Tải bản đầy đủ (.pdf) (178 trang)

Cạnh tranh đối với khu vực công kinh nghiệm quốc tế và những vấn đề của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.41 MB, 178 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ



VŨ THANH SƠN



CẠNH TRANH ĐỐI VỚI KHU VỰC CÔNG:
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
CỦA VIỆT NAM




Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 62 31 01 01


LUẬN ÁN TIẾN SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ



HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. PHÍ MẠNH HỒNG








Hà Nội-2007



ii
MỤC LỤC

Lời cam kết i
Mục lục ii
Danh mục các thuật ngữ viết tắt v
Danh mục bảng biểu vi
Danh mục hình vẽ vii

Mở đầu 1

Chương 1: Những vấn đề lý luận về cạnh tranh đối với
khu vực công 12
1.1. Khu vực công và vai trò của nhà nước 12
1.1.1.Khu vực công trong nền kinh tế 12
1.1.2. Quan niệm về hàng hóa công 15
1.1.3. Vai trò nhà nước trong điều tiết kinh tế 21
1.2. Sự cần thiết vận dụng cạnh tranh đối với khu vực công 23
1.2.1.Các thất bại nhà nước 23
1.2.2.Sự hạn chế về môi trường cạnh tranh 26
1.2.3.Vai trò của cạnh tranh đối với khu vực công 30

1.3. Các ý tưởng vận dụng cạnh tranh vào thực tiễn 32
1.3.1.ý tưởng về tái cấu trúc nhà nước 33
1.3.2.Chủ nghĩa công quản mới 36
1.3.3.Lý thuyết lựa chọn công 38
1.3.4.Lý thuyết chính yếu/đại diện 40
1.4. Thực chất cạnh tranh đối với khu vực công 41
1.4.1. Đặc điểm cạnh tranh đối với khu vực công 41
1.4.2.Các hình thức và kỹ thuật xúc tiến cạnh tranh đối với
khu vực công 47
1.4.3. Tiêu chí đánh giá hoạt động cung ứng hàng hóa trong
khu vực công 52




iii
Chương 2: Kinh nghiệm vận dụng cạnh tranh đối với khu vực
công ở một số nước 55
2.1. Vận dụng lý luận công quản mới ở Anh 55
2.1.1. Sự thể nghiệm lý luận công quản mới ở Anh 55
2.1.2. Nhận xét về tư nhân hóa ở Anh 57
2.2. Mở rộng cạnh tranh đối với khu vực công ở Australia 60
2.2.1. Cơ sở pháp lý cho cạnh tranh đối với khu vực công 60
2.2.2. Áp dụng rộng rãi đấu thầu cạnh tranh 61
2.2.3. Hạn chế về áp dụng cạnh tranh đối với khu vực công 63
2.3. Mô hình khu vực công mới New Zealand 64
2.3.1. Những nguyên tắc đổi mới khu vực công 64
2.3.2. Công ty hóa các bộ phận sở hữu nhà nước 64
2.3.3. Một số điểm đáng lưu ý 67
2.4. Cạnh tranh đối với khu vực công ở Trung Quốc 69

2.4.1. Tái cơ cấu nhà nước trong môi trường cạnh tranh 69
2.4.2. Cạnh tranh trong các lĩnh vực dịch vụ xã hội 71
2.4.3. Cạnh tranh trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng công ích 74
2.4.4. Một số nhận xét đáng lưu ý 77
2.5. Cải cách khu vực công theo hướng cạnh tranh ở Singapore 78
2.5.1. Cải cách khu vực công 78
2.5.2. Mở rộng cạnh tranh đối với lĩnh vực y tế 79
2.6. Những bài học kinh nghiệm 82

Chương 3: Thực trạng cạnh tranh đối với khu vực công
ở Việt Nam 89
3.1. Khu vực công trong quá trình chuyển đổi sang nền
kinh tế thị trường 89
3.1.1. Khu vực công và cạnh tranh trước khi Đổi mới 89
3.1.2. Khu vực công sau khi Đổi mới 92
3.2. Tình trạng cạnh tranh đối với khu vực công 95
3.2.1. Thực trạng độc quyền nhà nước 95
3.2.2. Cạnh tranh nội bộ trong các lĩnh vực công 103
3.2.3. Cạnh tranh công-tư trong cung ứng hàng hóa 107


iv
3.2.4. Những yếu tố gây trở ngại đối với cạnh tranh 117
3.3. Những nhận xét chung 122

Chương 4: Những giải pháp thúc đẩy cạnh tranh đối với khu
vực công ở Việt Nam 128
4.1. Nguyên tắc tiếp cận cạnh tranh đối với khu vực công 128
4.1.1. Cạnh tranh nhằm nâng cao phúc lợi xã hội 128
4.1.2. Cạnh tranh có kiểm soát 129

4.1.3. Cạnh tranh bình đẳng giữa các chủ thể 130
4.1.4. Cạnh tranh phải phù hợp với những quy định và
thông lệ quốc tế 131
4.2. Hệ thống giải pháp cơ bản 132
4.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về cạnh tranh 132
4.2.2. Xử lý tình trạng độc quyền 135
4.2.3. Tạo tiền đề cho cạnh tranh 137
4.2.4. Sử dụng các hình thức cạnh tranh với bên ngoài 140
4.2.5. Cạnh tranh trực tiếp theo giá và chất lượng hàng hóa 143
4.2.6. Thiết lập cơ quan điều tiết và giám sát cạnh tranh độc lập 145
4.2.7. Mở cửa khu vực công cho cạnh tranh quốc tế 147
4.2.8. Tuyên truyền và thuyết phục 147

Kết luận 151

Danh mục công trình khoa học của tác giả liên quan tới luận án. 154

Tài liệu tham khảo 155











v

DANH MỤC CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT





DN
DNNN
DNTN
ĐTNN
Doanh nghiệp
Doanh nghiệp nhà nước
Doanh nghiệp tư nhân
Đầu tư nước ngoài
EVN
Tập đoàn điện lực Việt Nam
GDP
Thu nhập quốc nội
HHC
Hàng hóa và dịch vụ công
HHT
Hàng hóa và dịch vụ tư
KVC
Khu vực công
KVT
NN
NGOs
OECD
TN
UNDP

