Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Phát triển làng nghề Hà Tây trong hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 100 trang )



1



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ



NGUYỄN THỊ NGHĨA






PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ HÀ TÂY TRONG
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ




LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN TRỊ KINH DOANH













Hµ Néi – N¨m 2008




2



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ



NGUYỄN THỊ NGHĨA






PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ HÀ TÂY TRONG
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ





Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh
Mã số: 60 34 05


LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN TRỊ KINH DOANH






NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS HOÀNG KIM GIAO






Hµ Néi – N¨m 2008




MỤC LỤC

Trang
LỜI MỞ ĐẦU

1
CHƢƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ
TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
7
1.1 Khái niệm Làng nghề
7
1.1.1 Khái niệm làng nghề, nghề truyền thống, làng nghề truyền
thống
7
1.1.2 Một số khái niệm khác
8
1.2 Vai trò của Làng nghề đối với đời sống kinh tế xã hội của tỉnh
Hà Tây
9
1.2.1 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
9
1.2.2 Góp phần chuyển đổi các hình thức tổ chức sản xuất
10
1.2.3 Góp phần tăng giá trị hàng hoá
10
1.2.4 Góp phần giải quyết công ăn việc làm
11
1.2.5 Góp phần phát triển du lịch
13
1.2.6 Phát huy nội lực địa phƣơng
13
1.3 Phát triển Làng nghề Hà Tây trong hội nhập kinh tế quốc tế
14
1.3.1 Hội nhập kinh tế quốc tế với sự phát triển kinh tế của nƣớc
ta

14
1.3.2 Những thời cơ, thách thức, những khó khăn và thuận lợi đối
với nền kinh tế của nƣớc ta khi hội nhập kinh tế quốc tế
17
1.3.3 Phát triển Làng nghề trong hội nhập kinh tế quốc tế
22
1.4 Kinh nghiệm của một số Làng nghề đối với phát triển Làng
nghề của Hà Tây
28
1.4.1 Làng nghề gốm Bát Tràng- Hà Nội
28
1.4.2 Làng nghề Đồng Kỵ - Bắc Ninh
31

1.4.3 Làng nghề đá mỹ nghệ Non Nƣớc - Quảng Nam
33
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ HÀ
TÂY TRONG NHỮNG NĂM QUA
35
2.1 Đặc điểm địa lý, kinh tế xã hội của Hà Tây ảnh hƣởng tới sự
phát triển của Làng nghề
35
2.1.1 Điều kiện tự nhiên
35
2.1.2 Điều kiện xã hội
37
2.2 Thực trạng phát triển Làng nghề Hà Tây
38
2.2.1 Lịch sử hình thành các Làng nghề
38

2.2.2 Số lƣợng các Làng nghề và sự phân bổ các Làng nghề tại
các huyện, thành phố
41
2.2.3 Lao động trong các Làng nghề
45
2.2.4 Tình hình sản xuất của các Làng nghề
46
2.2.5 Công nghệ sản xuất trong các Làng nghề
49
2.2.6 Đặc điểm về sản phẩm của Làng nghề Hà Tây
51
2.2.7 Tình hình tiêu thụ sản phẩm của các Làng nghề ở Hà Tây
58
2.3 Những khó khăn, thuận lợi của Làng nghề Hà Tây và nguyên
nhân chủ yếu
62
2.3.1 Những thuận lợi
62
2.3.2 Những khó khăn
62
2.3.3 Nguyên nhân
65
CHƢƠNG 3: PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ HÀ TÂY TRONG HỘI
NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
66
3.1 Những thời cơ và thách thức đối với Làng nghề nói chung và
Làng nghề Hà Tây khi hội nhập kinh tế quốc tế
66
3.1.1 Thời cơ
66

3.1.2 Thách thức
67

3.2 Các giải pháp nội tại của Làng nghề
68
3.2.1 Về sản phẩm
68
3.2.2 Về lao động
70
3.2.3 Về tổ chức sản xuất
73
3.2.4 Phát triển cụm Làng nghề
74
3.2.5 Kết hợp giữa sản xuất, tiêu thị nội địa và xuất khẩu tại chỗ
74
3.3 Các giải pháp hỗ trợ của cơ quan quản lý
76
3.3.1 Chính sách hỗ trợ về vốn vay cho các Làng nghề
76
3.3.2 Chính sách hỗ trợ về cơ sở hạ tầng
77
3.3.3 Chính sách hỗ trợ về thuế
78
3.4 Những vấn đề đặt ra đối với làng nghề Hà Tây khi sát nhập vào
Hà Nội
79
3.4.1 Những lợi thế đƣợc thụ hƣởng từ sức mạnh kinh tế - xã hội –
chính trị của thủ đô đối với sự phát triển Làng nghề Hà Tây để hội
nhập kinh tế quốc tế.
79

3.4.2 Những khó khăn đối với phát triển Làng nghề Hà Tây khi Hà
Tây sát nhập vào thủ đô Hà Nội
81
3.4.3 Hợp tác và liên kết với các làng nghề, phố nghề, du lịch của
Hà Nội
86
KẾT LUẬN
88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
90



1
LỜI MỞ ĐẦU

Đề tài được thực hiện từ năm 2007 khi Hà Tây chưa sát nhập thủ đô Hà
Nội. Nhưng Luận văn lại kết thúc sau vài tháng khi Hà Tây chính thức sát
nhập về thủ đô từ ngày 1/8/2008. Đó là một khó khăn lớn đối với Luận văn
mà tôi đã có gắng để thích nghi với thực tiễn.
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ xưa, tỉnh Hà Tây đã nổi tiếng với rất nhiều Làng nghề thủ công mỹ
nghệ truyền thống như: tiện Nhị Khê, thêu Quất Động, sơn mài Duyên Thái,
sơn khảm mỹ nghệ Chuyên Mỹ, lụa Vạn Phúc, mộc Sơn Tràng Từ năm
1986, chuyển sang nền kinh tế thị trường với cơ chế phát triển kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần, các Làng nghề truyền thống dần dần được hồi sinh.
Nhiều Làng trở thành Làng nghề mới như: Làng nghề mây tre đan Lam Điền;
Làng nghề sản xuất tăm hương, mây tre, chế biến thực phẩm Hoàng Trung;
Làng nghề chuyên may mặc, sản xuất con giống Thượng Hiệp
Hiện nay Hà Tây có trên 1.100 Làng nghề trong đó có khoảng 240

