Tính tất yếu khách quan của hội nhập quốc tế và những vấn đề đặt ra đối
với lĩnh vực dịch vụ Viễn thông Việt Nam
Mục đích của chương này đi vào tìm hiểu tình hình hội nhập kinh tế quốc tế của
Việt Nam trong thời gian qua. Đồng thời nêu lên các xu hướng phát triển Viễn thông
trên thế giới và nghĩa vụ tự do hoá dịch vụ Viễn thông của Việt Nam khi tham gia vào
các tổ chức kinh tế quốc tế. Để rút ra được những kinh nghiệm và bài học cho chiến
lược tự do hoá và mở cửa thị trường dịch vụ Viễn thông của Việt Nam trong thời gian
tới, trong chương này khái quát một số kinh nghiệm và bài học mở cửa thị trường dịch
vụ Viễn thông của một số nước trên thế giới. Chương I bao gồm 4 vấn đề được trình
bày sau:
I. Hội nhập quốc tế -Một xu thế tất yếu của các quốc gia trên thế
giới
II. Viễn thông Việt Nam trước xu thế hội nhập
III. Tính cấp thiết phải xây dựng chiến lược tự do hóa và mở cửa
thị trường dịch vụ Viễn thông Việt Nam
IV. Kinh nghiệm và lộ trình mở cửa thị trường dịch vụ Viễn thông
các nước trong khu vực và trên thế giới
I - Hội nhập quốc tế -Một xu thế tất yếu của các quốc gia trên thế giới
Hội nhập đã trở thành một trào lưu không thể đảo ngược, và việc tham gia của
các quốc gia vào tiến trình này là tất yếu với thực tế là các thể chế chính trị, kinh tế
thương mại toàn cầu, liên khu vực vẫn không ngừng được củng cố và phát triển cả về
lượng và chất
1.Tình hình hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian qua
Hai thập kỷ qua, quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế đã thực sự bước sang
một giai đoạn mới -Giai đoạn toàn cầu hoá “Cơn lốc hoà nhập kinh tế “đã cuốn tất cả
các nước trên thế giới từ Đông sang Tây, từ Bắc xuống Nam với tốc độ nhanh đến
chóng mặt. Các nền kinh tế trên hành tinh xâm nhập lẫn nhau, liên kết với nhau, đưa
nền kinh tế thế giới thành một nền kinh tế hoà nhập ngày càng đậm nét với một thị
trường buôn bán toàn cầu sôi động. Đối với các quốc gia công nghiệp phát triển, hội
nhâp kinh tế quốc tế là con đường ngắn nhất để họ nhanh chóng xác lập vị thế quốc tế,
là phương thức phát triển giúp họ đẩy mạnh chi phối và dẫn dắt các xu thế kinh tế toàn
cầu. Còn đối với các quốc gia đang phát triển hội nhập kinh tế quốc tế không những là
chiến lược quan trọng thúc đẩy nhịp độ phát triển kinh tế xã hội mà còn là sự lựa chọn
không thể tránh khỏi để đạt được sự tăng trưởng kinh tế bền vững. Hơn nữa ngày nay
đông lực của hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ nhằm khai thác lợi thế so sánh mà còn
là tiến bộ khoa học kỹ thuật và mở rộng cơ chế thị trường. Điều này càng làm cho các
quan hệ đầu tư, thương mại, chuyển giao công nghệ, quản lý...đan chéo hoà nhập vào
nhau hơn trong một chỉnh thể thống nhất mà trong đó các nền kinh tế quốc gia chỉ là
một bộ phận hợp thành của kinh tế toàn cầu
1.1 Tiến bộ khoa học kỹ thuật thúc đẩy toàn cầu hoá.
Với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ trong thời gian vừa qua đã
làm cho hội nhập kinh tế bước vào một giai đoạn mới -Giai đoạn toàn cầu hoá và khu
vực hoá. Những tiến bộ to lớn về công nghệ thông tin cũng như trong lĩnh vực kỹ thuật
và công nghệ khác đã cho phép tổ chức sản xuất và tiến hành buôn bán trên quy mô
toàn cầu. Các máy Fax,cáp sợi thuỷ tinh,máy vi tính...tạo điều kiện thuận lợi cho các
công ty đa quốc gia tổ chức điều khiển từ xa các chi nhánh bố trí chằng chịt của họ một
cách nhanh chóng, kịp thời. Các phương tiện vận chuyển khổng lồ rất hiện đại có tốc độ
cao giúp cho việc tổ chức sản xuất, chế tạo, lắp ráp, và buôn bán các sản phẩm làm ra ở
nhiều địa bàn khác nhau, có khi xa nhau hàng nghìn, hàng vạn km, nhằm khai thác lợi
thế so sánh ở mỗi nơi. Điều này đã làm cho biên giới quốc gia đặc biệt là về kinh tế
ngày càng mất tác dụng. Với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật cộng với sức mạnh
khổng lồ của các công ty xuyên quốc gia đã và đang làm thay đổi bộ mặt thế giới từng
phút từng giờ
1.2 Thúc đẩy tự do hoá thương mại thế giới
Từ những năm 1990, xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá của nền kinh tế thế giới
đã tạo điều kiện cho thương mại thế giới phát triển một cách nhanh chóng. Việc tự do
hoá mậu dịch với biện pháp bãi bỏ hàng rào thuế quan đã giúp cho nền thương mại thế
giới phát triển một cách ngoạn mục một sự phát triển “trong cạnh tranh gay gắt”, thị
trường của các quốc gia trên thế giới được khai thông và mở rộng trên mọi lĩnh vực.
