Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Vận dụng lý thuyết dạy học khám phá trong dạy học môn Sinh học lớp 8 - trung học cơ sở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.55 MB, 111 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC



NGUYỄN THÚY QUỲNH



VẬN DỤNG LÍ THUYẾT DẠY HỌC KHÁM PHÁ
TRONG DẠY HỌC MÔN SINH HỌC
LỚP 8 - TRUNG HỌC CƠ SỞ



LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM SINH HỌC







HÀ NỘI – 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC



NGUYỄN THÚY QUỲNH



VẬN DỤNG LÍ THUYẾT DẠY HỌC KHÁM PHÁ
TRONG DẠY HỌC MÔN SINH HỌC
LỚP 8 - TRUNG HỌC CƠ SỞ

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM SINH HỌC

CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
(BỘ MÔN SINH HỌC)
Mã số : 60 14 10

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Đức Thành




HÀ NỘI – 2012


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài 1
2. Mục đích nghiên cứu 2
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu 2
4. Giả thuyết nghiên cứu 2
5. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 2

6. Phương pháp nghiên cứu 3
7. Cấu trúc luận văn 4
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ĐỀ TÀI 5
1.1.Tổng quan các vấn đề nghiên cứu có liên quan đến đề tài 5
1.1.1.Trên thế giới 5
1.1.2.Trong nước 6
1.2.Cơ sở lí luận 8
1.2.1.Các quan niệm về dạy học khám phá 8
1.2.2.Một số khái niệm về dạy học khám phá 10
1.3. Cơ sở thực tiễn. 21
1.3.1. Phương pháp xác định 21
1.3.2. Thực trạng việc vận dụng dạy học khám phá trong dạy học sinh học 8
hiện nay. 22
1.3.3. Thực trạng học tập của học sinh trong chương trình sinh học 8 THCS
hiện nay. 25
1.3.3. Nguyên nhân của thực trạng. 28



Chương 2: VẬN DỤNG DẠY HỌC KHÁM PHÁ TRONG DẠY HỌC
MÔN SINH HỌC LỚP 8 31
2.1. Phân tích cấu trúc, nội dung sinh học 8 – THCS 31
2.1.1. Thành phần kiến thức 31
2.1.2. Nội dung 32
2.2. Tiềm năng vận dụng dạy học khám phá trong Sinh học 8 THCS 34
2.2.1. Đặc điểm nội dung chương trình 34
2.2.2. Đặc điểm sinh lí lứa tuổi 34
2.2.3. Phương tiện dạy học 35
2.3. Các biện pháp dạy học khám phá trong dạy học chương trình Sinh học 8.
35

2.3.1. Quy trình sử dụng các biện pháp dạy học khám phá để dạy học chương
trình Sinh học 8 - THCS. 35
2.3.2. Tổ chức cho học sinh khám phá kiến thức trong hình thành kiến thức
mới 36
2.3.3.Tổ chức cho học sinh khám phá kiến thức trong củng cố, hoàn thiện
kiến thức 49
2.4. Thiết kế bài dạy có sử dụng dạy học khám phá trong dạy học sinh học 8
THCS 53
Chương 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM 77
3.1. Mục đích 77
3.2. Nội dung thực nghiệm 77
3.3. Phương pháp 77
3.3.1. Chọn trường, lớp thực nghiệm. 77
3.3.2. Bố trí thực nghiệm 77


3.3.3. Phương pháp xử lí số liệu. 78
3.3.4. Kết quả thực nghiệm. 81
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 90
1.Kết luận 90
2.Khuyến nghị. 91
TÀI LIỆU THAM KHẢO 92
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
Chữ đầy đủ
DH
Dạy học

DHKP
Dạy học khám phá
ĐC
Đối chứng
HS
Học sinh
GV
Giáo viên
PP
Phương pháp
PPDH
Phương pháp dạy học
PPDHKP
Phương pháp dạy học khám phá
SGK
Sách giáo khoa
THCS
Trung học cơ sở
TN
Thực nghiệm













1

MỞ ĐẦU

1.Lí do chọn đề tài
1.1.Yêu cầu về đổi mới phương pháp dạy học
Bước sang thế kỉ XXI cùng với sự phát triển của một xã hội là sự bùng
nổ của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ đã đặt ra một yêu cầu cấp thiết
đối với sự nghiệp giáo dục đào tạo là phải đổi mới mục tiêu, nội dung,
phương pháp giáo dục.
Nghị quyết TW 2 khóa VIII (12/ 1997) đã xác định “phải đổi mới
phương pháp giáo dục đào tạo khắc phục lối truyền thụ kiến thức một chiều,
rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các
phương pháp tiến tiến hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và
thời gian tự học, tự nghiên cứu của học sinh”. Văn kiện Hội nghị lần thứ 9
Ban chấp hành TW khóa X tiếp tục khẳng định “Tập trung nâng cao chất
lượng giáo dục – đào tạo toàn diện, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Đổi mới phương pháo dạy học là một trong những nhiệm vụ quan trọng
của cải cách giáo dục nói chung và của cải cách bậc trung học cơ sở nói riêng.
Những năm trở lại đây, các trường trung học cơ sở đã có rất nhiều cố gắng và
luôn đặc biệt coi trọng việc đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính tích
cực của học sinh.
1.2.Ưu điểm của dạy học khám phá
Định hướng cơ bản của việc đổi mới giáo dục là chuyển từ nền giáo
dục mang tính hàn lâm, xa rời thực tiễn sang một nền giáo dục chú trọng hình
thành năng lực hành động, phát huy tính chủ động sáng tạo của người học. Đó
cũng là những xu hướng quốc tế trong cải cách phương pháp dạy học ở nhà