Làng nghề đạt tiêu chuẩn trong đó có khoảng 80 Làng nghề mới. Quy mô các
Làng nghề Hà Tây phổ biến nhất vẫn là sản xuất nhỏ, phân tán, phân bố
không đồng đều. Các Làng nghề đã tạo công ăn việc làm, xoá đói giảm
nghèo, tăng thu nhập cho người dân vùng nông thôn, rút ngắn khoảng cách
giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Tổng giá trị sản xuất kinh doanh
của các Làng nghề mới năm 2000 đạt 415,9 tỷ đồng.Các Làng nghề phát triển
đã kéo theo hàng loạt các hoạt động kinh doanh dịch vụ khác. Trong tổng giá
trị sản xuất kinh doanh của các Làng nghề thì kinh doanh dịch vụ đạt 60,5 tỷ
đồng chiếm 14,5%. Số lao động trong các Làng nghề mới khoảng 64.000
người. Nhờ phát triển Làng nghề, thu nhập của người lao động trong các Làng
nghề cũng dần được nâng cao, bình quân thu nhập của lao động đạt trên


2
3.000.000đ/người/năm. Làng nghề phát triển cũng thu hút được một lượng
vốn nhàn rỗi lớn trong dân. Năm 2000 tổng số vốn để kinh doanh trong các
Làng nghề đạt khoảng trên 150 tỷ đồng.
Bên cạnh những thuận lợi trên, sự phát triển của các Làng nghề còn gặp
1 số trở ngại, khó khăn như:
Thứ nhất: khó khăn về vốn đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị sản xuất
và vốn luân chuyển. Công nghệ sản xuất của các Làng nghề chủ yếu vẫn là
thủ công, dùng sức người là chính. Vốn của các Làng nghề chủ yếu là do các
hộ gia đình, tổ hợp sản xuất, doanh nhiệp tư nhân, công ty TNHH tự bỏ vốn
ra để kinh doanh nên số vốn không nhiều vì thế không đáp ứng được những
đơn hàng lớn.
Thứ hai: Chất lượng mẫu mã sản phẩm chậm được cải tiến, khả năng
cạnh tranh thấp. Một số cơ sở có hiện tượng làm hàng xô, hàng chợ, chất
lượng sản phẩm kém làm ảnh hưởng tới uy tín của các Làng nghề.
Thứ ba: Cơ sở hạ tầng của các Làng nghề còn yếu kém không đáp ứng

được sự phát triển nhanh chóng của các Làng nghề. Thiếu mặt bằng để sản
xuất; hệ thống đường giao thông nhỏ hẹp xuống cấp; hệ thống xử lý chất thải
yếu kém
Thứ tư: Việc phát triển nguồn nhân lực, đưa nghề truyền thống cũng
như nghề mới truyền lại cho lớp sau còn gặp nhiều khó khăn về tâm lý, kinh
phí.
Thứ năm: Thị trường đầu ra của Làng nghề Hà Tây còn nhỏ hẹp, chưa
ổn định, chưa được mở rộng đáng kể, nhất là thị trường quốc tế mặc dù nhu
cầu của quốc tế là rất lớn, xuất khẩu phải qua trung gian. Kênh tiêu thụ sản
phẩm chủ yếu ở các Làng nghề là gia công bán cho tư nhân, đa số các sản
phẩm bán ở thị trường trong nước, người sản xuất không biết được sản phẩm
mình làm ra được tiêu thụ như thế nào, cho ai và khách hàng cần gì.


3
Thứ sáu: Nguồn cung ứng nguyên vật liệu đầu vào chưa ổn định do
chủ yếu dựa vào thương nhân trong tỉnh và nơi khác cung cấp.
Những trở ngại trên đây không phải chỉ là khó khăn riêng của Hà Tây
mà là chung của khu vực Làng nghề của cả nước. Nguyên nhân không phải
chỉ có 1 mà có rất nhiều, cần phân tích nghiêm túc tìm ra các giải pháp vi mô
và vĩ mô để tìm ra hướng phát triển cho Làng nghề Hà Tây trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế. Vì thế tôi chọn đề tài: “Phát triển Làng nghề Hà Tây
trong hội nhập kinh tế quốc tế” làm luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Làng nghề là mảng đề tài khá mới mẻ nên được rất nhiều tác giả nghiên
cứu. Tuy nhiên các công trình phần lớn chủ yếu nghiên cứu về Làng nghề nói
chung ở tầm quốc gia và đưa ra các giải pháp tổng thể có tính chất vĩ mô.
Rất ít đề tài đề cập đến một địa phương cụ thể
Trên phạm vi toàn quốc tại Thư viện Viện Kinh tế Việt Nam – 477 Nguyễn
Trãi – Hà Nội có tới 105 đề tài nghiên cứu về Làng nghề. Tiêu biểu là 1 số đề

tài:
- Mai Thế Hớn (2003), Phát triển Làng nghề trong quá trình công nghiệp
hoá hiện đại hoá, NXB Chính trị quốc gia.
- Bùi văn Vọng ( 2002), Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam,
NXB Văn hoá thông tin.
- Dương Bá Phượng (2001), Bảo tồn và phát triển Làng nghề trong quá
trình công nghiệp hoá, NXB Khoa học xã hội.
- Đặng Đình Long (2005), Tính cộng đồng và xung đột môi trường tại khu
vực Làng nghề ở đồng bằng sông Hồng. Thực trạng và xu hướng biến đổi,
NXB Nông nghiệp.
Một số đề tài nghiên cứu về Làng nghề của Hà Tây được đăng trên các
Tạp chí đó là:


