Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Vận dụng lý thuyết hoạt động giao tiếp vào dạy học các bài phong cách học lớp 10 Trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.07 MB, 99 trang )



1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC





NGUYỄN THỊ PHƯƠNG LOAN





VẬN DỤNG LÝ THUYẾT HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP
VÀO DẠY HỌC CÁC BÀI PHONG CÁCH HỌC
LỚP 10 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG





LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN










CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
(BỘ MÔN NGỮ VĂN)
Mã số : 60 14 10






























HÀ NỘI - 2012


ii
MỤC LỤC

Trang
Lời cảm ơn
i
Mục lục
ii
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN
DỤNG LÝ THUYẾT HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP BẰNG NGÔN NGỮ

7
1.1. Cơ sở lý luận
7
1.1.1. Cơ sở ngôn ngữ học
7
1.1.2. Cơ sở tâm lý - ngôn ngữ
8
1.1.3. Cơ sở giáo dục học
1
1.1.4. Lý thuyết về hoạt động giao tiếp
11

1.2. Cơ sở thực tiễn
26
1.2.1. Yêu cầu về chuẩn kiến thức, kĩ năng
26
1.2.2. Thực trạng dạy và học Tiếng Việt lớp 10 hiện nay
27
Chƣơng 2: ĐỊNH HƢỚNG DẠY CÁC BÀI PHONG CÁCH
HỌC THEO LÝ THUYẾT HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP

30
2.1. Nội dung chương trình Tiếng Việt trong SGK Ngữ văn 10
30
2.2. Quan điểm giao tiếp với nội dung dạy học bài phong cách học Tiếng
Việt 10

31
2.3. Quan điểm giao tiếp với việc xác định các kĩ năng sử dụng
tiếng Việt cần rèn luyện cho học sinh

22
2.3.1. Kĩ năng tiếp nhận lời nói
32
2.3.2 . Kĩ năng sản sinh lời nói
33
2.4. Quan điểm giao tiếp với việc tổ chức dạy học bài phong cách học
Tiếng Việt 10

35
2.4.1. Quan điểm giao tiếp với việc lựa chọn, sử dụng các phương pháp
dạy học Tiếng Việt


35
2.5. Quan điểm giao tiếp với việc lựa chọn, sử dụng hình thức tổ chức
dạy học Tiếng Việt

43
2.6. Hướng khai thác các bài học phong cách học Tiếng Việt theo
lý thuyết giao tiếp

47


iii
2.6.1. Bài phong cách ngôn ngữ sinh hoạt
49
2.6.2. Bài Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật
53
2.7. Tiểu kết chương 2
58
Chƣơng 3: THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM
59
3.1. Các yêu cầu cơ bản của thực nghiệm
59
3.1.1. Mục đch thực nghiệm
59
3.1.2.Nhiệ m vụ thực nghiệm
59
3.1.3.Đối tượng thực nghiệm
60
3.1.4. Nguyên tắ c tiế n hà nh thự c nghiệ m

60
3.1.5. Phương phá p thự c nghiệ m
60
3.1.6. Tiêu ch đánh giá kết quả thực nghiệm sư phạm
61
3.2. Nội dung thực nghiệm
61
3.2.1. Chuẩn bị thực nghiệm
61
3.2.2. Tiến hành thực nghiệm
62
3.2.3. Phương pháp xử lý kết quả thực nghiệm
82
3.3. Kết quả thực nghiệm
83
3.3.1. Đánh giá về hiệu quả giờ học
83
3.3.2. Đánh giá qua bài làm của học sinh
87
3.4. Tiểu kết chương 3
89
KẾT
LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
90
1. Kết luận
90
2. Khuyến nghị
91
TÀI LIỆU THAM KHẢO
93

PHỤ
LỤC

95









1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong các môn học ở nhà trường phổ thông, môn Ngữ văn nói chung
hay Tiếng Việt nói riêng là một trong những môn học quan trọng, nó giúp học
sinh sử dụng đúng và linh hoạt từ ngữ, ứng dụng một cách có hiệu quả vào
trong hoạt động giao tiếp trong cuộc sống hàng ngày.
Nhờ có môn học này mà học sinh có thể biết cách sử dụng đúng và hay
vốn ngôn ngữ của mình sao cho phù hợp với nội dung cần diễn đạt.
Những năm gần đây, chương trình đã có sự thay đổi, từ 3 môn học riêng biệt:
Văn học, Tiếng việt và Tập làm văn đã được hợp nhất thành bộ môn Ngữ văn,
dạy và học theo quan điểm tch hợp. Như vậy, ở cấp học Trung học phổ thông
Tiếng Việt không còn là một môn học riêng mà chỉ đan xen thành từng bài
trong môn Ngữ văn. Việc dạy Tiếng Việt chưa được chú trọng nhiều. Có
nhiều ý kiến cho rằng dạy học văn hiện nay có nhiều khó khăn, cho nên, các
thầy cô chỉ chú trọng vào dạy văn, dạy học sinh cảm thụ văn học còn phần
Tiếng Việt có phần lơ là.

Có rất nhiều nghiên cứu đưa ra phương pháp dạy học làm văn, Tiếng
Việt ở phổ thông: phương pháp giao tiếp, phương pháp vận động, phương
pháp tích cực hóa hoạt động của học sinh…Trong đó, phương pháp giao tiếp
được coi là quan trọng hàng đầu. Khi dạy Tiếng Việt, thay vì lý thuyết nhàm
chán, người giáo viên có thể vận dụng ngay những lý thuyết ấy vào hoạt động
giao tiếp hàng ngày để các em hiểu và áp dụng. Phương pháp này sẽ tạo hứng
thú riêng cho các em, vừa để các em phát huy vốn ngôn ngữ sẵn có của mình,
vừa để các em luyện tập trau dồi và học hỏi thêm dựa vào tri thức thực tế.
Hiện nay trong những giờ dạy học Tiếng Việt phần lớn giáo viên đều chưa
biết nhiều về lý thuyết hoạt động giao tiếp, chưa có một hình thức tổ chức
giao tiếp cho hiệu quả, chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc vận
dụng phương pháp này vào bài dạy Tiếng Việt.