Nếu như trước kia thương mại thế giới chỉ tập trung vào những mặt hàng truyền thống
thì nay nó còn lan ra cả dịch vụ, bất động sản...Theo nhận xét của báo “Tấm gương”
(Đức)tốc độ tăng trưởng thương mại thế giới từ năm 1991 cho tới năm 1998 nhanh hơn
gấp đôi tốc độ tăng trưởng GDP của thế giới ví dụ :Tốc độ tăng trưởng GDP của thế
giới năm 1994 là 3,9% trong khi đó tốc độ tăng trưởng thương mại thế giới là 9,5%.
Tương tự năm 1995:3,6%và 8%;năm 1996:4,1%và 7% ;năm 1997:4,1% và 9,4%. Mặc
dù trong năm 1998,bị tác động bởi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở châu á nhưng
tốc độ tăng trưởng thương mại thế giới vẫn đạt 3,7%.
Tổ chức thương mại thế giới - WTO và các tổ chức mậu dịch tự do khu vực như
liên hiệp châu âu -EU, diễn đàn hợp tác kinh tế châu á - Thái bình dương - APEC, khu
vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ-NAFTA, khu vực mậu dịch tự do ASEAN-AFTA..đã đóng
vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tự do hoá thương mại thế giới. Trong đó tổ chức
thương mại thế giới WTO ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy xu
hướng toàn cầu hoá thương mại. Tại hội nghị cấp bộ trưởng lần thứ nhất của WTO họp
ở xingapore với 128 nước tham gia đã thông qua được hiệp định công nghệ thông tin
ITA bao gồm việc xoá bỏ hàng rào thuế quan đối với các mặt hàng bán dẫn, các sản
phẩm thông tin Viễn thông và các thiết bị máy tính, phần mềm và các thiết bị khoa học.
Tiếp nối các hiệp định ban đầu của vòng đàm phán uruguay, vòng đàm phán Singapore
càng thúc đẩy hơn nữa trong quá trình tự do hoá thương mại toàn cầu
Như vậy toàn cầu hoá với việc ra đời của EU, NAFTA, AFTA...và đặc biệt là
WTO đã đánh dấu thời đại của hàng rào thuế quan cao, của cách thức đóng cửa khác
nhau ở các thị trường, của một số đặc quyền ít ỏi trong mậu dịch quốc tế dành cho các
nước phát triển đã chấm dứt. Buôn bán quốc tế đã chuyển sang một thời đại mới, thời
đại của tự do hoá thương mại thế giới
1.3 FDI và vai trò của các công ty đa quốc gia
Vai trò ngày càng tăng của đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI là một nhân tố rất
quan trọng để thúc đẩy xu thế toàn cầu hoá. Tổng giá trị FDI toàn thế giới năm 1994 là
209 tỷ USD; năm 1995 là 260 tỷ USD; năm 1996 là 320 tỷ USD; năm 1998 là 450 tỷ
USD. Với việc đầu tư ra nước ngoài đã góp phần làm tăng nhanh quá trình quốc tế hoá
đời sống kinh tế Thế giới, cả trong lĩnh vực sản xuất lẫn thương mại quốc tế. Nhưng
ngược lại chính xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá kinh tế quốc tế càng thúc đẩy các
công ty đa quốc gia đầu tư ra nước ngoài. Các nước G7 là các nước đứng đầu về đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài. FDI vào châu á chiếm khoảng 1/3 FDI toàn thế giới
Các công ty đa quốc gia MNCs là lực lượng chủ chốt đầu tư ra nước ngoài.
Hàng năm các MNCs đầu tư ra khoảng 300-350 tỷ USD. Hoạt động của MNCs đã có
vai trò to lớn trong phát triển thương mại quốc tế. Theo số liệu ước tính, những năm
gần đây giá trị xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ của các MNCs đạt khoảng 6,5 đến 7
nghìn tỷ USD trong đó xuất khẩu nội bộ của MNCs đạt khoảng 2000 tỷ USD. Đến hết
năm 1998 trên thế giới có khoảng 39000MNCs và có 300000 chi nhánh (công ty con) ở
nước ngoài với tổng số vốn đầu tư trực tiếp ở nước ngoài FDI lên tới 3000 tỷ USD
Bên cạnh những đóng góp lớn về vốn cho phát triển sản xuất và thương mại
quốc tế, các MNCs có vai trò to lớn trong chuyển giao công nghệ. Việc chuyển giao
công nghệ là điều kiện khách quan giúp cho các MNCs chiếm lĩnh thị trường và nâng
cao lợi nhuận, đồng thời có khả năng chi phối các đối tác trong hoạt động kinh doanh.
Các MNCs có thể chuyển giao kỹ thuật công nghệ hiện đại trong nội bộ công ty mà
chuyển giao kỹ thuật công nghệ ở cấp thấp hơn cho các nước khác, công ty khác
1.4 Liên kết kinh tế quốc tế mở rộng trên các cấp độ khác nhau
Hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian vừa qua theo nhiều chiều hướng và tầng
nấc khác nhau: Song phương, tiểu khu vực, khu vực, liên khu vực và toàn cầu. Cùng
với việc ra đời diễn đàn hợp tác kinh tế châu á Thái Bình Dương-APEC, khu vực mậu
dịch tự do Bắc Mỹ NAFTA, khu vực mậu dịch tự do ASEAN/AFTA...đã chứng minh
hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng củng cố và phát triển cả bề rộng lẫn bề sâu .