4
- Nguyễn Xuân Ba (1999) “Làng nghề Hà Tây”, Tạp chí Lao động và xã
hội (6), 16-17.
- Nguyễn Thái Sơn (2000) “Nghịch lý làng nghề Đa Sỹ”, Tạp chí Thương
mại (16), 21-23.
- Thanh Hương (2002) “Thực trạng hoạt động của các Làng nghề mới ở
Hà Tây”, Tạp chí Con số và sự kiện (4), 29-30.
- Đỗ Quang Dũng (2005) “Làng nghề ở Hà Tây trong quá trình Công
nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp”, Tạp chí Công nghiệp (1) 43-44 .
Đề tài về Làng nghề trong phạm vi nghiên cứu của Trường Đại học Quốc
gia:
Có 7 đề tài trong đó chỉ có 1 đề tài chuyên ngành Kinh tế chính trị nghiên
cứu về Làng nghề của Hà Tây đó là:
Bạch Thị Lan Anh (2004) Phát triển Làng nghề truyền thống ở Hà Tây
trong quá trình Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, Luận
văn Thạc sỹ, Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị, Đại

học Quốc gia Hà Nội.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
- Đánh giá thực trạng phát triển. Phân tích nguyên nhân ảnh hưởng đến sự
phát triển các Làng nghề của tỉnh Hà Tây và những khó khăn tồn tại.
- Đề xuất các giải pháp giải quyết những vướng mắc, khó khăn để tạo điều
kiện giúp đỡ, hỗ trợ các Làng nghề phát triển hơn nữa.
- Các giải pháp trên đều hướng tới tạo điều kiện thuận lợi cho Làng nghề
Hà Tây hội nhập kinh tế.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu tình hình phát triển của các Làng nghề kể cả các
Làng nghề truyền thống và các Làng nghề mới hình thành trong những năm


5
gần đây. Đề tài tập trung phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển của
Làng nghề và những đóng góp của Làng nghề đối với kinh tế của tỉnh Hà Tây
- Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển của các Làng nghề của
Hà Tây. Những nguyên nhân trở ngại cho việc phát triển Làng nghề nhằm đề
ra các giải pháp phát triển Làng nghề trong hội nhập kinh tế quốc tế.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế: thu thập thông tin tại địa
phương. Phân tích, nhận định và đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện, phát
triển vai trò của Làng nghề Hà Tây trong hội nhập kinh tế quốc tế.
- Phương pháp so sánh: đề tài sử dụng phương pháp so sánh với các đối
tượng liên quan nhằm nêu bật đặc trưng của đối tượng cần nghiên cứu.
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn:
- Phác hoạ được bức tranh tổng thể về tình hình phát triển Làng nghề ở Hà
Tây. Những thành tựu và vấn đề còn tồn tại

- Tập trung vào việc phân tích, đánh giá thực trạng phát triển, tìm ra
nguyên nhân ảnh hưởng đến việc tiêu thụ sản phẩm của Làng nghề.
- Đề xuất các giải pháp để tháo dỡ khó khăn của Làng nghề tạo điều kiện
cho các Làng nghề có đóng góp hơn nữa cho kinh tế của tỉnh Hà Tây.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và mục lục, luận văn gồm
3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về phát triển Làng nghề trong hội nhập kinh tế
quốc tế
Chương 2: Thực trạng phát triển Làng nghề Hà Tây trong những năm qua.
Chương 3: Phát triển Làng nghề Hà Tây trong hội nhập kinh tế quốc tế.


6
Tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn, giúp đỡ của PGS. TS. Hoàng
Kim Giao và các cô chú, anh chị Cục Thống kê Hà Tây, Hiệp hội thủ công
mỹ nghề Làng nghề Hà Tây đã tạo điều kiện để tôi hoàn thành luận văn tốt
nghiệp. Trong quá trình nghiên cứu, tôi không tránh khỏi những hạn chế,
thiếu sót, rất mong được sự đóng góp ý kiến của Thầy, Cô để tôi tiếp tục học
hỏi được nhiều hơn.























7
CHƢƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ
TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

1.1 Khái niệm Làng nghề
1.1.1 Khái niệm Làng nghề, nghề truyền thống, Làng nghề truyền thống
Làng: là một đơn vị hành chính ở nông thôn gồm một tập hợp cộng
đồng dân cư trên 1 lãnh thổ xác định, có khả năng tự chủ về tài chính. Cộng
đồng này được coi là một cộng đồng văn hoá gắn liền với biểu tượng luỹ tre,
cây đa, giếng nước, mái đình…
Nghề: là một lĩnh vực hoạt động lao động mà theo đó, nhờ có sự đào
tạo con người có được những tri thức, kỹ năng, kỹ thuật và kinh nghiệm để
tạo ra các loại sản phẩm bằng vật chất hoặc tinh thần. Những sản phẩm này có
thể đáp ứng được nhu cầu của xã hội.
Làng nghề: Là một cụm dân cư sinh sống trong một thôn (làng) có một
hay một số nghề tách ra khỏi nông nghiệp để sản xuất kinh doanh độc lập.
Thu nhập từ các nghề đó chiếm tỷ trọng cao trong tổng giá trị sản phẩm của
toàn làng

Truyền thống: là khái niệm dùng để chỉ các yếu tố, giá trị, quan niệm
của một cộng đồng người, của xã hội được lưu giữ trong một thời gian dài từ
thế hệ này đến thế hệ khác. Truyền thống vừa có tính kế thừa vừa có tính phát
triển và suy vong theo thời gian.
Nghề truyền thống: Nghề truyền thống bao gồm những nghề tiểu thủ
công nghiệp xuất hiện từ lâu trong lịch sử, được truyền từ đời này qua đời
khác còn tồn tại đến ngày nay, kể cả những nghề đã cải tiến hoặc sử dụng
những loại máy móc hiện đại để hỗ trợ sản xuất nhưng vẫn tuân thủ công
nghệ truyền thống, và đặc biệt sản phẩm của nó vẫn thể hiện những nét đặc
sắc của dân tộc. [58,tr 12]




8
Làng nghề truyền thống: Là những thôn (làng) nghề được hình thành
từ rất lâu đời (Thời gian hình thành và phát triển > 100 năm). Sản phẩm trong
các Làng nghề tryền thống có tính chất riêng biệt và cho đến nay các Làng
nghề này vẫn còn tồn tại và phần lớn các sản phẩm vẫn còn được sản xuất
theo công nghệ truyền thống. Những nghề thủ công đó được truyền từ đời này
qua đời khác, thường là nhiều thế hệ. Cùng với thử thách của thời gian, các
Làng nghề thủ công này đã trở thành nghề nổi trội, một nghề cổ truyền tinh
xảo, với một tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, đã
chuyên tâm sản xuất, có quy trình công nghệ nhất định và sống chủ yếu bằng
nghề đó. Sản phẩm làm ra có tính mỹ thuật và đã trở thành hàng hoá trên thị
trường.
1.1.2 Một số khái niệm khác
Làng có nghề: Là những Làng được hình thành cùng với sự phát triển
của nền kinh tế, chủ yếu là sự lan toả của các Làng nghề truyền thống, có
những điều kiện nhất định để hình thành và phát triển.

