Tải bản đầy đủ (.pdf) (163 trang)

Tổ chức dạy học theo dự án một số kiến thức thuộc phần từ trường và cảm ứng điện từ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.82 MB, 163 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
_______________



Nguyễn Thanh Nga



TỔ CHỨC DẠY HỌC THEO DỰ ÁN MỘT SỐ KIẾN THỨC
THUỘC PHẦN “TỪ TRƯỜNG VÀ CẢM ỨNG ĐIỆN TỪ”
– HỌC PHẦN ĐIỆN VÀ TỪ ĐẠI CƯƠNG CHO SINH VIÊN
NGÀNH KỸ THUẬT TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIAO THÔNG





LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC





Thành phố Hồ Chí Minh – 2009
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
_______________



Nguyễn Thanh Nga


TỔ CHỨC DẠY HỌC THEO DỰ ÁN MỘT SỐ KIẾN THỨC
THUỘC PHẦN “TỪ TRƯỜNG VÀ CẢM ỨNG ĐIỆN TỪ”
– HỌC PHẦN ĐIỆN VÀ TỪ ĐẠI CƯƠNG CHO SINH VIÊN
NGÀNH KỸ THUẬT TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIAO THÔNG


Chuyên ngành : Lý luận và phương pháp dạy học môn Vật lý
Mã số : 60 14 10


LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. ĐỖ HƯƠNG TRÀ


Thành phố Hồ Chí Minh – 2009



LỜI CẢM ƠN

Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Đỗ Hương Trà,
người đã tận tình hướng dẫn, động viên, giúp đỡ tác giả trong suốt thời gian
nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tác giả luận văn xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, Phòng Sau đại

học, Ban Chủ nhiệm khoa Vật lý Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí
Minh, Ban Giám đốc trường Đại học giao thông vận tải – cơ sở 2 đã tạo điều
kiện thuận lợi cho tác giả trong suốt quá trình
học tập và thực hiện đề tài.
Cuối cùng, xin bày tỏ lòng biết ơn đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, thầy cô
và các học viên cao học cùng lớp đã động viên, giúp đỡ tác giả trong thời gian
nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.


Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 08 năm 2009
Tác giả





MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Trong thời đại ngày nay, thế giới đang bước vào một kỷ nguyên mới với sự
phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật hiện đại, những thành tựu của nó gần
như được áp dụng ngay lập tức vào tất cả các lĩnh vực, là động lực thúc đẩy sự phát
triển mạnh mẽ về mọi mặt của đời sống xã hội. Để đáp
ứng yêu cầu phát triển ngày
càng cao của xã hội, đòi hỏi con người không ngừng học hỏi, nâng cao tri thức và
kỹ năng của mình. Sứ mệnh đó đã đặt lên vai ngành giáo dục một trọng trách lớn
lao: đào tạo con người đáp ứng yêu cầu xã hội ngày càng phát triển.
Giáo dục hiện đại đang đứng trước yêu cầu và thách thức lớn lao của xã hội
hiện đại. Trong trường đại học, việc học tập của sinh viên không thể là thụ động
tiếp thu bài

giảng của giảng viên mà phải là sự tham gia tích cực vào các hoạt động
học tập, độc lập sáng tạo, tích cực tham gia các hoạt động tập thể để có thể tham gia
vào các hoạt động sản xuất và xã hội sau này. Việc dạy của giảng viên không chỉ là
cung cấp kiến thức, mà phải tạo cho sinh viên có cơ hội tham gia khám phá thế giới
thực, phân tích và giải quyết vấn đề. Kết quả cần rèn luyện cho sinh viên l
à tính
năng động cá nhân, tư duy sáng tạo, năng lực thực hành giỏi, khả năng hợp tác, khả
năng giải quyết các vấn đề mà thực tiễn đặt ra.
Thời gian qua, giáo dục nước ta đã và đang thực hiện những thay đổi trong
toàn bộ quá trình dạy học: mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện, tổ chức
thực hiện, đánh giá. V
iệc đổi mới phương pháp nhằm phát triển con người toàn diện
hơn, đáp ứng cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hoà nhập vào
sự tiến bộ chung của khu vực và trên thế giới. Điều đó đã được khẳng định trong
luật giáo dục, điều 28.2 Luật giáo dục ghi rõ: “…Phương pháp giáo dục phổ thông
phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với
đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm
việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến
tình cảm, đem lại niềm
vui, hứng thú học tập cho học sinh”[9]; đối với giáo dục đại



học, điều 40.2 ghi rõ: “...Phương pháp đào tạo trình độ cao đẳng, trình độ đại học
phải coi trọng việc bồi dưỡng ý thức tự giác trong học tập, năng lực tự học, tự
nghiên cứu, phát triển tư duy sáng tạo, rèn luyện kỹ năng thực hành, tạo điều kiện
cho người học tham gia nghiên cứu, thực nghiệm, ứng dụng”[9].
Một lần nữa, nghị quyết TW2 khoá VIII khẳng định:
“...Đổi mới mạnh mẽ
phương pháp giáo dục và đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp

tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và
phương tiện hiện đại vào trong quá trình dạy học, bảo đảm điều kiện và thời gian tự
học, tự nghiên cứu cho học sinh, nhất là sinh viên đại học”[5].
Nhiệm vụ của hệ thống giáo dục đại học là đào
tạo nguồn nhân lực có trình độ
cao, có đạo đức trong sáng, năng động, nhạy bén, có khả năng tiếp thu nhanh chóng
những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại. Đó là lực lượng lao động nòng cốt
đưa đất nước phát triển kịp với xu thế phát triển của thời đại. Để đáp ứng được yêu
cầu phát triển của đất nước, giáo dục đại học tất yếu phải luôn đổi mới cả về nội
dung lẫn phương pháp, rèn luyện cho sinh viên kỹ năng giải quyết các vấn đề thực
tiễn một cách linh hoạt .Đổi mới phải được xem là
mệnh lệnh của cuộc sống nếu
không muốn đất nước bị tụt hậu.
Tuy nhiên, nhìn chung giáo dục đại học của nước ta vẫn c
hậm đổi mới so với
xu hướng đổi mới chung của giáo dục, nhất là đối với các môn học đại cương ở các
trường Đại học kỹ thuật. Cụ thể:
- Về nội dung giáo trình giảng dạy: vẫn là các giáo trình cũ được chỉnh sửa đôi
chút, các kiến thức rất cũ, việc cập nhật các kiến thức mới còn hạn chế, các kiến
thức m
à sinh viên tiếp thu được rất khó liên hệ với thực tế.
- Về phương pháp dạy học: vẫn là cách dạy học truyền thống - thầy đọc , giảng
giải; trò ghi chép cẩn thận, học thuộc. Sinh viên rất ít có thời gian tự nghiên cứu, tự
học, thực hiện các nhiệm vụ học tập phức hợp gắn liền với thực tiễn.
- Về hình thức kiểm tra, đánh giá: điểm thi kết thúc học p
hần chiếm đến 80%
tổng số điểm của học phần, còn 20% là điểm chuyên cần và làm thí nghiệm. Như
vậy, không có điểm đánh giá quá trình thực hiện nhiệm vụ học tập của sinh viên,