trường phổ thông hiện nay. Một trong những phương pháp đáp ứng được
những yêu cầu trên là dạy học khám phá. Dạy học khám phá là phương pháp
2

nhằm phát huy năng lực giải quyết vấn đề và tự học của học sinh thông qua
việc học nhóm. Dạy học khám phá giúp học sinh phát huy được nội lực, tư
duy tích cực, chủ động và sáng tạo. Thông qua các hoạt động đó, học sinh
được tự điều chỉnh tri thức và khơi dạy hứng thú học tập trong các em.
1.3.Đặc điểm môn học
Chương trình sinh học 8 tập trung kiến thức về sinh học cơ thể người
và vệ sinh. Đây là một nội dung rất hay vì nó là những kiến thức rất sát thực
với chính bản thân mỗi học sinh, rất dễ tạo được hứng thú học tập của các em.
Tuy nhiên, qua thực tiễn giảng dạy học sinh thường rất khó tiếp thu và lưu giữ
những kiến thức này vì vậy hứng thú của các em đối với môn học dễ bị giảm
đi gây ảnh hưởng đến hiệu quả dạy và học.
Với ba lí do trên tôi đã lựa chọn đề tài nghiên cứu:
“Vận dụng lí thuyết dạy học khám phá trong dạy học môn Sinh học
lớp 8 – Trung học cơ sở ”.
2. Mục đích nghiên cứu
Vận dụng dạy học khám phá để nâng cao chất lượng dạy học Sinh học
8-THCS.
3. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: các biện pháp tổ chức cho học sinh khám phá
kiến thức trong dạy học Sinh học 8.
- Khách thể nghiên cứu: quá trình dạy học Sinh học 8.
4. Giả thuyết nghiên cứu
Vận dụng phương pháp dạy học khám phá sẽ giúp học sinh nắm vững
kiến thức đồng thời phát triển năng lực tự học Sinh học 8 THCS.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
5.1. Nghiên cứu cơ sở lí luận về dạy học khám phá kiến thức sinh học nói

chung và khám phá trong dạy học sinh học 8 – THCS nói riêng.
5.2. Điều tra thực trạng dạy học khám phá trong dạy học Sinh học 8 hiện nay
3

5.3. Phân tích nội dung chương trình, tìm hiểu tiềm năng vận dụng dạy học
khám phá trong dạy học sinh học 8 – THCS.
5.4. Đề xuất các biện pháp tổ chức học sinh hoạt động tự khám phá kiến thức
trong chương trình Sinh học 8
5.5. Thiết kế bài dạy Sinh học 8 có sử dụng dạy học khám phá
5.6. Tiến hành thực nghiệm sư phạm để kiểm tra giả thuyết của đề tài
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lí thuyết
- Nghiên cứu các tài liệu về chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà
nước trong công tác giáo dục nói chung và công cuộc đổi mới phương pháp
dạy học theo hướng tích cực hóa người học, lấy học sinh làm trung tâm, lấy
việc tự học, tự khám phá của học sinh là chủ yếu.
- Nghiên cứu các tài liệu chuyên môn làm cơ sở lí thuyết cho đề tài.
6.2. Phương pháp điều tra sư phạm
- Điều tra, tìm hiểu về tình hình dạy và học theo hướng khám phá của
học sinh ở một số trường THCS thuộc Hà Nội.
- Dự giờ lên lớp và nghiên cứu giáo án của một số giáo viên, tìm hiểu
phương pháp dạy học tích cực trong dạy và học nói chung, để tổ chức hoạt
động khám phá nói riêng.
6.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
- Mục đích thực nghiệm: tổ chức thực nghiệm sư phạm tại trường
THCS để kiểm tra tính khả thi của phương án đã đề xuất.
- Phương pháp thực nghiệm: thực nghiệm được tiến hành song song tại
2 trường THCS thuộc quận Hoàng Mai: lớp 8B, 8C trường THCS Tân Định
và lớp 8A, 8E trường THCS Tân Mai.
6.4. Phương pháp thống kê toán học:

- Phân tích định lượng: sử dụng phần mềm Excel xử lí các số liệu trước
và sau thực nghiệm.
4

- Phân tích định tính.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị và tài liệu tham khảo luận
văn dự kiến trình bayd trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của dạy học khám phá.
Chương 2: Vận dụng dạy học khám phá trong dạy học Sinh học 8 ở
trường THCS
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm
















5



CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ĐỀ TÀI
1.1.Tổng quan các vấn đề nghiên cứu có liên quan đến đề tài
1.1.1.Trên thế giới
Theo như Socrat thì phương pháp vấn đáp đi từ những gì trẻ biết để
giúp trẻ vận dụng trực giác, tinh thần của mình để khám phá ra sự thật quá
hiển nhiên. Như vậy, theo ông dựa vào quan sát thế giới bên ngoài giúp trẻ
khám phá ra bản chất của những sự vật, hiện tượng được quan sát. Đây chính
là manh nha xuất phát của một khoa sư phạm hoạt động, một khoa sư phạm
thông qua sự quan sát thế giới bên ngoài mà đi vào những ý niệm bên trong.
Jerome Bruner (1915) là người có ảnh hưởng rất lớn tới việc nghiên
cứu học tập khám phá. Theo ông học tập khám phá là lối tiếp cận mà qua đó
học sinh được tương tác với môi trường của họ bằng cách khảo sát và thực
hiện các đối tượng, giải đáp thắc mắc và tranh luận hay biểu diễn thí nghiệm
và tất nhiên khi tự mình khám phá ra tri thức, các khái niệm học sinh sẽ hiểu
rõ vấn đề và từ đó học sinh cũng nhớ được lâu và nhiều hơn.
Vào những năm 20 ở Anh đã hình thành những” nhà trường mới” trong
đó đề ra phát triển năng lực trí tuệ cho học sinh. Khuyến khích các biện pháp
tổ chức hoạt động do chính học sinh tự lực khám phá kiến thức, chính học
sinh tự quản trong học tập. Xu hướng này nhanh chóng ảnh hưởng sang Mĩ và
các nước Châu Âu.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, ở Pháp cũng ra đời những “ Lớp học
mới” tại một số trường trung học thí điểm, mọi hoạt động đều tùy thuộc vào
sáng kiến hứng thú, lợi ích nhu cầu của học sinh, GV là người giúp đỡ, phối
hợp các hoạt động của học sinh, hướng học sinh vào sự phát triển nhân cách.
6