Làng nghề mới: là Làng nghề được hình thành cùng sự phát triển của
nền kinh tế, có điều kiện và khả năng phát triển nhất định.
Hộ Làng nghề: Là những hộ tham gia vào hoạt động sản xuất kinh
doanh trong Làng nghề, mỗi hộ có ít nhất 1 người tham gia vào nghề, những
hộ này thường chia làm hai loại:
- Hộ chuyên nghề: Là những hộ mà hầu hết lao động trong hộ đều tham
gia vào hoạt động của nghề, thu nhập của hộ chủ yếu phụ thuộc vào lao động
hoạt động trong nghề mang lại.
- Hộ kiêm nghề: Là những hộ chỉ có 1 bộ phận lao động hoạt động sản
xuất kinh doanh nghề.
Hà Tây là một tỉnh có số lượng Làng nghề lớn nhất trong cả nước và
hầu hết các Làng nghề này đang ngày càng phát triển mạnh mẽ. Nhằm vận


9
động nhân dân trong tỉnh xây dựng, phát triển ngành nghề, Làng nghề truyền
thống, Làng nghề mới trên địa bàn tỉnh, góp phần xây dựng hình ảnh mới cho
các Làng nghề. Uỷ ban nhân dân (UBND) tỉnh Hà Tây đã ra Quyết định số
1492/QĐ-UB ngày 23/12/1999 để: “Quy định tạm thời về tiêu chuẩn Làng
nghề Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp (CN-TTCN) Hà Tây” làm căn cứ
xây dựng, phát triển, xét và công nhận Làng nghề. Tại Quyết định này quy
định rất rõ về tiêu chuẩn Làng nghề CN-TTCN:
1. Chấp hành tốt các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước và mọi
quy định hợp pháp của chính quyền địa phương.
2. Số hộ hoặc lao động làm nghề CN – TTCN ở làng đạt từ 50% trở lên
so với tổng số hộ hoặc lao động của làng.
3. Giá trị sản xuất và thu nhập từ công nghiệp – TTCN ở làng chiếm tỷ
trọng trên 50% so với tổng giá trị sản xuất và thu nhập của làng trong năm.
Đảm bảo vệ sinh môi trường theo các quy định hiện hành.
4. Có hình thức tổ chức phù hợp, chịu sự quản lý nhà nước của chính

quyền địa phương, gắn với các mục tiêu kinh tế – xã hội và làng văn hoá của
địa phương.
5. Tên Làng nghề: Nếu là Làng nghề truyền thống, cổ truyền còn tồn tại
và phát triển thì lấy nghề đó đặt tên cho nghề của làng. Nếu làng có nhiều
nghề phát triển, sản phẩm nghề nào nổi tiếng nhất thì nên lấy nghề đó đặt tên
nghề của làng, hoặc trong làng có nhiều nghề không phải nghề truyền thống
hay chưa có sản phẩm nào nổi tiếng thì tên nghề của làng nên dựa vào nghề
nào có giá trị sản xuất và thu nhập cao nhất để đặt tên nghề gắn với tên làng;
Việc đặt tên nghề của làng do nhân dân bàn bạc thống nhất và chính quyền
địa phương xem xét đề nghị.
1.2 Vai trò của Làng nghề đối với đời sống kinh tế xã hội của tỉnh Hà Tây
1.2.1 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế


10
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã nhấn mạnh: “Phát
triển các ngành nghề và Làng nghề truyền thống và ngành nghề mới gồm cả
tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu,
công nghiệp khai thác và chế biến các nguồn nguyên liệu phi nông nghiệp,
các loại hình dịch vụ sản xuất là một trong những nội dung cơ bản của Công
nghiệp hoá hiện địa hoá nông nghiệp nông thôn.
Sự phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và phát triển Làng nghề
góp phần tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế nông thôn
theo hướng công nghiệp hoá, tăng cường khả năng tiêu thụ hàng nông sản,
hàng thủ công mỹ nghệ, hàng phục vụ đời sống thiết yếu…. Quá trình phát
triển này đã làm thay đổi bộ mặt nông thôn Hà Tây 1 cách nhanh chóng, tỷ
trọng Công nghiệp, dịch vụ không ngừng tăng, trong khi nông nghiệp lại có
xu hướng giảm. Năm 2001 tỷ trọng nông nghiệp - dịch vụ- công nghiệp lần
lượt là: 36,63% - 29,5% - 33,87% đến năm 2006 tỷ trọng trên đã thay đổi
29,56%- 30,4% - 40,04%.

1.2.2 Góp phần chuyển đổi các hình thức tổ chức sản xuất
Phát triển Làng nghề đã và đang làm thay đổi các hình thức tổ chức sản
xuất ở nông thôn đặc biệt là trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp. Từ các hộ cá
thể là chủ yếu, một số hộ đã hợp thành các tổ sản xuất, hợp tác xã nhằm nâng
cao năng lực sản xuất, trang thiết bị máy móc để phục vụ sản xuất. Nhiều hộ
có vốn, có kỹ năng sản xuất, có kinh nghiệm trong sản xuất và tiêu thụ đã
thành lập các Công ty Cổ phần, Công ty Trách nhiệm hữu hạn (TNHH),
Doanh nghiệp tư nhân, … Các hình thức tổ chức sản xuất trong các Làng
nghề ngày càng trở nên đa dạng, phong phú.
1.2.3 Góp phần tăng giá trị sản phẩm của hàng hoá
Sự hồi phục và phát triển của các Làng nghề truyền thống cũng như sự
hình thành và phát triển các Làng nghề mới có ý nghĩa hết sức quan trọng đối


11
với phát triển kinh tế xã hội nông thôn nói chung và Hà Tây nói riêng. Mặc dù
quy mô sản xuất còn nhỏ bé chưa được lớn mạnh nhưng các Làng nghề Hà
Tây lại được phân bố rộng khắp ở các vùng nông thôn. Vì vậy hàng năm các
Làng nghề luôn sản xuất ra khối lượng sản phẩm hàng hoá đáng kể, đóng góp
không nhỏ cho nền kinh tế quốc dân và nền kinh tế của Hà Tây với số lượng
Làng nghề nhiều, rộng khắp, đa ngành, đa lĩnh vực đã góp phần lớn cho
doanh thu của Hà Tây. Năm 2001 tổng giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ
công nghiệp ở khu vực nông thôn của tỉnh là 1700 tỷ đồng thì riêng 120 Làng
nghề đã chiếm 1045 tỷ đồng.
1.2.4 Góp phần giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người
lao động trong các Làng nghề và các vùng lân cận
Phát triển kinh tế - xã hội nông thôn một cách toàn diện để tạo ra công
ăn việc làm cho người dân nông thôn đồng thời nâng cao đời sống cho người
dân sống trong khu vực này là vấn đề quan trọng cần quan tâm của Đảng và
Nhà nước, với tỉnh Hà Tây cũng vậy.

Điều kiện tự nhiên không cho phép, đất đai canh tác bị hạn chế, đất
chật người đông, đó là một thách thức đối với sự phát triển kinh tế nông thôn
của Hà Tây. Vấn đề làm sao giải quyết được công ăn việc làm cho lực lượng
lao động ở nông thôn đồng thời tăng thu nhập cho các đối tượng này là một
bài toán khó đối với Lãnh đạo của tỉnh Hà Tây.
Các cơ sở sản xuất thủ công từ các hộ gia đình đến các doanh nghiệp tư
nhân, công ty TNHH, Công ty cổ phần trong các Làng nghề ở Hà Tây đã
thu hút một số lượng lớn lao động sản xuất phi nông nghiệp. Nhờ đó mà thanh
niên gắn bó hơn với làng quê, hạn chế việc đổ ra thành phố tìm việc làm gây
sức ép về dân số, việc làm và các vấn đề xã hội khác cho các thành phố lớn
nhất là Thủ đô Hà Nội, rất gần với Hà Tây. Các Làng nghề Hà Tây ngoài việc
thu hút hơn 200.000 thường xuyên trong tỉnh còn góp phần giải quyết việc


12
làm cho hàng ngàn lao động từ các tỉnh khác đến làm thuê như Làng nghề dệt
kim La Phù, đan cỏ Phú Túc, khảm trai Chuyên Mỹ, lụa Vạn Phúc Sự phát
triển của các Làng nghề cũng kéo theo một loạt các ngành dịch vụ bổ trợ như:
Ngân hàng, kinh doanh nguyên vật liệu, kinh doanh vận tải, kinh doanh ăn
uống, du lịch phát triển theo. Các loại hình dịch vụ này phát triển là do yêu
cầu của sản xuất trong các Làng nghề tăng vì vậy đã tạo ra nhiều ngành nghề
hơn do đó cần nhiều người lao động hơn.
Việc mở rộng thị trường xuất khẩu sản phẩm do Làng nghề sản xuất ra
cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết công ăn việc làm, nâng cao
thu nhập cho người lao động. Giá trị xuất khẩu của các Làng nghề ở Hà Tây
đã đem lại kim ngạch xuất khẩu hàng chục triệu đô la mỗi năm, xuất khẩu
tăng sẽ kích thích sản xuất phát triển từ đó tạo ra nhiều việc làm cho lao động,
cả lao động chuyên nghiệp và lao động nông nhàn. Từ kinh nghiệm thực tế
cho thấy cứ xuất khẩu 1 triệu USD sẽ tạo ra việc làm và thu nhập cho khoảng
3.000-4.000 lao động. Như vậy số lượng lao động có thu nhập từ nghề là khá

lớn. Từ năm 2003-2006 các Làng nghề ở Hà Tây đã tạo thêm hơn 63.000 lao
động làm việc, từ đó làm gia tăng tỷ trọng lao động làm trong lĩnh vực công
nghiệp tiểu thủ công nghiệp lên nhanh chóng.
Chính sự phát triển mạnh mẽ của các Làng nghề của Hà Tây đã tạo ra
rất nhiều việc làm, đồng thời góp phần tăng thu nhập cho dân chúng. Sản
phẩm của các Làng nghề đã có chỗ đứng trong tỉnh, ngoài tỉnh và xuất khẩu
nên doanh thu của các Làng nghề là khá lớn. Vì vậy lao động trong các Làng
nghề không chỉ đủ ăn, đủ tiêu mà còn có tích luỹ, đời sống dần được cải thiện.
Thu nhập bình quân đầu người đều cao hơn các làng không có nghề từ 1,5-2
lần so với các làng không có nghề. Đặc biệt có Làng nghề thu nhập bình quân
là 30 triệu đồng/hộ/năm. Thực tế ở Hà Tây nơi nào có nghề dù là nghề truyền
thống hay nghề mới thì nơi đó đều có đời sống kinh tế xã hội, người dân đều