cũng như điểm kỹ năng giải quyết các vấn đề thực tiễn liên quan đến nội dung học
tập.
Từ thực tiễn dạy học Vật lý ở trường Đại học GTVT, chúng tôi nhận thấy khi
giảng dạy các học phần đại cương nói chung, Vật lý đại cương nói riêng, các giảng
viên hầu như chỉ tập trung giảng giải, trình bày, thông báo các kiến thức để sinh
viên vận dụng giải các bài tập t
huần tuý lý thuyết mà ít liên hệ đến các ứng dụng
thực tế, có chăng chỉ là giới thiệu mang tính đại khái, chung chung để cho sinh viên
biết…Hầu như không có giảng viên nào giao cho sinh viên các nhiệm vụ học tập
phức hợp, vận dụng nội dung kiến thức bài học và kiến thức liên môn để giải quyết
vấn đề trong thực tế, qua đó sinh viên phải tự nghiên cứu, lập kế hoạch, thực hiện kế
hoạch
, cộng tác với bạn bè và thầy cô để có thể giải quyết được vấn đề đặt ra, từ đó
sinh viên tự trang bị cho mình kỹ năng vận dụng kiến thức (được học, tự nghiên
cứu) để giải quyết linh hoạt các vấn đề thực tiễn, tạo sự say mê, hứng thú ở chính
người học.
Trong học phần Điện và Từ đại cương dà
nh cho sinh viên các trường Đại học
kỹ thuật, một số kiến thức phần Từ trường và Cảm ứng điện từ có rất nhiều ứng
dụng hay và lý thú. Người học sẽ học tập tích cực hơn nếu các kiến thức được vận
dụng vào giải quyết những vấn đề cụ thể, thực tế, điều đó làm cho các kiến thức trở
nên c
ó nghĩa đối với người học, khơi dậy lòng say mê, hứng thú ở họ. Với mục đích
trang bị cho sinh viên kiến thức vững chắc, rèn luyện kỹ năng giải quyết các vấn đề
thực tế đặt ra, khơi dậy tính tích cực, tự chủ của sinh viên thì việc tổ chức dạy học
dự án sẽ đem lại hiệu quả cao.
Dạy học dự á
n (DHDA) là một hình thức dạy học quan trọng để thực hiện
quan điểm dạy học định hướng vào người học, quan điểm dạy học định hướng hoạt

động và quan điểm dạy học tích hợp. DHDA góp phần gắn lý thuyết với thực hành,
tư duy và hành động, nhà trường và xã hội, tham gia tích cực vào việc đào tạo năng
lực làm việc tự lực, năng lực sáng tạo, năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp, tinh
thần trách nhiệm
và khả năng cộng tác làm việc của người học.



Ở Việt Nam, các đề án môn học, đề án tốt nghiệp từ lâu cũng đã được sử dụng
trong đào tạo đại học, các hình thức này gần gũi với dạy học theo dự án. Tuy vậy
trong lĩnh vực dạy học, DHDA này chưa được quan tâm nghiên cứu một cách thích
đáng, nên việc sử dụng chưa đạt hiệu quả cao. Một vài năm gần đây, tuy đã có một
số nghiên cứu vận dụng dạy học dự á
n vào dạy học một số kiến thức vật lí nhưng
tập trung chủ yếu vào dạy học với đối tượng học sinh phổ thông.
Với những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài:
Tổ chức dạy học dự án một số kiến thức thuộc phần “Từ trường và Cảm
ứng điện từ” - học phần Điện và Từ đại cương cho sinh viên ngành kỹ thuật
trường Đại học Gi
ao thông.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu việc tổ chức dạy học dự án một số nội dung kiến thức thuộc
phần “Từ trường và Cảm ứng điện từ”- học phần Điện và Từ đại cương nhằm phát
huy tính tích cực, chủ động của người học, hướng tới phát triển kỹ năng tư duy bậc
cao, rèn luyện cho sinh viên khả năng giải quyết các vấn đề thực tiễn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiê
n cứu
Hoạt động dạy học của giảng viên và sinh viên trường Đại học GTVT trong tiến
trình dạy học một số kiến thức phần “Từ trường và Cảm ứng điện từ”- học phần
Điện và Từ đại cương theo mô hình dạy học dự án.

4. Tổng quan lịch sử vấn đề nghiên cứu
Phương pháp dạy học PB
L (Project – Based Learning) là mô hình dạy học mới
xuất hiện cách đây khoảng 25 năm trên nước Mỹ nhằm thay thế cho lối học truyền
thống lúc bấy giờ. Với lớp học truyền thống một bài học diễn ra chỉ trong thời gian
ngắn (chỉ 1 tiết hay 2 tiết học), tách biệt với bên ngoài và người thầy là trung tâm

của quá trình dạy học. Còn với phương pháp PBL thì tạo ra một lớp học tích cực
hơn, phát huy tính chủ động của người học trong quá trình học tập, bài học được
thay thế bằng những dự án có thời gian kéo dài, tích hợp được nhiều môn học,
ngành học có liên quan. Trong đó, người học là trung tâm của quá trình dạy học.



Nội dung của bài học dưới dạng một dự án, người học phải tự thực hiện dưới sự
hướng dẫn của giáo viên, phải liên hệ với thực tiễn cuộc sống xung quanh các em.
* Mục tiêu của dạy học dự án
Dạy học dự án hướng tới phát triển các kỹ năng tư duy bậc cao (phâ
n tích,
tổng hợp, đánh giá) cho người học.
* Các đặc điểm của dạy học dự án:
- Chủ đề của dự án gắn với thực tiễn, kết quả dự án có ý nghĩa thực tiễn-xã
hội.
- Chủ đề và nội dung của dự án phù hợp với hứng thú của n
gười học.
- Người học tham gia tích cực và tự lực vào tất cả các giai đoạn của quá trình
dạy học: đề xuất vấn đề,lập kế hoạch giải quyết vấn đề, giải quyết vấn đề và trình
bày kết quả thực hiện.
- Kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, huy động nhiều giác quan.
- Đó là những sản phẩm hành động có thể c