Cuối thế kỉ XIX nửa đầu thế kỉ XX Jonh Dewey đề ra những nguyên
tác giáo dục cho việc xây dựng “Nhà trường cho ngày mai”. Trong đó có

nguyên tắc: Giáo dục không phải là thu nhận, học bằng cách làm. Theo ông
cách làm ở đây phải là sáng kiến, khám phá thực, hiện. Giáo dục tất nhiên
không phải là tổ chức những kinh nghiệm của trẻ mà tổ chức chúng lại thành
kiến thức khác nhau.
Vào nửa đầu thế kỉ XX, nhà giáo dục Pháp Cuasinet Roger đã đề ra
phương pháp làm việc tư do theo nhóm trong quá trình học dựa trên quan
điểm dạy học hoạt động. Trong quá trình học tập phải tìm tòi, khám phá, phải
tìm hiểu những cuộc khảo cứu hay quan sát, phải cố gắng phân tích tìm hiểu
những gì mà mình thu nhận được. Như vậy, theo ông bằng cách nào đó đòi
hỏi ở trẻ sự cố gắng sáng tạo cá nhân để tự mình khám phá ra các tình huống
khác nhau, nhằm khơi dậy ở trẻ tinh thần nghiên cứu.
Năm 1970 ở Mỹ, đã xuất hiện ý tưởng dạy học cá thể hóa và đã được
đưa vào thử nghiệm ngần 200 trường. Trong đó GV xác định mục tiêu, cung
cấp các hướng dẫn để học sinh tiến hành hoạt động tự lực, tự khám phá ra
kiến thức mới theo nhịp độ phù hợp với năng lực.
Như vậy, quan niệm về DHKP trên thế giới được xuất hiện từ rất lâu và
theo thời gian chúng cũng được hiểu và thực hiện khám phá trong học tập
theo những cách khác nhau tuy nhiên chúng đêu hướng tới tích cực hóa học
động học tập của học sinh giúp học sinh phát triển các năng lực về tư duy và
các kĩ năng khác.
1.1.2.Trong nước
Ở Việt Nam vào những năm 1960, nhiều nghiên cứu về các biện pháp
tổ chức học sinh hoạt động tự lực, chủ động, sáng tạo ra kiến thức mới đã
được đặt ra. Nhưng các nghiên cứu hạn chế ở mức lý thuyết.
Tháng 1/1979 trong nghi quyết của Bộ chính trị vể cải tổ giáo dục, vấn
đề phát huy tính tích cực tự lực khám phá kiến thức của học sinh được quan
7

tâm và chú trọng, tạo một bước ngoặt mới cho ngành giáo dục. Nghị quyết chỉ
rõ: “ Cần coi trọng bồi dưỡng hứng thú, thói quen và phương pháp tự học của

học sinh. Hướng họ biết cách tự nghiên cứu SGK, sách báo khoa học, thảo
luận chuyên đề, tập làm thực nghiệm khoa học”. Đặc biệt sau nghị quyết
trung ương IV khóa VII ( tháng 2 năm 1993), nghị quyết trung ương II khóa
VIII ( Tháng 2 năm 1996) và ngần đây nhất là nghị quyết trung ương IV khóa
IX ( Tháng 4 năm 2002) của Đảng. Việc đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng phát huy hướng tích cực chủ động sáng tạo của học sinh đã trở thành
vấn đề quan trọng, cấp bách của ngành giáo dục trong giai đoạn hiện nay.
Điểm mấu chốt để phát huy tính tích cực của học sinh và nâng cao và nâng
cao chất lượng dạy học đó là giáo viên phải có phương pháp tổ chức các hoạt
động học tập khám phá cho học sinh để học sinh có thể tự lực khám phá kiến
thức cho từng bài học dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Đáp ứng những yêu
cầu đó, cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều bài báo, nhiều
tài liệu về phương pháp học tập tích cực nói chung và các biện pháp tổ chức
học sinh hoạt động khám phá nói riêng đã được công bố.
Một số luận văn có liên quan đến đề tài như: “ Bổ sung các hoạt động
khám phá trong dạy học sinh lớp 10 THPT Ban KHTN (Bộ II)” ( Võ Thị Hải,
2005); “Dạy học hình học các lớp cuối cấp THCS theo hướng bước đầu tiếp
cận phương pháp khám phá” ( Lê Võ Bình, 2006); “ Vận dụng phương pháp
dạy học khám phá trong phần địa lý lớp 4 ở cấp tiểu học” (Lê Thị Hoa, 2007);
“ Vận dụng phương pháp dạy học khám phá có hướng dẫn trong dạy học môn
toán lớp 4” ( Phạm Thị Hiếu,2008)
Một số bài báo có liên quan đến đề tài như: “Dạy học bằng các hoạt
động khám phá có hướng dẫn” ( Trần Bá Hoành, thông tin khoa học giáo dục
số 102); “Vận dụng phương pháp dạy học khám phá có hướng dẫn trong quá
trình dạy học toán ở phổ thông” (tạp chí giáo dục số (158,2007)
8