Khu vực tư
Nhà nước
Các tổ chức phi chính phủ
Tổ chức phát triển và hợp tác kinh tế
Tư nhân
Chương trình phát triển Liên hợp quốc
VNA
Tổng công ty hàng không Việt Nam
VNPT
Tập đoàn bưu chính viễn thông Việt Nam
WTO
Tổ chức thương mại thế giới
XHCN

Xã hội chủ nghĩa




vi
DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 1.1: Phân loại hàng hoá công-tư 18
Bảng 1. 2: Chức năng của nhà nước 22
Bảng 1.3: Một vài ví dụ về chỉ số đánh giá kết quả hoạt động 53

Bảng 2.1: Một số tác động nghịch của tư nhân hoá ở Anh 59
Bảng 2.2: Tiết kiệm chi phí trong đấu thầu cạnh tranh ở Australia 62
Bảng 2.3: Mặt trái của hợp đồng và đấu thầu cạnh tranh 63
Bảng 2.4: Trách nhiệm tham gia công-tư 71

Bảng 2.5: Cơ cấu đầu tư vào giáo dục, 1994-2001 73

Bảng 3.1: Thị phần chuyển phát nhanh của các đối thủ lớn 98
Bảng 3.2: Độc quyền nhà nước trong lĩnh vực giao thông vận tải 101
Bảng 3.3: Các doanh nghiệp cạnh tranh trong bưu chính viễn thông 104
Bảng 3.4: Giá cước một số dịch vụ của VNPT, áp dụng ngày 1/4/2005 106
Bảng 3.5: Hệ thống cơ sở y tế công 1995-2004 108
Bảng 3.6: Thái độ làm việc của cán bộ bệnh viện tư 109
Bảng 3.7: Chất lượng dịch vụ tại bệnh viện tư 109
Bảng 3.8: Hình thức phối hợp công - tư trong bệnh viện 111
Bảng 3.9: Giáo dục mầm non 112
Bảng 3.10: Cao đẳng và đại học 112
Bảng 3.11: Cạnh tranh trong lĩnh vực chuyển phát 116
Bảng 3.12: Số đối thủ cạnh tranh tư nhân trong chuyển phát 117
Bảng 3.13: Chênh lệch sau đấu thầu, 1998-2003 120


vii

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ


Hình 1.1: Bức tranh HHC và HHT 20

Hình 2.1: Doanh nghiệp nhà nước trong tương tác các nhân tố 65
Hình 2.2: Triết lý cung ứng dịch vụ y tế 79
Hình 2.3: Cơ cấu chi tiêu dịch vụ y tế 81

Hình 3.1: Tỷ trọng sản lượng công nghiệp theo loại hình doanh nghiệp 90
Hình 3.2: Tỷ trọng các loại hình doanh nghiệp, 2000-2004 (%) 94

Hình 3.3: Độc quyền nhà nước trong khâu phát điện 97
Hình 3.4: Độc quyền phân phối điện của nhà nước 97
Hình 3.5: Thị phần viễn thông vào internet của các doanh nghiệp 105
Hình 3.6: Số sinh viên công lập và ngoài công lập 113
Hình 3.7: Dịch vụ vận tải hành khách theo thành phần kinh tế, 2001-2006 114
Hình 3.8: Dịch vụ vận tải hành khách ngoài nhà nước 115




1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Khu vực công (KVC) là tập hợp những cơ cấu tổ chức nhà nước hoạt
động nhằm phục vụ lợi ích chung của tập thể cộng đồng và toàn xã hội. Hoạt
động của khu vực này có ảnh hưởng to lớn tới mọi mặt của đời sống xã hội, từ
việc xác nhận sinh, tử cho tới việc cung ứng dịch vụ bảo đảm sự tồn tại và
phát triển của cuộc sống.
Song, hoạt động của KVC thường bị coi là kém hiệu quả vì thiếu môi
trường cạnh tranh và vấp phải những thất bại nhà nước. Từ đó, nguồn lực
công không được sử dụng một cách hiệu quả. Nhiều công trình nghiên cứu đã
khẳng định điều này. Chẳng hạn, Le Grand [87, tr. 739-777] cho rằng hoạt
động của doanh nghiệp nhà nước không có hiệu quả cao vì điều kiện cạnh
tranh của chúng rất hạn chế, áp lực bị phá sản và hoàn thiện cơ cấu hoạt động
vì hiệu quả không lớn. Điều thống nhất rộng rãi là cần áp dụng cạnh tranh vào
trong KVC để các chủ thể kinh tế ganh đua cung ứng đầu ra hiệu quả hơn
[105, tr. 1-22]. Đồng thời, nhà nước cũng cần phải điều chỉnh vai trò, chức
năng của mình để tạo ra môi trường cạnh tranh giữa chủ thể công và tư một

cách lành mạnh, trật tự và kỷ cương.
Ở Việt Nam, hoạt động của KVC còn nhiều bất cập, nguồn lực quốc gia
bị chi tiêu lãng phí, hiệu quả cung cấp hàng hoá và dịch vụ công thấp, đa số
các hoạt động này mang nặng độc quyền nhà nước [10, 33]. Thực tế này đặt
ra yêu cầu cấp thiết phải hoàn thiện hiệu quả hoạt động của khu vực này.
Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, việc sử
dụng cơ chế thị trường, đặc biệt cạnh tranh được xem là một trong những giải
pháp thích hợp để nâng cao hiệu quả hoạt động của KVC hiện tại.


2
Cho tới thời điểm này, vấn đề cạnh tranh đối với KVC ở Việt Nam gần
như chưa được nghiên cứu sâu rộng (điều này sẽ luận giải cụ thể hơn trong
Tình hình nghiên cứu về đề tài). Nhu cầu nhận thức tạo ra sức ép mạnh mẽ
cho các nhà nghiên cứu và giới lãnh đạo phải quan tâm thỏa đáng hơn cho vấn
đề này. Nhận thức tốt về lý luận sẽ giải quyết hữu hiệu hơn những tình huống
thực tiễn mà KVC ở Việt Nam đang đối mặt.
Trong khi đó ở nước ngoài, lý luận về cạnh tranh đối với KVC và kinh
nghiệm vận dụng thành công cạnh tranh vào khu vực này đã được khẳng định
bằng thực tiễn. Đây cũng là những bài học cần phải nghiên cứu và tìm cách
vận dụng sáng tạo vào điều kiện kinh tế chính trị Việt Nam. Bằng việc tận
dụng lợi thế của nước đi sau, Việt Nam có thể tiết kiệm được một số nguồn
lực nhất định cho phát triển KVC của mình hiệu quả hơn trong tương lai.
Trên cơ sở những lý do thiết thực đó, Tác giả luận án quyết định lựa
chọn đề tài nghiên cứu: “cạnh tranh đối với khu vực công: kinh
nghiệm quốc tế và những vấn đề của Việt Nam”. Đề tài hy vọng sẽ
góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về cạnh tranh đối với KVC và
luận giải hệ thống giải pháp thúc đẩy cạnh tranh vào khu vực này vì mục tiêu
nâng cao hiệu quả hoạt động và cải thiện phúc lợi cho nhân dân Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu về đề tài