ông bố, giới thiệu được.
- Nội dung dự án có sự kết hợp tri thức của nhiều lĩnh vực hoặc các môn học
khác nhau.
- Các dự án học tập thường được thực hiện theo nhóm.
Trong những năm gần đây, chương trình dạy học cho tương lai do Intel tổ
chức cũng đã nhấn mạnh vai trò của dạy học dự án, đã thu hút được đông đảo các
quốc gia trên thế giới tham gia, trong đó có Việt nam, bước đầu đã thu đư
ợc thành
công. Ở Việt nam đã có nhiều đề tài nghiên cứu lý luận và tổ chức dạy học dự án,
có thể kể một số công trình như:
“Dạy học theo dự án-một phương pháp có chức năng kép trong đào tạo giáo
viên” của hai tác giả Nguyễn Văn Cường và Nguyễn Thị Diệu Thảo (tạp chí GD;
2004/ số 80.15-17), tác giả tiếp cận dạy học dự án từ góc
độ lý luận.
“Dạy học dự án và tiến trình thực hiện” của tác giả Đỗ Hương Trà (tạp chí
GD; 2007/ số 157.12-14, 23).Tác giả đã đưa ra tiến trình thực hiện dạy học dự án,
thông qua đó để vận dụng vào tổ chức dạy học dự án một cách hiệu quả.



“Đặc điểm cấu trúc của dạy học dự án và kết quả việc vận dụng vào dạy học
môn kỹ thuật số” của tác giả Lê Văn Hồng ( tạp chí GD; 2006/ số 133.31-32,17),
tác giả đã nghiên cứu lý luận của dạy học dự án và vận dụng vào dạy môn kỹ thuật
số bước đầu đã thu được thành công.
“Project-Based Learning (PBL) và việc ứng dụng vào dạy học môn Vật lý ở
trường phổ thông Việt Nam trong tương lai” của tác giả Hồ Thanh Liêm, luận văn
tốt nghiệp đại học thá
ng 6/2005 Đại học Sư phạm Thành Phố Hồ Chí Minh, trong
đó đã tổ chức soạn thảo dạy học dự án chương “Dòng điện trong các môi trường”
thuộc chương trình Vật lý lớp 11 nhưng chưa tiến hành thực nghiệm sư phạm.

“Tổ chức dạy học các kiến thức phần N
hững định luật cơ bản của dòng điện không
đổi cho học sinh lớp 11 THPT theo quan điểm của dạy học dự án” của tác giả
Nguyễn Văn Nghĩa, luận văn tốt nghiệp ĐH tháng 6/2006 ĐHSP Hà Nội, tác giả đã
tổ chức được một số nội dung kiến thức đó là dự án lắp mạch điện cho phòng học
và dự án tìm hiểu cấu tạo của
pin điện hoá nhưng chưa tiến hành thực nghiệm với
học sinh.
Một số đề tài luận văn nghiên cứu việc tổ chức dạy học dự án các kiến thức
liên quan đến phần Điện và Từ như:
“Tổ chức dạy học dự án một số nội dung kiến thức chương Cảm ứng điện từ
sách giáo khoa Vật lí lớp 11 THPT nhằm p
hát triển hoạt động nhận thức tích cực, tự
chủ của học sinh trong học tập” của tác giả Đào Thị Thu Thuỷ, luận văn thạc sỹ,
2005. Tác giả đã tiến hành nghiên cứu cơ sở lý luận của dạy học dự án và tổ chức
thực nghiệm cho học sinh trường THPT NK Trần Phú, Hải Phòng, qua đó gây được
hứng thú học tập cho học sinh.
Trong nghiên cứu “Tổ chức hoạt động dạy học chương Chuyển động của hạt
m
ang điện trong điện trường và từ trường - học phần điện và từ đại cương, nhằm
phát huy tính tích cực, tự chủ của người học” của tác giả Phùng Việt Hải (luận văn
thạc sỹ, 2007), tác giả đã tiến hành thiết kế các hoạt động dạy học dựa trên cơ sở lí
luận của dạy học dự án
và đã thu được những kết quả khả quan trong việc phát huy
tính tích cực, tự chủ và sáng tạo của người học.



Trong những năm gần đây, các giảng viên ở các trường Đại học sư phạm
Thành Phố Hồ Chí Minh, Đại học sư phạm Hà Nội đã giảng cho sinh viên về mô

hình dạy học dự án và tổ chức thực hiện dạy học dự án cho đối tượng sinh viên, thu
hút được sự tham gia tích cực, khơi dậy lòng say mê, hứng thú của người học. Ngày
26/03/2005, Sở GD-ĐT TPHCM đã tổ chức hội thảo về m
ô hình dạy học dự án tại
trường THPT Nguyễn Thị Minh Khai - nơi mô hình dạy học này được triển khai
mạnh mẽ nhất.
Bên cạnh đó còn có nhiều công trình nghiên cứu của nhiều tác giả khác và
một số học viên cao học đã vận dụng quan điểm của dạy học dự án vào tổ chức dạy
học ở một số trường tại Thành Phố Hồ Chí Minh và Hà Nội…bước đầu đã thu
được
nhiều thành công trong việc đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính tích cực,
tự chủ của người học, lôi cuốn người học vào thực hiện dự án học tập một cách tự
giác.
5. Giả thuyết khoa học
Dựa trên cơ sở lí luận của dạy học dự án cũng như dựa trên việc phân tích
các nội dung kiến thức cần dạy thì có thể tổ chức dạy học dự án
một số kiến thức
phần Từ trường và Cảm ứng điện từ- học phần Điện và Từ đại cương cho sinh viên
ngành kỹ thuật nhằm phát huy tính tính cực, tự chủ và kích thích hứng thú cho
người học.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu bản chất của hoạt động dạy học nói chung, bản chất của hoạt
động dạy học Vật lý nói riêng.

- Nghiên cứu cơ sở lý luận của dạy học dự án, quá trình thiết kế dự án, quá
trình hướng dẫn người học lập dự án vào việc tổ chức hoạt động dạy học nhằm phát
triển các hoạt động nhận thức tích cực, tự chủ của sinh viên.
- Điều tra ban đầu để phân tích những thuận lợi, khó khăn của giảng viên và
sinh viê
n trường Đại học GTVT khi dạy học các kiến thức phần Từ trường và Cảm

ứng điện từ- học phần Điện và Từ đại cương.



- Nghiên cứu nội dung kiến thức phần Từ trường và Cảm ứng điện từ- giáo
trình Vật lý đại cương và các tài liệu khoa học liên quan.
- Vận dụng dạy học dự án vào việc soạn thảo tiến trình dạy học một số kiến
thức phần Từ trường và Cảm ứng điện từ- học phần Điện và Từ đại cương, phát huy
tính tích cực, tự chủ của sinh viên trong quá trình học tập.