Trong năm 1996, hội nghị cấp cao á -âu(ASEM) lần thứ nhất họp tại Băng cốc
(Thái lan) với sự tham dự của vị nguyên thủ quốc gia và lãnh đạo chính phủ 10 nước
châu á và các nước trong EU nhằm xây dựng thể chế liên kết kinh tế liên lục địa á-âu.
Sự kiện này đã khép kín cạnh thứ ba của tam giác liên kết kinh tế liên lục địa trên thế
giới, mà hai cạnh trước đã có từ trước là diễn đàn kinh tế châu á Thái bình dương APEC
gắn liền với các nước châu á và châu mỹ ở ven hai bờ Thái bình dương, và khu vực
mậu dịch xuyên Đại Tây Dưong TAFTA giữa Hoa Kỳ và Bắc Mỹ với EU và Tây Âu
Trong những năm qua, các tổ chức liên kết tiểu khu vực và khu vực tiếp tục phát
triển. ở châu Phi, cộng đồng kinh tế các nước Tây phi (ECOWAS) nằm trong khu vực
nghèo nhất thế giới gồm 16 nước thành viên trong đó có Nigeria, Ghana, Mali,
Senegan...đã xúc tiến từng bước việc thiết lập liên minh hải quan vào năm 2000 và liên
minh kinh tế toàn diện vào năm 2005. Cũng tại lục địa đen, 12 nước thành viên Cộng
đồng phát triển phía nam Châu phi -SADC đã ký nghị định thư vào năm 1996 thành lập
khu vực mậu dịch tự do với 130 triệu dân và kêu gọi cắt giảm thuế quan trong thời hạn
tối đa 8 năm
Các nước ở Nam Mỹ đang tiến tới thiết lập khu vực buôn bán tự do châu Mỹ
khổng lồ FTAA vào năm 2005, tạo ra một khối buôn bán tự do lớn thứ tư trên thế giới
với 250 triệu người tiêu dùng và có GĐP là 800 tỷ USD. Các hàng rào thuế quan giữa
các nước này dự định sẽ huỷ bỏ vào năm 2004
Tại châu á, trong những năm qua xu hướng hợp tác tiểu khu vực phát triển
mạnh.Việc Trung Quốc, CHDCND Triều Tiên, Hàn Quốc, Mông Cổ, Nga ký kết các
hiệp định thành lập khu vực phát triển kinh tế vùng sông Turmen ở Đông Bắc A hồi
tháng 12/1995 đã mang đến sinh khí mới cho hợp tác kinh tế ở vùng này. Tại hội nghị
quốc tế ở Bắc Kinh với chủ đề đẩy mạnh phát triển và hợp tác khu vực giữa các nước
đông Bắc á trong thế kỷ 21, các học giả nhất trí cho rằng khi nền kinh tế khu vực Thái
Bình Dương phát triển mạnh, vùng Đông Bắc á nên tăng cường hợp tác khu vực nhằm
tạo một thị trường có tiềm lực lớn. Tại khu vực Nam á, 7 nước trong tổ chức SAARC
-Hiệp hội các quốc gia Nam á vì sự hợp tác khu vực trong đó có ấn Độ, Pakistan đã
đồng ý huỷ bỏ hàng rào buôn bán càng nhanh càng tốt nhằm tăng cường buôn bán và
hợp tác khu vực trong các liên doanh, đầu tư và kỹ thuật với hy vọng thành lập được
một khu vực buôn bán giống như ASEAN
Việc tổ chức ASEAN chính thức kết nạp Lào và Myanmar trong thời gian vừa
qua đã mở ra triển vọng to lớn hình thành Tổ chức hiệp hội các nước Đông Nam á
ASEAN và khu vực mậu dịch tự do thương mại AFTA bao gồm toàn thể 10 nước ở
trong khu vực. Hiện tại ASEAN với 9 nước thành viên là khu vực kinh tế lớn thứ tư trên
thế giới, có diện tích 3,3 triệu km2 với 400 triêu dân, có GDP hơn 550 tỷ USD, xuất
khẩu hơn 300tỷ USD/năm. AFTA đang đẩy mạnh việc thực hiện kế hoạch tự do buôn
bán vào năm 2003 hoặc sớm hơn, thúc đẩy hình thành khu vực đầu tư tự do ASEAN và
sau đó từng bước tiến tới nhất thể hoá ASEAN về kinh tế trong vùng vài ba chục năm
tới
Tóm lại, toàn cầu hoá đang tạo ra những tác động tích cực và có những ảnh
hưởng tiêu cực, những cơ hội to lớn và những thách thức nghiêm trọng, nó kích thích sự
phát triển đối với những ai biết khai thác lợi thế của xu hướng lịch sử mới này và khiến
những ai chậm chân, đứng bên lề có thể bị tụt hậu ngày càng xa
2. Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong thời gian qua
Hội nhập kinh tế quốc tế vừa là một xu hướng vừa là yêu cầu của các quốc gia
trên thế giới. Đối với Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế nhằm tìm kiếm những nguồn
lực và điều kiện thuận lợi bên ngoài để hỗ trợ cho sự nghiệp cải cách và công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Để thực hiện mục tiêu đó, trong những năm vừa qua Việt
Nam đã thực hiện chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ để thực hiện
từng bước hội nhập. Việt Nam tích cực mở rộng các mối quan hệ thương mại, hợp tác
kinh tế với nhiều nước và tổ chức quốc tế theo nhiều tầng nấc khác nhau: Song phương,
tiểu khu vực, khu vực, liên khu vực và toàn cầu. Năm 1995, Việt Nam chính thức trở
thành thành viên của ASEAN và đang nỗ lực tham gia thực hiện các chương trình hợp
tác kinh tế ASEAN, đặc biệt là chương trình khu vực mậu dịch tự do AFTA. Cùng với
việc tham gia AFTA/ASEAN Việt Nam cũng đã tham gia diễn đàn hợp tác á - Âu
(ASEM) ngay từ khi hình thành vào tháng 3/1997 với tư cách là thành viên sáng lập.