Các công trình nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau về tính tích
cực nhận thức, học tập của học sinh, song chưa có công trình nào nghiên cứu
có hệ thống về cở sở phương pháp dạy học khám phá và quy trình về phương

pháp dạy học khám phá cho sinh học lớp 8.
1.2.Cơ sở lí luận
1.2.1.Các quan niệm về dạy học khám phá
Rút xô J.J, nhà tư tưởng nhà giáo dục Pháp, kế tục triết học giáo dục
của Comenski Ia.A là giáo dục thích ứng với thiên nhiên và sự phát triển tư
tưởng đó bằng quan điểm “ tôn trọng thiên nhiên bao hàm sự tự do”. Trên cơ
sở quan điểm triết học giáo dục ông đã đề ra trong giáo dục phải dựa vào tính
tò mò tự nhiên, lòng khao khát của trẻ mà không phải dạy cho trẻ chân lí mà
chỉ dạy cho trẻ cách làm sao để lúc nào cũng có thể khám phá chân lí. Điều đó
đã khẳng định rằng quan điểm quan trọng của day học không phải là nhồi
nhét kiến thức thật nhiều, mà là sự cố gắng của cá nhân nắm vững phương
pháp khai thác tri thức.
Theo Distecvec nhà giáo dục người Đức thì người Thầy tồi là người
truyền chân lí cho người học, người thầy giỏi là người làm người học khám
phá ra chân lí.
Quan điểm của Jerome Bruner thì phương pháp “Bánh đúc bày sẵn” sẽ
làm cho học sinh mất đi cơ hội tự mình suy nghĩ. Theo ông, chương trình hiện
đại cần loại bỏ những sự kiện cốt lõi và nên dành thời gian cho việc kĩ năng tư
duy. Ông cho rằng học tập khám phá là lối tiếp cận dạy học mà qua đó học
sinh tương tác với môi trường của họ bằng cách khảo sát, sử dụng các đối
tượng, giải đáp thắc mắc bằng tranh luận hay biểu diễn thí nghiệm. Dự kiện
về các thông tin bình thường tẻ nhạt, những cái cần phải ghi nhớ quá nhiều,
học sinh cần được khuyến khích và được dạy cách tự do khám phá thông tin.
Việc học tập khám phá đòi hỏi cá nhân phải tham gia phải thực hiện chu trinh
tư duy để phát hiện ra điều đó đáp ứng cho nhu cầu của họ. Muốn vậy, người
9

học phải kết hợp với các kĩ năng như quan sát, so sánh, rút ra kết luận, làm rõ
số liệu để tạo ra một sự hiểu biết mới mà học sinh chưa từng biết trước đó.
Trong quá trình đó người dạy phải tải các thông tin cần học theo một phương

pháp phù hợp với khả năng hiểu biết hiện tại của học sinh.
Socrat cho rằng phương pháp vấn đáp đi từ những gì trẻ biết để giúp trẻ
vận dụng trực giác, khả năng và tinh thần của mình để khám phá ra sự thật
quá hiển nhiên. Ở đây chúng ta nhận ra manh nha của khoa học sư phạm hoạt
động, một khoa học dựa vào sự quan sát thế giới bên ngoài để giúp trẻ khám
phá ra bản chất của hiện tượng, sự vật được quan sát. Nói như cách Socrat
quan niệm là dựa vào sự quan sát thế giới bên ngoài đó để giúp trẻ đi vào thế
giới của những ý niệm.
R.C Sharma lại cho rằng phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung
tâm, toàn bộ quá trình dạy học đều hướng vào nhu cầu, khả năng lợi ích của
học sinh. Mục đích là phát triển ở học sinh kĩ năng và năng lực độc lập học
tập và giải quyết vấn đề Vai trò của giáo viên là tạo ra tinh huống để phát
triển vấn đề, giúp học sinh nhận biết vấn đề, lập giả thuyết làm sáng tỏ làm
thử nghiệm, các giả thuyết rút ra kết luận. Đây là một hướng trong DHKP cần
tiến hành.
Theo các nhà tâm lí học J.Piaget, nhận thức của con người là kết quả
của quá trình thích ứng với môi trường qua hai hoạt động đồng hóa và điều
tiết. Tri thức không hoàn toàn được truyền thụ từ người biết đến người chưa
biết mà nó được chính cá thể xây dựng từ những vấn đề mà người học cảm
thấy cần thiết và có khả năng giải quyết vấn đề đó thông qua tình huống cụ
thể họ sẽ kiến tạo nên tri thức cho riêng mình.
Như vậy, chúng ta khẳng định rằng DHKP đã được nhắc đến từ rất lâu
với quan niệm khác nhau nhưng nói chung cùng đề cập tới một đối tượng là
học sinh, làm thế nào để học sinh nắm được, nhớ được kiến thức lâu và nhiều
nhất và đây cũng là cơ sở cho học sinh học tập suốt đời.
10

1.2.2.Một số khái niệm về dạy học khám phá
1.2.2.1.Khái niệm khám phá
“ Khám phá” theo từ điển tiếng việt có nghĩa là tìm ra.

Khám phá là hoạt đông của con người tác động đến một đối tượng
nhằm tìm ra bản chất bên trong của đối tượng, nhưng điều mà con người chưa
từng biết trước đó.
Khám phá ( Inquiry) là một thuật ngữ chủ yếu sử dụng trong dạy học
các môn khoa học trong trường. Nó dùng để chỉ cách đặt câu hỏi, cách tìm
kiến thức hoặc thông tin, tìm hiểu về các hiện tượng, phát hiện ra những điều
còn ẩn bên trong các sự vật hiện tượng. Nó là một quá trình có mục đích của
việc chiếm lĩnh tri thức, giải quyết vấn đề, đồng thời nó cũng là cách thức,
con đường tìm kiếm những điều kì diệu và các vấn đề khó giải quyết từ đó
nhận biết được thế giới khách quan.
Nhiều nhà sư phạm khi nghiên cứu về các phương pháp dạy học đã tán
thành việc dạy các môn khoa học trong các loại hình trường khác nhau cần
chú trọng vào hoạt động khám phá.
Theo J.Richard Suchman, cha đẻ của chương trình DHKP được sử
dụng rộng rãi khắp nước Mỹ, khám phá là việc mọi người tự tìm hiểu về môi
trường của mình. Ông đưa ra một ví dụ cụ thể như sau: Thử nghĩ đến một
mình đứa trẻ ở sân chơi với những đồ vật mà nó tự do khám phá. Dứa trẻ
không cần đến sự dỗ dành mà ngay lập tức chúng bắt đầu khám phá các đồ
vật bằng cách sờ, kéo, đập, ném chúng và cố lấy chúng đi. Qua các hoạt động
đó, đứa trẻ học về các vật dụng, tìm hiểu các vật dụng tương tác với nhau như
thế nào bằng cách phát triển những ý tưởng của bản thân. Nói cách khác nó
tìm hiểu về các đồ vật bằng cách tự khám phá.
1.2.2.2. Khái niệm dạy học khám phá
Thuật ngữ DHKP (Inquiry teaching) được xuất hiện và sử dụng với tư
cách là một phương pháp dạy học tich cực. Tuy nhiên về nội dung hàm khái
11

niệm của nó cũng như việc áp dụng phương pháp dạy học này trong thực tế
vẫn còn nhiều ý kiến tranh luận khác nhau.
Theo Ferriere Jerome Bruner cho rằng: Dạy học khám phá là lối tiếp

cận dạy học mà qua đó, học sinh tương tác với môi trường của họ bằng cách
khảo sát, sử dụng các đối tượng giải đáp những thắc mắc bằng tranh luận hay
biểu diễn thí nghiệm. Việc học khám phá xảy ra khi các cá nhân phải sử dụng
quá trình tư duy để phát hiện ra ý nghĩa của điều gì đó trong bản thân họ. Để
có được điều này người học phải kết hợp quan sát và rút ra kết luận, thực hiện
so sánh làm rõ ý nghĩa số liệu để tạo ra một sự hiểu biết mới mà học sinh
chưa từng biết trước đó. Giáo viên cần cố gắng và khuyến khích học sinh tự
tìm ra nguyên lí, cả giáo viên và học sinh cần phải thực sự hòa nhập trong quá
trình dậy học. Nhiệm vụ của người dạy là chuyển tải các thông tin cần học
theo một phương pháp phù hợp với khả năng hiểu biết của học sinh. Chương
trình SGK cần được xây dựng theo hinh xoáy ốc để học tiếp tục xây dựng
kiến thức mới trên nền tảng kiến thức đã có. Tuy nhiên, Ferriere Jerome
Bruner khẳng định trong DHKP không phải học sinh tự khám phá tất cả các
dữ liệu thông tin mà họ chỉ khám phá ra sụ liên quan giữa các ý tưởng và các
khái niệm bằng cách sử dụng vốn hiểu biết sẵn có của mình. Đồng thời
Ferriere Jerome Bruner cũng chỉ ra 4 lí do cơ bản cho việc sử dụng phương
pháp khám phá:
- Thúc đẩy tư duy.
- Phát triển động lực bên trong hơn là tác động bên ngoài.
- Học cách khám phá.
- Phát triển trí óc.
Ông giải thích cho 4 lí do trên như sau:
Thứ nhất ông cho rằng, một cá nhân chỉ có thể học và phát triển trí óc
của mình bằng việc dùng nó.
12

Thứ hai ông giải thích rằng một khi đã thành công với phương pháp
khám phá, người học sẽ cảm thấy thỏa mãn với những gì mình làm. Người
học nhận được sự kích thích trí tuệ thỏa đáng, động lực thúc đẩy bên trong.
Nội lực thúc đẩy bên trong có vai trò quyết định đến sự thành bại trong việc

học tập của cá nhân.
Về lí do thứ ba ông nhấn mạnh rằng, cách duy nhất mà một người học
được về kĩ thuật khám phá là họ phải có cơ hội khám phá. Thông qua khám
phá, người học được hướng dẫn cách tổ chức và thực hiện các nghiên cứu của
mình.
Và cuối cùng ông khẳng định, một trong những kết quả tốt nhất của
khám phá đó là hỗ trợ và duy trì tốt hơn trí nhớ của người học làm cho trí nhó
dó có sức bền hơn.
Vậy có thể hiểu DHKP là quá trình dạy học mà trong đó dưới sự tổ
chức điều khiển, lãnh đạo, của nhà giáo dục nhằm làm cho người học tự giác,
tich cực, chủ động chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng, kĩ xảo bằng cách tìm tòi phát
hiện những thuộc tính bản chất, có tính quy luật còn đang ẩn dấu trong các sự
kiện, hiện tượng, trong các khái niệm định luật, tư tưởng khoa học.
Theo từ điển Long Man Dictionary of langue teaching and applied
linguicts: Dạy học khám phá là phương pháp dạy và học dựa trên những quy
luật sau:
- Người học phát triển tư duy liên quan đến việc khám phá và tìm hiểu
thông qua quá trình quan sát, phân loại, đánh giá, tiên đoán, mô tả và suy
luận.
- Giáo viên sử dụng một phương pháp giảng dạy đặc trưng hỗ trợ quá
trình khám phá và tìm hiểu.
- Giáo trình giảng dạy không phải là nguồn duy nhất cho người học.
- Kết luận được đưa ra với mục đích thảo luận chứ không phải là cuối
cùng.
13

- Người học phải lập kế hoạch, tiến hành và đánh giá quá trình học của
mình và sự hỗ trợ của giáo viên.
Dạy học khám phá là một phương pháp hướng dẫn, định hướng nhưng
không phải là phương pháp duy nhất mà các nhà sư phạm sử dụng. Khám phá

là sự tìm tòi tích cực, bao gồm nhiều quá trình mà qua đó biết kinh nghiệm trở
thành kiến thức.
Như vậy, DHKP là một quá trình trong đó dưới vai trò định hướng của
người dạy, người học chủ động việc học tập của bản thân, hình thành các câu
hỏi đặt ra trong tư duy mở rộng công việc nghiên cứu, tìm kiếm; từ đó xây
dựng nên những hiểu biết và tri thức mới. Những kiến thức này giúp cho
người học trả lời các câu hỏi, tìm giải pháp khác nhau để giải quyết các vấn
đề, chứng minh một định lí hay một quan điểm.
1.2.2.3.Tổ chức hoạt động khám phá trong học tập
Khác với quá trình nhận thức trong nghiên cứu khoa học, quá trình
nhận thức trong học tập không nhằm phát hiện những điều loài người chưa
biết mà nhằm lĩnh hội những tri thức mà loài người đã tích lũy được nhưng nó
là mới đối với bản thân người học. HS sẽ thông hiểu, ghi nhớ và vận dụng
linh hoạt những gì mình đã nắm được thông qua hoạt động chủ động tự lực
khám phá của chính mình. Đến một trình độ nhất định thì sự học tập khám
phá sẽ mang tính nghiên cứu khoa học và người học cũng làm ra những tri
thức mới cho khoa học.
Khám phá trong học tập không phải là một quá trình mò mẫm tự phát
như trong mô hình Skinơ mà là một quá trình có hướng dẫn của giáo viên,
trong đó GV khéo léo đặt HS vào địa vị người phát hiện lại, khám phá lại
những tri thức trong di sản văn hóa của loài người, của dân tộc. Bằng phương
pháp tổ chức các hoạt động khám phá GV để HS tự chiếm lĩnh tri thức mới.
Quan niệm về dạy học như vậy dựa trên lí thuyết hoạt động trong tâm lí học
14

dạy học được A.N.Leontiev, S.L.Rubinstein đặt nền móng từ những năm
1930 – 1940.
Hoạt động khám phá trong học tập là một chuỗi hành động và thao tác
trí tuệ hoặc cơ bắp hướng tới mục tiêu xác định. Hoạt động khám phá trong
học tập có nhiều dạng khác nhau, từ trình độ thấp đến trình độ cao tùy theo

năng lực tư duy của người học và được tổ chức thực hiện theo cá nhân, nhóm
nhỏ hoặc nhóm lớn, tùy theo mục đích phức tạp của vấn đề cần khám phá.
Hoạt động khám phá trong học tập có thể thực hiện dưới các dạng sau:
- Trả lời câu hỏi vấn đáp
- Lập bảng, điền bảng, sơ đồ
- Thảo luận, đề xuất ý tưởng về vấn đề nêu ra
- Giải bài tập
- Làm đề án, chuyên đề
Tuy nhiên, việc lựa chọn dạng hoạt động khám phá cũng như đưa vào
bài học chuỗi hoạt động khám phá cần phù hợp với trình độ của HS, với thời
lượng bài học và nội dung vấn đề cần khám phá.
1.2.2.4.Bản chất của biện pháp tổ chức hoạt động học tập khám phá
Đặc điểm của biện pháp DHKP đó là: Bằng những hướng dẫn của GV
tạo điều kiện cho HS thực hiện các hoạt động học tập của mình để tự tìm ra
đáp án.
GV tổ chức cho HS chiếm lĩnh tri thức bằng tìm tòi và phát hiện. Đăc
điểm này dựa trên quan điểm là: Sản phẩm của giáo dục là do người học tự
tạo ra, không ai có thể làm thay họ được, nếu không sản phẩm đó không còn
là của họ, không thể biến thành năng lực, sức mạnh, tinh thần và thể chất của
chính họ. Cũng nhe nhiều biện pháp DH theo hướng tích cực nói chung biện
pháp DHKP cũng đặt hoạt động của người học lên vị trí trung tâm. Người dạy
không còn đi trước để dẫn đường cho người học nữa mà họ cùng đi bên nhau
thậm chí đôi khi họ còn chủ động lùi lại phía sau để dìu họ đi.
15

Một nhà giáo dục người Mỹ đề ra đó là thuyết những chiều kích thích
của việc học (The dimension of learning):
- Thái độ và nhận thức
- Tiếp thu và tổng hợp kiến thức
- Mở rộng và tinh lọc kiến thức