- Tiến hành thực nghiệm sư phạm theo tiến trình đã soạn thảo để đánh giá
hiệu quả của nó đối với việc phát huy tính tích cực, tự chủ của người học.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1.Nghiên cứu lý luận
- Nghiên cứu các tài liệu về tâm lí học, lý luận dạy học đại học, lý luận dạy
học hiện đại, lý luận dạy học Vật lý, các văn kiện đại hội Đảng về đổi mới giáo dục,
các bài báo, tạp chí có liên quan...
- Nghiê
n cứu giáo trình Vật lý đại cương, học phần “Điện và Từ đại cương”,
trọng tâm là các kiến thức phần Từ trường và Cảm ứng điện từ và các tài liệu khoa
học liên quan.
- Nghiên cứu việc ứng dụng các kiến thức Từ trường và Cảm ứng điện từ và
o
trong thực tế.
- Nghiên cứu các tài liệu liên quan đến việc tích hợp công nghệ, sử dụng các
phần mềm tin học hỗ trợ, nhằm phát huy tối đa hiệu quả của dạy học.
7.2. Điều tra
Dự giờ, quan sát, điều tra thực trạng dạy học kiến thức phần Từ trường và
Cảm ứng điện từ đại cương của giảng viên và sinh viê
n trường Đại học GTVT.

7.3. Nghiên cứu thực nghiệm
Tiến hành thực nghiệm sư phạm trên đối tượng là sinh viên trường Đại học
GTVT. Sau đó dùng thống kê toán học để trình bày kết quả thực nghiệm sư phạm
và kiểm định giả thuyết thống kê.Từ đó khẳng định hiệu quả của tiến trình dạy học
đã soạn thảo đối với việc phát huy tính tích cực, tự lực của người học.





8. Những đóng góp mới của luận văn
- Cụ thể hoá cơ sở thực tiễn của việc vận dụng dạy học dự án trong tổ chức
dạy học các nội dung kiến thức Vật lý.
- Soạn thảo được tiến trình dạy học dự án một số kiến thức trong phần “Từ
trường và Cảm ứng điện từ”- học phần Điện và Từ đại cương.
- Cung cấp số liệu và
thông tin khoa học làm phong phú thêm tài liệu tham
khảo phục vụ giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học.
- Góp phần đổi mới phương pháp dạy học môn Vật lý ở đại học theo tinh thần
của dạy học hiện đại.
























Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA DẠY HỌC DỰ ÁN

1.1. Bản chất của hoạt động dạy học
1.1.1. Bản chất của hoạt động học
1.1.1.1. Khái niệm hoạt động học
Khi nói đến hoạt động học cần làm rõ khái niệm học và khái niệm hoạt động
học.
- Trong cuộc sống đời thường con người luôn luôn có quá trình tiếp thu, tích
luỹ những kinh nghiệm sống, trên cơ sở đó tạo nên những tri thức tiền khoa học,
làm cơ sở tiếp thu những khái niệm
khoa học ở trong nhà trường. Đó chính là việc
học, là cách học theo phương pháp của cuộc sống thường ngày, giống như con
người khi sinh ra đến khi chết lúc nào cũng phải học ăn học nói học gói học mở, đi
một ngày đàng học một sàng khôn…
- Trên thực tế, chỉ có phương thức đặc thù ( phương thức nhà trường) mới có
khả năng tổ chức để c
á nhân tiến hành hoạt động đặc biệt đó là hoạt động học, qua

đó hình thành ở cá nhân những tri thức khoa học, năng lực mới phù hợp với đòi hỏi
của thực tiễn; và trong tâm lý học sư phạm, hoạt động học là khái niệm chính được
dùng để chỉ hoạt động học diễn theo phương thức đặc thù, nhằm chiếm lĩnh tri thức,
kĩ năng, kĩ xảo.
1.1.
1.2. Bản chất của hoạt động học
Hoạt động học tập là hoạt động chuyên hướng vào sự tái tạo lại tri thức ở
người học. Sự tái tạo ở đây hiểu theo nghĩa là phát hiện lại. Sự thuận lợi cho người
học ở đây đó là con đường để phát hiện lại đã được các nhà khoa học tìm hiểu
trước, giờ người học chỉ việc tái tạo lại. Và để tái tạo lại, người học không có cách
gì khác đó l
à phải huy động nội lực của bản thân (động cơ, ý chí, …), càng phát huy
nội lực của bản thân cao bao nhiêu thì việc tái tạo lại kiến thức càng diễn ra tốt bấy
nhiêu. Do đó hoạt động học làm thay đổi chính người học. Ai học thì người đó phát
triển, không ai học thay thế được, người học cần phải có trách nhiệm với chính bản
th
ân mình, vì mình trong quá trình học. Hoạt động học có thể cũng có thể làm thay



đổi khách thể nhưng như thế không phải là mục đích tự thân của hoạt động học mà
chính là phương tiện để đạt được mục đích làm thay đổi chính chủ thể của hoạt
động.
Hoạt động học là hoạt động tiếp thu những tri thức lý luận, khoa học. Nghĩa
là việc học không chỉ dừng lại ở việc nắm bắt những khái niệm đời thường mà học
phải tiến đến những tri thức khoa
học, những tri thức có tính chọn lựa cao, đã được
khái quát hoá, hệ thống hoá.
Hoạt động học tập không chỉ hướng vào việc tiếp thu những tri thức, kĩ năng, kĩ
xảo mà còn hướng vào việc tiếp thu cả những tri thức của chính bản thân hoạt động

học. Hoạt động học muốn đạt kết quả cao, người học phải biết cách học, phương
phá
p học, nghĩa là phải có những tri thức về chính bản thân hoạt động học.
Hoạt động học là hoạt động chủ đạo của lứa tuổi học sinh, sinh viên. Do đó nó giữ
vai trò chủ đạo trong việc hình thành và phát triển tâm lý của người học trong lứa
tuổi này.
1.1.1.3. Đối tượng của hoạt động học
Chủ thể của hoạt động học là người học thì đối tượng của hoạt động học
hướng tới đó là tri thức. Nhưng tri thức mà người học phải học được lựa chọn từ
những khoa học khác nha
u, theo những nguyên tắc nhất định, làm thành những môn
học tương ứng và được cụ thể ở những đơn vị cấu thành như: khái niệm, kĩ năng,
thái độ…
Đối tượng của hoạt động học có liên qua
n chặt chẽ với đối tượng của khoa
học. Tuy vậy, có sự khác nhau về nguyên tắc giữa hoạt động học và hoạt động
nghiên cứu khoa học. Hoạt động học là hoạt động tái tạo lại những tri thức đã có từ
trước ở người học, còn hoạt động nghiên cứu khoa học đó là phát hiện những chân
lý khoa học mà loài người chưa biết đến. Có t
hể nói: đối tượng của hoạt động học là
cái mới với cá nhân người học nhưng không mới đối với nhân loại.
1.1.1.4. Phương tiện học tập
Hoạt động bao giờ cũng hướng tới một đối tượng cụ thể, và chủ thể phải có
những phương tiện, những điều kiện cụ thể để chiếm lĩnh đối tượng. Trong hoạt