Tình hình triển khai nghiên cứu ở nước ngoài
Chủ đề nghiên cứu về cạnh tranh đối với KVC được nhiều học giả
nước ngoài quan tâm. Danh mục tài liệu tham khảo của Luận án liệt kê nhiều
công trình khoa học quan trọng đã từng công bố ở nước ngoài. Những công
trình này được tham khảo và tiếp thu có phê phán trong quá trình hoàn thành
Luận án. Phần tiếp theo sẽ tổng kết một số điểm chính về tình hình nghiên
cứu trong các tác phẩm quan trọng đó.


3
Trong tác phẩm “Market failure, government failure, leadership and
public policy” [thất bại thị trường, thất bại nhà nước, lãnh đạo và chính sách
công], hai tác giả Joe Wallis và Brian Dollery giới thiệu các lý thuyết và biến
thể lý luận liên quan tới thất bại thị trường, thất bại nhà nước và chủ nghĩa
công quản mới. Nhà nước cần phải can thiệp để khắc phục thất bại thị trường.
Nhưng các tác giả cho rằng sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế cũng vấp
phải một số thất bại như “thất bại lập pháp”, “thất bại hành chính”, “thất bại
tư pháp”, “thất bại hành pháp”, “thất bại chính trị”. Mặt khác, KVC ít phải đối
mặt với áp lực cạnh tranh mãnh liệt của nhiều đối thủ vì nó được bảo đảm
bằng những quy định và sức mạnh quyền lực nhà nước. Những thất bại nhà
nước và sự thiếu vắng áp lực cạnh tranh dẫn tới sự mất hiệu quả trong hoạt
động của KVC.
Trong tác phẩm “Market or Government: choosing between imperfect
alternatives” [thị trường hay chính phủ: lựa chọn giữa các phương án không
hoàn hảo], Wolf đã lập luận rằng sự vận dụng quá mức cơ chế thị trường và
can thiệp nhà nước đều gây ra những méo mó nhất định cho nền kinh tế nói
chung và KVC nói riêng. Mỗi phương án đều có những ưu thế riêng và có thể
bổ sung cho nhau trong những điều kiện nhất định. Do đó, việc vận dụng cơ
chế thị trường vào KVC làm cho hoạt động của khu vực này trở nên linh hoạt,
hiệu quả và đáp ứng kịp thời nhu cầu người tiêu dùng hơn.

Trong cuốn sách của mình “Sáng tạo lại chính phủ: tinh thần kinh
doanh sẽ làm biến đổi khu vực công ra sao?”, Osborne và Gaebler đã khuyến
khích thị trường hoá hoạt động công cộng để nâng cao hiệu qủa của chúng.
Hai tác giả đã đưa ra nhiều ý tưởng mới nhằm đưa tinh thần kinh doanh theo
phong cách tư nhân vào khu vực công. Vận dụng cạnh tranh vào hoạt động
cung ứng hàng hoá và dịch vụ công là một trong những hướng cải cách bộ
máy nhà nước sang kiểu tổ chức thị trường để đạt mục tiêu công. Chính phủ


4
tạo môi trường cạnh tranh tích cực cho khu vực công và tư để nâng cao hiệu
quả và chất lượng hàng hóa cho công dân. Theo Osborne và Gaebler, lợi thế
rõ ràng nhất của cạnh tranh là đem lại hiệu quả cao hơn và trách nhiệm hơn
trong cung cấp hàng hóa.
“Báo cáo phát triển thế giới 1997” của Ngân hàng thế giới [World
Development Report 1997. The State in a changing world] cho rằng vai trò
nhà nước trong thế giới hiện đại có nhiều thay đổi, đòi hỏi thiết lập các thể
chế đủ năng lực để vận hành khu vực công một cách hiệu quả, thoả mãn nhu
cầu đa dạng của công chúng. Việc hoàn thiện quy trình cung ứng hàng hoá và
dịch vụ công cần phải dựa vào cơ chế thị trường và tham gia của KVT.
Tác phẩm “Phục vụ và duy trì: giới thiệu hành chính công trong một
thế giới cạnh tranh”, đã giới thiệu cơ chế cạnh tranh trong mua sắm công.
Cạnh tranh lành mạnh không chỉ cần thiết cho việc bảo đảm hiệu quả về hoạt
động mua sắm hàng hoá và dịch vụ công mà còn củng cố lòng tin của công
chúng vào hoạt động kinh tế mà dễ bị quan chức lợi dụng. Ý tưởng vận dụng
cạnh tranh vào mua sắm công sẽ cải thiện hiệu quả sử dụng ngân sách, khắc
phục bớt tình trạng tham nhũng và lạm dụng công quỹ. Một trong nhiều ý
tưởng của tác phẩm này là phân tích các tác động của cơ chế cạnh tranh trong
nền hành chính công. Theo nhóm tác giả này, nền hành chính công trong thế
giới cạnh tranh hiện nay cần phải hướng tới “bốn chữ E”: kinh tế (Economy),

hiệu quả (Efficiency), hiệu lực (Effectiveness) và công bằng (Equity). Như
vậy, người dân sẽ được thừa hưởng những sản phẩm tốt và kịp thời do nền
hành chính công chuẩn mực tạo ra.
Bên cạnh những công trình nghiên cứu về lý luận cạnh tranh trong nền
kinh tế nói chung và trong KVC nói riêng, các học giả nước ngoài còn tổng
kết thực nghiệm việc vận dụng lý luận đó vào từng điều kiện của từng nước.


5
Luận án này cũng đã khảo cứu nhiều công trình về kinh nghiệm vận dụng
cạnh tranh vào KVC.
Jan-Erik Lane đã đánh giá những kinh nghiệm cải cách khu vực công ở
nhiều quốc gia trong tác phẩm của mình “Public Sector Reform: rationale,
trends and problems” [cải cách khu vực công: lý do, xu hướng và vấn đề].
Một ý tưởng quan trọng được phát hiện trong tác phẩm này là các cuộc cải
cách KVC đều theo hướng mở rộng môi trường cạnh tranh trong khu vực này
ở các nước như Australia, New Zealand, Germany, Canada, Anh và nhiều
nước phát triển khác. Tác giả đã đánh giá kết quả vận dụng những ý tưởng
mới về quản trị công của một số quốc gia trong vài thập kỷ gần đây. Mỗi
nước là một trường hợp nghiên cứu với nhiều vấn đề khác nhau và cách thức
giải quyết riêng biệt.
Nhiều công trình khác cũng đã tổng kết kinh nghiệm vận dụng cạnh
tranh vào KVC ở các nước như Trung Quốc, Singapore. Chẳng hạn, Janet Tay
đã khảo cứu tiến trình và kết quả thực hiện cải cách khu vực công ở Singapore
trong thập kỷ vừa qua trong tác phẩm “Public service reforms in Singaporre”
[cải cách dịch vụ công ở Singapore]; Kai Hong Phua tập trung vào đánh giá
những kinh nghiệm của Singapore trong lĩnh vực y tế trong công trình khoa
học “Health care financing options: lessons and innovations from the
Singapore system”. Những thành công trong cải cách lĩnh vực y tế công ở
Singapore thể hiện sự kết hợp hài hoà lợi ích công với lợi ích tư trong đầu tư

phát triển lĩnh vực y tế ở quốc đảo này.
Đối với Trung Quốc, quan điểm cải cách KVC được nhìn nhận lại dựa
trên sự tiếp thu những lý thuyết quản trị công hiện đại. Xu Songtao đã giới
thiệu những tiếp cận mới mà Chính phủ Trung Hoa vận dụng vào cải cách
KVC trong môi trường cạnh tranh của thế giới trong tác phẩm “China's
Public Administration Reform: New Approaches” [Cải cách nền hành chính


6
công Trung Quốc: những tiếp cận mới]. Từng cách tiếp cận mới được cân
nhắc và vận dụng có chọn lọc theo các mức độ khác nhau vào từng lĩnh vực
của KVC, như y tế, giáo dục, cấp nước sinh hoạt, điện năng, giao thông vận
tải, viễn thông và môi trường. Chẳng hạn trong lĩnh vực giáo dục, Mok, K.H
công bố công trình “Merging of the Public and Private Boundary: Education
and the Market place in China” [Sự hợp nhất ranh giới công và tư: giáo dục
và thị trường ở Trung Quốc]. Theo Mok, hệ thống giáo dục ở Trung Quốc
đang có sự kết hợp công-tư, cơ chế thị trường được khuyến khích vận dụng để
nâng cao chất lượng đào tạo theo định hướng nhu cầu thị trường.
Tóm lại, nhiều công trình nước ngoài đã đề cập tới nội dung cạnh tranh,
cụ thể có một số công trình đã đề xuất nhiều ý tưởng mở rộng cạnh tranh đối
với KVC. Một số nghiên cứu cho hay rằng nhiều nước đã đạt được những
thành công lớn trong hoàn thiện KVC bằng cách vận dụng cơ chế cạnh tranh
của thị trường và khu vực này.
Qua khảo sát các công trình nghiên cứu nước ngoài này, điều dễ nhận
thấy rằng cho tới thời điểm này chưa có một công trình nghiên cứu của học
giả nước ngoài bàn về cạnh tranh đối với KVC ở Việt Nam. Như vậy, chủ đề
nghiên cứu này vẫn còn rất mới lạ, cần phải đầu tư nghiên cứu nhiều.
Tình hình triển khai nghiên cứu trong Việt Nam
Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về cạnh tranh đối với KVC cực
kỳ hạn chế. Điều này được kiểm chứng cứ thông qua quá trình sưu tầm tư liệu

cho Luận án. Cho tới nay, chưa có một công trình nào trực tiếp bàn về cạnh
tranh đối với KVC hay liên quan tới đề tài này được lưu trữ trong các trung
tâm đào tạo và viện nghiên cứu lớn trong cả nước như Đại học kinh tế quốc
dân Hà Nội và Tp Hồ Chí Minh, Viện quản lý kinh tế Trung ương, Trường
đại học kinh tế Đại học Quốc gia Hà Nội, Học viện chính trị và hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh, Viện kinh tế Việt Nam, v.v.


7
Theo Danh mục đề tài và luận án của Đại học kinh tế quốc dân được
xuất bản mới đây, trong hơn 660 luận tiến sỹ và 1300 luận văn thạc sỹ chưa
có công trình nghiên cứu sâu về KVC nói chung và cạnh tranh đối với khu
vực này nói riêng. Tuy nhiên, Danh mục này cho thấy rằng đã có một số luận
án được bảo vệ về sự cạnh tranh trong một số ngành cụ thể, và về vai trò của
nhà nước trong điều tiết kinh tế và tạo môi trường cạnh tranh. Việc tra cứu
danh mục đề tài nghiên cứu và luận án được bảo vệ tại Trường đại học Kinh
tế, Đại học Quốc gia Hà nội cho thấy rằng đề tài cạnh tranh trong KVC chưa
được nghiên cứu.
Cơ sở dữ liệu của Viện quản lý kinh tế Trung ương hiện đang lưu trữ
một số tài liệu về KVC. Chẳng hạn, một số sách dịch từ nước ngoài thông qua
vài dự án tài trợ của Úc, Canada, Pháp, Thuỵ Điển về quản lý nhà nước đối
với các lĩnh vực trong nền kinh tế, trong đó có đề cập tới những vấn đề của
KVC. Rất tiếc rằng trong số tài liệu đó lại không có sách nghiên cứu sâu về
cạnh tranh đối với KVC của Việt Nam. Tuy nhiên, Viện đã công bố kết quả
dự án VIE 01/025: “Nâng cao năng lực cạnh tranh Quốc gia” (2003). Trọng
tâm của công trình này là năng lực cạnh tranh Quốc gia. Song, một số thông
tin trong công trình này có ích cho luận giải một số khía cạnh về cạnh tranh
đối với KVC. Chẳng hạn, việc đánh giá tình trạng độc quyền nhà nước trong
một số lĩnh vực kết cấu hạ tầng là những thông tin cần thiết cho luận án này.
Trong một số năm gần đây, trên diễn đàn khoa học đã xuất hiện một số

công trình đề cấp tới một số khía cạnh liên quan tới cạnh tranh trong các lĩnh
vực công. Trong “Báo cáo phát triển Việt Nam 2005” của Ngân hàng thế giới
và UNDP, khi bàn về giải pháp nâng cao việc sử dụng hiệu quả các nguồn chi
tiêu công cộng, các tác giả có kiến nghị mở rộng việc cạnh tranh đối với khu
vực này để các chủ thể công và tư nhân có thể cạnh tranh vì hiệu quả cao, chất