- Sử dụng kiến thức một cách có hiệu quả
- Thói quen tư duy
Trong quá trình nhận thức các chiều kích thích này tác động phối hợp
với nhau; kích thích, khơi dạy những năng lực trí tuệ vốn có sẵn trong mỗi cá
nhân học sinh và phát huy năng lực hoạt động của mỗi cá nhân tùy theo tố
chất và trí tuệ của mỗi cá nhân bởi mỗi cá nhân là một cá thể lĩnh hội bằng
khám phá hoàn toàn khác với những cá nhân khác. Đối với các biện pháp
DHKP người dạy tổ chức điều khiển hoạt động học song không biến người
học thành bản sao chép của nhà giáo dục. Người học không còn là người tiếp
thu kiến thức một cách thụ động, một chiều từ nhà giáo dục như chúng ta
thường quen nghe theo kiểu thày giảng, trò ghi nhớ, mà trái lại dưới sự điều
khiển lãnh đạo của nhà giáo dục họ suy nghĩ, kết hợp với lắng nghe, trao đổi
suy nghĩ với bạn bè và người khác mà tự phát hiện từ nguồn thông tin phong
phú, đa dạng khác nhau, những dấu hiện bản chất đang ẩn dấu trong đó.
Tóm lại, biện pháp DHKP là những biện pháp GV sử dụng để hướng
dẫn HS thực hiện các thao tác, qua thực hiện các thao tác mà tự thu nhận phát
hiện kiến thức mới.
1.2.2.5.Đặc trưng của biện pháp tổ chức hoạt động học tập khám phá
Khi nói đến đặc trưng của biện pháp dạy học khám phá phải kể đến các
nhiệm vụ khám phá trong giờ học:
Nhiệm vụ khám phá là một tình huống trong học tập được giao cho học
sinh mà độ khó của nó sao cho HS có thể giải quyết được trong một thời gian
ngắn để bài có thể tiếp tục cùng với kết quả của lời giải mà HS đã đạt được.
16

Nội dung của nhiệm vụ khám phá phải phù hợp với nội dung bài học:
- Nhiệm vụ khám phá phải xuất hiện trên con đường tiến triển của bài
học.
- Nhiệm vụ khám phá có thể là một yêu cầu suy luận từ kết quả của một
thí nghiệm vừa mới thực hiện.

Nhiệm vụ khám phá có thể ra dưới hình thức một câu hỏi thuần túy
bằng lời sau khi giảng hoặc sau khi xem một đoạn phim, một mệnh lệnh, một
yêu cầu tìm kiếm ví dụ thực tế, một câu đố hoặc giải đáp một bức tranh vẽ sẵn
trên giấy phát cho HS, chiếu trên màn hình Tuy nhiên, các nhiệm vụ khá
phá không phải là một vấn đề quá khó mà HS không thể giải quyết ngay trong
giây phút mà cũng không quá dễ đến mức học sinh không cần tư duy, không
cần trao đổi với nhau vẫn có thể trả lời được ngay.
Nhiệm vụ khám phá phải hấp dẫn và được giao thẳng cho HS. Cần
phân biệt nhiệm vụ khám phá với các câu hỏi trong phương pháp dạy học
đàm thoại và những câu hỏi thông thường khác mà giáo viên đặt ra cho HS trả
lời chỉ với mục đích làm cho giờ học thêm sinh động. Tính hấp dẫn của nhiệm
vụ khám phá phụ thuộc vào nội dung tình huống (HS cảm giác dễ mà không
thể phát biểu được ngay mà cần tư duy, trao đổi ), phụ thuộc vào hình thức
ra tình huống (không đơn điệu, dí dỏm, có tính thực tế ), nó kích thích, cuốn
hút học sinh vào hoạt động học tập.
Hoạt động học tập giải quyết nhiệm vụ khám phá tập trung vào các
hoạt động nhóm, lớp học sinh động một cách thực sự.
Các phương tiện dạy học hiện đại sẽ tạo cho giáo viên thiết kế cũng
như giao nhiệm vụ khám phá trên lớp thêm phong phú.
Mỗi một nhiệm vụ khám phá được thiết kế có thể coi là một khám phá
của giáo viên nên biện pháp dạy học này có thể kích thích khám phá của giáo
viên.
17

Một đặc điểm khác của DHKP đó là một biện pháp có hạt nhân chính là
các hoạt động học tập của học sinh dựa trên cơ sở các kiến thức cũ đã biết kể
từ đó học sinh được tự mình tìm kiếm, phát hiện ra cái mới đối với chính bản
thân mình, dưới sự hỗ trợ của giáo viên thông qua hoạt động khám phá.
Tóm lại, đặc trưng của biện phám tổ chức trong DHKP là dựa vào
nhiệm vụ khám phá hay nhiệm vụ học tập mà đưa ra các hoạt động cụ thể để