động học tập, ngoài những phương tiện như: giấy, bút, sách, giáo trình, máy tính…
nó còn mang tính chất đặc thù của hoạt động học tập đó là mọi yếu tố của nó đều
được hình thành trong quá trình học tập. Phương tiện học tập không có sẵn trong

tâm lý chủ thể mà hình thành chính trong quá trình chủ thể tham gia hoạt động học
tập.
Phương tiện chủ yếu của hoạt động học tập đó là các hành động học tập:
so
sánh, phân loại, phân tích, khái quát hoá. Tâm lý học đã khẳng định so sánh, phân
loại là những hành động học tập, là phương tiện đắc lực cho việc hình thành những
khái niệm kinh nghiệm, còn phân tích, khái quát hoá là phương tiện để hình thành
nên những khái niệm khoa học.
Cần nhấn mạnh rằng trong hoạt động học, phương tiện chủ yếu là tư duy.
Trong giáo dục, tất cả các hình thức tư duy đều quan trọng và cần thiết.
1.1.1.5. Điều kiện học tập
Hoạt động học muốn đư
ợc diễn ra phải có điều kiện của nó. Điều kiện đầu
tiên đó là có sự tham gia của các yếu tố bên ngoài (ngoại lực) như: có sự hướng dẫn
của thầy, sách, vở, bút, máy tính, giáo trình… Điều kiện thứ hai đó là có sự vận
động của chính bản thân người học hay còn gọi là yếu tố nội lực. Đó là những tri
thức mà người học học được, trình độ trí tuệ hiện có của người học, động cơ, ý chí,
hứng thú của người học…
Khi c
ó đầy đủ những điều kiện đó, người học dù trong hoàn cảnh có thầy với
trò, hay không có sự có mặt của thầy thậm chí khi ra trường, hoạt động học vẫn diễn
ra. Từ đó có thể hiểu học là quá trình tương tác các yếu tố ngoại lực và yếu tố nội
lực thông qua hoạt động dạy và
học. Trong đó, yếu tố nội lực ở đây đóng vai trò
quan trọng trong hoạt động học của người học.
1.1.1.6. Sự hình thành hoạt động học tập
i) Động cơ học tập
Các yếu tố của hoạt động học được hình thành trong chính hoạt động học.
Nói đến hì
nh thành hoạt động học, trước hết phải nói đến sự hình thành động cơ học

tập.



- Hoạt động học với chủ thể là người học, còn đối tượng của nó là những tri
thức khoa học, với mục tiêu cuối cùng là hình thành nhân cách cho người học. Chủ
thể khi tiến hành hoạt động học, chiếm lĩnh tri thức thì chính tri thức đó trở thành
cái tinh thần, thôi thúc người học. Vì vậy có thể hiểu động cơ học tập là sức mạnh
tinh thần điều khiển, điều chỉnh hoạt động học nhằm chiếm lĩnh tri thức khoa học,
để thoả mãn nhu cầu nào đó của người học.
- Động cơ của hoạt động học tập ở học
sinh, sinh viên được hiện thân ở
những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo mà giáo dục ở nhà trường mang lại cho họ. Trong
thực tiễn giáo dục, động cơ học tập được chia thành hai loại: động cơ hoàn thiện tri
thức và động cơ quan hệ xã hội.
+ Động cơ hoàn thiện tri thức là lòng ham
mê, khát khao mở rộng tri thức,
say mê với những môn học... Hoạt động học tập được thúc đẩy bởi động cơ này nó
không chứa những mâu thuẫn bên trong và nó đòi hỏi phải có những nỗ lực ý chí để
đạt được nguyện vọng chứ không phải hướng vào đấu tranh với chính bản thân
mình.
+ Động cơ qua
n hệ xã hội đó là sự thưởng phạt hoặc đe doạ, những áp lực
gia đình, nhà trường, công việc, sự hiếu danh hoặc mong đợi sự hạnh phúc. Ở mức
độ nào đó động cơ này mang tính cưỡng bách, và có lúc xuất hiện như một vật cản
cần vượt qua để đạt được mục đích của mình.
Xét về mặt lý luận, mỗi hoạt động đư
ợc thúc đẩy bởi một động cơ nhất định.
Hoạt động học hướng đến là những tri thức khoa học, thì chính nó (tức là đối tượng
của hoạt động học) trở thành động cơ của hoạt động ấy. Động cơ hoàn thiện tri thức

là động cơ chính của hoạt động học tập. Nhưng trên thực tế còn có động cơ quan hệ
xã hội. Nó “bám vào”, “hiện thân” trên động cơ hoà
n thiện tri thức, trở thành một
bộ phận của động cơ hoàn thiện tri thức. Khi động cơ hoàn thiện tri thức được đáp
ứng thì đồng nghĩa với nó là động cơ quan hệ xã hội cũng được thoả mãn. Cả hai
loại động cơ này đều xuất hiện trong quá trình học tập và trong từng hoàn cảnh cụ
thể, tuỳ theo điều kiện nào đó mà động cơ này hay động cơ kia
chiếm vị trí quan
trọng hơn, nổỉ lên và chiêm ưu thế trong thứ bậc động cơ. Sự phân chia động cơ



như vậy chỉ có tính chất tương đối.
ii) Mục đích học tập.
Theo tâm lý học hoạt động, mục đích được hiểu là cái mà hành động đang
diễn ra hướng tới. Hoạt động học được thúc đẩy bởi động cơ và nó được tiến hành
dưới các hành động học. Vì vậy, mục đích của hoạt động học là các khái niệm, các
giá trị, các chuẩn mực...mà hành động học đang diễn ra
hướng đến nhằm đạt được
nó.
Quá trình hình thành mục đích bắt đầu từ việc hình thành trong chủ thể dưới
các dạng là các biểu tượng, sau đó được tổ chức để hiện thực hoá biểu tượng trên
thực tế, và khi thực tế có hoàn thành được thì mục đích được hoàn thành. Mục đích
của hoạt động học cũng được hình thành như vậy, chỉ có điều nó có tính đặc thù
riêng đó là việc hình thành mục đích học tập hướng đến là để thay đổi chính chủ thể
ở đây là người học. Mục đích này chỉ có thể đư
ợc bắt đầu hình thành khi chủ thể bắt
đầu bắt tay vào thực hiện hành động học tập của mình. Trên con đường chiếm lĩnh
đối tượng nó luôn diễn ra quá trình chuyển hoá giữa mục đích và phương tiện học
tập. Mục đích bộ phận được thực hiện đầy đủ th

ì nó lại trở thành công cụ để chiếm
lĩnh các mục đích tiếp theo.
iii) Sự hình thành các hành động học tập
Học là một quá trình, do đó khi nói đến hoạt động học là phải nói đến sự
hình thành các hành động học tập. Hành động học ở đây được hiểu là hành động trí
óc nhằm chiếm lĩnh tri thức. Hành động học có rất nhiều các hành động khác
nhau,
và bản chất nhất, cơ bản nhất có các hành động chính sau:
- Hành động phân tích: tìm ra nguồn gốc nội tại, cấu trúc lôgíc của đối tượng.
- Hành động mô hình hoá: giúp con người diễn đạt các khái niệm một cách
trực quan, nó bao gồm mô hình gần giống với vật thật, mô hình tượng trưng, mô
hình mã hoá, nó được dùng nhiều trong sinh học…
- Hành động cụ thể hoá: nhằm vận dụng giúp người học hiểu được rõ nhất
bản c
hất của vấn đề, giải quyết những vấn đề trong mối liên hệ cụ thể từng lĩnh vực.




1.1.1.7. Đặc điểm chung của hoạt động học tập của sinh viên
- Hoạt động học tập của sinh viên có tính chất độc đáo về mục đích và kết
quả hoạt động. Đó là, khác với lao động, học tập không làm thay đổi đối tượng mà
thay đổi chính bản thân mình. Sinh viên học tập để tiếp thu các tri thức khoa học,
hình thành những kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp, phát triển những phẩm chất
nhân
cách người chuyên gia tương lai.
- Hoạt động học tập được diễn ra trong điều kiện có kế hoạch vì nó phụ
thuộc vào nội dung, chương trình, mục tiêu, phương thức và thời hạn đào tạo.
- Phương tiện hoạt động học tập là thư viện, sách vở, máy tính…
- Tâm lý diễn ra trong hoạt động học tập của sinh viên với nhịp độ căng

thẳng, mạnh mẽ về trí tuệ.
- Hoạt động học tập của sinh viên m
ang tính độc lập cao. Cốt lõi của hoạt
động học tập của sinh viên là sự tự ý thức về động cơ mục đích, biện pháp học tập.
1.1.1.8. Tính tích cực trong hoạt động học của sinh viên
Việc tạo ra tính tích cực học tập của sinh viên là nhiệm vụ chủ yếu của người
thầy giáo trong nhà trường đại học. Một trong những yếu tố quan trọng c
ó ảnh
hưởng mạnh tới tính tích cực hoạt động tập của sinh viên là do sự vận dụng một
cách thích hợp phương pháp giảng dạy của thầy.
Theo Thái Duy Tiên thì "Tính tích cực học tập của sinh viên là tập hợp các hoạt
động nhằm làm chuyển biến vị trí của người sinh viên từ đối tượng tiếp nhận tri
thức sang chủ thể tìm kiếm tri thức, để nâng cao hiệu quả học tập"[
24]. Tính tích
cực học tập của sinh viên được thể hiện qua một số đặc điểm cơ bản sau:
- Trong giờ học sinh viên có chú ý tới bài giảng hay không.
- Mức độ tự giác tham gia vào xây dựng bài học, trao đổi thảo luận, ghi chép.
- Thực hiện tốt các nhiệm vụ học tập được giao.
- Hiểu bài và có thể trình bày lại theo cách hiểu của mình.
- Có hứng thú học tập.
- Biết vận dụng những tri thức đư
ợc học vào thực tiễn.
- Có sáng tạo trong quá trình học tập.



1.1.2. Bản chất của hoạt động dạy
Trong phạm vi nhà trường, hoạt động dạy là hoạt động của người thầy - định
hướng, tổ chức, điều khiển hoạt động nhận thức, học tập của người học, giúp người
học tìm tòi, khám phá tri thức tạo ra sự phát triển tâm lý, hình thành nhân cách ở

bản thân.
Theo giáo sư Phạm Hữu Tòng “… bản chất của hoạt động dạy học là dạy
hành động – hà
nh động chiếm lĩnh tri thức và hành động vận dụng tri thức, và do
đó trong dạy học, giáo viên cần tổ chức các tình huống học tập đòi hỏi sự thích ứng
của người học để qua đó người học chiếm lĩnh được tri thức, đồng thời phát triển trí
tuệ và nhân cách toàn diện của mình”[34].
1.1.3. Sự tương tác trong hệ dạy - học
Trong sự tương tác của hệ dạy học, mỗi hành động của người học diễn ra
theo các pha: “Định hướng- c
hấp hành- kiểm tra”. Trong đó, sự định hướng có vai
trò quan trọng đối với chất lượng và hiệu quả của hành động. Người thầy có vai trò
quan trọng trong việc giúp đỡ cho sự hình thành cơ sở định hướng khái quát hành
động của người học
Có thể mô tả sự tương tác trong hệ dạy học bằng sơ đồ hì
nh 1.1:










Cung
cấp tư
liệu tạo
tình

huống
Định hướn
g
Liên hệ ngược
Tổ
chức
Thích
ứng
Liên
hệ
ngược
NGƯỜI DẠY NGƯỜI HỌC
TƯ LIỆU HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC
(MÔI TRƯỜNG)

Hình 1.1. Sơ đồ mô tả sự tương tác trong hệ dạy-học



Trong sự vận hành của hệ tương tác dạy học, hành động của người thầy với
tư liệu hoạt động dạy học là khâu tổ chức, cung cấp tư liệu, tạo tình huống có vấn
đề cho hoạt động của người học. Hành động dạy của người thầy có tác dụng trực
tiếp tới người học, đó là sự định hướng đối với hành động của người học, sự tương
tác, trao đổi, tranh luận giữa người học với nha
u và qua đó cung cấp những thông
tin liên hệ ngược từ phía người học cho giáo viên. Còn hành động học của người
học đối với tư liệu hoạt động dạy học là sự thích ứng của người học với tình huống
học tập thích đáng nhằm chiếm lĩnh tri thức. Sự tương tác của người học với tư liệu
còn đem lại cho giáo viên những thông tin liên hệ ngược cần t
hiết cho sự chỉ đạo

