học sẽ lĩnh hội các kiến
thức, kỹ năng liên quan đến việc thực hiện dự án học tập, xây dựng các nhiệm
vụ thực, quan sát và giải quyết các vấn đề mang tính thực tiễn. Ngƣời dạy sẽ
gợi ý, cung cấp các nguồn thông tin cần thiết cho ngƣời học hoặc tham gia
một cách gián tiếp vào quá trình này thông qua việc định hƣớng, gợi ý vấn đề,
kích thích hứng thú…cho ngƣời học.


9
Ban đầu, phƣơng pháp dự án đƣợc sử dụng trong dạy học thực hành các
môn học kỹ thuật. Về sau, dạy học dự án đƣợc dùng trong hầu hết các môn
học khác, kể cả các môn khoa học xã hội. Sau một thời gian dài đƣợc sử
dụng, đến nay dạy học dự án đang là một trong những mô hình dạy học tích
cực đƣợc sử dụng phổ biến trong các trƣờng phổ thông và đại học trên thế
giới, đặc biệt ở các nƣớc phát triển. Ở nƣớc ta, các đề án môn học, đề án tốt

nghiệp từ lâu cũng đã đƣợc sử dụng trong đào tạo đại học, các hình thức này
gần gũi với dạy học theo dự án. Tuy vậy, trong lĩnh vực lý luận dạy học, dạy
học dự án chƣa đƣợc quan tâm thích đáng nên việc sử dụng chƣa đạt hiệu quả
cao. Nhìn chung, trong thời gian gần đây mới thực hiện ở các trƣờng đại học,
còn ít hoặc chƣa đƣợc áp dụng cho các trƣờng THPT.
Hiện nay, có nhiều quan điểm và định nghĩa khác nhau về dạy học theo
dự án (Project - based learning). Dạy học theo dự án đƣợc nhiều nhà nghiên
cứu, nhiều tác giả coi là một hình thức tổ chức dạy học vì khi thực hiện một
dự án, có nhiều phƣơng pháp dạy học cụ thể đƣợc sử dụng. Tuy nhiên, khi
không phân biệt giữa hình thức và phƣơng pháp dạy học ngƣời ta cũng gọi là
phƣơng pháp dạy học theo dự án (phƣơng pháp dạy học dự án). Khi đó cần
hiểu đó là phƣơng pháp dạy học theo nghĩa rộng, một cách tiếp cận dạy học,
một phƣơng pháp phức hợp, hay nói cách khác cần hiểu dạy học theo dự án là
một phƣơng pháp dạy học trong nhiều phƣơng pháp dạy học. Nhƣ vậy có thể
dùng hình thức tổ chức dạy học hoặc phƣơng pháp dạy học để gọi dạy học
theo dự án, tuy nhiên cần hiểu là phƣơng pháp theo nghĩa rộng nhƣ đã nêu.
Nhƣ vậy, dù cách gọi dạy học dự án là phƣơng pháp dạy học hay hình
thức tổ chức dạy học thì bản chất của dạy học dự án (hay còn gọi là dạy học
theo dự án) vẫn là sự chuyển đổi ngƣời học sang cơ chế tự định hƣớng cá
nhân trong hoạt động học tập, cộng tác, chuyển từ cách dạy ―thầy nói‖ trên
bục giảng sang hƣớng dẫn ―trò làm‖ nhiệm vụ thực (From sage on the stage
to guide on the side, Alison King, 1993).


10
Khi tổ chức dạy học theo dự án tức là học sinh thực hiện một nhiệm vụ
học tập phức hợp gắn với thực tiễn, kết hợp lý thuyết với thực hành; nhiệm vụ
học tập đƣợc học sinh thực hiện với tính tự lực cao trong toàn bộ quá trình
học tập từ việc xác định mục đích, lập kế hoạch đến việc thực hiện và kiểm
tra, điều chỉnh, đánh giá kết quả. Hình thức làm việc chủ yếu là theo nhóm và

hoạt động của cá nhân, kết quả dự án là các sản phẩm có thể giới thiệu nhƣ
các bài viết, tập tranh ảnh sƣu tầm, chƣơng trình hành động cụ thể, các trang
web, blog học tập, bài trình diễn…
1.2. Mục đích và đặc điểm của dạy học dự án
1.2.1. Mục đích của dạy học dự án
Mục đích của dạy học dự án là tạo mọi cơ hội, điều kiện và khả năng để
ngƣời học: chủ động lĩnh hội các kiến thức môn học từ nhiều nguồn khác
nhau một cách đa dạng và hứng thú nhất; học cách vận dụng các kiến thức lý
thuyết vào giải quyết các nhiệm vụ mang tính thực tiễn, khám phá, sáng tạo,
tăng khả năng giao tiếp, hình thành các kỹ năng sống, kỹ năng mềm, phát
triển năng lực tìm tòi, nghiên cứu khoa học, quan sát, thu thập và xử lý thông
tin, triển khai thử nghiệm…phát triển tƣ duy phê phán, tƣ duy hệ thống. Dạy
học dự án kết hợp nhiều chiến lƣợc dạy học và phong cách học khác nhau
nhằm làm tăng thêm kinh nghiệm học tập và sử dụng thời gian hiệu quả cho
ngƣời học.
1.2.2. Đặc điểm của dạy học dự án
Các nhà sƣ phạm Mỹ đầu thế kỷ XX khi xác lập cơ sở lý thuyết cho
dạy học dự án đã nêu ra 3 đặc điểm cốt lõi của mô hình dạy học này, đó là:
- Định hƣớng vào học sinh,
- Định hƣớng vào sản phẩm
- Định hƣớng vào thực tiễn [32].
Trên thực tế có rất nhiều kiểu dự án có thể tiến hành tổ chức trong quá
trình dạy học. Tuy đa dạng nhƣng tất cả các kiểu dạng dự án học tập đều