13
khá giả. Đường sá to đẹp, các ngôi nhà nhiều tầng khang trang, các cửa hàng
bán sản phẩm, các loại hình dịch vụ đều tấp nập, giá đất của Hà Tây cũng khá
cao, không kém vùng ngoại thành của Hà Nội
1.2.5 Góp phần phát triển du lịch
Nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng như: Chùa Thầy, Chùa Hương,
Khoang Xanh, Thiên Sơn - Suối Ngà đã thu hút hàng vạn lượt khách du lịch.
Hình thức du lịch Làng nghề đang rất hấp dẫn khách du lịch trong nước và
đặc biệt là du khách quốc tế. Tiêu biểu là 1 số Làng nghề nổi tiếng như:
Làng nón Chuông, làng tạc tượng Sơn Đồng, Làng nghề dệt lụa Vạn Phúc,
Làng mây tre đan Phú Vinh, Làng làm bánh kẹo La Phù Du lịch tại các
Làng nghề vừa đem lại doanh thu, vừa quảng bá được sản phẩm, vừa đem lại
thu nhập cho ngân sách của tỉnh, vừa góp phần thúc đẩy sự phát triển của du
lịch của Hà Tây. Hiện nay tỉnh Hà Tây đang dự kiến kết hợp với các công ty
du lịch xây dựng nhiều tour du lịch tham quan các Làng nghề mang đặc tính
văn hoá của dân tộc. Hình thành 6 khu du lịch tổng hợp, 1 trung tâm dịch vụ

Làng nghề, đầu tư phát triển thêm ba Làng nghề thành điểm du lịch là: Sơn
Đồng, Phú Vinh, Chuyên Mỹ. Đây là cơ sở để tỉnh Hà Tây thúc đẩy du lịch
phát triển trong đó có du lịch Làng nghề để đóng góp vào sự tăng trưởng kinh
tế của tỉnh nhà.
1.2.6 Phát huy nội lực địa phương, phát triển kinh tế đồng thời bảo
tồn các giá trị văn hoá dân tộc
Các Làng nghề phát triển tạo điều kiện khai thác các thế mạnh của tỉnh
về nguồn lao động, nguồn lực tự nhiên: đất, núi đá, giao thông Trong quá
trình phát triển và sản xuất đã tạo ra được đội ngũ lao động có tay nghề cao,
các nghệ nhân có khả năng tiếp thu và ứng dụng các công nghệ mới để sản
xuất ra các sản phẩm có giá trị ngày càng cao từ đó tăng khả năng cạnh tranh
của hàng hoá trong các Làng nghề ở cả trong và ngoài nước.


14
Các Làng nghề phát triển kéo theo mức đầu tư cho việc xây dựng cơ sở
hạ tầng như: giao thông, điện lưới được cải tạo, nâng cấp. Đời sống nhân dân
được nâng cao. Người dân được tiếp xúc và được đáp ứng đầy đủ hơn các nhu
cầu sinh hoạt cả về vật chất lẫn tinh thần, phát huy và bảo tồn được các giá trị
bản sắc văn hoá dân tộc của các Làng nghề nói riêng và địa phương nói
chung. Mỗi sản phẩm của các Làng nghề là sự kết tinh của lao động, sự tài
hoa, khéo léo của nghệ nhân đồng thời có thể thông qua các sản phẩm của
Làng nghề phản ánh được nét độc đáo của văn hoá dân tộc và xu hướng
chung của thời đại. Hà Tây có 1 số Làng nghề mà sản phẩm của mình làm ra
đã làm vẻ vang cho tỉnh và cho đất nước như: Mây tre đan Chương Mỹ, Lụa
Vạn Phúc
1.3 Phát triển Làng nghề trong hội nhập kinh tế quốc tế
1.3.1 Hội nhập kinh tế quốc tế với sự phát triển kinh tế của nước ta
Xu hướng chung của thế giới ngày nay là hoà bình, hợp tác và phát
triển. Vì vậy hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng được các nước xem như là

một mục tiêu kinh tế của chiến lược phát triển quốc gia. Bước đi cụ thể đầu
tiên của hội nhập kinh tế quốc tế là gia nhập tổ chức thương mại quốc tế
WTO (World Trade Organization). Bản chất của WTO là một xâu chuỗi
chung của thương mại toàn cầu.
Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX đã khẳng định:
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền
vững…Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X tiếp tục khẳng định mục tiêu:
“tích cực, chủ động đẩy nhanh hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng kinh tế đối
ngoại gắn liền với nâng cao khă năng độc lập tự chủ của nền kinh tế. Sau
mười năm nỗ lực của bản thân nền kinh tế, sự ủng hộ của các nước, Việt Nam
đã trở thành thành viên thứ 150 của WTO vào ngày 7 tháng 11 năm 2006.


15
Vậy vì sao nước ta lại kiên trì vượt qua bao nhiêu rào cản trong hơn 10
năm đàm phán với các nước để gia nhập WTO, vì sao ta phải “chủ động hội
nhập”, vì sao phải “đẩy nhanh hội nhâp”? Trước hết phải hiểu tổ chức thương
mại quốc tế là gì, cơ chế và các nguyên tắc pháp lý của nó đem lại lợi ích gì
cho nền kinh tế của các quốc gia thành viên. Đó là:
- Các thành viên khi gia nhập WTO phải tuân thủ theo những luật lệ
quy định khi buôn bán hàng hoá hay cung cấp dịch vụ. Các luật lệ đó là hành
lang pháp lý cho thương mại các nước, giúp cho các thành viên thiết lập các
quan hệ thương mại trên cơ sở hợp tác cùng có lợi cho các thành viên.
- Tổ chức thương mại thế giới là một diễn đàn để các nước thành viên
bàn bạc nhằm thúc đẩy thương mại phát triển hơn nữa bằng cách bãi bỏ rào
cản đối với hàng hoá, dịch vụ. Đây là 1 việc làm quan trọng vì khi một nước
đơn phương tiến hành tự do hoá sẽ không đem lại hiệu quả cao bằng việc các
nước cùng chung tay xây dựng. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới chỉ
ra rằng: thương mại phát triển sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển theo, tạo thêm
công ăn việc làm cho người dân, cải thiện mức sống cho dân cư. Song quá

trình hội nhập kinh tế quốc tế có những nước được hưởng nhiều lợi ích hơn
nước khác, việc gia nhập WTO làm cho một số nước thu được nhiều lợi hơn
từ quá trình tự do hoá thương mại đang diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh
trên thế giới.
- Tổ chức thương mại thế giới là một người “trọng tài” khách quan
trung thực để giải quyết các tranh chấp nảy sinh trong mối quan hệ thương
mại giữa các quốc gia. Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO đến nay vẫn
được coi là cơ chế giải quyết có hiệu quả nhất các tranh chấp thương mại giữa
các nước. Nó cũng được coi như quy chế duy nhất để một nước nhỏ hoặc
nước đang phát triển có thể sử dụng khá hữu hiệu để giải quyết các tranh chấp
với các nước có tiềm lực kinh tế mạnh hơn.