HS dựa vào các hoạt động đó mà phát hiện kiến thức.
1.2.2.6. Tổ chức giải quyết các nhiệm vụ khám phá cho học sinh.
Phương pháp tổ chức dạy học nhóm là cách tổ chức DHKP có hiệu quả.
Song do hoàn cảnh lớp học, do thời gian… không phải lúc nào cũng tổ chức
nhóm được. Vì vậy có thể trao nhiệm vụ khám phá cho cả lớp bằng lời, bằng
hình chiếu, hình vẽ sẵn trên giấy, bằng một thí nghiệm đơn giản hoặc bằng
việc sử dụng các phương tiện hỗ trợ cho dạy học. Khi tổ chức DHKP cần chú
ý một số yêu cầu sau:
- Các nhiệm vụ khám phá phải được chuẩn bị trước trong giáo án (gồm
nội dung, hình thức giao nhiệm vụ, thời gian tiêu chí cho một nhiệm vụ).
Không được tùy tiện ra nhiệm vụ khám phá mà không có sự chuẩn bị trước
(ra tùy hứng tại lớp).
- Quản lí chặt chẽ thời gian (kể cả đối với GV) để bài học đi đúng tiến
độ.
- Việc HS tìm kiếm ra lời giải đúng (khám phá) là rất tốt song đó không
phải là mục đích duy nhất của DHKP nói chung, của mỗi nhiệm vụ khám phá
nói riêng. Việc tổ chức PPDH này sẽ tập cho các em thói quen tư duy trước
một tình huống (óc phê phán, sáng tạo, nhạy bén…), tạo cơ hội cho các em có
tác phong làm việc tập thể khi giải quyết một nhiệm vụ khó khăn (trao đổi,
thảo luận). Đây cũng là một cách thay đổi không khí học tập tích cực. Vì vậy
có thể có hai tình huống xảy ra khi giao nhiệm vụ khám phá cho HS. Đó là:
18

+ HS giỏi có thể trả lời ngay, giơ tay xin phát biểu. Trong trường hợp
này phải nói cho em đó biết chúng ta cần sự làm việc tập thể để mọi người
trao đổi, tìm kiếm.
+ Có thể cả lớp không giải quyết được nhiệm vụ khám phá. GV lúc này
cần đưa ra phương án gợi ý (đã chuẩn bị trước trong giáo án). Nếu thấy có
chiều hướng bế tắc thì thông báo kết quả và giải thích cách tìm kết quả để có
thể nhanh chóng tiếp tục tiến độ bài giảng.

Chính vì những yêu cầu chặt chẽ của DHKP như trên mà GV cần chuẩn
bị nghiêm túc, cẩn thận giáo án giờ dạy khám phá, nhất là các nhiệm vụ khám
phá, cả về nội dung và hình thức cũng như dự kiến trước các tình huống có
thể xảy ra khi trao nhiệm vụ khám phá cho HS để có phương án giải quyết.
1.2.2.7.Mối liên hệ giữa dạy học khám phá và dạy học tích cực.
Phương pháp dạy học tích cực là một thuật ngữ rút gọn được dùng ở
nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học.
“Tích cực” trong PPDH được dùng với nghĩa là hoạt động, chủ động
trái nghĩa với không hoạt động, thụ động chứ không dùng với nghĩa trái với
tiêu cực. PPDH tích cực hướng tới hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động
nhận thức của người học; nghĩa là tập trung phát huy tính tích cực của người
học chứ không phải là tập trung vào phát huy tính tích cực của người dạy.
Dạy học khám phá và dạy học tích cực có quan hệ mật thiết với nhau.
Dạy học khám phá và dạy học tích cực có bản chất như nhau là cùng giúp HS
tìm ra kiến thức, tuy nhiên DHKP nhấn mạnh nguồn gốc kiến thức mang lại
cho học sinh (HS tự lực khám phá kiến thức có hướng dẫn hoặc không có
hướng dẫn của GV) còn dạy học tích cực nhấn mạnh tính chủ động cao hay
thấp trong hoạt động học tập của học sinh.
1.2.2.8. Những điều kiện để áp dụng dạy học bằng các hoạt động khám phá.
19

- HS phải có những kiến thức, kỹ năng cần thiết để thực hiện các hoạt
động khám phá có hiệu quả do GV tổ chức.
- Sự hướng dẫn của GV cho mỗi hoạt động phải ở mức cần thiết thì
mới lôi cuốn được HS. Nếu làm thay cho HS thì không còn gì để HS phải tìm
tòi. Nếu mà hướng dẫn quá sơ lược thì đa số HS lại không tham gia được vào
quá trình tìm tòi, phát hiện.
- GV phải giám sát việc thực hiện các hoạt động của HS, biết gần gũi
HS phát hiện kịp thời những nhóm đi chệch hướng. Nếu đó là một bài tập

tương đối dài thì có thể ngắt đoạn ra và giữa chừng phải có các nhóm thông
báo sơ bộ kết quả thu được để trên cơ sở đó mình có thể hướng dẫn cho tất cả
các nhóm đi tới mục tiêu đã định.
- Dạy học bằng các hoạt động khám phá đòi hỏi nhiều thời gian. Nội
dung sách giáo khoa phải gọn nhẹ để cả thầy và trò có đủ thời gian cần thiết
thực hiện các hoạt động. Hiện nay sách giáo khoa đã thay đổi chuyển từ cách
viết thông báo, giải thích, minh họa sang cách viết tổ chức các hoạt động học
tập. Do đó việc dạy học bằng tổ chức các hoạt động khám phá cũng có nhiều
thuận lợi hơn.
1.2.2.9. Những ưu và nhược điểm của DHKP
- Những ưu điểm của DHKP:
+ HS coi việc học là của mình, tính tích cực chủ động được phát huy.
Một trong những nguyên tắc của việc học đã chỉ ra rằng, người học
tham dự vào quá trình học càng nhiều thì càng học được nhiều hơn. Thường
từ khi GV nghĩ về khái niệm học, học thường cho rằng HS chỉ là người tiếp
thu kiến thức chứ không phải là người xử lí thông tin. Đây là một nhìn nhận
hạn chế về HS vì thực chất việc học phải bao gồm cả khía cạnh tổng thể nhằm
xây dựng HS với đầy đủ các khả năng.
+ Hoạt động khám phá tạo ra hứng thú, đem lại nguồn vui, thúc đẩy
hoạt cơ trong của quá trình học tập.

×