11
mang những đặc điểm của dạy học dự án. Có thể cụ thể hóa các đặc điểm của
dạy học dự án nhƣ sau:
- Tính thực tiễn:
Chủ đề của dự án xuất phát từ những tình huống của thực tiễn xã hội, thực

tiễn nghề nghiệp cũng nhƣ thực tiễn đời sống. Chẳng hạn nhƣ: vấn đề về môi
trƣờng, giao thông, văn hóa ứng xử trong xã hội…Những chủ đề đó gợi ra
những nhiệm vụ thực, yêu cầu học sinh phải đối mặt và giải quyết những nhiệm
vụ đó. Nhiệm vụ dự án chứa đựng những vấn đề phù hợp với trình độ và khả
năng của ngƣời học, do đó không chỉ dừng lại ở việc mô tả về mặt lý thuyết.
Dạy học dự án mang ý nghĩa thực tiễn xã hội. Các dự án học tập góp
phần gắn việc học tập trong nhà trƣờng với thực tiễn đời sống xã hội. Trong
những trƣờng hợp lý tƣởng việc thực hiện các dự án có thể mang lại những
tác động xã hội tích cực: tác động vào nhận thức của ngƣời học, hoặc kết quả
của dự án có khả năng ứng dụng và rất sát với thực tế diễn ra trong cuộc sống.
Ví dụ: dự án cải tạo hồ nƣớc của trƣờng, dự án làm sạch môi trƣờng
nƣớc nơi em ở… Với dự án nhƣ thế này học sinh sẽ đóng vai là những kỹ sƣ
xây dựng, kỹ sƣ môi trƣờng, khảo sát điều tra mức độ ô nhiễm của hồ nƣớc và
môi trƣờng khu phố, tìm hiểu nguyên nhân, đề xuất giải pháp, phƣơng án và
chi phí thực hiện…Trong thực tế dự án cải tạo hồ bơi đƣợc học sinh trƣờng
THCS Trần Văn Ơn (quận 1, thành phố Hồ Chí Minh) thực hiện ở môn Toán.
Học sinh đóng vai kỹ sƣ xây dựng, khảo sát thiết kế, đo đạc diện tích, tính
toán số lƣợng gạch, tìm hiểu chủng loại, giá thành…Kết quả hồ bơi đƣợc tính
toán cải tạo với giá 30 triệu đồng, gần tƣơng ứng với số kinh phí thật mà nhà
trƣờng phải bỏ ra nếu muốn cải tạo hồ bơi này (theo báo Thiếu niên tiền
phong, số ra ngày 5/9/2006).
- Tính tích hợp, liên môn:
Nội dung kiến thức trong dạy học dự án là nội dung mang tính liên
môn, tích hợp tri thức của nhiều lĩnh vực hoặc môn học khác nhau nhằm giải


12
quyết một vấn đề, một tình huống thực mang tính phức hợp. Nhiều nhiệm vụ
đƣợc đặt ra cùng lúc trong quá trình thực hiện một dự án.
Mặt khác, dạy học dự án cho phép áp dụng phức hợp tối đa các nhóm

phƣơng pháp và kỹ thuật dạy học khác nhau trong qua trình giáo viên tổ chức
dạy học. Đồng thời dạy học dự án cũng cho phép áp dụng và hiện thực hóa tối
đa những kiến thức nền vào các tình huống thực tế dạy học. Đó là sự tích hợp
kiến thức và phƣơng pháp dạy học trong dạy học sự án.
- Gắn lý thuyết với thực hành:
Trong quá trình thực hiện dự án có sự kết hợp giữa nghiên cứu lý
thuyết và vận dụng lý thuyết vào trong hoạt động thực tiễn, thực hành. Thông
qua đó, kiểm tra, củng cố và mở rộng hiểu biết lý thuyết cũng nhƣ rèn luyện
kỹ năng hành động, kinh nghiệm thực tiễn.
- Tính hành động và tự lực cao của người học:
Học tập dựa trên dự án là học tập trong hành động. Học sinh không còn
là đối tƣợng chứa đựng thông tin một cách bị động mà là ngƣời chủ động, tích
cực nắm bắt kiến thức bằng cách thực hành giải quyết các nhiệm vụ thực, các
vấn đề thực. Trong dạy học theo dự án, ngƣời học phải tham gia tích cực và tự
lực vào các giai đoạn của quá trình dạy học. Điều đó cũng đòi hỏi và khuyến
khích tính trách nhiệm, sự sáng tạo của ngƣời học. Thầy cô giáo chỉ đóng vai
trò tƣ vấn, hƣớng dẫn, giúp đỡ.
Ví dụ: Khi học bài ―Viết quảng cáo‖ (SGK Ngữ Văn 10), thay vì đọc và
nhắc lại nội dung kiến thức trong sách, học sinh sẽ dựa trên những kiến thức
trong sách và thiết kế nội dung quảng cáo phù hợp với một loại hình quảng
cáo nhất định cho một sản phẩm nào đó, giới thiệu sản phẩm với khách hàng
để thăm dò phản ứng. Qua thực hiện các hoạt động học tập từ thực tế đó, học
sinh sẽ rút ra đƣợc những kinh nghiệm về cách tạo lập văn bản quảng cáo.
- Hướng tới sự cộng tác làm việc:
Do các nhiệm vụ đặt ra trong dạy học theo dự án tƣơng đối phức tạp
nên nó đòi hỏi phải có sự cộng tác chặt chẽ, liên tục trong quá trình làm việc.