Đặc biệt, năm 1997 đánh dấu một sự kiện quan trọng và có ý nghĩa lớn lao đối với tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Sau một thời gian nỗ lực vận động và
chuẩn bị, Việt Nam đã được các nhà lãnh đạo APEC tuyên bố sẽ kết nạp làm thành viên
vào năm 1998. Đối với tổ chức thương mại thế giới (WTO) Việt Nam cũng đã đệ đơn
xin gia nhập và trong hai năm 1997, 1998 Việt Nam đã chuẩn bị cho các vòng đàm phán
gia nhập WTO với tổ công tác và các nước quan tâm.
Trong thời gian qua, tiếp theo việc bình thường hoá quan hệ ngoại giao giữa Việt
nam và Mỹ, hai nước đã tiến hành nhiều vòng đàm phán để ký kết các hiệp định kinh tế
song phương về các vấn đề về nợ , bản quyền, từng bước bình thường hoá quan hệ kinh
tế thương mại. Song song với những việc trên, trong những năm qua Việt Nam tích cực
hợp tác với các tổ chức tài chính quốc tế như WB, IMF... nhằm tận dụng một cách có
hiệu quả sự hợp tác của các tổ chức đó phục vụ tiến trình phát triển kinh tế và hội nhập
quốc tế của mình. Nhưng có một điều là tất cả sự hợp tác, quan hệ trên đều phải lấy các
nguyên tác của WTO làm tiêu chuẩn.
3. Những cơ hội và thách thức với Việt Nam trong quá trình mở cửa và
hội nhập kinh tế quốc tế.
Đối với Việt Nam là một nước đang phát triển, có nền kinh tế chuyển đổi, tham
gia hội nhập với xuất phát điểm thấp hơn nhiều so với nhiều nước trên thế giới.Vì vậy,
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế một mặt đang mở ra nhiều cơ hội cho chúng ta, mặt
khác cũng đặt ra cho chúng ta nhiều thách thức lớn lao.
3.1. Những lợi ích của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Hiện tại Việt Nam vẫn đang ở giai đoạn đầu của công cuộc công nghiệp hoá đất
nước. Việt Nam mở cửa và hội nhập vào kinh tế quốc tế sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam
thay đổi cơ cấu kinh tế thích hợp hướng công nghiệp hoá và xuất khẩu, tạo cơ hội để
phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, thương mại và dịch vụ.
+ Việt Nam sẽ không bị phân biệt đối xử trong thương mại quốc tế và mở rộng
được nhiều thị trường xuất khẩu ra bên ngoài do việc được hưởng quy chế tối huệ quốc
(MFN) và ưu đãi quốc gia (NT) của các nước thành viên, đặc biệt là các mặt hàng xuất
khẩu mà ta có lợi thế so sánh như gạo, cà phê, hải sản, may mặc, dày dép...
Ví dụ: Việc Việt Nam tham gia vào APEC sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam hợp tác
về thương mại với các nước khu vực châu á - Thái Bình dương. Thương mại giữa Việt
Nam và các nước trong khu vực châu á - Thái Bình Dương chiếm hơn 80% tổng lượng
thương mại quốc tế của Việt Nam. Tham gia vào APEC sẽ giúp Việt Nam khai thác
được lợi thế, tận dụng những ưu đãi của APEC dành cho các nước đang phát triển, tránh
rơi vào thế bị cô lập trong xu thế hợp tác và cạnh tranh khu vực.
+ Khi tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế Việt Nam phải tiến hành cải cách thể
chế, chính sách, luật pháp cho phù hợp với yêu cầu của các tổ chức này. Điều này công với
các lợi thế so sánh mà lâu nay Việt Nam có như lao động, vị trí địa lý... sẽ tạo điều kiện cho
Việt Nam có cơ hội thu hút được vốn đầu tư nước ngoài nhiều hơn.
+ Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo ra động lực để các công ty trong nước đổi mới
công nghệ, cải tiến phương pháp quản lý, tăng cường hiệu quả kinh doanh, nâng cao chất
lượng sản phẩm để cạnh tranh và tồn tại trong điều kiện kinh tế mở. Ngoài ra, hội nhập
kinh tế quốc tế còn tạo điều kiện cho các công ty Việt Nam bước vào thị trường thế giới để
mở rộng sản xuất kinh doanh, cạnh tranh trực tiếp với các công ty nước ngoài.