2
Trước thực trạng trên, chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Vận dụng lý
thuyết hoạt động giao tiếp vào dạy học các bài phong cách học lớp 10
Trung học phổ thông”.
Trong đề tài này, chúng tôi đề ra phương pháp dạy học Tiếng Việt dựa
trên lý thuyết về hoạt động giao tiếp giúp cho việc dạy và học bài phong cách
học nói riêng và Tiếng Việt ở lớp 10 nói chung đạt kết quả cao.
2. Lịch sử vấn đề
Các nhà nghiên cứu theo khuynh hướng chức năng đề cao chức năng
giao tiếp của ngôn ngữ. Họ cho rằng cần phải tập trung vào việc phát triển năng
lực giao tiếp hơn là chỉ dạy cho người học cách nắm vững các cấu trúc. Các học
giả đầu tiên chủ trương quan điểm này là Widdowson H.G (1972), Wilkins D.A
(1972), Candlin C.N (1976), Brumfit C.J và Johnsonk (1979). Họ đã dựa vào
công trình nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học chức năng Anh (John Firth
M.A.K. Halliday (1970)), công trình nghiên cứu về xã hội học của các nhà
nghiên cứu Mĩ (Hymes D. và Gumperz J.J (1972), Labov W. (1972)) và các

kết quả nghiên cứu ngữ dụng học của Austin J.L (1962) và Searle J.R (1969),
để đề ra cơ sở l luận cho đường hướng dạy học tiếng theo quan điểm chức
năng hay còn gọi là quan điểm giao tiếp. Từ giữa những năm 70 đường hướng
dạy học theo quan điểm này được phát triển rộng rãi ở Anh và Mĩ. Mục đch
chnh của nó là làm cho năng lực giao tiếp trở thành mục tiêu chnh của việc
dạy và học tiếng.
Khi bàn về những quan điểm tâm lý học hoạt động có liên quan đến việc
dạy và học ngôn ngữ, Trương Dĩnh đã đề cao quan điểm dạy học bản ngữ dựa
trên lý thuyết hoạt động lời nói. Ông khẳng định: “ Trên quan điểm coi hoạt
động lời nói trong giao tiếp như mục đích dạy học, dạy ngôn ngữ,và đặc biệt là
bản ngữ, phải thông qua hoạt động giao tiếp giữa thầy và trò để tổ chức cho
học sinh phân tích mẫu hành vi lời nói trong giao tiếp, quan sát hành vi lời nói
giao tiếp trong thực tiễn nghiên cứu các văn bản giao tiếp trích dẫn để nâng


3
cao ý thức, quy tắc về giao tiếp bản ngữ, mặt khác, trên cơ sở đã có ý thức về
năng lực giao tiếp, tổ chức cho học sinh sáng tạo các lời nói trong giao tiếp (…)
tức là dạy cho học sinh ứng xử sáng tạo trong giao tiếp ở môi trường có tính
thực tiễn nhất của đời sống” (Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn về dạy và học
Tiếng việt ở trường trung học, TP. HCM, 1998). Đồng thời tác giả cũng coi
trọng việc xây dựng các bài tập tình huống để rèn luyện năng lực giao tiếp cho
học sinh. Đây cũng là cơ sở góp phần làm cho việc dạy Tiếng Việt đạt hiệu quả
cao hơn.
Lê A khi bàn về phương pháp giao tiếp đã nói “ Phương pháp giao tiếp là
phương pháp quan trọng trong dạy học Tiếng việt. Phương pháp giao tiếp là
phương pháp hướng dẫn học sinh vận dụng lý thuyết được học vào thực hiện các
nhiệm vụ của quá trình giao tiếp, có chú ý đến đặc điểm và các nhân tố tham
gia vào hoạt động giao tiếp” [Lê A. 2006. 69-70]. Đặc biệt các tác giả còn
nhấn mạnh “ Phương pháp này có thể được áp dụng khi dạy học từ ngữ, câu,

phong cách và đặc biệt là trong các bài học thuộc phân môn Tiếng việt “ [Lê
A. 2006. 70]
Trịnh Thị Lan có bài viết khá hay về Yêu cầu đối với việc thiết kế bài
tập tiếng việt dƣới ánh sáng của lý thuyết hoạt động giao tiếp “Theo quan
điểm dạy học tiếng việt hướng vào hoạt động giao tiếp, việc thiết kế bài tập
tiếng việt phải đảm bảo phục vụ cho việc phát triển khả năng giao tiếp cho học
sinh. Dạy học Tiếng Việt sử dụng phương pháp giao tiếp như là phương pháp tổ
chức dạy học quan trọng nhất. Phương pháp giao tiếp là phương pháp hướng
dẫn học sinh vận dụng lý thuyết được học vào thực hiện các nhiệm vụ của quá
trình giao tiếp, có chú ý đến đặc điểm và các nhân tố tham gia vào hoạt động
giao tiếp”. ().
Một trong số những người nghiên cứu về dạy Tiếng Việt trung học phổ
thông theo tình huống giao tiếp - Lê Thị Bích Hồng đã khẳng định sự cần thiết
phải sử dụng tình huống giao tiếp trong dạy Tiếng Việt: “Trong dạy học, để


4
giúp học sinh tích cực chủ động, huy động mọi vốn sống, tri thức, kinh nghiệm
của mình vào hoạt động tìm kiếm tri thức mới hay giải quyết các tình huống
mới, tăng cường khả năng suy nghĩ độc lập, sáng tạo, chủ động điều chỉnh nhận
thức, lời nói và hành vi, giáo viên cần xây dựng các tình huống giao tiếp” (Dạy
học Nghĩa của câu ở trung học phổ thông theo tình huống giao tiếp, Giáo dục,
số 175, kì 2 – 10/2007). Trong bài viết, tác giả đã đưa ra những định nghĩa
tương đối đầy đủ về tình huống giao tiếp, đồng thời xác định các đặc điểm cơ
bản cũng như những yêu cầu cần thiết của một tình huống giao tiếp trong giờ
học tiếng; từ cơ sở đó, tác giả mô tả khái quát quy trình thực hiện một tình
huống giao tiếp trong giờ dạy Tiếng Việt.
Giáo trình Ngữ nghĩa học (dùng cho giáo viên và sinh viên ngành giáo
dục tiểu học) (Nguyễn Thị Ly Kha, Vũ Thị Ân, Nxb Giáo dục, 2008) có đề cập
đến vấn đề dạy học nghĩa của từ, câu, đoạn văn, văn bản theo quan điểm giao

tiếp. Do mục đích và giới hạn của giáo trình, những vấn đề về dạy nghĩa của từ,
câu, đoạn văn, văn bản ở đây chỉ dừng lại ở giới hạn dạy học cho học sinh tiểu
học. Tuy nhiên, người quan tâm vẫn có thể tìm thấy ở đây những định hướng,
những gợi ý cho việc dạy học các đơn vị mang nghĩa theo quan điểm giao tiếp
cho học sinh trung học.
Mặc dù các giáo trình, các tài liệu và các bài viết trên không đề cập trực
tiếp đến vấn đề mà đề tài này quan tâm nhưng chính các công trình trên là
những định hướng, những gợi ý quý báu giúp người thực hiện đề tài này có
hướng nghiên cứu về nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học Tiếng
Việt dựa trên lý thuyết về hoạt động giao tiếp.
3. Đối tƣợng nghiên cứu
Trong đề tài nghiên cứu này, chúng tôi hướng đến những đối tượng sau:
- Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Trung học phổ thông, cụ thể là lớp 10,
nghiên cứu những yếu tố còn tồn đọng gây khó khăn cho việc dạy và học Tiếng
Việt. Từ đó đề ra hướng khắc phục và những giải pháp để dạy Tiếng Việt theo