16
Như vậy, hội nhập kinh tế quốc tế mà WTO được xem như là một sân
chơi chung cho tất cả các nước. Nếu biết nắm rõ những cơ hội mà hội nhập
mang lại thì nước đó sẽ phát triển, nếu không hội nhập kinh tế quốc tế, không
gia nhập WTO thì sẽ không nhận được những cơ hội do thương mại quốc tế
đem lại. Việt Nam nằm trong khu vực phát triển thuộc loại năng động nhất thế
giới, kinh nghiệm của các nước trong khu vực và trên thế giới thì sự thành
công trong việc đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu chính là nắm bắt
và tận dụng các cơ hội do hội nhập kinh tế quốc tế đem lại và Việt Nam cũng
không thể không coi trọng kinh nghiệm quý báu đó. Hơn nữa nền kinh tế của
nước ta có xuất phát điểm rất thấp, chủ yếu là nông nghiệp, thị trường thiếu
vốn, công nghệ để phát triển. Nếu không tận dụng được ngoại lực do hội nhập
mang lại để thúc đẩy các thế mạnh sẵn có của con người Việt Nam thì không
thể theo kịp những thay đổi ngày càng nhanh của thời đại, như vậy nguy cơ
suy thoái cũng như tụt hậu của nền kinh tế sẽ không tránh khỏi. Vì vậy chủ
động, tích cực trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế là nhiệm vụ cần thiết
như các Nghị quyết của Đảng đã chỉ rõ. Bối cảnh quốc tế và đặc thù của nền

kinh tế Việt Nam nên hội nhập kinh tế quốc tế và bước đi cụ thể gia nhập
WTO là xuất phát từ lợi ích của quốc gia trong đó có cả khu vực kinh tế tư
nhân và cả các Làng nghề - một thành tố của nền kinh tế.
Kế đến là các nguyên tắc pháp lý của WTO:
Tổ chức thương mại quốc tế hoạt động dựa trên 3 nguyên tắc pháp lý
nền tảng là: Không phân biệt đối xử, mở cửa thị trường và cạnh tranh công
bằng:
- Không phân biệt đối xử: Bao gồm 2 nguyên tắc nhỏ là dành cho nhau:
quy chế tối huệ quốc và quy chế đãi ngộ quốc gia. Quy chế tối huệ quốc
MFN (Most Favoured Nation) đây là nguyên tắc quan trọng nhất của WTO
theo đó có nghĩa là tất cả hàng hóa, dịch vụ và công ty của các thành viên


17
WTO đều được hưởng một chính sách chung bình đẳng, không phân biệt đối
xử. Quy chế đãi ngộ quốc gia NT ( National Treatment) nguyên tắc này được
hiểu là hàng hoá dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ nước ngoài phải được đối xử
như những hàng hoá cùng loại trong nước. Nguyên tắc này chỉ áp dụng với
hàng hoá dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ chưa áp dụng đối với cá nhân và
pháp nhân.
- Nguyên tắc mở cửa thị trường còn gọi là “tiếp cận” thị trường (market
access) nguyên tắc này được hiểu trên hai khía cạnh. Thứ nhất, các nước
thành viên mở cửa thị trường cho nhau thông qua việc cắt giảm từng bước,
tiến tới xóa bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Thứ hai, các chính sách
và luật lệ thương mại phải được công bố công khai, kịp thời, minh bạch. Như
vậy về mặt chính trị “tiếp cận” thị trường thể hiện nguyên tắc tự do hoá
thương mại của WTO, về mặt pháp lý nó thể hiện nghĩa vụ cam kết mở cửa
thị trường mà các nước thành viên phải chấp thuận khi đàm phán gia nhập
WTO
- Cạnh tranh công bằng (fair competition): Nguyên tắc này yêu cầu các

nước chỉ được sử dụng thuế là công cụ duy nhất để bảo hộ. Các biện pháp phi
thuế quan (giấy phép, hạn ngạch, hạn chế nhập khẩu, ) đều không được sử
dụng.
1.3.2 Những thời cơ thánh thức, những khó khăn và thuận lợi đối với
nền kinh tế của nước ta khi hội nhập kinh tế quốc tế
1.3.2.1. Cơ hội, lợi ích từ việc gia nhập WTO:
Thứ nhất: tạo cơ hội mở rộng thị trường hàng hóa và dịch vụ:
- Được đối xử tối huệ quốc (MFN) vô điều kiện;
- Thuế nhập khẩu vào các nước tham gia tổ chức WTO giảm đáng kể;
- Được hưởng cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại khi có tranh chấp
thương mại với các nước khác theo nguyên tắc của WTO.


18
- Được hưởng chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) với vị thế của nước
đang phát triển.
Đây là nhân tố cần thiết để Việt Nam phát huy những lợi thế về: tài
nguyên và lao động nhằm thâm nhập vào thị trường quốc tế và nhập khẩu
Thứ hai: tăng cường thu hút đầu tư từ nước ngoài
Khi Việt Nam là thành viên của WTO, với những lợi thế về tài nguyên,
nhân lực, vị trí địa lý và sự ổn định chính trị - xã hội chúng ta đã thu hút được
một lượng đầu tư nước ngoài đáng kể vào phát triển kinh tế. Khi gia nhập
WTO sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi hơn trong việc cải thiện môi trường
đầu tư nhờ đó sẽ thu hút đầu tư nước ngoài, các nguồn đầu tư trong nước vào
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Hội nhập kinh tế quốc tế mà cụ thể là việc tham gia vào WTO làm cho hệ
thống pháp luật của Việt Nam phải phù hợp hơn với thông lệ quốc tế. Những
chính sách minh bạch rõ ràng và việc thực hiện các cam kết thương mại quốc
tế trong khuôn khổ WTO là những cơ sở quan trọng để thu hút đầu tư nước
ngoài. Với vị thế của nước đang phát triển, sự hấp dẫn đầu tư nước ngoài vào