8
lượng hàng hóa công phù hợp với nhu cầu khách hàng. Đó cũng là gợi ý phù
hợp với ý tưởng mà Luận án đang theo đuổi giải quyết.
Trong qúa trình nghiên cứu khoa học của mình, Tác giả Luận án đã
công bố một vài công trình liên quan tới cạnh tranh đối với KVC. Tác giả lập
luận rằng cạnh tranh được coi như là một động lực quan trọng để hoàn thiện
sự vận hành của KVC. Để có môi trường cạnh tranh lành mạnh cần phải đề
cao vai trò quản lý và điều tiết của nhà nước, trong việc thiết lập kỷ cương,
luật lệ đóng vai trò quan trọng.
Những công trình trên là những bước khám phá ban đầu về một số
khía cạnh liên quan tới cạnh tranh đối với KVC ở Việt Nam. Việc kế thừa
những ý tưởng này là cần thiết và tiếp tục nghiên cứu sâu hơn để tạo căn cứ
khoa học cho hoàn thiện Luận án này.
Tóm lại, còn quá ít công trình nghiên cứu sâu rộng về bản chất cạnh
tranh đối với KVC ở Việt Nam thời gian qua. Ở nước ngoài, nhiều công trình
bàn tới khả năng vận dụng cạnh tranh vào KVC, nhưng chưa có công trình
nghiên cứu nào về cạnh tranh đối với KVC ở Việt Nam. Trong phạm vi quốc
gia, các nhà nghiên cứu Việt Nam quan tâm chưa thỏa đáng tới những ý tưởng
vận dụng cạnh tranh vào khu vực công nên còn rất hiếm các công trình khoa
học hay đề tài nghiên cứu về nội dung này. Vì thế, có thể khẳng định rằng vấn
đề cạnh tranh đối với khu vực công ở Việt Nam còn nhiều cơ hội bỏ ngỏ cho
nghiên cứu chuyên sâu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích chính của Luận án là phác họa bức tranh cạnh tranh đối với
KVC ở Việt Nam và luận giải hệ thống giải pháp thúc đẩy cạnh tranh trong
khu vực này. Để đạt được mục tiêu cơ bản này, Luận án đặt ra 4 nhiệm vụ
quan trọng sau đây:
(1) Luận giải cơ sở lý luận cạnh tranh đối với khu vực công


9
(2) Giới thiệu những kinh nghiệm cần thiết về cạnh tranh đối với KVC
ở một số nước trên thế giới như cơ sở tham khảo cho Việt Nam
(3) Phân tích thực trạng cạnh tranh đối với KVC ở Việt Nam
(4) Đề xuất hệ thống giải pháp thúc đẩy cạnh tranh đối với KVC ở
Việt Nam trong thời gian tới
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Trọng tâm nghiên cứu của Luận án là “cạnh
tranh đối với KVC” trong việc cung ứng hàng hóa và dịch vụ công (gọi tắt là
HHC), và một số loại hàng hóa và dịch vụ tư, (gọi tắt là HHT). HHC có thể
bao gồm những loại hàng hóa công thuần túy và những loại hàng hóa công
không thuần túy (tức là mang tính chất tư)
1
. Nội hàm “cạnh tranh đối với
KVC” thể hiện ý tưởng chủ đạo rằng sự cạnh tranh không chỉ diễn ra giữa các
chủ thể thuộc KVC với nhau mà còn diễn ra giữa các chủ thể công với chủ thể
tư, chủ thể liên doanh công tư và các chủ thể kinh tế khác.
Bằng phương pháp định tính là chủ yếu, Luận án chỉ tập trung xem xét
sự cạnh tranh của các chủ thể công với nhau, giữa chủ thể công với chủ thể tư
và chủ thể hỗn hợp công tư trong việc cung ứng HHC và một số HHT. Những
số liệu hay trường hợp minh họa cho nghiên cứu trong Luận án được giới hạn
trong các lĩnh vực kết cấu hạ tầng công ích (điện lực, bưu chính viễn thông,
giao thông) và hạ tầng xã hội (y tế, giáo dục). Đây là những lĩnh vực cơ bản

có tác động rộng lớn tới đời sống tất cả thành viên xã hội và hoạt động của
nền kinh tế quốc dân.
Giới hạn không gian: Luận án tập trung chính vào giải quyết những
vấn đề đã lựa chọn diễn ra ở Việt Nam. Bên cạnh đó, Luận án lựa chọn giới
thiệu những kinh nghiệm quan trọng của một số quốc gia tiêu biểu về cạnh


1
Những khái niệm này sẽ được giải thích rõ hơn trong Chương 1


10
tranh đối với KVC như Anh, Australia, New Zealand, Trung Quốc và
Singapore.
Giới hạn thời gian: Giai đoạn mà Luận án tập trung nghiên cứu là giai
đoạn sau khi có chính sách đổi mới ở Việt Nam. Tất nhiên, để nghiên cứu có
hệ thống, một số khía cạnh liên quan trong quá trình luận giải vấn đề chính có
thể thuộc về giai đoạn trước 1986. Đối với phân tích kinh nghiệm quốc tế,
phạm vi thời gian nghiên cứu bao hàm giai đoạn thời gian rộng hơn, từ những
năm đầu của thập kỷ 1980s trở lại đây.


5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt được những mục tiêu và nhiệm vụ đề ra, Luận án kết hợp nhiều
phương pháp nghiên cứu. Duy vật biện chứng và duy vật lịch sử là phương
pháp luận cần thiết cho phân tích và luận giải bản chất và quá trình vận động
và phát triển của các hiện tượng, sự vật. Nghiên cứu KVC cùng không thể
không vận dụng phương pháp luận này. Hơn nữa, Luận án còn sử dụng nhiều
phương pháp khoa học cụ thể như Phân tích, Tổng hợp, So sánh,Thống kê,
v.v.