+ Trong quá trình hội nhập vào các tổ chức kinh tế quốc tế, Việt Nam sẽ sử
dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp đa phương để bảo vệ được lợi ích và giảm bớt
được sức ép của các nước lớn trong thương mại. Đồng thời nâng cao được vai trò của
Việt Nam trong các cuộc đàm phán thương lượng thương mại trong tương lai.
3.2. Những nghĩa vụ và thách thức của Việt Nam.
Cùng với những lợi ích mang lại trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, thì bên
cạnh đó quá trình hội nhập buộc Việt Nam phải thực hiện những nghĩa vụ của mình
theo những tiêu chuẩn quốc tế và tất yếu Việt Nam sẽ gặp phải những khó khăn, thách
thức.
3.2.1. Nghĩa vụ của Việt Nam.
+ Việt Nam sẽ phải mở cửa thị trường hàng hóa và dịch vụ thông qua việc giảm
thuế và các biện pháp phi thuế quan trong khi luật lệ, kinh nghiệm và khả năng cạnh
tranh của các doanh nghiệp Việt Nam còn thấp, nhất là lĩnh vực dịch vụ bao gồm: Ngân
hàng, Bảo hiểm, Vận tải, Bưu chính - Viễn thông, Xây dựng và Tư vấn.
+ Việt Nam sẽ phải có sự bảo vệ hợp lý đối với quyền tác giả của các sản phẩm
trí tuệ như: Mẫu mã, bằng sáng chế, nhãn hiệu thương mại, chương trình máy tính và
thu thanh thông qua các quy định pháp lý phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế.
+ Việt Nam cần phải sửa đổi các qui định về đầu tư nước ngoài không phù hợp,
phải thực hiện các nghĩa vụ đối với quốc gia và giảm hoặc loại trừ những hạn chế liên
quan đến đầu tư nước ngoài như yêu cầu về tỷ lệ nội địa hoá, phần trăm hàng xuất khẩu
trong các dự án đầu tư.
+ Việt Nam phải tiếp tục cải cách hệ thống thương mại và kinh tế của mình phù
hợp với các qui định của các tổ chức kinh tế quốc tế. Các khu vực cần phải cải cách hơn
nữa gồm hệ thống giá, chế độ xuất nhập khẩu, hệ thống thuế và tài chính, các hoạt động
thương mại của khu vực doanh nghiệp Nhà nước và bảo hộ quyền tác giả. Các nghĩa vụ
khác Việt Nam sẽ phải thực hiện bao gồm: Minh bạch hoá chế độ thương mại, áp dụng
thống nhất chính sách thương mại trên phạm vi cả nước; và có thời gian biểu cho quá
trình cải cách kinh tế.
3.2.2. Những thách thức:
+ Nền kinh tế Việt Nam còn nhiều yếu kém. Việc mở cửa và hội nhập kinh tế
quốc tế có nhiều nội dung liên quan đến tự do hoá thương mại và đầu tư, và điều này
trong thời gian đầu sẽ gây cho Việt Nam những khó khăn nhất định. Cùng với những
khía cạnh tích cực của tự do cạnh tranh, thì mặt tiêu cực cũng sẽ ảnh hưởng rất lớn nếu
như cải cách trong nước không được thực hiện kịp thời và đúng lượng.
+ Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế đang phát triển ở trình độ thấp vả lại đang
trong quá trình chuyển đổi. Vì vậy việc hoạch định một chính sách kinh tế thương mại
sao cho phù hợp với thông lệ quốc tế, vừa tạo được những điều kiện hợp lý để tăng
cường khả năng cạnh tranh của nền kinh tế vẫn là một điều nan giải khó có thể giải
quyết được trong thời gian ngắn.
+ Một điều tất yếu là trong quá trình hội nhập Việt Nam sẽ phải giảm thuế xuất
nhập khẩu. Việc giảm thuế sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn thu ngân sách vốn thu đã
không đủ chi.
+ Hội nhập kinh tế quốc tế là một lĩnh vực hoàn toàn mới lạ đối với Việt Nam.
Trong khi đó đội ngũ cán bộ của Việt Nam còn khá yếu kém cả về kiến thức chung,
cũng như kiến thức chuyên ngành có liên quan đến vấn đề hội nhập.
+ Một thực tế cho chấy, hiện nay hầu hết các ngành kinh tế Việt Nam từ sản xuất
đến dịch vụ chưa chuẩn bị hay chưa xây dựng một chiến lược thống nhất về hội nhập
để tăng cường sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam, biểu tượng Việt Nam trên thương
trường quốc tế.
+ Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Đông Nam á có phần nào tác động tới
nền kinh tế Việt Nam. Do vậy trong thời gian tới quá trình mở cửa và hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam ít nhiều gì cũng sẽ gặp khó khăn.
II - Viễn thông Việt Nam trước xu thế hội nhập.
Trong thời gian tới xu hướng hội nhập nói chung vẫn tiếp tục được củng cố và
phát triển cả bề rộng và bề sâu, trong đó đáng chú ý là xu hướng đẩy nhanh việc mở cửa
thị trường trong nhiều lĩnh vực. Kể cả lĩnh vực được coi là phức tạp và có nhiều gay
cấn là lĩnh vực thương mại dịch vụ mà trong đó dịch vụ Viễn thông được đặt lên hàng
đầu.