Việt Nam không phải chỉ nhờ có nguồn tài nguyên đa dạng, nhân lực dồi dào,
giá nhân công rẻ và nhân công có khả năng tiếp thu những kỹ thuật mới, thị
trường có tiềm năng lớn, mà còn tận dụng vị thế xuất xứ hàng hóa ưu đãi cho
nước đang phát triển trong WTO.
Thứ ba: cải thiện cơ chế giải quyết tranh chấp:
Một trong những thiết chế quan trọng của WTO là định ước giải quyết
tranh chấp. Định ước này xác định rõ quy trình và thủ tục giải quyết tranh
chấp thương mại giữa các nước thành viên. Điều đáng chú ý là quy trình và
thủ tục này bảo đảm bình đẳng về nguyên tắc cho các nước nghèo trong giải
quyết tranh chấp thương mại với các nước lớn.


19
Những năm qua, Việt Nam đã phải đương đầu với các tranh chấp thương
mại với một số nước lớn: bán phá giá cá da trơn, tôm với Mỹ, xe đạp và giầy
ở Châu Âu Việt Nam đã gặp nhiều khó khăn trong việc giải quyết các tranh
chấp đó và phải chịu sự áp đặt bất bình đẳng của phía nước ngoài do chúng ta
chưa tham gia vào tổ chức thương mại thế giới. Khi vào WTO, Việt Nam sẽ
được quyền tham gia các cuộc thảo luận, đàm phán quốc tế để bảo vệ quyền
lợi của mình.
Thứ tư: thúc đẩy cải cách kinh tế trong nước:
Hai mươi năm thực hiện công cuộc đổi mới đã đem lại cho nền kinh tế
Việt Nam nhiều thành tựu to lớn. Để sớm thoát khỏi tình trạng nước nghèo,
lạc hậu và chậm phát triển, công cuộc đổi mới ở Việt Nam cần tiếp tục được
thực hiện sâu rộng hơn nữa. Việc gia nhập WTO sẽ là động lực bên ngoài
thúc đẩy mạnh mẽ cải cách trong nước. Bởi vì, việc thực hiện những cam kết
và luật lệ của WTO sẽ củng cố mạnh mẽ và tăng tốc độ cải cách trong nước.
Khi gia nhập WTO chúng ta phải cam kết áp dụng và giám sát hệ thống luật
của mình theo những nguyên tắc quốc tế: minh bạch, hợp lý, công bằng và
đồng bộ. Phải tăng cường thực hiện cải cách kinh tế vĩ mô và vi mô để vừa

đáp ứng được những yêu cầu của quá trình tự do hóa thương mại, vừa tranh
thủ được những lợi ích mà nó mang lại.
1.3.2.2 Những khó khăn:
Thứ nhất: Khả năng cạnh tranh yếu của các ngành kinh tế Việt Nam là
thách thức lớn nhất khi tham gia vào WTO.
Nông nghiệp là ngành sản xuất quan trọng nhất tại Việt Nam hiện nay. Nó
cũng là ngành rất nhạy cảm và dễ bị tổn thương khi gia nhập WTO. Nông sản
là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam, hơn nữa hầu
hết là xuất khẩu thô, chưa qua chế biến nên giá trị gia tăng của hàng hoá rất
thấp. Sự lạc hậu cả về cơ sở, vật chất kỹ thuật làm cho chất lượng sản phẩm


20
chưa cao, không đồng đều (cả về tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh an toàn thực
phẩm, ) nên hàng hoá xuất khẩu tới các nước phát triển thường bị trả lại hoặc
giảm giá do không đảm bảo tiêu chuẩn. Mặc dù tại vòng đàm phán Urugoay
đã có những nhượng bộ nhất định về nông nghiệp nhưng do chính sự yếu kém
nội tại làm cho khả năng cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam
gặp nhiều hạn chế. Việt Nam là nước đang phát triển được miễn trừ cắt giảm
trợ giá xuất khẩu nông sản và mức hỗ trợ cho nông dân trong nước. Chúng ta
sẽ phải cam kết nhượng bộ các đối tác nước ngòai như cắt giảm thuế quan và
hàng rào phi thuế quan trong nhiều lĩnh vực nông nghiệp như vậy không
những trên thị trường quốc tế, mà ngay trên thị trường trong nước, nông sản
Việt Nam sẽ phải cạnh tranh thực sự với nông sản nước ngòai cả về giá và
chất lượng.
Trong lĩnh vực công nghiệp, một số ngành đã có vị trí trên thị trường
quốc tế như may mặc, giầy dép, hàng điện tử lắp ráp, nhưng chủ yếu làm
gia công cho nước ngoài, chỉ ăn lãi phần nhân công vì nguyên vật liệu chính
lại phải nhập từ nước ngoài. Sức cạnh tranh của phần lớn các sản phẩm công
nghiệp Việt Nam chưa theo kịp yêu cầu, đòi hỏi của thị trường: kiểu dáng,

mẫu mã đã đơn điệu, lại chậm được đổi mới, chất lượng chưa hoàn toàn phù
hợp với yêu cầu của các thị trường, giá cả còn cao, chính sách bảo hành yếu.
Công nghệ sản xuất lạc hậu và khó khăn về vốn trong việc cải tiến công nghệ
sản xuất, chưa quan tâm đúng mức tới marketing quốc tế là những nguyên
nhân chủ yếu của tình trạng này. Khi gia nhập WTO, các doanh nghiệp công
nghiệp Việt Nam phải đương đầu với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt với các
doanh nghiệp nước ngòai không những trên thị trường quốc tế, mà ngay cả
trên thị trường trong nước như nông nghiệp.
Trong lĩnh vực dịch vụ, các nước cũng phải tuân thủ đầy đủ các nguyên
tắc cơ bản của WTO như: Nguyên tắc tối huệ quốc (MFN), đãi ngộ quốc gia

×