13
Các dự án học tập thƣờng đƣợc thực hiện theo nhóm, trong đó có sự phân

công công việc giữa các thành viên trong nhóm. Dạy học dự án đòi hỏi và rèn
luyện tính sẵn sàng và kỹ năng cộng tác làm việc giữa các thành viên tham
gia, giữa giáo viên và học sinh…Sự cộng tác này có thể có ở nhiều mức độ,
quy mô và đối tƣợng khác nhau, giữa những ngƣời cùng tham gia dự án hoặc
hỗ trợ dự án:
+ Cộng tác giữa giáo viên và học sinh: Giáo viên hƣớng dẫn, tƣ vấn,
nhận xét quá trình làm việc đề học sinh có sự điều chỉnh kịp thời. Học sinh
thƣờng xuyên phản hồi thông tin cho giáo viên, thông báo tiến độ thực hiện
dự án học tập, và có thể đề xuất thêm những ý tƣởng mới.
+ Cộng tác giữa học sinh và học sinh: Đây là sự cộng tác phổ biến nhất
hiện nay, bởi việc tổ chức dạy học dự án thƣờng phân chia nhiệm vụ học tập
theo nhóm và việc hoàn thành các nhiệm vụ của dự án vì thế cũng thƣờng
đƣợc tiến hành theo nhóm. Kỹ năng làm việc nhóm cũng là một tiêu chí đánh
giá học sinh trong quá trình dạy học dự án.
+ Cộng tác giữa các lực lƣợng xã hội khác cùng tham gia dự án, ví dụ
nhƣ các bậc phụ huynh, các nhà tài trợ xã hội…
Đặc điểm này của dạy học dự án khiến cho dạy học dự án đƣợc gọi là
hình thức học tập mang tính xã hội.
- Định hướng sản phẩm dựa trên việc xác định chuẩn:
Trong dạy học dự án, các sản phẩm đƣợc tạo ra trong quá trình thực
hiện dự án. Các sản phẩm không giới hạn trong những thu hoạch lí thuyết mà
đa số trƣờng hợp sản phẩm của các dự án học tập là những sản phẩm vật chất
của hoạt động thực tiễn, thực hành. Những sản phẩm này có thể sử dụng, công
bố, hoặc giới thiệu.
Việc xác định sản phẩm của dự án đƣợc dựa trên căn cứ đƣợc gọi là
chuẩn. Dạy học dự án là dạy học hƣớng đến chuẩn và khi áp dụng tổ chức dạy
học dự án, ngƣời dạy cần xác định: chúng ta muốn học sinh biết đƣợc những
gì và học/làm đƣợc những gì? Việc giáo viên trả lời câu hỏi đó chính là việc