của giáo viên đối với người học.
1.1.4. Bản chất của hoạt động dạy học ở đại học
Bản chất của hoạt động dạy học ở đại học là quá trình nhận thức độc đáo có
tính chất nghiên cứu của sinh viên được tiến hành dưới vai trò tổ chức và điều
khiển của giáo viên nhằm t
hực hiện tốt các nhiệm vụ dạy học ở đại học.
Tính chất nghiên cứu của sinh viên trong quá trình học tập ở đại học được
thể hiện ở những điểm sau:
- Trong quá trình học tập ở đại học, sinh viên phải tự mình chiếm lĩnh hệ
thống các tri thức, kỹ năng, phải nắm vững cơ sở của nghề nghiệp tương lai ở trình
độ đại học và có tiềm năng vươn lên thích ứng với những yê
u cầu trước mắt và lâu
dài do thực tiễn xã hội đặt ra.
- Khi tiến hành hoạt động học tập, sinh viên không chỉ có năng lực nhận thức
thông thường mà cần tiến hành các hoạt động nhận thức mang tính nghiên cứu trên
cơ sở khả năng tư duy độc lập, sáng tạo phá
t triển ở mức độ cao. Điều đó có nghĩa
là dưới vai trò hướng dẫn của người thầy, sinh viên không tiếp thu một cách máy
móc những chân lý có sẵn mà họ có khả năng tiếp nhận chân lý đó với óc phê phán,
có thể khẳng định, phủ định, hoài nghi khoa học, lật ngược vấn đề, đào sâu vấn
đề…
- Trong quá trình học tập ở đại học, sinh viên đã bắt đầu tham
gia vào hoạt
động tìm kiếm chân lý mới. Đó là hoạt động tập dượt nghiên cứu khoa học được



tin hnh cỏc mc t thp lờn cao tu theo chng trỡnh hc ca hc phn,
chng hn nh: bi tp nghiờn cu sau mi hc phn, niờn lun, khoỏ lun, lun
vn, ỏn tt nghip. Hot ng nghiờn cu khoa hc ny giỳp sinh viờn tng bc

tp vn dng nhng tri thc khoa hc, phng phỏp lun khoa hc, phng phỏp
nghiờn cu. Thụng qua ú, sinh viờn t rốn luyn cỏc phm cht, tỏc phong ca nh
nghiờn cu nhm g
ii quyt mt cỏch khoa hc nhng vn do thc tin xó hi,
thc tin cuc sng v ngh nghip t ra. Trong hot ng hc i hc, mt
trong nhng phng phỏp dy hc cú th phỏt huy s tớch cc, t lc sinh viờn ú
l dy hc d ỏn.
1.2. Bn cht ca hot ng dy hc Vt lý
1.2.
1. Con ng nhn thc Vt lý
Vt lý l mụn khoa hc thc nghim, con ng nhn thc Vt lý l: T trc
quan sinh ng n t duy tru tng, ri t t duy tru tng tr v thc tin.
iu ny ó c cỏc nh Vt lý ni ting th hin qua chu trỡnh nhn thc (chu
trỡnh ca V.G.Razumopxki nh Vt lý ngi Nga hỡnh 1.2, chu trỡnh ca Anbert
Einstein hỡnh 1.3):
A











Cú th din t cỏc chu trỡnh ú nh sau :
Mụ hỡnh gi
nh tru tng

Cỏc h qu
Nhng s kin
khi u
Thớ nghim
kim tra
S S S
Hỡnh 1.2. Chu trỡnh sỏng to khoa hc theo Razumopxki
E
Hỡnh 1.3. Chu trỡnh nhn thc sỏng to theo
Einstein.
E: l các dữ kiện; A: l tiền đề rút ra trên cơ sở E;
S,S,S l các hệ quả lôgic rút ra từ A.



- Từ việc khái quát các sự kiện xuất phát, đi đến xây dựng mô hình trừu tượng giả
định (giả thuyết). Từ mô hình dẫn đến việc rút ra các hệ quả lý thuyết (bằng suy
luận logic hay toán học). Sau đó tiến hành thực nghiệm kiểm tra các hệ quả đó.
- Nếu kết quả thực nghiệm phù hợp thì mô hình giả thuyết được xác nhận là đúng
đắn và trở thành chân lí, ngược lại nếu kết quả thực nghiệm
không phù hợp thì phải
xem lại giả thuyết, chỉnh lại hoặc thay đổi, tức là đưa ra mô hình mới và lặp lại chu
trình trên.
1.2.2. Bản chất hoạt động dạy học Vật lý cho sinh viên các ngành kỹ thuật
Việc dạy học Vật lý ở trường đại học cho sinh viên các ngành kỹ thuật là
giúp trang bị cho sinh viên những kiến thức nền tảng cơ bản trước khi học các môn
chuyên ngà
nh, sinh viên sẽ được học chương trình Vật lý đại cương giành cho sinh
viên các ngành kỹ thuật. Với kiến thức Vật lý này nhằm giúp cho sinh viên có một
tầm nhận thức cao hơn, vững chắc hơn về các vấn đề, các hiện tượng cơ học, nhiệt,

điện từ, quang...Đặc biệt, giúp cho sinh viên có các kiến thức nền tảng vững chắc
để vào học các môn chuyên ngành, ứng dụng các kiến thức Vật lý vào trong công
việc, ngà
nh nghề tương lai của mình.
Hoạt động nhận thức Vật lý của sinh viên ở trường đại học có những điểm rất khác
biệt với nhận thức của nhà khoa học và với học sinh phổ thông.
- So với nhà khoa học
+ Nhà khoa học phải tìm ra kiến thức mới mà trước đây loài người chưa biết
tới ; còn sinh viên thì học những kiến thức khoa học mà loài người đã khám phá, đã
chọn lọc c
ho phù hợp với từng đối tượng và sinh viên tìm cách vận dụng những
kiến thức đó vào trong thực tế cuộc sống, phục vụ ngành nghề trong tương lai, qua
đó rèn luyện tư duy sáng tạo, học cách suy nghĩ và làm việc của các nhà khoa học,
tạo nền tảng kiến thức vững chắc cho các môn khoa học chuyên ngành…
+ Về thời gian, nhà khoa học có nhiều thời gian, thậm chí cả đời mình để
khám phá một định luật, xây dựng một giả th
uyết nào đó; còn sinh viên thì thời gian
rất ngắn, chỉ trong vài tiết học trên lớp và thời gian tự học ở nhà nhưng còn phải
dành thời gian cho các môn học khác…



Với sự khác nhau đó, ta không hy vọng làm cho sinh viên nhờ áp dụng
phương pháp khoa học mà có được những sáng tạo lớn như nhà khoa học, mà chỉ
mong muốn các em làm quen với cách suy nghĩ, cách tư duy khoa học, tạo ra những
yếu tố ban đầu của hoạt động sáng tạo và nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, nếu một
số sinh viên có lòng ham mê khoa học, muốn tìm tòi khám phá thì có thể gia nhập
vào một nhóm nghiên cứu nào đó, dưới sự hướng dẫn của nhà khoa học có uy tín
(có thể là giảng viên trong nhà trường, những người làm công tác nghiên cứu trong
các viện, các trung tâm,…)