1. Các xu hướng phát triển Viễn thông trên thế giới.
Trong 2 thập kỷ qua đã diễn ra những sự thay đổi mạnh mẽ trong Viễn thông, sự
thay đổi công nghệ một cách nhanh chóng và đưa vào nhiều ứng dụng công nghệ mới.
Thị trường Viễn thông tăng trưởng rất nhanh, theo dự báo số thuê bao điện thoại cố
định vào năm 2005 sẽ gấp đôi năm 1994 (trên 1,2 tỷ), số thuê bao điện thoại di động từ
80 triệu năm 1994 tăng đến 400 triệu, số thuê bao Internet từ 65 triệu năm 1997 sẽ lên
đến 570 triệu năm 2000. Tại hội nghị phát triển Viễn thông thế giới do ITU tổ chức tại
Malta từ 23/3 - 1/4/1998, sau khi đánh giá môi trường Viễn thông hiện nay đã nêu bật
lên các xu hướng phát triển Viễn thông là:
1.1. Xu hướng toàn cầu hoá, tự do hoá, mở cửa thị trường dịch vụ
Viễn thông ở mức quốc gia, khu vực và quốc tế.
Việc toàn cầu hoá về kinh tế đã thúc đẩy nhanh quá trình tự do hoá thương mại
toàn cầu, làm cho giao lưu kinh tế mậu dịch toàn cầu ngày càng sôi động. Vấn đề
thương mại hoá dịch vụ được đặt ra trong tất cả các tổ chức thương mại toàn cầu và khu
vực như WTO, APEC, ASEAN... trong đó có dịch vụ Viễn thông. Các tổ chức này đều
nhằm mục đích là đến năm 2020 sẽ tiến tới việc tư do hoá hoàn toàn thương mại dịch
vụ trong khu vực và trên thế giới. Hiện nay trong hiệp định chung về thương mại dịch
vụ (Ganeral Agreement on trade in servies - GATS) của WTO, các dịch vụ Viễn thông
được chia làm hai loại - đó là các dịch vụ cơ bản và các dịch vụ giá trị gia tăng trong đó
các dịch vụ cơ bản đóng vai trò quan trọng hơn xét từ góc độ kinh tế, kỹ thuật cũng như
chủ quyền an ninh quốc gia. Nói chung trong thời gian tới việc tự do hoá, mở cửa thị
trường Viễn thông ở các quốc gia, các tổ chức khu vực đều dựa trên nguyên tắc của
WTO về dịch vụ Viễn thông trong hiệp định chung về thương mại dịch vụ.
Phân loại dịch vụ Viễn thông trong WTO/ GATS
I. Các dịch vụ Viễn thông cơ bản:
1. Các dịch vụ thoại.
2. Các dịch vụ truyền số liệu chuyển mạch gói.
3. Các dịch vụ truyền số liệu chuyển mạch kênh.
4. Các dịch vụ TELEX.
5. Các dịch vụ Telegraph.
6. Các dịch vụ Facsimile.
7. Các dịch vụ cho thuê kênh riêng.
8. Các dịch vụ nhắn tin.
9. Các dịch vụ di động tế bào số/analogue.
10. Các dịch vụ thông tin vệ tinh.
11. Các dịch vụ thông tin các nhân (PCS)
12. Các dịch vụ dữ liệu di động.
13. Các dịch vụ khác.
II. Các dịch vụ giá trị gia tăng.
1. Dịch vụ thư điện tử (E mail)
2. Dịch vụ thư thoại.
3. Dịch vụ khôi phục thông tin và cơ sở dữ liệu trực tuyến (on line)
4. Dịch vụ trao đổi dữ liệu điện tử (EDI).
5. Dịch vụ Facsimile gia tăng giá trị/cải tiến tính năng (gồm cả dịch vụ lưu trữ
và tự động chuyển, lưa trữ và khôi phục).
6. Dịch vụ chuyển đổi mã và giao thức.
7. Dịch vụ xử lý thông tin và / hoặc số liệu trực tuyến (kể cả dịch vụ xử lý các
giao dịch kinh doanh).
8. Các dịch vụ khác.
Đối với các dịch vụ giá trị gia tăng (VAS) là những dịch vụ Viễn thông đầu tiên
được đưa ra đàm phán và cam kết trong GATT 93 (tiền thân của WTO). Kết thúc vòng
đàm phát GATT93, đã có 68 nước trên thế giới có cam kết với cấc dịch vụ Viễn thông
VAS . Sở dĩ các nước bàn và cam kết mở cửa các dịch vụ VAS trước vì đây là những
dịch vụ dễ triển khai về kỹ thuật và ít ảnh hưởng đến quyền lợi kinh tế cũng như an
ninh quốc gia của các nước.