14
xác định chuẩn - đó là căn cứ để đánh giá mức độ hoàn thành sản phẩm của
học sinh.
Kết quả sản phẩm của dạy học theo dự án bao giờ cũng là một sản
phẩm có ý nghĩa tƣơng đối với ngƣời học, có thể sử dụng (căn cứ tùy theo
mức độ ứng dụng thực tế của sản phẩm), công bố - giới thiệu nhƣ các vật
phẩm, các bản dự thảo, thiết kế, các ấn phẩm điện tử…Việc đánh giá mức độ
đạt chuẩn của ngƣời học chính là dựa trên mức độ hoàn thành sản phẩm của
họ bao gồm quá trình thực hiện sản phẩm, cách trình bày, giới thiệu sản phẩm
và chất lƣợng sản phẩm. Do vậy, khi bắt đầu triển khai một dự án học tập cho
học sinh cần phải có định hƣớng về sản phẩm một cách rõ ràng.
- Hướng đến người học:
Trong dạy học dự án học sinh là trung tâm việc học của bản thân họ.
Học sinh tham gia hoàn toàn tích cực, tự lực và chủ động vào tất cả các giai
đoạn của việc thực hiện dự án học tập nhƣ: tự xây dựng mục tiêu, nhiệm vụ,
lập kế hoạch, thực hiện dự án, hoàn thành sản phẩm cuối, báo cáo kết quả dự
án…Giáo viên chỉ là ngƣời tƣ vấn, hỗ trợ và định hƣớng, không phải là ngƣời
điều khiển, làm trung tâm của toàn bộ quá trình dạy học.
Sự phát triển trong tƣ duy và năng lực hành động của học sinh đƣợc ƣu
tiên hàng đầu trong dạy học dự án. Quá trình dạy học đƣợc thiết kế không theo
logic nội dung môn học mà theo logic hoạt động có tính đến yếu tố cá nhân
(năng lực, trình độ, khả năng thích ứng với các ―vai xã hội‖…) nhằm kích thích
động cơ, sự quan tâm, hứng thú của ngƣời học. Tùy vào từng đối tƣợng ngƣời
học mà mức độ yêu cầu cũng nhƣ tính chất các nhiệm vụ học tập có sự điều
chỉnh phù hợp, tƣơng ứng. Quá trình lĩnh hội kiến thức cũng đƣợc diễn ra một
cách tự nhiên, đa dạng, phong phú, có tính đến đặc điểm cá nhân ngƣời học,
mang tính liên ngành, xác thực và thách thức cao đối với ngƣời học. Tốc độ
thực hiện công việc và nhiệm vụ học tập không đồng nhất, phản ánh rõ nét
mức độ phát triển của từng cá nhân ngƣời học



15
- Dạy học dự án yêu cầu áp dụng đánh giá thực và toàn diện trên cơ sở
sự thể hiện của ngƣời học trong suốt quá trình thực hiện dự án học tập.
Nhƣ vậy, dạy học theo dự án có những đặc điểm riêng của nó, khi triển
khai chúng ta nên chú ý đến những đặc điểm đó để thu đƣợc hiệu quả trong
quá trình áp dụng và thực hiện.
1.3. Các dạng của dạy học dự án
Dạy học dự án có thể phân loại theo nhiều phƣơng diện khác nhau. Có
thể dựa trên một số tiêu chí chung để phân chia các dự án học tập nhƣ:
- Theo chuyên môn
- Theo lĩnh vực, chủ đề, chủ điểm
- Theo quy mô tổ chức hoạt động
- Theo thời gian thực hiện
- Theo số lƣợng ngƣời tham gia
Dƣới đây là một số cách phân loại dạy học theo dự án:
 Phân loại theo chuyên môn
- Dự án trong một môn học: trọng tâm nội dung nằm trong một môn học.
- Dự án liên môn: trọng tâm nội dung nằm trong nhiều môn khác nhau.
- Dự án ngoài chuyên môn: là các dự án không phụ thuộc trực tiếp vào
các môn học.
 Căn cứ vào hoạt động chính của người học, Collins (1989) chia dự
án học tập thành:
- Dự án kiểu trò chơi
- Dự án đóng vai
- Dự án tham quan, dã ngoại
- Dự án mô tả (thuyết trình, nói chuyện chuyên đề, sinh hoạt chủ đề)
- Dự án kiến tạo (ý tƣởng thực hiện hoạt động tạo ra một sản phẩm cụ thể).
 Căn cứ vào hình thức, quy mô tổ chức thực hiện có thể phân loại:




16
- Theo sự tham gia của người học:
+ Dự án theo nhóm
+ Dự án cá nhân
+ Dự án trong nội bộ lớp học
+ Dự án liên kết giữa các lớp, trƣờng…
Trong đó dự án dành cho nhóm học sinh là hình thức dự án dạy học chủ
yếu. Trong trƣờng phổ thông còn có dự án học tập dành cho một khối lớp, dự
án toàn trƣờng…
- Theo quỹ thời gian thực hiện, K. Frey đề nghị cách phân chia như sau:
+ Dự án nhỏ: thực hiện trong một số giờ học, có thể từ 2 đến 6 giờ học.
Dự án kiểu này còn đƣợc gọi là dự án ngắn hạn.
+ Dự án trung bình: dự án học tập thực hiện trong một hoặc một số
ngày, giới hạn là 1 tuần hoặc 40 giờ học.
+ Dự án lớn: dự án học tập thực hiện với quỹ thời gian lớn, tối thiểu là
1 tuần (hoặc 40 giờ học), có thể kéo dài nhiều tuần (cả học kì, năm học).
Cách phân chia này thƣờng áp dụng ở trƣờng phổ thông. Trong đào tạo
ở các trƣờng đại học thì thƣờng có thể quy định quỹ thời gian lớn hơn.
 Dựa theo nhiệm vụ trọng tâm của dự án có thể chia thành các dạng
dự án như sau:
- Dự án tìm hiểu là dự án khảo sát thực trạng đối tƣợng.
- Dự án nghiên cứu là dự án nhằm giải quyết các vấn đề, giải thích các
hiện tƣợng, quá trình.
- Dự án thực hành có thể gọi là dự án sáng tạo sản phẩm. Trọng tâm là việc
tạo ra các sản phẩm vật chất hoặc thực hiện một kế hoạch hành động thực tiễn.
- Dự án hỗn hợp là dạng dự án có nội dung kết hợp các dạng dự án nêu trên.
Các loại dự án trên không hoàn toàn tách biệt với nhau, sự phân chia
chỉ là tƣơng đối, giúp có cái nhìn cụ thể về dạy học theo dự án. Trong từng

lĩnh vực chuyên môn có thể phân loại các dạng dự án học tập theo đặc thù


17
riêng. Các loại dự án sử dụng trong dạy học thƣờng là dự án nghiên cứu sâu
về các chủ đề thực tế và các vấn đề mà học sinh muốn tìm hiểu. Các dự án sẽ
kết hợp đƣợc các yếu tố nhƣ hoạt động đóng vai một cách sáng tạo nhất, thiết
kế, công nghệ, cộng đồng với các chủ đề đa dạng trong chƣơng trình nhằm
giúp học sinh tìm hiểu về nội dung và thể hiện đƣợc những điều mà các em
biết. Dƣới đây là một số ví dụ về ý tƣởng dự án:
- Học thông qua việc phục vụ cộng đồng: Những dự án này thƣờng gắn
với cộng đồng địa phƣơng và cho phép học sinh áp dụng bài học trong lớp
học vào tình huống thực tế. Chẳng hạn dự án xây dựng kế hoạch xử lý nƣớc
để làm sạch nƣớc ở khu vực các giếng nƣớc ở địa phƣơng em.
- Mô phỏng - đóng vai: Những dự án này thiết kế nhằm cung cấp cho
học sinh một kinh nghiệm thực tế đầu tay. Học sinh sẽ vào vai một ngƣời khác,
sống trong một tình huống mô phỏng tái tạo lại thời gian và không gian nhất
định. Mô phỏng đóng vai là cách hữu hiệu để phản ánh lịch sử, mang lại hiệu
quả tạo sự thấu cảm tốt. Chẳng hạn nhƣ dự án đóng vai ngƣời phát ngôn giới
thiệu về đất nƣớc bạn với chủ đề: điểm đến Việt Nam - tƣơng lai và hy vọng.
- Xây dựng, thiết kế: Những dự án này dựa trên nhu cầu thực tế, đòi hỏi
học sinh phải xây dựng đƣợc mô hình thực sự hay lập kế hoạch đề xuất giải
pháp cho các vấn đề thực tế. Chẳng hạn: xây dựng kế hoạch và thực hiện điều
chế axit sunfuric.
- Giải quyết vấn đề: Các dự án giải quyết vấn đề có thể gồm các chuỗi
sự kiện đáng tin cậy hay những vấn đề đang tranh cãi trên thực tế. Có thể là
những vấn đề của lớp học hay nhà trƣờng, vấn đề của cộng đồng nhƣ ô nhiễm
môi trƣờng, nguồn nƣớc…Học sinh sẽ đƣợc yêu cầu đề xuất giải pháp cho
các vấn đề thực tế bằng một kế hoạch.
- Hợp tác trực tuyến: Những dự án này là các nhiệm vụ giáo dục thực

hiện trực tuyến. Các dự án cung cấp kinh nghiệm học tập thực tế khi hợp tác
trực tuyến. Các dự án cung cấp kinh nghiệm học tập thực tế khi hợp tác trực
tuyến với các lớp khác, với các chuyên gia hay với mọi ngƣời.


18
- Tra cứu web: Đây là các hoạt động yêu cầu định hƣớng trong đó một số
hay tất cả các thông tin mà ngƣời học sử dụng đƣợc lấy từ nguồn internet. Các
dự án này đƣợc thiết kế nhằm nhắm đến việc lĩnh hội và tích hợp kiến thức.
Mặc dù dạy học dự án có nhiều hình thức nhƣng cho dù là dƣới hình thức nào
thì khi giáo viên xây dựng dự án học tập cũng cần chú ý đến những yêu cầu sau:
- Mục tiêu dự án rõ ràng: mục tiêu nhận thức, mục tiêu kỹ năng hành
động, tổ chức, triển khai…
- Lựa chọn nội dung môn học phù hợp với các hoạt động dự án (tính
mở, tính liên ngành, tạo điều kiện hợp tác sử dụng công nghệ, các phƣơng
pháp nghiên cứu đa dạng…)
- Mô tả rõ ràng các sản phẩm
- Kế hoạch chi tiết, nhiệm vụ tƣờng minh, cụ thể.
- Thiết kế các hoạt động trình bày, đánh giá sản phẩm.
1.4. Tiến trình dạy học dự án và các hoạt động tƣơng ứng của thầy - trò
1.4.1. Tiến trình dạy học dự án
Trong thực tế có rất nhiều kiểu dự án học tập dựa trên những tiêu chí phân
loại khác nhau, xong đều có những đặc điểm chung của dạy học dự án và đều
trải qua một tiến trình thực hiện về cơ bản là giống nhau. Có nhiều quan điểm về
cách phân chia các giai đoạn trong tiến trình dạy học theo dự án, nhƣng hầu hết
các nhà giáo dục đều thống nhất với cách phân chia thành 5 giai đoạn.
 Giai đoạn 1: Xây dựng tiền đề dự án
Xây dựng tiền đề cho dự án cần tiến hành qua các bƣớc cụ thể sau:
- Chọn chủ đề (tên, đề tài) dự án
Việc lựa đề tài, chủ đề cho dự án đƣợc coi là bƣớc phát triển ý tƣởng

đầu tiên cho ngƣời học trong quá trình dạy học theo dự án. Có hai cơ sở để
xác định tên đề tài, chủ đề của dự án, đó là:
Thứ nhất, căn cứ vào việc phân tích nội dung chƣơng trình môn học, khả
năng kết hợp nội dung các bài học trong bộ môn đó hoặc với các bộ môn khác.


19
Thứ hai, căn cứ vào các vấn đề thực tiễn đang đƣợc xã hội quan tâm, có
khả năng trở thành một tình huống cho học sinh giải quyết (còn gọi là mô
phỏng tình huống thực).
Tính tích cực chủ thể của ngƣời học cũng đƣợc thể hiện rõ trong bƣớc
lựa chọn tên chủ đề, đề tài dự án. Trên thực tế, việc lựa chọn tên đề tài, chủ đề
của dự án có thể tiến hành với sự tham gia của ngƣời dạy và ngƣời học ở
những mức độ khác nhau:
+ Giáo viên lựa chọn chủ đề, đề tài, giới thiệu và yêu cầu học sinh thực
hiện nhƣ là một bài tập với hình thức mới.
+ Giáo viên và học sinh cùng thảo luận để đi đến việc thống nhất tên đề
tài, chủ đề của dự án. Ý tƣởng của học sinh là cơ bản, giáo viên chỉ đóng vai
trò là ngƣời phân tích, đóng góp, điều chỉnh cho phù hợp hơn.
+ Học sinh chủ động đề xuất tên đề tài, chủ đề dự án và thuyết phục
giáo viên ủng hộ việc thực hiện dự án đó.
Một dự án học tập đƣợc coi là lý tƣởng khi phát huy tối đa vai trò chủ
động, tích cực của học sinh (học sinh chủ động đề xuất chủ đề dự án). Tuy
nhiên trên thực tế, việc triển khai dạy học dự án vẫn còn gặp khá nhiều khó
khăn và thách thức. Theo quan sát thì hiện nay hình thức giáo viên và học
sinh cùng thảo luận, lựa chọn ý tƣởng dự án là phổ biến nhất. Khi lựa chọn đề
tài, chủ đề dự án cần chú ý đến hứng thú của ngƣời học cũng nhƣ ý nghĩa xã
hội của đề tài.
- Xác định sản phẩm cuối:
Sản phẩm cuối của dạy học dự án không chỉ là những sản phẩm thuần túy

về mặt vật chất mà là tất cả những gì thu đƣợc, tạo nên sự thay đổi về chất ở
ngƣời học. Sau quá trình học tập, học sinh không chỉ lĩnh hội đƣợc kiến thức,
không chỉ tạo ra đƣợc những thành phẩm có giá trị xác thực nhƣ: bài báo, một
website, một video, tranh ảnh…mà còn tích lũy đƣợc những kỹ năng nhất định,
cần thiết cho việc học tập cũng nhƣ cho sự phát triển bản thân trong tƣơng lai.


20
Việc xác định sản phẩm cuối là một chiến lƣợc đƣợc gọi là ―quy trình
ngƣợc‖, lấy xuất phát điểm là kết quả đầu ra để định hƣớng cho việc xây dựng
nhiệm vụ và triển khai nhiệm vụ của dự án tiếp theo. Các kết quả mà ngƣời
dạy và ngƣời học phải tính đến đó là:
- Các chuẩn kiến thức mà ngƣời học cần đạt đƣợc sau khi học tập theo
dự án.
- Các chuẩn kỹ năng mà ngƣời học đƣợc rèn luyện trong quá trình học
tập dự án.
- Những sản phẩm làm minh chứng thực tế cho việc tích lũy các chuẩn
kiến thức và kỹ năng nói trên.
Để thực hiện bƣớc xác định sản phẩm cuối này, học sinh cần phải tiến
hành hoạt động thảo luận, dựa trên sự định hƣớng và hỗ trợ của giáo viên để
đƣa ra kết quả cuối cùng.
- Lập kế hoạch dự án
Dạy học theo dựa án đòi hỏi có sự chuẩn bị và lên kế hoạch chu đáo.
Đây chính là bƣớc cụ thể hóa các nhiệm vụ cần thực hiện để hoàn thành sản
phẩm cuối nhƣ yêu cầu đã xác định. Khi xây dựng kế hoạch dự án, cả giáo
viên và học sinh phải tham gia thảo luận, đi tới thống nhất về các công việc
cần làm, phƣơng pháp thực hiện, phƣơng tiện thực hiện, dự trù thời gian, dự
kiến các nguồn kinh phí (nếu có), nguồn lực…
Trong quá trình lập kế hoạch dự án, giáo viên sẽ phải chú ý đến việc
lâp kế hoạch đánh giá dự án. Đây chính là căn cứ khách quan, công khai,

đƣợc thống nhất và tuyên bố ngay từ đầu quá trình học tập giúp học sinh xác
định đƣợc động cơ và phƣơng hƣớng học tập cho bản thân. Giáo viên sẽ viết
một bản kế hoạch đánh giá chi tiết và công bố cho tất cả ngƣời học. Đồng thời
giáo viên cũng phải chuẩn bị một phiếu tự đánh giá để giúp học sinh có thể tự
đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ dự án học tập của mình. Mỗi nhóm học
sinh sẽ phải lập kế hoạch thực hiện nhiệm vụ học tập và giáo viên cũng cần


21
đánh giá kỹ năng lập kế hoạch của học sinh vì đây là một kỹ năng quan trọng
và cần thiết đối các em.
- Lựa chọn nguồn tài nguyên cho dự án
Ngay từ khi bắt đầu dự án, để triển khai đƣợc dự án thuận lợi và hiệu
quả học sinh cần xây dựng đƣợc cho mình nguồn tài nguyên nhất định. Nguồn
tài nguyên này bao gồm các tƣ liệu về kiến thức, các thông tin liên quan, các
công cụ hỗ trợ thực hiện dự án cả dạng tƣ liệu và dạng điện tử (nếu
có)…Công việc này đòi hỏi học sinh phải tiến hành khoa học và có chiến lƣợc
phù hợp. Tìm kiếm, thu thập, hệ thống hóa các dạng tài nguyên là hoạt động
chính của học sinh trong bƣớc chuẩn bị thực hiện dự án. Khi đó, vai trò của
giáo viên chỉ là tham vấn, hỗ trợ, bổ sung khi cần thiết.
Tuy nhiên, cũng cần xác định là nguồn tài nguyên đƣợc xây dựng và
lựa chọn trong giai đoạn tiền đề của dự án mới chỉ mang tính chất định
hƣớng, là những nguồn tƣ liệu đầu tiên. Trong quá trình triển khai dự án, học
sinh sẽ bổ sung, mở rộng và đa dạng hóa các nguồn tài nguyên đó.
- Tạo nhóm làm việc
Trong dạy học dự án, làm việc theo nhóm là một trong những hình thức hoạt
động chủ yếu của học sinh. Tùy vào tình hình thực tế mà giáo viên sẽ lựa chọn và
áp dụng một số cách dƣới đây để chia nhóm làm việc cho học sinh. Cụ thể:
- Chia nhóm theo một số trật tự đã đƣợc quy định nhƣ: dựa vào thứ tự
danh sách lớp hoặc vị trí chỗ ngồi trong lớp học, giáo viên chia lớp thành từng

nhóm theo số lƣợng thành viên đã ấn định.
- Chia nhóm dựa trên năng lực ngƣời học: Cách chia nhóm này giáo
viên dựa trên cơ sở phiếu điều tra về năng lực của học sinh và tiến hành phân
loại, sắp xếp các nhóm sao cho đảm bảo sự đồng đều tƣơng đối về năng lực
học tập giữa các nhóm.
- Chia nhóm theo nhu cầu của học sinh: Ở cách chia này học sinh chủ
động thƣơng lƣợng và thống nhất về số lƣợng thành viên nhóm.


22
Thực tế, không có cách phân nhóm nào đạt đến hiệu quả tối ƣu, vừa
đảm bảo tính khách quan, công bằng, vừa đảm bảo phát huy năng lực và sở
trƣờng của từng cá nhân trong quá trình học tập. Tuy nhiên, mục đích cao
nhất của việc tạo nhóm vẫn là rèn luyện kỹ năng cộng tác cho học sinh có thể
làm việc trong bất kì môi trƣờng tập thể nào, trong học tập cũng nhƣ trong đời
sống xã hội sau khi trƣởng thành. Tổ chức cho học sinh hoạt động theo nhóm
là một trong những ƣu điểm nổi bật của dạy học dự án.
 Giai đoạn 2: Triển khai dự án
Giai đoạn này là giai đoạn hiện thực hóa ý tƣởng của dự án bằng những
hoạt động cụ thể của học sinh nhằm hoàn thành nhiệm vụ học tập, tạo ra sản
phẩm cuối cùng. Các nhóm phân chia công việc cho từng thành viên và các
thành viên sẽ thực hiện nhiệm vụ của mình theo kế hoạch đã đề ra cho nhóm
và cá nhân. Bao gồm các hoạt động sau:
- Tiếp tục tìm kiếm thông tin, xây dựng tài nguyên cho dự án
- Thảo luận cách thức triển khai nhiệm vụ dự án
- Thực hiện các vai dự án theo yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra
- Tiến hành thực hiện các nhiệm vụ theo sự phân công
- Điều chỉnh những công đoạn, các khâu chƣa hợp lý
- Hoàn thành các sản phẩm và thảo luận để quyết định cách tạo ra sản
phẩm cuối.

Đồng hành với học sinh trong quá trình hoạt động triển khai dự án là
vai trò điều phối, tƣ vấn, hỗ trợ, kiểm tra đánh giá, khuyến khích và thúc đẩy
các hoạt động từ phía giáo viên. Và cũng chính trong giai đoạn này giáo viên
bắt đầu triển khai việc đánh giá học sinh thông qua theo dõi, quan sát hoạt
động của các cá nhân, các nhóm.
 Giai đoạn 3: Hoàn thiện sản phẩm cuối
Đây đƣợc xem là giai đoạn để các nhóm hoàn thành nốt công việc của
mình. Trong quá trình làm việc học sinh thƣờng xuyên duy trì phản hồi, báo


23
cáo tiến độ công việc với giáo viên. Thông qua đó, giáo viên sẽ cung cấp
những thông tin mang tính chất định hƣớng, tƣ vấn hợp lý, giúp học sinh có
thể điều chỉnh cách thức làm việc hay suy nghĩ thêm ý tƣởng để hoàn thành
sản phẩm cuối tốt hơn. Giai đoạn này vẫn tiếp tục duy trì các hoạt động chính
của học sinh và giáo viên nhƣ trong giai đoạn trƣớc, nhƣng việc đánh giá của
giáo viên từ bên ngoài và đánh giá trong nội bộ nhóm học sinh đƣợc chú ý
đẩy mạnh hơn.
 Giai đoạn 4: Trình bày sản phẩm
Bên cạnh quá trình nỗ lực tạo ra sản phẩm, chất lƣợng sản phẩm còn
phụ thuộc vào việc trình bày sản phẩm đó một cách hấp dẫn và thuyết phục.
Việc trình bày sản phẩm này cũng góp phần rèn cho học sinh kỹ năng trình
bày vấn đề trƣớc đám đông (kỹ năng thuyết trình). Trong nhiều dự án, các sản
phẩm vật chất đƣợc tạo ra qua hoạt động thực hành, tuy nhiên sản phẩm của
dự án cũng có thể là những hoạt động phi vật chất nhƣ một vở kịch, bản báo
cáo (nghiên cứu lịch sử, khoa học, các bài báo…), thiết kế xây dựng (bài mẫu,
mô hình, triển lãm, giới thiệu…), bài luận cá nhân/nhóm (bài thuyết trình),
bản thiết kế…hay tổ chức một hoạt động nhằm tạo ra các tác động xã
hội…Sản phẩm của dự án có thể đƣợc trình bày giữa các nhóm trong lớp học,
có thể đƣợc giới thiệu trong nhà trƣờng hay ngoài xã hội tùy theo quy mô và

mục đích của sản phẩm, yêu cầu của dự án học tập.
Ở giai đoạn này học sinh vẫn giữ vai trò chủ động, là ngƣời quyết định
sự thành công của sản phẩm do chính các em tạo ra. Giáo viên sẽ đóng vai trò
là quan sát viên, ban giám khảo chính, ngƣời điều khiển và tổ chức quá trình
thực hiện.
 Giai đoạn 5: Đánh giá, phản hồi
Đánh giá đƣợc coi là một trong những khâu quan trọng và thể hiện tính
đổi mới rõ rệt nhất trong dạy học dự án: đổi từ hình thức đánh giá truyền
thống (qua bài kiểm tra viết trên giấy) sang đánh giá thực (đánh giá sự thực


24
hiện). Kết quả đánh giá không chỉ căn cứ vào việc đánh giá phần trình bày sản
phẩm của học sinh theo nhóm mà phải là sự tổng hợp của việc đánh giá
thƣờng xuyên suốt quá trình dạy học và đƣợc đánh giá bởi nhiều đối tƣợng
khác nhau:
- Học sinh chủ động nhận xét, đánh giá về năng lực học tập của mình.
- Các thành viên trong nhóm nhận xét, đánh giá lẫn nhau dựa trên tinh
thần làm việc và việc thực thi các nhiệm vụ nhóm phân công.
- Giáo viên nhận xét, đánh giá dựa trên những quan sát ghi chép đƣợc
trong quá trình làm việc của học sinh. Giáo viên chính là ngƣời tổng hợp kết
quả đánh giá cuối cùng về học sinh.
Việc đánh giá sẽ đƣợc căn cứ vào những tiêu chí đã thống nhất và công
bố ngay từ đầu dự án. Đây chính là điểm khác biệt giữa dạy học theo dự án và
dạy học truyền thống.
Ngoài việc đánh giá thì quá trình dạy học còn đƣợc mở rộng hơn ở việc
tìm kiếm thông tin phản hồi: học sinh chia sẻ những thông tin nhận xét về
việc triển khai dự án, tự đúc kết những tri thức, kinh nghiệm trƣớc và sau quá
trình học tập, đƣa ra những đề xuất và kiến nghị, những điều chỉnh…
Khâu phản hồi đƣợc đƣợc coi là một trong những điểm khác biệt của

dạy học dự án, giúp phát huy tính tích cực, chủ động của ngƣời học không chỉ
trong việc thực hiện các nhiệm vụ dự án mà còn ở việc đánh giá, điều chỉnh
các nhiệm vụ đó để phù hợp với nhu cầu học tập của bản thân.
Có thể hình dung các giai đoạn trong tiến trình dạy học theo dự án bằng
bảng khái quát sau:

×