5
quan điểm giao tiếp đạt hiệu quả. Ở đây người viết sẽ đi sâu vào những giải pháp
gắn liền với hoạt động giao tiếp.
- Đề xuất quy trình, cách thức tổ chức hoạt động dạy học dựa trên cơ sở về lý
thuyết giao tiếp và thử nghiệm vận dụng vào thực tế khi tiến hành dạy học một
số bài thuộc phân môn Tiếng Việt ở lớp 10 theo quan điểm giao tiếp.
4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung vào nghiên cứu những vấn đề cơ bản sau
- Mức độ truyền đạt nội dung l thuyết, nội dung thực hành Tiếng Việt của giáo
viên trên lớp và mức độ hiểu, vận dụng l thuyết vào thực hành Tiếng Việt của
học sinh.
- Khả năng học sinh vận dụng những kiến thức Tiếng Việt đã biết vào trong
sinh hoạt hàng ngày; khả năng sử dụng linh hoạt Tiếng Việt vào từng hoàn cảnh

và đối tượng giao tiếp cụ thể.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trong đề tài nghiên cứu này thể hiện các nhiệm vụ sau
- Nghiên cứu lý thuyết giao tiếp: tập trung các nhân tố chi phối quá trình giao tiếp
bằng ngôn ngữ như: nhân vật giao tiếp, hoàn cảnh giao tiếp, nội dung giao tiếp,
phương tiện giao tiếp, mục đch giao tiếp.
- Nghiên cứu nội dung, kiểu loại bài Tiếng Việt, mục tiêu, phương pháp dạy
Tiếng Việt lớp 10
- Vận dụng thiết kế bài Tiếng Việt 10 theo quan điểm giao tiếp, thực nghiệm so
sánh dạy học theo phương pháp cũ và phương pháp mới.
- Đề xuất những giải pháp thiết thực để nâng cao hiệu quả dạy bài phong cách
học Tiếng Việt theo quan điểm áp dụng cơ sở lý thuyết giao tiếp.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp điều tra, khảo sát


6
- Phương pháp thực nghiệm
- Phương pháp thống kê
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục, luận văn được trình bày trong ba chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc vận dụng lý thuyết hoạt
động giao tiếp bằng ngôn ngữ vào dạy học bài phong cách học Tiếng Việt 10
Trung học phổ thông
Chƣơng 2: Định hướng dạy các bài phong cách học theo lý thuyết hoạt
động giao tiếp bằng ngôn ngữ.
Chƣơng 3: Thực nghiệm.



7
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN DỤNG
LÝ THUYẾT HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP BẰNG NGÔN NGỮ
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Cơ sở ngôn ngữ học
Thuật ngữ “năng lực giao tiếp” tuy xuất hiện sau thuật ngữ “năng lực
ngôn ngữ” nhưng nhờ sự xuất hiện ấy mà “năng lực giao tiếp” đã làm thay
đổi quan điểm dạy học Tiếng Việt hiện nay, trở thành mục đch cuối cùng của
việc dạy và học Tiếng Việt.
Khái niệm “năng lực giao tiếp” được hiểu thông qua sự đối lập với khái
niệm “năng lực ngôn ngữ”. Năng lực ngôn ngữ là khả năng của con người tạo
ra được những câu đúng trên cơ sở nắm vững những kiến thức ngữ pháp, từ
vựng, ngữ âm, tu từ…của ngôn ngữ đó. Còn năng lực giao tiếp đó là việc lựa
chọn và hiện thực hóa những chương trình của hành vi lời nói tùy thuộc vào
khả năng định hướng trong hoàn cảnh này hoặc khác, khả năng phân loại các
tình huống sao cho phù hợp với chủ đề, nhiệm vụ và mục đch giao tiếp ở
người học trước khi giao tiếp, trong khi giao tiếp và trong quá trình mô phỏng
các tình huống giống và gần giống như giao tiếp thực. Nói cách khác, năng
lực giao tiếp chnh là khả năng tham gia vào giao tiếp.
Có thể nói, việc chọn năng lực giao tiếp làm mục đích cuối cùng của việc
dạy- học ngôn ngữ dựa trên cơ sở ngôn ngữ học chức năng hay còn gọi là
ngôn ngữ học giao tiếp mà những luận điểm cơ bản của nó có thể được trình
bày rút gọn như sau:
Giao tiếp với tư cách là một dạng hoạt động đặc biệt của con người nhằm
củng cố mối quan hệ và được sử dụng để truyền đạt thông tin giữa người và
người. Ở đây, có hai mặt phản ánh qua lại, mặt ngôn ngữ và mặt xã hội vì bất
cứ một phát ngôn nào cũng được sản sinh trong một tình huống cụ thể có kèm

theo một nền rất rộng các điều kiện tạo ra tình huống ấy.


8
Ngôn ngữ được sử dụng có tnh đến tình huống giao tiếp và sự ảnh hưởng
tới những đặc điểm tâm lý cá thể trong việc sử dụng từ ngữ của người tham
gia giao tiếp, có nghĩa là có tnh đến hiệu quả ứng dụng, điều đó loại trừ khả
năng tồn tại những phát ngôn riêng biệt được tạo nên ngoài ngữ cảnh giao
tiếp.
Đơn vị giao tiếp là loại hành động lời nói nhất định hoặc hành vi lời nói
khẳng định yêu cầu hỏi han, xin lỗi, cảm ơn…
Việc hình thành ý định lời nói xảy ra trước khi sản sinh hành vi lời nói.
Khi hình thành ý định lời nói có tnh đến sự hiểu biết ban đầu về mục đch,
đối tượng giao tiếp, địa điểm và thời gian của phát ngôn.
Nói tóm lại, theo những luận điểm trên đây thì dạy- học ngôn ngữ là đi
theo con đường từ nội dung đến hình thức ngôn ngữ để biểu đạt. Ngôn ngữ là
phương tiện để thực hiện những phát ngôn cụ thể. Dạy hoạt động ngôn ngữ
(tức là dạy năng lực giao tiếp) chứ không phải dạy hệ thống ngôn ngữ thuần
túy. Tuy nhiên, trong quá trình dạy- học hai mặt năng lực ngôn ngữ và năng
lực giao tiếp thống nhất biện chứng với nhau. Dạy năng lực giao tiếp không
thể tách rời các hiện tượng ngôn ngữ, ngược lại, những kiến thức của hệ thống
ngôn ngữ chỉ được xây dựng và củng cố trên cơ sở nắm được các kỹ năng lời
nói.
1.1.2. Cơ sở tâm lý - ngôn ngữ
Theo quan điểm tâm lý học hoạt động do nhà tâm lý học người Nga
L.S.Vư-gootsxki và trường phái của ông đề xướng thì hoạt động lời nói là một
dạng hoạt động đặc biệt của con người, mà hoạt động thì bao gồm nhiều hành
động riêng lẻ và mỗi hành động được tạo thành từ nhiều thao tác riêng biệt.Từ
đó suy ra đơn vị dạy- học ngôn ngữ phải là hành động lời nói.
Dạy hành động lời nói cần phải xem xét trên quan điểm: Dạy ai? Dạy cái

gì?, Dạy để làm gì? và Dạy như thế nào?. Đối với việc dạy hoạt động lời nói,
sự thống nhất giữa các mặt chức năng và hình thức của nó là đều có ý nghĩa