Trong quá trình hoàn thành Luận án, nhiều công trình khoa học trong
và ngoài nước (ít nhiều) liên quan tới chủ đề này được tham khảo và tiếp thu
có phê phán. Đặc biệt, một số lượng lớn tài liệu nước ngoài được sưu tầm và
dịch thuật phục vụ cho Luận án này. Các loại tài liệu quý này được sưu tầm
thông qua nhiều kênh khác nhau trong nhiều năm nghiên cứu trong nước và
trong khoảng ba năm Tác giả nghiên cứu ở Australia.
6. Đóng góp khoa học của Luận án


11
Với những kết quả nghiên cứu, Luận án hy vọng sẽ đóng góp những ý
tưởng mới và thúc đẩy công tác nghiên cứu KVC ở Việt Nam theo chiều rộng
và chiều sâu của vấn đề:
i. Hệ thống hóa lý luận cạnh tranh đối với KVC, làm rõ những đặc
trưng, hình thức và kỹ thuật thúc đẩy cạnh tranh đối với KVC;
ii. Làm rõ thực trạng cạnh tranh đối với KVC ở Việt Nam thời gian
qua trên cơ sở đó chỉ rõ các vấn đề cần giải quyết.
iii. Xây dựng các nguyên tắc vận dụng cạnh tranh đối với KVC và thiết
kế hệ thống giải pháp thiết thực thúc đẩy cạnh tranh ở Việt Nam.
Những đóng góp khoa học này có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng
cao nhận thức về tầm quan trọng của KVC, đặc biệt trong quan chức và
những người hoạch định chính sách để nâng cao hiệu quả hoạt động của khu
vực này.

7. Kết cấu Luận án
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Luận án được bố
cục thành 4 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về cạnh tranh đối với khu vực công
Chương 2: Kinh nghiệm vận dụng cạnh tranh đối với khu vực công ở
một số nước

Chương 3: Thực trạng cạnh tranh đối với khu vực công ở Việt Nam
Chương 4: Những giải pháp thúc đẩy cạnh tranh đối với khu vực công
ở Việt Nam


12
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH
ĐỐI VỚI KHU VỰC CÔNG

1.1. KHU VỰC CÔNG VÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƢỚC
1.1.1. Khu vực công trong nền kinh tế
Xét về nguồn gốc, sự phát triển của các tổ chức KVC phát triển mạnh
vào những năm đầu thế kỷ XIX trong nhiều quốc gia [72, tr.2]. Tác động của
công nghiệp hoá và phát triển của đô thị làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội lớn
như di chuyển dân cư, mở rộng và phát sinh ngành nghề, hoạt động từ thiện,
chất lượng cuộc sống, v.v. Những vấn đề xã hội này khiến cho nhà nước phải
tham gia mạnh mẽ hơn để đối phó và giải quyết. Trong thời kỳ này, sự phát
triển mạnh của kinh tế thị trường đã bộ lộ nhiều khiếm khuyết hay ngoại ứng
tiêu cực ví như bất công, ô nhiễm môi trường và độc quyền. Do vậy, nhà nước
lúc này không đơn thuần thể hiện vai trò của mình trong thu thuế hay cung
cấp dịch vụ quốc phòng mà còn tích cực trong khắc phục những khuyết tật
của nền kinh tế thị trường. Để giải quyết những vấn đề này, nhà nước chi tiêu
ngân sách của mình không chỉ đơn thuần như người tiêu dùng mà cả như
người đầu tư. Nhà nước cần phải triển khai những chính sách và cơ chế để
thực hiện việc can thiệp của mình một cách hợp pháp và có hiệu lực trên quy
mô toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Rõ ràng, sự phát triển của KVC gắn với vai trò quan trọng và to lớn của
nhà nước trong việc khắc phục những khuyết tật thị trường và đáp ứng nhu
cầu chung xã hội. Xét về cơ cấu tổ chức, KVC là tập hợp nhiều cơ quan và tổ

chức tập thể nhằm phục vụ lợi ích chung của mọi thành viên xã hội [72, tr.2].
Những hợp phần của KVC gồm các đặc trưng như sau: (i) những cơ quan và


13
tổ chức này do nhà nước thành lập nhằm phục vụ lợi ích chung mà nhà nước
theo đuổi và thông qua đó phục vụ công dân; (ii) mục tiêu và quy chế hoạt
động của chúng là do nhà nước quyết định thông qua quy trình chính trị và
hành chính; (iii) nguồn ngân sách đảm bảo hoạt động của các tổ chức này
được phân bổ từ nguồn thu nhập thuế quốc gia và địa phương và chịu sự giám
sát của nhà nước; (iv) nhà nước chịu trách nhiệm về những giao ước pháp lý
cho các thực thể hợp phần của mình và nắm quyền kiểm soát pháp lý về
những hoạt động của chúng.
Trong KVC, cơ chế phân bổ nguồn lực cơ bản là phi thị trường. Nói
cách khác, khu vực công thực hiện phân bổ nguồn lực không tuân thủ quy luật
thị trường. Ví dụ, việc triểnkhai các chương trình an ninh quốc phòng, cứu trợ
xã hội, kết cấu hạ tầng quốc gia, v.v. sẽ không tuân thủ các quy luật thị trường
và không thể phân phối như hàng hoá tiêu dùng tư nhân. Việc cung cấp những
loại hàng hoá này không phụ thuộc vào khả năng thanh toán của khách hàng
tiêu dùng, tức là giá cả không đưa ra tín hiệu đúng cho điều chỉnh mặt cung.
Phần lớn loại hàng hoá do KVC cung ứng và sản xuất đều bảo đảm cho phép
tất cả thành viên xã hội cùng sử dụng chung với nhau không cần phân chia
khẩu phần, không phụ thuộc nhiều vào số lượng người tiêu dùng và khả năng
tiêu dùng của người khác. Nói ngắn ngọn, những sản phẩm của KVC nhằm
phục vụ lợi ích chung cho tất cả thành viên xã hội.
Hoạt động của các tổ chức thuộc KVC phải tuân thủ quy tắc và quy
định do nhà nước phê chuẩn. Công việc/chương trình được phê duyệt thông
qua một quy trình hành chính. Việc ra quyết định hay phủ quyết quyết định
phải dựa vào cơ chế đại diện [52, tr.198]. Người đại diện bỏ phiếu phê chuẩn
ngân sách công và cơ quan hành pháp triển khai chi tiêu nguồn tiền này. Phân

bổ ngân sách và hoạt động cung ứng/sản xuất được thể chế hóa bằng luật lệ
hay quy định để bảo đảm việc cung ứng đầu ra một cách đầy đủ và đúng