- So với học sinh phổ thông
+ Những kiến thức sinh viên được học trong năm đầu tiên ở trường đại học ít
nhiều đã có nền tảng từ phổ thông (như Vật lý, hóa học, toán học, sinh học,…), tuy
nhiên học sinh phổ thông bị hạn chế về mặt kiến thức toán học cũng như tư duy, vì
vậy có một số vấn đề, một số công thức mà các em phải chấp nhận nhưng không r
õ
nguồn gốc từ đâu ; còn với sinh viên đại học thì mọi kiến thức đều phải được chứng
minh rõ ràng và khả năng áp dụng kiến thức vào thực tế được đòi hỏi cao hơn, có
tầm nhìn rộng hơn, bao quát hơn.
+ Sinh viên được tiếp cận với các giảng viên , các nhà nghiên cứu trong các
trường đại học, các viện nghiên cứu dễ dàng hơn học sinh phổ thông, nguồn tài liệu
tham khảo trong các trường đại học cũng rất phong phú. Đó là điều kiện thuận lợi
giúp sinh viên bước đầu rèn luyện công tác nghiên cứu khoa học, trao dồi kỹ năng
giải quyết vấn đề thực tiễn đặt ra...
Năng lực nói chung và năng lực sáng tạo không phải là bẩm sin
h mà được
hình thành và phát triển trong quá trình hoạt động của chủ thể. Bởi vậy m
uốn hình
thành năng lực phải chuẩn bị cho sinh viên những điều kiện cần thiết để họ thực
hiện thành công hoạt động đó. Những điều kiện đó là:
- Đảm bảo cho sinh viên có điều kiện tâm lí thuận lợi để tự lực hoạt động:
 Tạo mâu thuẫn nhận thức, gợi động cơ, hứng thú tìm tòi cái mới, ta thường
gọi là xây dựng tì
nh huống có vấn đề.
 Tạo môi trường sư phạm thuận lợi.



- Tạo điều kiện để sinh viên có thể giải quyết thành công những nhiệm vụ được

giao:
 Lựa chọn một logíc nội dung bài học thích hợp.
 Rèn luyện cho sinh viên kỹ năng thực hiện một số thao tác cơ bản gồm thao
tác tay chân và thao tác tư duy.
 Cho sinh viên làm quen với các phương pháp nhận thức Vật lý được sử dụng
phổ biến.
Để đảm bảo những điều kiện này thì phương phá
p dạy học là một trong những
nhân tố đóng vai trò quyết định. Trong những năm gần đây, ngành giáo dục đã
chú trọng nhiều tới phương pháp dạy học ‘lấy người học làm trung tâm’, phương
pháp dạy học tích cực, như: dạy học dự án, dạy học theo chủ đề, dạy học kiến
tạo...
1.3. Dạy học dự án
1.3.1. Bản chất dạy học dự án
DHDA (
hay còn gọi là phương pháp dự án, học theo dự án) là hình thức dạy
học trong đó người học thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết hợp
giữa lí thuyết với thực tiễn, thực hành. Nhiệm vụ này được người học thực hiện với
tính tự lực cao trong toàn bộ quá trình học tập, từ việc xác định mục đích, lập kế
hoạch
, đến việc thực hiện dự án, kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá quá trình và kết quả
thực hiện.
Học theo dự án là một hoạt động tìm hiểu sâu về một chủ đề cụ thể với mục
tiêu tạo cơ hội để người học thực hiện nghiên cứu vấn đề thông qua việc kết nối
các thông tin, phối hợp nhiều kỹ năng, giá trị và t
hái độ nhằm xây dựng kiến thức
và phát triển khả năng và thái độ học tập suốt đời.
Dạy học dự án được xây dựng dựa trên những câu hỏi định hướng quan
trọng, lồng ghép các chuẩn nội dung và tư duy bậc cao trong những bối cảnh thực
tế.

Bài học thiết kế theo dự án chứa đựng nhiều kỹ thuật dạy học khác nhau, c
ó
thể lôi cuốn được mọi đối tượng người học, không phụ thuộc vào cách học của họ.



Thông thường người học sẽ được làm việc với các chuyên gia và những thành viên
trong cộng đồng để giải quyết vấn đề gắn với thực tiễn, hiểu sâu nội dung hơn. Các
phương tiện kỹ thuật cũng được sử dụng để hỗ trợ việc học. Trong quá trình thực
hiện dự án có thể vận dụng nhiều cách đánh giá khác nhau để giúp người học tạo ra
những sản phẩm có chất lượng.
Có rất nhiều kiểu dự án
được tiến hành trong lớp học. Một dự án được coi là
hiệu quả khi nó đạt được sự cân bằng giữa khả năng thực hiện của người học với ý
đồ thiết kế của giáo viên, chỉ rõ những công việc người học cần làm. Những đặc
điểm dưới đây sẽ giúp nhận diện rõ thế nào là bài học dạy theo dự án hiệu quả.
- Người học là trung tâm của quá t
rình dạy học
Bài học theo dự án được thiết kế cẩn thận, lôi cuốn người học vào những
nhiệm vụ mở và có tính thực tiễn cao. Các nhiệm vụ của dự án kích thích khả năng
ra quyết định, niềm cảm hứng, say mê của người học trong quá trình thực hiện và
tạo ra sản phẩm cuối cùng. Người học lĩnh hội kiến thức bài học thông qua việc tìm
hiểu và tự quyết định mức độ hoàn thà
nh các nhiệm vụ của dự án. Giáo viên giữ vai
trò người hỗ trợ hay hướng dẫn. Người học hợp tác làm việc với nhau trong các
nhóm, phát huy tối đa năng lực cá nhân khi đảm nhận những vai trò khác nhau.
- Dự án tập trung vào những mục tiêu học tập quan trọng gắn với các chuẩn
Những dự án tốt đư
ợc phát triển dựa trên những nội dung cốt lõi của chương
trình đáp ứng các chuẩn quốc gia và địa phương. Dự án có các mục tiêu rõ ràng gắn

với các chuẩn và tập trung vào những hiểu biết của người học sau quá trình học. Từ
việc định hướng vào mục tiêu, giáo viên sẽ chọn lựa hình thức dạy học phù hợp, lập
kế hoạch đánh giá và tổ chức các hoạt động dạy và học. Kết quả của dự án đư
ợc thể
hiện kết tinh trong sản phẩm của người học và quá trình thực hiện nhiệm vụ, ví dụ
phần thuyết trình đầy thuyết phục hay ấn phẩm thông tin thể hiện sự lĩnh hội các
chuẩn nội dung và mục tiêu dạy học.
- Dự án được định hướng theo Bộ câu hỏi khung chương trình
Câu hỏi khung chương trình sẽ giúp các dự án tập t
rung vào những hoạt
động dạy học trọng tâm. Người học được giới thiệu về dự án thông qua các câu hỏi


×