Tuy nhiên, hoạt động có ý nghĩa nhất và có ảnh hưởng sâu rộng nhất về thương
mại dịch vụ Viễn thông trong WTO chỉ bắt đầu khi có vòng đàm phán về mở cửa thị
trường các dịch vụ Viễn thông cơ bản (Group on basis telecom -GBT). Đây là lĩnh vực
dịch vụ Viễn thông quan trọng mà bất cứ quốc gia nào cũng muốn bảo hội vì lý do an
ninh, chủ quyền quốc gia và lợi nhuận. Ngày 15/2/1997, 69 quốc gia thành viên WTO
đã ký nghị định thư thứ 4 của Hiệp định chung về thương mại dịch vụ liên quan đến
dịch vụ Viễn thông cơ bản, có hiệu lực từ 5/2/1998. Cho tới nay con số các nước tham
gia ký kết hiệp định về Viễn thông cơ bản đã tăng lên 72 nước, có thể nói thế giới Viễn
thông đã thay đổi một cách căn bản nhớ kết quả của hiệp định này. 72 nước đã đưa ra
cam kết trong hiệp định chiếm tới 93% giá trị thị trường Viễn thông thế giới. Trong hiệp
định này, tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, tiến trình phát triển Viễn thông của
từng nước, các quốc gia đều đưa ra các cam kết về lộ trình hội nhập và mở cửa của thị
trường dịch vụ Viễn thông từ nay đến năm 2020.
Đối với nhóm các nước phát triển như EU, Bắc Mỹ, Nhật Bản... tự do hoá và mở
cửa thị trường dịch vụ Viễn thông bắt đầu từ năm 1998. Đây là những nước chiếm tới
75% thị trường dịch vụ Viễn thông trên toàn thế giới do vậy quá trình tự do hoá và mở
cửa thị trường dịch vụ Viễn thông sẽ ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển dịch vụ Viễn
thông của các nước còn lại.
Các nước công nghiệp mới như Singapore, Hàn Quốc... mặc dù Viễn thông của
các nước này không phát triển bằng các nước công nghiệp phát triển nhưng các nước
này cũng đưa ra cam kết sẽ tự do hoa và mở cửa thị trường hoàn toàn trong một vài
năm tới. Còn đối với các nước đang và chậm phát triển, mặc dù biết rằng tự do hoá và
mở cửa thị trường dịch vụ Viễn thông sẽ đem đến nhiều bất lợi nhưng trước xu thế toàn
cầu hoá tất cả các lĩnh vực kinh tế đồng thời trước sức ép của các nước phát triển, các
nước này cũng đã cam kết sẽ tự do hoá và mở cửa thị trường dịch vụ Viễn thông từ nay
đến năm 2020.
Hiện tại giá trị doanh thu từ Viễn thông quốc tế chỉ chiếm khoảng trên 10%
trong tổng số 670 tỷ USD của thị trường Viễn thông toàn cầu. Tuy nhiên, với kết quả
đạt được của GBT trong WTO, với xu thế toàn cầu hoá ngày càng tăng, sự thay đổi
nhanh chóng của công nghệ và xu thế cạnh tranh ngày càng tăng, tỷ lệ trên có thể tăng
lên 15-20% vào đầu thế kỷ tới.
1.2. Xu hướng cải cách mạnh mẽ ngành Viễn thông theo hướng
khuyến khích cạnh tranh và khuyến khích sự tham gia của khu vực tư
nhân trong khai thác dịch vụ Viễn thông.
Hiện nay trên thế giới đặc biệt là ở các nước đang phát triển, thị trường dịch vụ
Viễn thông vẫn do một hoặc hai công ty khai thác Viễn thông duy nhất thống trị về mặt
truy nhập nội hạt và lưu lượng đường dài trong nước và quốc tế. Đồng thời các công ty
này cũng thống trị luôn trong lĩnh vực thông tin di động. Với việc độc quyền đã làm cho
giá cả thường mất cân đối, các công ty thống trị không khuyến khích giảm chi phí hay
nâng cao hiệu quả kinh doanh. Tất nhiên vấn đề độc quyền trong Viễn thông có liên
quan đến an ninh quốc phòng. Nhưng trước xu thế toàn cầu hoá, tự do hoá trong khai
thác dịch vụ Viễn thông, hầu như Chính phủ các nước trên thế giới đã cho phép thêm
nhiều công ty được tham gia vào thị trường dịch vụ Viễn thông. Các lĩnh vực khuyến
khích các công ty tham gia khác thác thường là các lĩnh vực hấp dẫn, có lợi nhuận cao
như là các dịch vụ đường dài quốc tế, di động, các thiết bị đầu cuối khách hàng và các
dịch vụ giá trị gia tăng. Việc tăng số công ty được tham gia khai thác dịch vụ Viễn
thông nhằm tăng cường sự tham gia của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước
tham gia vào quá trình cạnh tranh, tạo động lực thúc đẩy Viễn thông phát triển. Tuy
nhiên việc đưa cạnh tranh vào lĩnh vực dịch vụ Viễn thông không phải là một quá trình
xảy ra nhanh chóng kể cả những nước công nghiệp phát triển như Anh, Mỹ, Pháp....
Thông thường lúc đầu Chính phủ chỉ cho phép hai hoặc ba công ty cạnh tranh khai thác
các dịch vụ Viễn thông, và các công ty mới thành lập thường bị hạn chế về phạm vi
khai thác.Ví dụ:Như ở các nước đang phát triển các công ty mới thành lập lúc đàu chỉ
được khai thác dịch vu nội hạt, các dịch vụ giá trị gia tăng và thông tin di động.Sau một
thời gian mới cho phép tham gia khai thác các dịch vụ cơ bản, có phạm vi đường dài và
quốc tế. Tuy nhiên hầu như các nước đều duy trì một công ty chủ đạo như công ty NTT
của Nhật Bản, BT của Anh, ATT của Mỹ ,FT của Pháp... Thông thường trên thế giới,
dịch vụ thông tin di động, nhắn tin được khuyến khích sự tham gia của nhiều công ty,
tại vì:
+ Dịch vụ thông tin di động và nhắn tin thường không ảnh hưởng đến nhiều
doanh thu của thông tin cố định.