14
chủng loại cho những đối tượng hưởng lợi như đã cam kết. Các nhóm dân cư
hay nhóm lợi ích khác nhau sẽ được hưởng lợi hay chịu những tác động khác
nhau trong từng quyết định của nhà nước thông việc thực thi chính sách/quy
định của nhà nước như chính sách chi tiêu công, phúc lợi xã hội và nhiều
chính sách khác.
Căn cứ vào bản chất của mình, KVC chủ yếu thực hiện các nhiệm vụ
đa mục tiêu liên quan tới lợi ích kinh tế-xã hội chứ không phải theo đuổi mục
tiêu lợi nhuận cá nhân. Hoạt động của KVC hướng tới thỏa mãn lợi ích chung
cho toàn bộ thành viên xã hội hay nhiều nhóm lợi ích khác nhau. Việc phân
phối công bằng thành quả và nguồn lực công là đòi hỏi quan trọng để bảo
đảm sự duy trì hài hòa lợi ích và tạo động lực phát triển kinh tế-xã hội. Nhiều
chương trình công được phê duyệt nhằm thoả mãn lợi ích của các nhóm lợi
ích khác nhau trong xã hội. Việc đáp ứng nhu cầu khách hàng không phải vì
lý do khả năng thanh toán mà do lý do phân phối vì lợi ích chung.
Kinh phí hoạt động của các tổ chức công và đầu vào để đạt được các
mục tiêu công ích đều do nhà nước tài trợ từ ngân sách quốc gia. Kế hoạch
chi tiêu và quy trình phê duyệt do nhà nước giám sát theo một quy trình hành
chính. Trong lĩnh vực nhân sự cũng vậy, số lượng biên chế, việc bổ nhiệm
hay bãi nhiệm nhân sự và chế độ thù lao buộc phải theo những quy định
chung của nhà nước. Nói cách khác, nhà nước nắm quyền kiểm soát pháp lý
về những hoạt động của tổ chức của mình thành lập ra.
Như vậy, KVC bao gồm các thực thể nhà nước thực hiện sứ mệnh quan
trọng là phục vụ lợi ích chung cho toàn xã hội theo những quy trình được xác
lập trước mang tính pháp lý. Thông qua các chương trình chi tiêu công, nhà
nước cung ứng các loại hàng hóa và dịch vụ để thỏa mãn nhu cầuxã hội.





15


1.1.2. Quan niệm về hàng hoá công
Các tiêu chí cơ bản
2
để phân biệt HHC và HHT dựa trên tính chất tiêu
dùng của nó, thể hiện dưới hai khía cạnh: (i) tính loại trừ; (ii) tính tranh giành.
Tính loại trừ hàm ý trả lời câu hỏi: „có thể ngăn cản mọi người sử dụng
hàng hoá không?‟. Lợi ích của hàng hóa đem lại là rộng lớn, phổ quát cho
mọi người hưởng lợi hay chỉ giới hạn hẹp, riêng cho một cá thể nhất định.
Những hàng hoá không có tính loại trừ là những hàng hoá mà mọi người đều
có thể tiếp cận sử dụng nó mà không thể ngăn cản. Ví dụ, không khí trong
sạch là hàng hoá không loại trừ vì không thể loại trừ bất cứ ai trong xã hội
không thở, mọi người hít không khí thoải mái mà không phải trả tiền.
Những hàng hoá loại trừ là hàng hoá mà người chiếm hữu nó có thể dễ
dàng ngăn cản người khác sử dụng. Chẳng hạn, người sở hữu cái bánh có thể
không cho phép người khác sử dụng chiếc bánh đó, nếu muốn.
Tính tranh giành hàm nghĩa trả lời câu hỏi: „việc sử dụng hàng hoá của
người này có làm giảm khả năng tiêu dùng hàng hoá đó của người khác
không?‟. Hàng hoá tranh giành là những loại hàng hoá mà việc tiêu dùng của
người này sẽ hạn chế hoặc loại bỏ việc sử dụng đồng thời của người khác đối
với hàng hoá đó. Ví dụ, quả cam được người nào đó ăn rồi thì người khác
không còn thưởng thức nó được nữa. Đa số hàng hoá, lâu bền và không lâu
bền, đều có tính tranh giành.
Hàng hoá không tranh giành là những hàng hoá mà việc sử dụng của

người này không ảnh hưởng đến khả năng sử dụng đồng thời của người khác


2
Trong nhận thức thông thường ở Việt Nam hiện nay, hàng hóa công và hàng hoá tư được
phân biệt bởi dấu hiệu sở hữu. Nhiều người vẫn cho rằng HHC là do doanh nghiệp nhà
nước cung cấp còn HHT là do tư nhân sản xuất.



16
đối với hàng hóa đó. Hàng hoá không tranh giành bao gồm hữu hình và vô
hình. Chương trình phát thanh trên sóng Radio là hàng hoá không tranh giành.
Một khi người này mở đài nghe thì việc này cũng không hạn chế người khác
nghe đài ở cùng kênh đó. Những hàng hoá hữu hình không tranh giành có thể
kể tới như các phong cảnh đẹp, kỳ quan, công trình mỹ thuật công cộng, v.v.
Những hàng hoá đồng thời có tính loại trừ và tính tranh giành gọi là
HHT thuần tuý. Bánh mỳ là HHT thuần tuý, một người này ăn hết chiếc
bánh mỳ thì chắc chắn người khác không còn cái bánh đó để ăn được nữa, số
người sử dụng bánh mỳ nhiều sẽ ảnh hưởng tới lượng bánh mỳ cung ứng
trong cửa hàng (tranh giành). Đồng thời, những người sở hữu một lượng bánh
mỳ nào đó có thể dễ dàng loại trừ những người khác sử dụng chúng.
Ngược lại, những hàng hoá có hội tụ đầy đủ cả hai thuộc tính không
loại trừ và không tranh giành gọi là HHC thuần tuý
3
. Chẳng hạn, quốc phòng
nhằm ngăn chặn sự tấn công từ bên ngoài, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia
thì hoạt động này đem lại lợi ích cho tất cả công dân, không thể loại trừ một ai
sống trong quốc gia này. Mặt khác, có thêm một công dân sinh ra, hưởng lợi
từ hàng hoá này cũng không gây ảnh hưởng tới sự tiêu dùng của những người

còn lại trong xã hội.
HHC thuần tuý không thể phân bổ theo định suất để tiêu dùng và việc
hạn chế người sử dụng chúng dường như không thể hay vô cùng đắt đỏ. Đặc
tính khác của HHC thuần tuý là chi phí cận biên cho việc có thêm một người
sử dụng bằng 0, nên khi có thêm người sử dụng, mức độ sử dụng hàng hoá
của những người tiêu dùng còn lại không bị ảnh hưởng. Vì vậy, việc phân
chia theo suất hay khẩu phần cho người tiêu dùng là không cần thiết đối với
HHC thuần tuý. Hàng hoá này không thể chia theo khẩu phần bằng hệ thống


3
Stiglitz, J.E. cho rằng HHC thuần tuý có 2 đặc tính: không thể phân bổ theo khẩu phần để
sử dụng và không muốn sử dụng nó theo khẩu phần. Xét về thuật ngữ, đây là cách diễn đạt
khác của hai đặc tính mà chúng ta đang nói ở trên.


17
giá cả [52, tr.167]. Chẳng hạn, „quản lý nhà nước có hiệu lực‟ với tư cách là
HHC thuần tuý không thể chia ra từng định suất cho công dân và thu tiền sử
dụng theo giá cả thị trường. Quản lý nhà nước có hiệu lực sẽ đem lại lợi ích
chung cho toàn xã hội không loại trừ bất cứ công dân nào và mức độ hưởng
thụ của công dân này không ảnh hưởng gì tới khả năng sử dụng của công dân
khác.
Trong thực tế, ranh giới giữa HHT với HHC chỉ là tương đối. Trong
khoảng giữa hai cực HHT thuần tuý và HHC thuần tuý, tồn tại một số loại
hàng hóa được gọi là HHC không thuần tuý và/hay HHT không thuần tuý, tức
là có thể hội tụ không đủ hai tiêu chí nói trên hoặc sự kết hợp hai tiêu chí ở
giới hạn nhất định [52, tr.170].
Việc phân loại HHC mang ý nghĩa tương đối và phụ thuộc vào nhiều
yếu tố như nhận thức về mức độ “công”, hoàn cảnh lịch sử, điều kiện thị

trường, quy định pháp lý và tình trạng công nghệ. Tuy nhiên, việc phân định
HHC rất cần thiết để hiểu rõ những vấn đề cần giải quyết khi đưa ra quyết
định liên quan tới KVC [98, tr. 57].
Trong một số hoàn cảnh nhất định, một số loại hàng hoá có thể chuyển
từ hàng hoá công sang hàng hoá tư và ngược lại. Ví dụ, cuộc bắn pháo hoa
hoành tráng trong một trung tâm đông đúc dân cư trở thành hàng hoá công vì
nó đem lại sảng khoái cho tất cả dân cư và không loại trừ một ai ở đó. Ngược
lại nếu việc bắn pháo hoa đó lại diễn ra trong một công viên giải trí tư nhân ở
xa các trung tâm đông đúc thì nó mang tính hàng hoá tư nhân nhiều hơn bởi
vì mọi người muốn thưởng thức phải mua vé vào công viên đó. Thêm một ví
dụ khác, chẳng hạn hải đăng. Lâu nay chúng ta vẫn thừa nhận hải đăng là
HHC thuần tuý, nhưng trong thế kỷ 19 ở Anh, hải đăng là do tư nhân sở hữu
và vận hành [44, tr.290]. Chủ hải đăng không thể thu phí các thuyền trưởng
có thuyền đi qua nhưng lại thu phí các chủ của những bến cảng lân cận ngọn


18
hải đăng này. Nếu các chủ bến cảng đó không trả tiền thì chủ ngọn hải đăng
sẽ tắt đèn nên tàu bè sẽ không cập cảng đó nữa.
Việc xác định hàng hóa mang tính công hay không phụ thuộc vào số
lượng người hưởng lợi và khả năng loại trừ họ ra khỏi việc sử dụng hàng hoá
đó [44, tr.290]. Như ngọn hải đăng đang đề cập ở trên là hàng hoá công tại vì
nó mang lại lợi ích (không phải trả tiền) cho rất nhiều thuyền trưởng vì tránh
được những đá ngầm hay dòng nước nguy hiểm. Song, nếu nó chỉ đem lại lợi
ích cho chủ một số bến cảng lân cận thì nó giống hàng hóa tư nhân hơn.
Theo Rosen H.S. việc phân loại hàng hoá công không mang tính tuyệt
đối mà việc này còn phụ thuộc vào điều kiện thị trường và tình trạng công
nghệ [99, tr.56]. Chẳng hạn, trở lại ví dụ về ngọn đèn hải đăng. Trong điều
kiện thông thường, đèn bật sáng dẫn đường cho tất cả các tầu bè đi qua lại,
việc sử dụng hải đăng không mang tính tranh giành và loại trừ đối với mọi tầu

thuyền đi qua lại vùng biển này. Khi đó, ngọn hải đăng rõ ràng là HHC thuần
tuý. Nhưng giả định rằng một khi áp dụng công nghệ mới vào việc bật tắt thì
hải đăng không còn là HHC thuần tuý nữa bởi vì có khả năng loại trừ. Khi đó,
những tầu nào mua thiết bị đặc biệt nhận biết ánh sáng dẫn đường từ ngọn hải
đăng này mới có khả năng đi qua khu vực đó, còn tầu nào không mua thiết bị
này sẽ bị loại trừ ra khỏi việc sử dụng ngọn hải đăng đó.
Bảng 1.1: Phân loại hàng hoá công- tƣ
Tính tranh giành
Tính
loại
trừ


Không

Hàng hoá tƣ nhân
 Kem
 Quần áo
 Những con đường đông đúc
có thu phí
Độc quyền tự nhiên
 Phòng cháy
 Truyền hình cáp
 Những con đường thưa người
có thu phí
Không
Nguồn lực cộng đồng
 Cá ở đại dương
 Môi trường
 Những con đường đông đúc

không thu phí
Hàng hoá công
 Quốc phòng
 Tri thức
 Những con đường thưa người
không thu phí

×