9
rất quan trọng bởi vì hình thức ngôn ngữ không thể có được nếu thiếu mặt
chức năng. Nếu mục đch của việc dạy- học là hoạt động lời nói thì hình thức
và chức năng cần phải được hình thành đồng thời, hơn thế, cơ sở để hình
thành hoạt động lời nói phải là chức năng giao tiếp của ngôn ngữ.
Phương pháp dạy học Tiếng Việt vận dụng rất nhiều thành tựu của Tâm lý
học. Đó là các quy luật tiếp thu tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo. Giáo
viên cần biết, sản phẩm lời nói được sản sinh ra như thế nào, quá trình học
được thiết lập từ những yếu tố nào, khái niệm ngữ pháp được hình thành ở
học sinh ra sao, vai trò của ngôn ngữ trong sự phát triển tư duy ra sao, kỹ
năng nói, viết được hình thành như thế nào? những nghiên cứu Tâm lý học
cho phép chúng ta xác định mức độ vừa sức của tài liệu học tập.
Mặt khác, Tâm lý ngôn ngữ học đem lại cho phương pháp những số liệu
về lời nói như một hoạt động, ví dụ như việc xác định tình huống nói năng,
các giai đoạn sản sinh lời nói, tính hiệu quả, sự tác động của lời nói trong giao
tiếp giữa cá thể với nhiều người.
Quan hệ của phương pháp học Tiếng Việt và Tâm lý học, đặc biệt là Tâm
lý học lứa tuổi rất chặt chẽ. Không có kiến thức về quá trình tâm lý người nói
chung và tâm lý học sinh trung học phổ thông nói riêng thì không thể giảng
dạy tốt và phát triển ngôn ngữ cho các em.
Kiến thức thu nhận được từ con đường tự khám phá mới là kiến thức vững
chắc nhất, đáng tin cậy nhất. Người Mỹ có câu châm ngôn “Nói cho tôi thì tôi
sẽ quên. Cho tôi xem thì tôi có thể sẽ nhớ. Cho tôi tham gia thì tôi sẽ hiểu.”
Người Việt Nam ta cũng có một cách nói tương tự: “ Trăm nghe không bằng
một thấy, trăm thấy không bằng một làm”. Cách đây hơn 25 thế kỷ, Khổng Tử
cũng nói: “Tôi nghe- tôi quên. Tôi nhìn- tôi nhớ. Tôi làm- tôi hiểu”. Quan

điểm học phương Tây đã mở rộng câu nói của Khổng Tử thành luận điểm
phương pháp học chủ động (the active learning credo): “Tôi nghe- tôi quên.
Tôi nghe và nhìn- tôi nhờ chú ít. Tôi nghe, nhìn, hỏi hoặc thảo luận- tôi bắt


10
đầu hiểu. Tôi nghe, nhìn, hỏi, thảo luận và thực hành- tôi bắt đầu học được kỹ
năng và kiến thức. Tôi dạy cho người khác- tôi thành thạo”. Các chuyên gia
giáo dục người Mỹ còn nghiên cứu và đưa ra tỉ lệ mức độ tiếp thu trung bình
của người học từ các phương thức dạy học: Thuyết giảng: 0,5%, đọc: 10%;
nghe nhìn: 20%; mô tả, trình bày: 30%; thảo luận nhóm: 50%; thực hành:
75%; Dạy cho người khác hoặc ứng dụng ngay của việc học: 90%”. (Tạp ch
Giáo dục, số 229, 1/2010). Như vậy, hầu hết các ý kiến và quan điểm nghiên
cứu phương Đông và phương Tây đều khẳng định tầm quan trọng của việc tổ
chức hoạt động học tập ở người học.
1.1.3. Cơ sở giáo dục học
Phương pháp dạy học Tiếng Việt là một bộ phận của khoa học giáo dục
nên nó phụ thuộc vào những quy luật chung của khoa học này. Giáo dục học
nói chung, Lý luận dạy học đại cương nói riêng cung cấp cho phương pháp
dạy học Tiếng Việt những hiểu biết về các quy luật chung của việc dạy học
môn học. Mục đch của phương pháp dạy học Tiếng Việt cũng như các khoa
học giáo dục nói chung là tổ chức sự phát triển tâm hồn và thể chất của học
sinh, chuẩn bị cho các em đi vào cuộc sống lao động trong xã hội mới. Quan
hệ của phương pháp dạy học Tiếng Việt với khoa học giáo dục thể hiện ở chỗ
phương pháp được một hệ thống giáo dục tạo ra và làm cơ sở. phương pháp
dạy học Tiếng Việt sử dụng các khái niệm, thuật ngữ của Giáo dục học. Nó
hiện thực hóa mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục do Giáo dục học đề ra- phát triển
tr tuệ, hình thành thế giới quan khoa học, phát triển tư duy sáng tạo cho học
sinh, giáo dục tư tưởng đạo đức, phát triển óc thẩm mỹ giáo dục tổng hợp và
giáo dục lao động. trong phương pháp dạy học Tiếng Việt có thể tìm thấy các

nguyên tắc cơ bản của Lý luận dạy học: nguyên tắc giáo dục và phát triển của
dạy học, nguyên tắc vừa sức, nguyên tắc khoa học, nguyên tắc hệ thống,
nguyên tắc gắn liền lý thuyết với thực hành, nguyên tắc trực quan, nguyên tắc
tiếp cận cá thể và phân hóa trong dạy học…


11
Phương pháp dạy học Tiếng Việt vận dụng những nguyên tắc này theo đặc
trưng riêng của mình. Ví dụ nguyên tắc gắn liền lý thuyết và thực hành trong
phương pháp dạy học Tiếng Việt đòi hỏi một hoạt động lời nói thường xuyên,
biểu hiện ý nghĩa bằng lời nói, viết, cùng với việc thường xuyên vận dụng
những hiểu biết lý thuyết trong bài tập. Nhiệm vụ phát triển lời nói đã quy
định việc xây dựng chương trình Tiếng Việt mà tất cả các phân môn đều có
mục đch phát triển bốn kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết. Thực hiện nguyên tắc
trực quan trong giờ Tiếng Việt không chỉ là việc sử dụng sơ đồ, bảng biểu,
dung chữ viết sẵn, phim ảnh mà còn là “trực quan lời nói”, bao gồm từ việc
quan sát ngôn ngữ sống động đến việc dựa vào bài khóa trong khi nghiên cứu
về ngữ âm, từ vựng, chnh tả, ngữ pháp. Tài liệu trực quan cơ bản trong giờ
học Tiếng Việt là Tiếng Việt văn hóa, Tiếng Việt trong những mẫu tốt nhất
của nó: văn học dân gian, tác phẩm văn học Việt Nam và thế giới.
Phương pháp dạy học Tiếng Việt chọn ở Giáo dục học các hình thức tổ
chức dạy học như bài học và các hình thức khác. Các phương pháp dạy học
cơ bản- phương pháp dạy học bằng lời, bài tập, dạy học nêu vấn đề…đều có
mặt trong giờ Tiếng Việt.
1.1.4. Lý thuyết về hoạt động giao tiếp
1.1.4.1. Giao tiếp và các hình thức giao tiếp
“Giao tiếp là hoạt động trao đổi tư tưởng, tình cảm, cảm xúc…nhằm
thiết ,lập quan hệ, sự hiểu biêt, cộng tác…giữa các thành viên trong xã
hội…Hoạt động giao tiếp gồm các hành vi giải mã (nhận thông tin), ký mã
(phát thông tin). Trong ngôn ngữ, mỗi hành vi đều có thể được thực hiện bằng

hai hình thức: khẩu ngữ (nghe, nói), bút ngữ (đọc,viết)” (Sách GV Tiếng Việt
5, tập 1, trang 6).
Theo Từ điển Thuật ngữ ngôn ngữ học, giao tiếp là “sự thông báo hay
truyền đạt thông báo nhờ một hệ thống mã nào đó”. Theo đó, có thể hiểu giao
tiếp là hoạt động giữa hai người hay hơn hai người nhằm bày tỏ với nhau một


12
thông tin tr tuệ hoặc cảm xúc, một ý muốn hành động hay một nhận xét về sự
vật, hiện tượng nào đó.
Hoạt động giao tiếp có thể được thực hiện bằng nhiều cách thức, bằng
những phương tiện khác nhau, như hội họa, âm nhạc, điêu khắc, …Nhưng
ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp cơ bản và quan trọng nhất của xã hội loài
người.
Giao tiếp ngôn ngữ có thể thực hiện bằng lời hoặc bằng văn tự, trong đó
giao tiếp bằng lời là cơ sở.
1.1.4.2. Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ
* Khái niệm về hoạt động giao tiếp – giao tiếp bằng ngôn ngữ
Hoạt động giao tiếp là hoạt động trao đổi thông tin, bộc lộ tư tưởng,
tình cảm giữa người và người. Khi có ít nhất hai người trò chuyện với
nhau về một điều gì đó thì giữa hai người đó đã diễn ra hoạt động giao tiếp.
Ta thấy rằng điều đầu tiên để cho hoạt động giao tiếp có thể diễn ra là phải
có hai đối tượng. Trong đó, một đóng vai người nói, một đóng vai người
nghe, hai vai này có thể luân phiên lẫn nhau để đảm nhận những vai giao
tiếp khác nhau. Bất cứ một cuộc giao tiếp nào cũng diễn ra trong điều kiện
nhất định, dùng một thứ ngôn ngữ nhất định, hướng đến một đối tượng nhất
định để nhằm đạt được một mục đch nhất định. Ta có thể hình dung quá
trình giao tiếp diễn ra như sau: trước hết là người nói chuẩn bị một nội dung
nào đó nhằm truyền đạt nội dung đó đến người nghe. Nội dung ở đây là sự
phản ánh thế giới khách quan hoặc có thể là tư tưởng, tình cảm nào đó của

con người. Cho nên nội dung giao tiếp ở đây vừa mang tính khách quan
(phản ánh hiện thực) vừa mang tính chủ quan (nhận thức của con người).
Hoạt động giao tiếp này được thực hiện thông qua văn bản. Văn bản ở đây
là một chuỗi ngôn ngữ được sắp xếp một cách hoàn chỉnh theo các qui tắc
ngữ pháp để truyền đạt một nội dung nào đó trong quá trình giao tiếp. Vì
nội dung giao tiếp là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong ý thức của


13
người nói cho nên nó thuộc lĩnh vực tinh thần. Để người nghe có thể nắm
bắt được nội dung thuộc lĩnh vực tinh thần đó thì người nói phải chuyển nội
dung ấy sang hệ thống vật chất, hệ thống vật chất ấy chính là ngôn ngữ.
Quá trình giao tiếp lại được tiếp tục bằng việc lĩnh hội các yếu tố ngôn ngữ
do người nói phát ra, để hiểu được nội dung mà người nói truyền đạt thì
người nghe phải lí giải các yếu tố ngôn ngữ này. Kết thúc quá trình này
cũng là kết thúc quá trình giao tiếp. Văn bản trong hoạt động giao tiếp được
tồn tại ở hai dạng là nói và viết.
Văn bản nói: là các yếu tố ngôn ngữ được sắp xếp thành một chuỗi tạo
nên lời nói trong giao tiếp. Tiếp nhận văn bản nói là tiếp nhận âm thanh
bằng thính giác. Văn bản nói thường được dùng trong sinh hoạt hằng ngày,
văn bản nói thường có các đặc điểm sau:
Kèm theo ngữ điệu (lên giọng, xuống giọng, nhấn mạnh…) Tùy theo
từng nội dung muốn truyền đạt mà người nói sẽ có sự thay đổi ngữ điệu
cho phù hợp. Sự thay đổi ngữ điệu này sẽ có tác động rất lớn đến nội dung mà
người nói muốn truyền đạt đến người nghe. Ngữ điệu làm cho lời nói trở nên
sinh động, hấp dẫn, gợi hình ảnh. Sự biến đổi của ngữ điệu sẽ làm thay đổi cảm
xúc, ý nghĩa của lời nói. Thậm ch có khi sự thay đổi ngữ điệu sẽ làm cho nội
dung giao tiếp mang ý nghĩa trái ngược lại. Cho nên, khi sử dụng ngữ điệu phải
đúng lúc, đúng chỗ, đúng đối tượng.
Sử dụng yếu tố phi ngôn ngữ: cử chỉ, điệu bộ, nét mặt, … hỗ trợ để

truyền đạt nội dung. Trong một số trường hợp nhất định chính nhờ những

yếu tố này mà người nghe sẽ hiểu được nội dung mà người nói muốn truyền
đạt một cách chính xác và đầy đủ nhất.
Từ ngữ được sử dụng đa dạng, phong phú, có cả khẩu ngữ, tiếng
lóng, tiếng địa phương, thán từ…chêm xen. Về câu thường sử dụng những
câu ngắn ngọn, câu đặc biệt, câu tỉnh lược. Điều này làm cho văn bản nói
được tạo ra một cách liền mạch sẽ giúp người nghe dễ hiểu, dễ tiếp nhận.


14
Nhìn chung văn bản nói là văn bản nảy sinh tức thời, không có điều
kiện gọt giũa nên đôi khi có những yếu tố dư thừa cho nên người nói phải
biết lựa chọn những nội dung thông tin cho phù hợp với quá trình giao tiếp.
Văn bản viết: chữ viết được sắp xếp một chuỗi thành một bài viết. Đó
là các văn bản hành chính, các bài văn chính luận, các bài báo…Tiếp nhận
văn bản viết là tiếp nhận chữ viết bằng thị giác. Do không có ngữ điệu nên
văn bản viết đòi hỏi phải dùng chính xác các dấu câu, các quy tắc chữ viết,
các quy tắc ngữ pháp, ít dùng những từ ngữ dung tục, khẩu ngữ. Câu phải
có kết cấu chặt chẽ, được liên kết bằng các phép liên kết câu theo đúng quy
tắc ngữ pháp, phong cách nghệ thuật. Nhìn chung văn bản viết thường có
thời gian xem xét, kiểm tra, gọt giũa cho nên ít có sai sót hơn văn bản nói.
Ngoài ra còn có dạng đặc biệt là văn bản viết được thể hiện dưới dạng nói
(đọc một bài phát biểu, một lời kêu gọi trong một hội nghị. Ở đây là văn
bản được xây dựng theo các đặc điểm của văn bản viết nhưng được thể hiện
bằng dạng nói nên sẽ kèm theo ngữ điệu) hoặc ngược lại văn bản nói được
thể hiện bằng dạng viết (lời đối thoại của các nhân vật là văn bản nói nhưng
khi được đưa vào trong tác phẩm in trên sách thì trở thành văn bản viết). Từ
đó cho thấy văn bản trong giao tiếp được tồn tại dưới nhiều hình thức khác
nhau. Mỗi hình thức sẽ mang những đặc điểm khác nhau cho nên khi dùng

văn bản ở hình thức nào thì phải nắm rõ đặc điểm của hình thức ấy để có sự
lựa chọn phương tiện giao tiếp cho phù hợp.
* Giao tiếp, một hiện tượng xã hội
Giao tiếp là hoạt động có tính vĩnh viễn vì ở thời đại nào con người cũng
cần phải có giao tiếp. Giao tiếp là phương thức giúp con người tồn tại và
phát triển. Trong tất cả mọi hoạt động của đời sống xã hội thì con người cần
phải giao tiếp với nhau. Còn phương tiện, nội dung thì mang tính lịch sử,
đây là vấn đề có tính triết học. Xã hội càng phát triển thì phương tiện giao
tiếp của con người càng hiện đại. Nếu trước đây người ta chỉ có thể giao


15
tiếp bằng miệng, bằng sách báo thì ngày nay người ta đã có thể giao tiếp
với nhau qua điện thoại, thư từ, chat… Nội dung giao tiếp vì thế cũng ngày
càng đa dạng. Nếu trước đây người ta chỉ giao tiếp với nhau về những vấn
đề trong sinh hoạt hàng ngày thì ngày nay người ta đã biết giao tiếp những
vấn đề về thiên nhiên, vũ trụ, những vấn đề mang tầm thế giới…Ta phải
nhận thấy rằng xã hội càng ngày càng phát triển đã cung cấp cho con người
những phương tiện, nội dung giao tiếp ngày càng đa dạng, phong phú hơn
bởi vì mỗi thời đại lịch sử khác nhau thì quan niệm về cái đẹp, cái hay của
con người cũng khác nhau.
Người hiện tại giao tiếp với quá khứ và có tham vọng giao tiếp với cả
hậu thế. Lời nói thông thường có tính chất tức thời “lời nói gió thoảng” bởi
vì lời nói ra không thể lưu giữ lại được, người nghe chỉ có thể tiếp nhận
được ngay lúc đó còn việc có nhớ hay không thì không thể biết trước được.
Nhưng lời văn, lời thơ thì sao? Lời văn, lời thơ có tham vọng là lời của
muôn đời. Khi viết ra một tác phẩm thì người viết không những muốn cho
người đương thời tiếp nhận mà còn muốn truyền đạt đến cả người hậu thế.
Bất kì một sáng tác nào thì bao giờ cũng phản ánh hiện thực và bộc lộ tâm
tư, tình cảm của tác giả. Cho nên mỗi sáng tác đều có tham vọng lưu truyền

ở đời. Chẳng hạn dù cách ngày nay đã mấy trăm năm thì Truyện Kiều của
Nguyễn Du vẫn thấm đẫm trong lòng người đọc. Nhắc đến văn học là người
ta nhắc ngay đến Truyện Kiều của Nguyễn Du. Và giá trị nhân đạo, hiện
thực mà tác phẩm để lại cho chúng ta không thể phủ nhận được. Mỗi một
tác phẩm khi được viết ra thì tác giả đều muốn truyền đạt đến người tiếp
nhận một ý nghĩa nào đó. Và ý nghĩa này được người tiếp nhận thông qua
ngôn ngữ.
Giao tiếp được coi là một hiện tượng xã hội, giao tiếp là cách thức,
hoạt động để tiếp nhận các thông tin của đời sống, để trao đổi mọi tư tưởng,
tình cảm giữa người và người trong mọi mặt của đời sống.


16
1.1.4.3. Các nhân tố cơ bản của hoạt động giao tiếp
Trong hoạt động giao tiếp có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến việc tạo lập
văn bản và các nhân tố này có mối quan hệ mật thiết với nhau. Mỗi nhân
tố có một vai trò khác nhau trong việc tạo lập văn bản. Khi dạy học Tiếng
Việt theo quan điểm giao tiếp ta cần chú ý đến các nhân tố. Có rất nhiều
nhân tố giao tiếp khác nhau nhưng ở đây chúng tôi chỉ tập trung vào các
nhân tố cơ bản sau
* Nhân vật giao tiếp
Là những người tham gia trực tiếp vào quá trình giao tiếp. Quá trình
giao tiếp có thể thực hiện bởi hai người hoặc nhiều người nhưng chúng ta
có thể chia làm hai loại nhân vật giao tiếp đó là người phát và người nhận.
Hiệu quả của quá trình giao tiếp được quyết định bởi cả người phát và
người nhận. Khi người phát nói, viết những gì mà người nhận không hiểu
hay không phù hợp với suy nghĩ, thói quen của người nhận thì cuộc giao
tiếp sẽ không đạt được hiệu quả. Như vậy để quá trình giao tiếp đạt được
hiệu quả như mong muốn thì người phát phải có sự lựa chọn nội dung giao
tiếp cho phù hợp với lứa tuổi, trình độ, đặc điểm tâm lí của người nhận,

đồng thời người phát phải biết lựa chọn ngôn ngữ cho phù hợp để khơi gợi
hứng thú giao tiếp. Ngược lại khi tiếp nhận nội dung truyền đạt thì người
nhận phải có vốn hiểu biết nhất định về các lĩnh vực liên quan đến nội dung
lĩnh hội, về đối tượng đã truyền đạt (người phát). Sự hiểu biết này cũng
không kém phần quan trọng nó giúp cho người nhận có thể hiểu được nội
dung truyền đạt một cách đúng đắn và đầy đủ nhất để có sự hồi đáp phù
hợp với cuộc giao tiếp. Những người tham gia trong cuộc giao tiếp phải có
một trình độ nhất định, nếu trình độ ngang hàng nhau thì càng hiểu được
nội dung giao tiếp của nhau. Từ đó cho chúng ta thấy rằng sự hiểu biết về
đối tượng giao tiếp càng đầy đủ, sâu sắc bao nhiêu thì hiệu quả giao tiếp
càng cao bấy nhiêu. Vai vế, địa vị của nhân vật giao tiếp sẽ ảnh hưởng rất


17
nhiều đến hoạt động giao tiếp. Những người có vai vế, địa vị xã hội càng
cao thì lời nói càng có giá trị, càng có sức thuyết phục. Cùng một nội dung,
nhưng người này nói lại không có sức thuyết phục hơn người khác. Từ
những đặc điểm trên ta thấy rằng nhân vật giao tiếp đóng vai trò quan trọng,
đó là nhân tố để lại dấu ấn đậm nét nhất trong việc lựa chọn nội dung và
cách thức trình bày một văn bản. Là một người giáo viên phải nắm rõ đặc
điểm học sinh lớp mình để tổ chức ngôn ngữ giảng dạy theo quan điểm giao
tiếp cho phù hợp với từng đối tượng. Đồng thời phải tạo được vị thế cho
bản thân để tăng sức thuyết phục cho lời nói khi truyền đạt đến học sinh.
* Nội dung giao tiếp
Nội dung giao tiếp ở đây là hiện thực được nói đến trong cuộc giao
tiếp. Nội dung là tình cảm, sự hiểu biết của con người được đưa vào nội
dung lời nói của người tham gia giao tiếp. Người ta không thể nói những gì
mà người ta không biết. Hiện thực được nói đến sẽ tạo nên chủ đề, đề tài
của cuộc giao tiếp. Nội dung giao tiếp ở đây có thể thuộc về quá khứ, hiện
tại và cả tương lai. Nội dung giao tiếp được tồn tại trong suốt quá trình giao

tiếp, không ai lại nói những điều mà không chứa đựng được nội dung nào.
Điều quan trọng để cuộc giao tiếp có thể diễn ra là cả người phát và người
nhận phải cùng hướng về một nội dung giao tiếp. Không thể người này nói
một nơi người khác lại hiểu một nẻo. Chẳng hạn khi A hỏi B “Vì sao cô ấy đi
viện ?” B trả lời “Hôm nay tôi đi học”. Đó là vi phạm về nguyên tắc của hoạt
động giao tiếp. Vì thế, cuộc giao tiếp xem như thất bại. Tóm lại, để có thể
thực hiện hoạt động giao tiếp thì những người tham gia giao tiếp phải nắm
rõ về nội dung giao tiếp, cùng hướng về một nội dung giao tiếp nhất định.
* Mục đích giao tiếp
B. Tômasepxki đã nói “ Mục đích của giao tiếp thông thường là biểu
đạt. Chỉ cần thỏa mãn sự biểu đạt, con người có thể sử dụng bất cứ
phương tiện, cách thức nào: từ ngữ, ánh mắt, nụ cười, cử chỉ, bàn tay, cái


18
nhún vai… [18, tr.135]. Như vậy, có thể nói mục đích cơ bản của cuộc
giao tiếp là nhằm truyền đạt thông tin, bộc lộ tư tưởng, tình cảm, cảm xúc
của mình. Qua đó còn phải tác động đến người tiếp nhận một tình cảm nào
đó. Mục đch giao tiếp là kết quả cuối cùng mà cuộc giao tiếp mong muốn
đạt được. Có thể nói một cuộc giao tiếp được gọi là thành công khi cuộc giao
tiếp đạt được mục đch đã đề ra. Mục đch giao tiếp là động lực giúp con
người hướng đến và thực hiện hoạt động giao tiếp.
* Phương tiện giao tiếp
Phương tiện giao tiếp ở đây là ngôn ngữ. Điều đầu tiên để cả người
phát và người nhận có thể hiểu thông điệp của nhau là ngôn ngữ dùng trong
giao tiếp phải có tính chất chung đối với cả hai và ngôn ngữ trong văn bản
viết phải khác với ngôn ngữ trong văn bản nói. Để đạt được điều này thì
người giao tiếp phải biết cách sử dụng phương tiện ngôn ngữ sao cho phù
hợp với đối tượng giao tiếp, nội dung giao tiếp, sử dụng vốn ngôn ngữ
mang tính chất cộng đồng … để người nhận có thể tiếp thu, có thể hiểu

được nội dung mà người nói muốn truyền đạt. Đối với người Việt trong
những hoạt động giao tiếp thông thường thì ngôn ngữ được sử dụng là tiếng
Việt. Khi giao tiếp bằng ngôn ngữ thì trình độ ngôn ngữ cũng như vốn hiểu
biết về tiếng Việt sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả giao tiếp. Cũng như
các loại hình ngôn ngữ khác, tiếng Việt cũng được thể hiện ở cả hai dạng nói
và viết. Khi sử dụng tiếng Việt chúng ta còn cần phải chú ý đến các phong cách
sử dụng vì mỗi phong cách sẽ quyết định việc lựa chọn những phương tiện giao
tiếp cho phù hợp.
* Hoàn cảnh giao tiếp
Hoàn cảnh giao tiếp là không gian, thời gian và những đặc điểm của
nơi diễn ra cuộc giao tiếp. Hoàn cảnh giao tiếp có thể chia làm hai loại: hoàn
cảnh giao tiếp rộng và hoàn cảnh giao tiếp hẹp. Hoàn cảnh giao tiếp rộng
là những hiểu biết chung về chính trị , văn hóa, xã hội … tại thời điểm diễn


19
ra cuộc giao tiếp. Tất cả những hiểu biết này tạo ra tiền giả định để các nhân
vật giao tiếp huy động theo những cách khác nhau vào cuộc giao tiếp. Khi
tiến hành cuộc giao tiếp thì các nhân vật giao tiếp phải có chung một tiền
giả định. Hoàn cảnh giao tiếp hẹp là không gian, thời gian cụ thể đang diễn
ra cuộc giao tiếp. Hoàn cảnh giao tiếp hẹp đòi hỏi nhân vật tham gia giao
tiếp phải có những ứng xử cho phù hợp. Hoàn cảnh giao tiếp cũng ảnh
hưởng rất nhiều đến cuộc giao tiếp, mỗi hoàn cảnh ta phải có sự lựa chọn
những cách thức giao tiếp cho phù hợp.
Trên đây là những nhân tố cơ bản của hoạt động giao tiếp bằng ngôn
ngữ. Các nhân tố này có mối quan hệ mật thiết với nhau trong khi tiến hành
hoạt động giao tiếp. Nhân vật giao tiếp có vai trò quyết định nội dung,
phương tiện giao tiếp. Chẳng hạn như ngôn ngữ dùng để giao tiếp với người
lớn tuổi hơn mình sẽ khác với ngôn ngữ dùng giao tiếp với người ngang
hàng. Khi gọi em mình ăn cơm, ta có thể nói “vô ăn cơm” nhưng khi gọi

ông nội thì ta không thể dùng ngôn ngữ đó mà phải nói là “cháu mời ông
nội vào dùng cơm”. Nội dung giao tiếp lại quyết định việc lựa chọn phương
tiện giao tiếp. Vì mỗi đối tượng mỗi nội dung giao tiếp khác nhau sẽ có
những phương tiện giao tiếp phù hợp. Đồng thời khi có sự hiểu biết, sự nắm
vững đầy đủ về nhân vật giao tiếp, nội dung giao tiếp, phương tiện giao
tiếp, hoàn cảnh giao tiếp thì mới có thể đạt được mục đích giao tiếp như kết
quả mong muốn.
1.1.4.4. Các dạng lời nói và hoạt động giao tiếp
Căn cứ hình thức và phương tiện biểu đạt, có thể chia ngôn ngữ (lời nói)
thành hai dạng: khẩu ngữ (ngôn ngữ nói) và bút ngữ (ngôn ngữ viết). Hai
dạng này có sự khác nhau đáng kể về phương tiện biểu đạt, cách lựa chọn từ
ngữ, hoàn cảnh sử dụng,
* Khẩu ngữ
Đặc điểm của khẩu ngữ:


20
Khẩu ngữ (ngôn ngữ nói hoặc lời miệng) là ngôn ngữ của âm thanh. Nó là
một phương tiện trao đổi thông tin trong xã hội, có khả năng truyền cảm rất lớn.
Trong giao tiếp bằng khẩu ngữ, ngữ điệu có vai trò đặc biệt quan trọng. Nhịp
điệu lời nói nhanh hay chậm, độ cao hay thấp của giọng nói, sự ngắt đoạn, đều
có ảnh hưởng tới hiệu quả giao tiếp. Cùng với ngữ điệu, các phương tiện phụ
trợ phi ngôn ngữ như ánh mắt, vẻ mặt, cử chỉ, điệu bộ có ảnh hưởng rất lớn
tới hiệu quả biểu đạt của lời.
Khẩu ngữ đòi hỏi sự ứng xử linh hoạt về lời nói; so với bút ngữ, khẩu
ngữ sử dụng câu ngắn hơn, có cấu tạo đơn giản hơn. Thậm ch, trong giao tiếp
miệng, có những câu không trọn vẹn về cấu tạo và nội dung, nhưng nhờ hoàn
cảnh giao tiếp mà người nghe vẫn hiểu được những điều người nói muốn
truyền đạt tới mình một cách chnh xác.
Các dạng khẩu ngữ:

Khẩu ngữ có hai dạng: lời đối thoại và lời độc thoại.
Lời đối thoại: Lời đối thoại xuất hiện trong giao tiếp hội thoại (hoạt động giao
tiếp bằng lời miệng giữa các nhân vật giao tiếp, nhằm trao đổi thông tin hoặc
trao đổi tư tưởng tình cảm, theo một mục đch xác định). Cấu trúc hội thoại:
Hội thoại gồm các đơn vị: cuộc thoại, đoạn thoại và cặp thoại.
Các quy tắc hội thoại: để cuộc thoại có kết quả, các nhân vật tham gia hội
thoại cần tuân thủ một số quy tắc hội thoại: quy tắc thương lượng hội thoại,
quy tắc luân phiên lượt lời, quy tắc tôn trọng thể diện, quy tắc khiêm tốn, quy
tắc cộng tác.
Như vậy, lời đối thoại bao giờ cũng nằm trong một mạch của nhiều lời nói
thuộc nhiều người nối tiếp nhau hoặc đối đáp nhau. Vì vậy, nội dung lời đối
thoại phải nhập vào mạch câu chuyện hoặc chủ đề hội thoại thì nó mới có ý
nghĩa.Các lời đối thoại thường ngắn gọn, giúp người tiếp nhận dễ theo dõi, có
sức phản xạ nhanh,có thể đáp lời đúng mạch giao tiếp. Lời đối thoại cần phù
hợp với vị tr xã hội của người nói hoặc thch hợp với mối quan hệ xã hội giữa


21
người nói với những người tham gia hội thoại.
Lời độc thoại (đơn thoại): là lời của một người nói cho những người khác nghe,
có khi là lời nói với chnh bản thân. Thực ra ranh giới của lời độc thoại và lời
trong đối thoại chỉ mang tnh ước định. Lời độc thoại thường xuất hiện trong
một số hoàn cảnh cụ thể: người báo cáo, đọc diễn văn trong các cuộc họp, hội
thảo, giáo viên giảng bài, một người mãi suy nghĩ nói to ý nghĩ của mình Ở
đây, chúng ta bàn tới ngôn ngữ trong giao tiếp, tức là chỉ bàn tới ngôn ngữ độc
thoại mà người nói nói cho người khác nghe, mà không bàn tới lời tự nói với
bản thân.
So với lời đối thoại, lời độc thoại đòi hỏi sự chuẩn bị chu đáo và sự tập trung
chú ý cao hơn, người độc thoại thường chủ động hơn trong việc lựa chọn nội
dung và cách thức nói, vì có điều kiện thu thập tài liệu, xây dựng đề cương, suy

ngẫm kĩ về từng vấn đề sẽ trình bày, lựa chọn những phương tiện biểu đạt thch
hợp nhất.
* Bút ngữ
Đặc điểm của bút ngữ:
Bút ngữ (ngôn ngữ viết hoặc lời viết) là hình thức lời nói được sử
dụng thường xuyên và có hiệu quả trong giao tiếp xã hội. Trong ngôn bản
bút ngữ, cấu trúc câu thường đầy đủ và phức tạp hơn, các từ ngữ sách vở xuất
hiện với tần suất cao hơn so với khẩu ngữ; bài viết thường có dung lượng lớn
hơn so với một bài nói miệng cùng đề tài. Với ngôn bản viết, dấu câu, sự xuống
dòng, ngắt đoạn, các kiểu chữ khác nhau là những phương tiện biểu đạt đặt
trưng và hiệu quả
Đặc trưng ngôn ngữ ở những loại văn bản viết khác nhau:
Trong ngôn ngữ viết, việc dùng từ, tạo câu, cách liên kết câu ở văn bản
nghệ thuật và văn bản phi nghệ thuật, ở văn bản thơ và văn bản văn xuôi có
những khác biệt nhất định mà người viết, người đọc phải hiểu và sử dụng nó
một cách thch hợp trong những tình huống nói năng cụ thể, gắn với đch và nội


22
dung nói năng cụ thể.
Trong khi ở văn xuôi, việc viết câu phải tuân theo những yêu cầu
nghiêm ngặt, từ cấu tạo câu và các bộ phận trong câu tới cách sử dụng dấu câu,
thì ở thơ, tác giả lại có thể kết hợp từ, sử dụng dấu câu, với những dụng ý nghệ
thuật riêng, rất đặc trưng cho thể loại văn bản này.
Những điều vừa phân tch cho thấy đặc trưng ngôn ngữ, phương tiện biểu
đạt, tình huống giao tiếp, chi phối khá mạnh tới nội dung và phương pháp
giao tiếp được lựa chọn, sử dụng để đạt một cách tốt nhất mục đch giao
tiếp đã định.
1.1.4.5. Quá trình sản sinh và tiếp nhận lời nói trong hoạt động giao tiếp
* Quá trình sản sinh lời nói

Về bản chất, nói năng cũng là một hoạt động: hoạt động lời nói. Các
hành vi nói năng có biểu hiện rất đa dạng nhưng lại có một cấu trúc chung.
Cấu trúc này bao gồm bốn giai đoạn kế tiếp nhau: định hướng, lập chương
trình, hiện thực hóa chương trình và kiểm tra kết quả.
Định hướng giao tiếp trong quá trình tạo bởi lời chnh là xác định các nhân tố
giao tiếp: nội dung, cách thức, nhân vật, hoàn cảnh, mục đch giao tiếp. trong
các nhân tố kể trên, sự lựa chọn nội dung và cách thức giao tiếp chịu chi phối
của những nhân tố giao tiếp còn lại.
Lập chương trình biểu đạt trong quá trình tạo lời chnh là hoạt động tìm
ý bằng cách quan sát, tái hiện những điều đã quan sát hoặc tưởng tượng
những điều đó có thể sẽ xảy ra, theo các nhân tố được xác định khi định
hướng. lập chương trình còn là lựa chọn và sắp xếp các ý đã tìm được theo
một trình tự hợp lý để có sản phẩm là một dàn bài cho bài nói, bài viết trong
tương lai.
Hiện thực hóa chương trình trong quá trình tạo lời là quá trình chuyển
những nội dung đã được lựa chọn và sắp xếp trong dàn bài thành phát ngôn,
ngôn bản. Tùy từng hình thức giao tiếp khác nhau, người nói, người viết cần

×