+ Việc xây dựng kết cấu mạng lưới của các công ty kinh doanh dịch vụ thông tin
di động, nhắn tin thường không ảnh hưởng đến mạng cố định.
Ngoài ra trong thời gian gần đây để khuyến khích cạnh tranh trong khai thác
dịch vụ Viễn thông cũng như thu hút được nguồn lực để phát triển Viễn thông, chính
phủ của nhiều nước đã cho phép khu vực tư nhân tham gia vào việc cho phép khu vực
tư nhân tham gia vào hiện tại các nước sử dụng hai phương pháp chủ yếu sau:
Phương pháp thứ nhất: Cho các công ty tư nhân tham gia vào khai thác dịch vụ
Viễn thông, cùng cạnh tranh với các công ty nhà nước. Tuy nhiên các dịch vụ này thường bị
giới hạn ở các dịch vụ giá trị gia tăng và các dịch vụ bán lại, phương pháp này được sử dụng
phổ biến ở các nước công nghiệp phát triển đặc biệt là Mỹ, Anh, Canađa và Nhật Bản.
Phương pháp thứ hai: Tư nhân hoá hay ở Việt Nam còn gọi là cổ phần hoá các
công ty khai thác dịch vụ Viễn thông thuộc sở hữu Nhà nước, tất nhiên Chính phủ vẫn
nắm cổ phàn khống chế. Việc cổ phần hoá nhằm giúp Chính phủ nhận được nguồn vốn
cần thiết từ khu vực tư nhân và tận dụng ưu thế của thị trường cổ phiếu đang phát triển.
Rất nhiều nước đang áp dụng phương pháp này và tất nhiên ở các thị trường Viễn thông
tiên tiến và phát triển thì tốc độ tư nhân hoá càng nhanh chóng. Và các nước ở Đông
Âu và cộng đồng các quốc gia độc lập - SNG thường thực hiện theo phương pháp này.
Ví dụ: ở Bungary Chính phủ bán 25% cổ phần của công ty BTC (công ty Viễn thông
Bungary). Tốc độ tư nhân hoá những năm gần đây đã phát triển nhanh chóng kể cả ở
các nước phát triển và các nước đang phát triển. Xu thế này ngày càng tăng khi mà tự
do hoá Viễn thông đang diễn ra sôi động trên toàn thế giới
Tóm lại, xu hướng cải cách mạnh mẽ ngành Viễn thông theo hướng khuyến
khích cạnh tranh và khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân trong khai thác dịch
vụ Viễn thông ngày càng phổ biến gần như toàn bộ các nước trên thế giới với mục tiêu
tăng cường hiệu quả hoạt động quản lý Nhà nước, hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp cung cấp dịch vụ, huy động được nhiều nguồn vốn đầu tư nhằm đáp ứng
ngày càng tốt hơn nhu cầu ngày càng tăng về thông tin Viễn thông của xã hội và người
sử dụng
Khi xem xét hai xu hướng chủ yếu về Viễn thông kể trên phải kể đến vai trò của
các công ty đa quốc gia - MNCs trong lĩnh vực khai thác dịch vụ Viễn thông. Chính các
công ty này là chất xúc tác cho quá trình toàn cầu hoá, tự do hoá Viễn thông. Các MNCs
đã xây dựng một mạng lưới thông tin có tính toàn cầu từ đầu này đến đầu kia, không
chia cắt, phục vụ thông tin quá "tất cả một cửa". Khi các hiệp ước, hiệp định về tự do
hoá thương mại dịch vụ Viễn thông giữa các nước được thực hiện thì các MNCs thường
thường hay liên minh với các công ty khai thác nhà nước ở nước sở tại để xâm nhập
vào thị trường các nước này. Hiện tại, các MNCs trong Viễn thông chủ yếu tập trung ở
các nước phát triển Tây Âu, Bắc Mỹ và Nhật Bản. Với lợi thế về vốn, công nghệ, thị
trường các MNCs ngày càng xâm nhập sâu vào tất cả các loại hình dịch vụ Viễn thông,
từ dịch vụ giá trị gia tăng cho đến dịch vụ cơ bản.
1.3. Xu hướng hội tụ công nghệ Viễn thông - Tin học - Phát thanh
truyền hình và đa phương tiện.
Bước vào thập kỷ 90, đi đôi với sự tiến bộ và hoà nhập vào nhau của kỹ thuật
Viễn thông và kỹ thuật tin học, đi đôi với việc thúc đẩy tin học hoá toàn cầu và dần dần
nới lỏng việc quản chế thị trường Viễn thông, ngành Viễn thông, ngành tin học và phát
thanh truyền hình trên thế giới đã hoà quyện, xâm nhập, chồng lấn nghiệp vụ lẫn nhau,
ranh giới phân cách giữa các ngành nghề trước kia ngày càng không rõ ràng. Sự hoà
nhập về kỹ thuật thúc đẩy sự hoà nhập về mạng lưới, hoà nhập về nghiệp vụ và hoà
nhập về thị trường. Xu hướng này được chứng minh bởi sự sáp nhập và liên hợp ngày
càng nhiều của các công ty khai thác Viễn thông, máy tính truyền hình và hữu tuyến.
Ví dụ: