Tải bản đầy đủ (.docx) (89 trang)

TIỂU LUẬN MÔN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ SUY THOÁI KINH TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 89 trang )

SUY THOÁI KINH TẾ - NHÓM 4
MỤC LỤC:
CAO HỌC K23 ĐÊM 4 Page 1
SUY THOÁI KINH TẾ - NHÓM 4
DANH SÁCH NHÓM 4:
MSHV Họ Tên
7701230386 Nguyễn Bình Phương Duy
7701230510 Dương Quang Hoà
7701230746 Nguyễn Minh Nhân
7701231416 Lê Xuân Phú
7701230792 Phạm Ngọc Phú
7701230858 Huỳnh Văn Sơn
7701231468 Lê Anh Tuấn
7701230964 Lê Thị Hạnh Thảo
7701231530 Dương Thị Huyền Trang
7701231574 Nguyễn Thị Xuân
CAO HỌC K23 ĐÊM 4 Page 2
SUY THOÁI KINH TẾ - NHÓM 4
CHƯƠNG 1: SƠ LƯỢC VỀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT
“SUY THOÁI KINH TẾ”
1.1 Khái niệm suy thoái kinh tế:
Có rất nhiều định nghĩa về suy thoái kinh tế, mỗi định nghĩa thường thể hiện một quan
điểm riêng, sau đây là một số định nghĩa được thế giới sử dụng nhiều nhất hiện nay.
• Theo quan điểm của kinh tế vĩ mô, mà cụ thể là giáo sư kinh tế học N. Gregory
Mankiw (trong cuốn nguyên lý kinh tế học phần II): Ngoài sự tăng trưởng kinh
tế bình thường được diễn ra, trong một vài năm, sẽ xảy ra các hiện tượng kinh tế
bất thường. Các doanh nghiệp không bán được hết hàng hóa và dịch vụ, họ đi đến
quyết định cắt giảm sản xuất. Nhiều công nhân bị sa thải, tỷ lệ thất nghiệp tăng
cao và các nhà máy bị bỏ không. Khi nền kinh tế sản xuất hàng hóa và dịch vụ ít
hơn, GDP thực tế và các đại lượng phản ánh thu nhập khác giảm đi. Những thời
kỳ thu nhập giảm trong khi thất nghiệp tăng cao được gọi là suy thoái kinh tế nếu


tình hình không quá nghiêm trọng, và được gọi là khủng hoảng nếu nó trầm trọng
và để lại nhiều hệ lụy khác.
• Theo quan điểm của các nhà kinh tế hiện đại thì: suy thoái kinh tế là sự cố chu
kỳ kinh doanh, là một sự suy giảm chung trong hoạt động kinh tế. Các chỉ số kinh
tế vĩ mô như GDP, việc làm, chi tiêu đầu tư, thu nhập hộ gia đình, lợi nhuận, và
lạm phát giảm. Trong khi nhiều doanh nghiệp phá sản và tỷ lệ thất nghiệp tăng.
Những biến động của nền kinh tế thường được gọi là chu kỳ kinh doanh. Và thuật
ngữ chu kỳ kinh doanh trên thực tế không hề có tính chất định kỳ và không thể dự
báo được chính xác (do vậy thuật ngữ này thường mang sự hiểu lầm). Theo
Mankiw (Nguyên lý kinh tế học II). Theo David Begg thì chu kỳ kinh doanh là sự
biến động của tổng sản lượng trong ngắn hạn xung quanh đường xu thế của nó.
• Theo cơ quan nghiên cứu kinh tế quốc gia (NBER) của Mỹ cho rằng: suy thoái
là sự tụt giảm hoạt động kinh tế trên cả nước, kéo dài nhiều tháng.
CAO HỌC K23 ĐÊM 4 Page 3
SUY THOÁI KINH TẾ - NHÓM 4
Ngoài ra còn có rất nhiều định nghĩa về suy thoái kinh tế, tuy nhiên các khái niệm
kinh tế nhìn chung đều cho rằng, suy thoái kinh tế tạo ra một biến động thất thường về
kinh tế và tạm gọi là “chu kỳ kinh doanh”, nó mang tính hệ thống, kéo dài. Và một sự suy
thoái trầm trọng và lâu dài sẻ dẫn đến khủng hoảng kinh tế.
1.2 Dấu hiệu nhận biết suy thoái kinh tế:
Các biến động kinh tế thường diễn ra thất thường và không thể dự báo trước được. Khi
nhận ra có một cú sốc nào đó về kinh tế theo chiều hướng xấu thì suy thoái đã gây ra
những hậu quả nhất định, tuy nhiên ngay cả các chính sách kinh tế thường cũng có độ trễ
nhất định, vì vậy việc nhận bết được các dấu hiệu suy thoái càng sớm cũng có thể giúp
nền kinh tế ít chịu ảnh hưởng của suy thoái kinh tế và có thể phục hồi nhanh hơn, nhìn
chung chúng ta có thể quan sát sự biến động của các đại lượng kinh tế vĩ mô theo chiều
hướng xấu, cụ thể:
• Tiêu dùng giảm mạnh, hàng tồn kho của các loại hàng hóa lâu bền trong các doanh
nghiệp tăng lên ngoài dự kiến. Việc này dẫn đến sản xuất cắt giảm sản lượng kéo
theo đầu tư vào trang thiết bị, nhà xưởng cũng giảm và kết quả là GDP thực tế

giảm sút.
• Cầu về lao động giảm, sau đó các doanh nghiệp cần cắt giảm chi phí dẫn đến hiện
tượng cắt giảm nhân công và tỷ lệ thất nghiệp tăng cao.
• Lợi nhuận của các doanh nghiệp giảm mạnh và giá chứng khoán thường giảm theo
khi các nhà đầu tư cảm nhận được pha đi xuống của chu kỳ kinh doanh.
1.3 Nguyên nhân dẫn đến suy thoái kinh tế:
1.3.1 Trường phái tiền tệ:
Trường phái tiền tệ hay còn gọi là trường phái tự do Chicago, đại biểu là ông Milton
Friedman. Lập trường cơ bản của trường phái này là thả lỏng nền kinh tế, chống lại sự
can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế. Phái tiền tệ nghiên về cơ chế thị trường tự do
không có sự can thiệp của chính phủ, họ cho rằng cơ chế thị trường tự nó đã có thể tự giải
quyết một cách có hiệu quả các vấn đề kinh tế cơ bản, không cần sự can thiệp của nhà
CAO HỌC K23 ĐÊM 4 Page 4
SUY THOÁI KINH TẾ - NHÓM 4
nước. Sự can thiệp của nhà nước theo họ đa phần chỉ có phá hoại sự cân bằng của thị
trường và có hại cho nền kinh tế. Các học giả theo trường phái tiền tệ cũng cho rằng
những biến động trong tổng cầu về cơ bản dựa trên những nguyên nhân tiền tệ và suy
thoái kinh tế có nguyên nhân từ sự quản lý tiền tệ yếu kém.
1.3.2 Trường phái kinh tế học chủ nghĩa Keynes:
Theo Keynes, khi thu nhập tuyệt đối được nâng lên thì sẽ có khuynh hướng nới rộng sự
chênh lệch giữa thu nhập và tiêu dùng. Đặc biệt khi người ta đạt đến sự tiện nghi nào đó
thì họ sẽ trích từ phần thu nhập tăng thêm cho tiêu dùng ít hơn, còn cho tiết kiệm nhiều
hơn. Theo J.M.Keynes, khi việc làm tăng lên thì tổng thu nhập thực tế tăng lên, do vậy
cũng làm tăng tiêu dùng. Song do quy luật tâm lý nêu trên, sự gia tăng tiêu dùng nói
chung chậm hơn sự gia tăng thu nhập, và khoảng cách đó ngày càng gia tăng theo tốc độ
gia tăng thu nhập. Nói cách khác, tiết kiệm có khuynh hướng gia tăng nhanh hơn. Keynes
cho rằng sự giảm sút tương đối cầu tiêu dùng chính là nguyên nhân gây ra tình trạng nền
kinh tế trì trệ, suy giảm tăng trưởng kinh tế và suy thoái kinh tế. Nói tóm lại, theo
Keynes, sự xuất hiện của khuynh hướng tiết kiệm trong dân chúng làm cho mức tiêu
dùng nhỏ hơn, dẫn đến sự giảm sút của tổng cầu, và chính sự giảm sút của tổng cầu là

nguyên nhân gây ra suy thoái, khủng hoảng kinh tế, doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất
và công nhân bị thất nghiệp.
1.4 Phân loại suy thoái kinh tế:
Các nhà kinh tế học hay miêu tả kiểu suy thoái kinh tế theo hình dáng của đồ thị tăng
trưởng theo quý. Có các kiểu suy thoái như sau:
CAO HỌC K23 ĐÊM 4 Page 5
SUY THOÁI KINH TẾ - NHÓM 4
1.4.1 Suy thoái hình chữ V:
Trong một cuộc suy thoái hình chữ V, nền kinh tế chỉ chịu đựng sự sụt giảm trong một
thời gian ngắn nhưng tác động của nó rất mạnh. Nền kinh tế bị suy giảm mạnh song cũng
phục hồi rất nhanh sau khi chạm đáy. Đây là một suy thoái kinh tế thường gặp, cho nên
nó cũng dễ theo dõi và có thể khắc phục nhanh chóng.
Một ví dụ dụ rõ ràng về cuộc suy thoái kinh tế hình chữ V là suy thoái kinh tế 1953 tại
Mỹ. Trong đầu những năm 1950 nền kinh tế Mỹ đang bùng nổ, nhưng vì Cục Dự Trữ
Liên Bang muốn đạt lạm phát kỳ vọng nên phải tăng lãi suất, làm nền kinh tế dần dần rơi
vào sụt giảm. Năm 1953 tăng trưởng bắt đầu chậm, trong quý ba, GDP thực giảm 2,4%,
trong quý 4 giảm đến 6.2% và trong quý đầu tiên của năm 1954 nó đã giảm 2% trước khi
trở lại tăng trưởng. Và nhìn vào hình bên dưới ta thấy nó có dạng hình chữ V.
Hình 1.1:Suy thoái hình chữ V, như trường hợp suy thoái kinh tế Hoa Kỳ năm 1953
Phần trăm thay đổi so với kỳ trước trong GDP thực.
Trung bình tăng trưởng GDP giai đoạn 1947-2000.
CAO HỌC K23 ĐÊM 4 Page 6
SUY THOÁI KINH TẾ - NHÓM 4
1.4.2 Suy thoái hình chữ U:
Suy thoái hình chữ U thường có thời gian kéo dài hơn một cuộc suy thoái hình chữ V, và
khó có thể xác định rõ ràng khi nào nền kinh tế chạm đáy. GDP có thể giảm trong vài
quý, sau đó tăng trở lại rồi đột ngột giảm hoặc tăng liên tục làm cho chúng ta khó xác
định khi nào GDP thực chạm dáy khủng khoảng.
Nền kinh tế có dấu hiệu hồi phục chậm, và không biết thật sự khi nào nền kinh tế thật sự
thoái khỏi suy thoái.

Hình 1.2:Suy thoái hình chữ U, như trường hợp suy thoái kinh tế Hoa Kỳ
1973 – 1975
Phần trăm thay đổi so với kỳ trước trong GDP thực.
Trung bình tăng trưởng GDP giai đoạn 1947-2000.
CAO HỌC K23 ĐÊM 4 Page 7
SUY THOÁI KINH TẾ - NHÓM 4
1.4.3 Suy thoái hình chữ W:
Suy thoái hình chữ W (hay còn được gọi là suy thoái kép), nền kinh tế rơi vào suy thoái,
phục hồi trong một thời gian ngắn, nhưng một thời gian ngắn sau đó lại rơi vào suy thoái
một lần nữa trước khi phục hồi.
Hình 1.3: Suy thoái hình chữ W, như trường hợp suy thoái kinh tế ở Hoa Kỳ đầu thập
niên 1980.
Phần trăm thay đổi so với kỳ trước trong GDP thực.
Trung bình tăng trưởng GDP giai đoạn 1947-2000.
1.4.4 Suy thoái hình chữ L:
Suy thoái hình chữ L xảy ra khi một nền kinh tế lâm vào suy thoái nghiêm trọng và
không quay trở lại được xu hướng tăng trưởng trong nhiều năm. Nền kinh tế sẽ dốc
xuống một thời gian dài trước khi cố gắng để gượng dậy.
Đây là dạng nghiêm trọng nhất trong 4 dạng chính của mô hình suy thoái kinh tế.
CAO HỌC K23 ĐÊM 4 Page 8
SUY THOÁI KINH TẾ - NHÓM 4
Hình 1.4:Suy thoái hình chữ L, trường hợp suy thoái Nhật Bản 1990.
Phần trăm thay đổi so với kỳ trước trong GDP thực.
Trung bình tăng trưởng GDP giai đoạn 1950-2000.
1.5 Tác động của suy thoái kinh tế:
1.5.1 Thất nghiệp gia tăng:
Khi suy thoái kinh tế xảy ra, một hiện tượng không thể tránh khỏi là thất nghiệp cơ cấu.
Suy thoái kinh tế dẫn đến sự thu hẹp sản xuất của các doanh nghiệp do tổng cầu giảm, do
đó cầu về lao động giảm, các doanh nghiệp thực hiện cắt giảm nhân công và làm cho tỷ lệ
thất nghiệp tăng cao.

1.5.2 Tiêu dùng và đầu tư:
Khi nền kinh tế rơi vào suy thoái, tiêu dùng và đầu tư trong nước đều bị sụt giảm do thu
nhập khả dụng giảm và rủi ro đầu tư tăng cao đồng thời dòng vốn đầu tư nước ngoài cả
trực tiếp và gián tiếp suy giảm vì những lo ngại về bất ổn kinh tế, các nhà đầu tư có xu
hướng rút vốn về do lo ngại rủi ro đầu tư.
CAO HỌC K23 ĐÊM 4 Page 9
SUY THOÁI KINH TẾ - NHÓM 4
1.5.3 Giảm phát:
Giảm phát là tình trạng mức giá chung của nền kinh tế giảm xuống liên tục. Nguyên nhân
chính của giảm phát là do tổng cầu giảm, một hiện tượng tất yếu khi suy thoái kinh tế xảy
ra. Đến lượt nó, giảm phát làm cho việc sản xuất kinh doanh ngày càng bị thu hẹp hơn,
thu nhập giảm, thất nghiệp tăng lên và làm cho nền kinh tế rơi vào vòng luẩn quẩn suy
thoái kéo dài.
1.5.4 Với thị trường tài chính:
Suy thoái kinh tế có ảnh hưởng xấu lên thị trường chứng khoán, làm cho giá cổ phiếu
giảm mạnh, nhà đầu tư hoảng sợ, thị trường chứng khoán đi xuống và chứng khoán bị
bán ra ồ ạt. Việc IPO của các doanh nghiệp sẽ gặp nhiều khó khăn và trở ngại, thậm chí
tạm hoãn IPO do trong thời gian này cung quá nhiều trong khi cầu về chứng khoán giảm
mạnh, việc IPO sẽ bất lợi cho doanh nghiệp. Ngoài ra khả năng rút vốn ồ ạt của nhà đầu
tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán cũng gây ảnh hưởng xấu lên thị trường chứng
khoán cũng như dự trữ ngoại hối.
Bên cạnh việc có những tác động tiêu cực lên thị trường chứng khoán, suy thoái kinh tế
cũng làm cho các ngân hàng gặp nhiều khó khăn, một số ngân hàng mất khả năng thanh
khoản, có thể gây ra sự sụp đổ của các ngân hàng do nợ xấu tăng lên, người vay vốn
không còn khả năng trả nợ và người gửi tiền hoảng loạn đua nhau rút tiền gởi.
1.5.5 Với thị trường bất động sản:
Suy thoái kinh tế dẫn đến sự đình trệ của thị trường bất động sản và sự đình trệ của thị
trường này sẽ gây tác động tiêu cực đến các thị trường khác.
1.5.6 Với cán cân thanh toán:
Suy thoái kinh tế dẫn đến sự sụt giảm nhanh chóng về nhu cầu nhập khẩu trên thế giới do

người tiêu dùng trên thế giới thắt chặt chi tiêu dẫn đến hoạt động xuất khẩu ra thị trường
CAO HỌC K23 ĐÊM 4 Page 10
SUY THOÁI KINH TẾ - NHÓM 4
quốc tế bị suy giảm và do đó ảnh hưởng lên cán cân thanh toán quốc tế, thâm hụt thương
mại.
1.5.7 Tăng trưởng kinh tế:
Khi suy thoái kinh tế xuất hiện, việc một loạt các hoạt động kinh doanh buộc phải giải thể
là điều không thể tránh khỏi, đồng thời sự sụt giảm trong tiêu dùng, đầu tư, thâm hụt cán
cân thương mại dẫn đến GDP của nền kinh tế sụt giảm hơn nữa, hậu quả tất yếu là tăng
trưởng kinh tế chậm lại.
1.5.8 Vấn đề an sinh xã hội:
Suy thoái kinh tế tác động tiêu cực lên nền kinh tế dẫn đến xu hướng bất bình đẳng về thu
nhập và phân hóa giàu nghèo trong xã hội có khả năng gia tăng. Đồng thời gây ra những
bất ổn trong xã hội do tội phạm tăng.
1.6 Giải pháp chống suy thoái kinh tế:
Theo Keynes, chính sự sút giảm của tổng cầu là nguyên nhân gây ra suy thoái kinh tế,
doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất và tình trạng thất nghiệp xảy ra. Do đó cần thiết phải
có sự can thiệp của nhà nước nhằm nâng cao tổng cầu trong nền kinh tế, như hiện nay
chúng ta thường gọi là kích cầu tiêu dùng và cầu đầu tư. Trong thực tế, ở các nước có nền
kinh tế thị trường đều có sự vận dụng học thuyết Keynes ở những mức độ khác nhau, qua
đó để điều tiết và kích thích kinh tế. Trong học thuyết Keynes, ông đã nhấn mạnh tới các
các công cụ và chính sách kinh tế mà nhà nước có thể sử dụng để tác động tới nền kinh tế
nhằm nâng cao tổng cầu, bao gồm các chính sách kinh tế như: chính sách tài chính (chính
sách tài khóa), chính sách tiền tệ của chính phủ, chính sách khuyến khích đầu tư.
1.6.1 Chính sách tài khóa:
Theo quan điểm của Keynes, tài khóa là một công cụ hữu hiệu trong tay nhà nước để tác
động đến nền kinh tế. Khi nền kinh tế đang lâm vào suy thoái và thất nghiệp, các doanh
CAO HỌC K23 ĐÊM 4 Page 11
SUY THOÁI KINH TẾ - NHÓM 4
nghiệp thu hẹp sản xuất, người tiêu dùng thắt chặt chi tiêu, điều đó làm giảm sút tổng

cầu. Vì vậy để nâng cao tổng cầu chính phủ cần sử dụng chính sách tài chính nới lỏng, cụ
thể với các công cụ tài chính như sau:
• Tăng chi tiêu của chính phủ
• Giảm thuế cho doanh nghiệp, trợ cấp cho dân chúng
• Kết hợp vừa tăng chi tiêu vừa giảm thuế cho doanh nghiệp.
Trong khi suy thoái kinh tế thì mục tiêu của chính sách tài khóa nới lỏng là tạo thêm cầu
để đối ứng với năng lực sản xuất hiện tại của nền kinh tế, tránh để dư thừa năng lực sản
xuất ở mức quá cao gây lãng phí nguồn lực cũng như gây ra những vấn đề về xã hội do
thất nghiệp tăng cao gây ra. Nếu không nhanh chóng ngăn chặn, thất nghiệp sẽ tiến đến
ngưỡng nguy hiểm đẩy suy giảm kinh tế vào vòng xoáy luẩn quẩn: thất nghiệp sẽ dẫn đến
cắt giảm thu nhập (thực tế và kỳ vọng) làm giảm tiêu dùng, càng khó khăn về đầu ra dẫn
đến các doanh nghiệp phải tiếp tục cắt giảm sản xuất và lao động, đẩy thất nghiệp tăng
lên ở vòng tiếp theo và cứ tiếp tục như vậy. Do đó việc sử dụng chính sách tài khóa nới
lỏng là hết sức cần thiết góp phần giúp tổng cầu gia tăng, sản lượng tăng, tạo thêm việc
làm, giảm thất nghiệp. Tuy nhiên việc áp dụng phải được thực hiện một cách thận trọng,
trú trọng tới vấn đề hiệu quả vì nếu sử dụng thái quá công cụ chính sách tài khóa sẽ có
thể làm phát sinh các vấn đề sau:
• Để kích cầu thì phải giảm thuế, nhưng giảm thuế lại làm thâm hụt ngân sách, giảm
chi tiêu chính phủ
• Nếu tăng chi tiêu chính phủ thì rất có thể hiệu quả biên của vốn bị giảm sút, đồng
thời gây ra lạm phát và tăng gánh nặng nợ cho ngân sách nhà nước.
1.6.2 Chính sách tiền tệ
Trong học thuyết của mình, Keynes đánh giá cao vai trò của công cụ chính sách tiền tệ.
Trong thực tế, các chính phủ đều có sự vận dụng công cụ và chính sách tiền tệ để tác
động đến nền kinh tế. Chính sách tiền tệ được thể hiện tập trung thông qua việc ngân
CAO HỌC K23 ĐÊM 4 Page 12
SUY THOÁI KINH TẾ - NHÓM 4
hàng trung ương thay đổi mức cung tiền và lãi suất, nhờ đó đã tác động vào lượng tiền
mặt và lãi suất trên thị trường, đồng thời tác động đến tổng cung và tổng cầu trong nền
kinh tế, nâng cao “cầu có hiệu quả” nhằm chống suy thoái kinh tế. Khi nền kinh tế đang

trong tình trạng suy thoái thì chính phủ nên sử dụng chính sách tiền tệ nới lỏng, cụ thể
với các công cụ như sau:
• Mua các loại giấy tờ có giá (hoạt động trên thị trường mở)
• Giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc
• Giảm lãi suất chiết khấu
Việc sử dụng chính sách tiền tệ nới lỏng với các công cụ như trên góp phần làm tăng
cung tiền, giảm lãi suất, do đó dẫn đến đầu tư tăng và tổng cầu tăng, dẫn đến sản lượng
quốc gia tăng, mức nhân dụng tăng, mức giá chung tăng và giảm tỷ lệ thất nghiệp. Tuy
nhiên chính sách tiền tệ cần được cân nhắc thận trọng trong điều hành, đảm bảo cân bằng
sự tăng trưởng và ổn định vì cũng như chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ nới lỏng
cũng có nguy cơ tiềm ẩn của nó.
• Nếu lượng tiền phát hành quá mức sẽ đẩy mức giá cả lên cao và có nguy cơ gây ra
lạm phát
• Nếu thực hiện chính sách giảm lãi suất để khuyến khích đầu tư nhằm nâng cao
tổng cầu thì đồng thời làm gia tăng mức cung tiền tệ và dó đó có nguy cơ gây ra
lạm phát.
CAO HỌC K23 ĐÊM 4 Page 13
SUY THOÁI KINH TẾ - NHÓM 4
CHƯƠNG 2: ĐIỂM QUA MỘT SỐ CUỘC SUY THOÁI KINH TẾ
LỚN TRÊN THẾ GIỚI
1 Đại suy thoái năm 1929-1933:
1 Đặc điểm và ảnh hưởng chung:
Suy thoái kinh tế 1929-1933 là cuộc đại suy thoái trong lịch sử thế giới và cũng là
nguyên nhân gián tiếp dẫn đến đại chiến thế giới thứ hai.
Những năm 1929 thịnh vượng với nền kinh tế phát triển mạnh mẽ đã qua đi. Vào thứ 4
ngày 23/10 giá cổ phiếu giảm mạnh trên NYSE (Thị trường chứng khoán New York),
các nhà đầu tư sửng sốt khi suốt 5 năm, thì trường chỉ tăng. Và chỉ trong 1 thời, có đến
2.5 triệu cổ phiếu được rao bán. Ngày hôm sau thị trường vẫn tiếp tục giảm điểm.
Giá chứng khoán bắt đầu giảm 10, 4, 2 đôla trên một cổ phiếu, chưa từng có tiền lệ xảy
ra.

Biểu đồ 2.1: Chỉ số Dow Jones 1929-1930.
Nước Mỹ là nơi khởi nguồn của Đại suy thoái mới sự sụt giảm chóng mặt trên thị trường
chứng khoán.
CAO HỌC K23 ĐÊM 4 Page 14
SUY THOÁI KINH TẾ - NHÓM 4
Suy thoái kinh tế thường xảy ra trong xã hội tư bản, nhưng cuộc suy thoái kinh tế lần
này rất nghiêm trọng và rất sâu sắc, vì nó kéo dài, bao trùm tất cả các ngành của nền
kinh tế và lôi cuốn tất cả các nước trên thế giới. Đại suy thoái phá húy hầu hết nền kinh
tế của các quốc gia, nặng nề nhất là ở khu vực Bắc Mỹ và châu Âu, các quốc gia phương
Tây có nền kinh tế công nghiệp phát triển, thị trường tài chính và bất động sản hoạt động
mạnh mẽ.
Các quốc gia này đều phải hứng chịu sự giảm sút trong sản xuất công nghiệp nặng nề,
thị trường tài chính, hệ thống ngân hàng chịu ảnh hưởng nặng nề, tỷ lệ thất nghiệp tăng
cao nhất trong lịch sử. Thương mại quốc tế giữa các quốc gia cũng suy giảm nặng nề.
Ngay sau khi Đại suy thoái diễn ra, các quốc gia ngay lập tức áp dụng mọi biện pháp để
bảo vệ sản xuất công nghiệp của quốc gia mình trong đó biện pháp nâng cao thuế quan
để giảm nhập khẩu hàng hóa nước ngoài. Việc này ngay lập tức cũng nhận được “sự trả
đũa” của các quốc gia khác, và thương mại quốc tế dường như bị chặn đứng. Chế độ bản
vị vàng vào thời gian này cũng là một rào cản lớn đối với thương mại quốc tế, các nước
đã lần lượt rời bỏ chế độ này để tìm lại sự tăng trưởng cho nền kinh tế trong nước. Sau
thời kỳ 1929 – 1933, chỉ còn rất ít các quốc gia áp dụng chế độ này.
Đại suy thoái đã làm cho nền kinh tế thế giới trải qua một thời kỳ với một tỷ lệ thất
nghiệp cao nhất trong lịch sử. Rất nhiều nhà nghiên cứu đã cố gắng tìm hiểu và đưa ra
một con số chính xác nhất về tỷ lệ thất nghiệp nhưng chưa bao giờ đưa ra được một con
số thực sự chính xác.
Sự tàn phá do nạn suy thoái gây ra rõ ràng nhất ở những khu vực công nghiệp. Ở đó là
những người chờ cứu tế, những người không bà con họ hàng, những người bị bỏ rơi rách
rưới; những nhà máy lặng im đánh dấu sự sụp đổ của nền kinh tế. Ba khu vực chịu ảnh
hưởng nặng nề nhất của Đại suy thoái đó là Bắc Mỹ mà cụ thể là quốc gia nơi Đại suy
thoái bắt đầu – Nước Mỹ; châu Âu và Mỹ Latin. Cuộc suy thoái 1930 đã phá hủy nền

kinh tế của Mỹ và hầu hết các quốc gia ở châu Âu. Một nghiên cứu vào những năm 1980
đã về tình trạng kinh tế các quốc gia vào thời điểm giữa hai cuộc chiến tranh đã chỉ ra
những tình hình kinh tế trượt dốc ở các quốc gia trong khu vực kinh tế chủ chốt của thế
giới vào thời kỳ đó.
CAO HỌC K23 ĐÊM 4 Page 15
SUY THOÁI KINH TẾ - NHÓM 4
Về mặt chính trị, Đại suy thoái làm biến đổi bộ mặt chính trị của nhiều quốc gia và góp
phần làm thay đổi quan hệ quốc tế, được coi như một trong những nguyên nhân lớn gây
ra chiến tranh thế giới thứ hai. Khủng hoảng kinh tế nặng nề làm cho đời sống người dân
ở khắp nơi đều trở nên rất khó khăn, và những phản ứng xã hội trở thành một điều tất
yếu.
Bảng 2.1: So sánh mức tiêu dYng của năm 1929 vZi 1933 của Mỹ :
The Depression's impact on people:
Consumer spending (in billions) on selected items, 1929-33
1929 1933
Food $19.5 $11.5
Housing $11.5 $ 7.5
Clothing $11.2 $ 5.4
Automobiles $ 2.6 $ 0.8
Medical care $ 2.9 $ 1.9
Philanthropy $ 1.2 $ 0.8
Value of shares on the NYSE $89.0 $19.0
1.6.3 Nguyên nhân:
Đaị suy thoái 1929-1933 được bắt đầu sau một thời kỳ phát triển kinh tế cực thịnh, khi
kinh tế thế giới đã vượt qua những hậu quả của cu[c chiến tranh thế giZi thứ nh\t. Suy
thoái kinh tế bắt đầu ở nước Mỹ với sự sụp đổ của hệ thống tài chính mà nn tảng là thị
trường chứng khoán và hệ thống ngân hàng trên toàn quốc gia. Sự dễ dãi trong tăng tín
dụng đẩy các ngân hàng cho vay, sự yếu kém trong việc quản lý hệ thống tài chính - tiền
tệ và do "xài quá cái làm ra"dẫn tới bùng nổ quá mức cung tiền ngay trước khi suy thoái
đẩy thị trường chứng khoán bùng nổ quá mức, ngân hàng cho vay quá nhiều, rủi ro quá

CAO HỌC K23 ĐÊM 4 Page 16
SUY THOÁI KINH TẾ - NHÓM 4
mức không được kiểm soát. Khi thị trường chứng khoán sụp đổ, kéo theo sụp đổ dây
chuyền của các thể chế tài chính do các khoản nợ xấu không đòi được.
Các nhà lịch sử kinh tế còn tranh cãi về nguyên nhân gây ra Đại suy thoái, nhưng phần
lớn cách giải thích đều xoay xung quanh sự sụt giảm lớn trong tổng cầu. Vậy điều gì đã
làm tổng cầu sụt giảm:
 Theo các nhà kinh tế học, nguyên nhân chủ yếu gây ra suy thoái là sự giảm sút của
cung ứng tiền tệ: Từ năm 1929-1933, cung ứng tiền tệ giảm 28%, và sự sụt giảm
trong cung ứng tiền tệ là do các vấn đề trong hệ thống ngân hàng gây ra. Do có hộ
gia đình rút tiền khỏi các ngân hàng đang gặp rắc rối về tài chính và các ngân hàng
trở nên thận trọng hơn, giữ tiền dự trữ nhiều hơn, nên quá trình tạo tiền trong hệ
thống ngân hàng dự trữ một phần đã đi theo hướng ngược lại. Trong khi đó, Quỹ
dự trữ Liên Bang Mỹ đã thất bại trong việc bù lại sự suy giảm này của số nhân tiền
thông qua nghiệp vụ thị trường mở mang tính mở rộng. Kết quả là, cung tiền giảm
mạnh.
• Các nhà kinh tế theo trường phái kinh tế tiền tệ như Barry Eichengreen,
Milton Friedman và Peter Temin chỉ ra rằng các yếu tố tiền tệ như hành
động của CỤC DỰ TRỮ LIÊN BANG MỸ đáng lẽ phải tăng cung tiền
nhưng lại giảm cung tiền và quyết định của Anh trở lại với tiêu chuẩn bản
vị vàng đã gián tiếp đẩy nền kinh tế vào suy thoái. Theo trường phái
Keynes, cơ chế tự điều chỉnh của thị trường tự do không hoạt động được.
Dù lãi suất giảm nhưng đầu tư không tăng được do kỳ vọng về tương lai
quá bi quan.
• Cụ thể chủ nghĩa trọng tiền bao gồm Milton Friedman, cho rằng cuộc Đại
suy thoái chủ yếu là do thu hẹp tiền tệ, hậu quả là do việc hoạch định chính
sách của Cục dự trữ liên bang Mỹ và thêm vào đó là cuộc khủng hoảng
trong hệ thống ngân hàng. Cũng theo quan điểm này, Cục Dự trữ Liên
bang, cho phép cung tiền được đo bằng M2 sẽ giảm một phần ba trong năm
CAO HỌC K23 ĐÊM 4 Page 17

SUY THOÁI KINH TẾ - NHÓM 4
1929-1933, qua đó gián tiếp chuyển một cuộc suy thoái bình thường thành
một cuộc Đại suy thoái. Friedman cho rằng sự đi xuống lần lượt của nền
kinh tế, bắt đầu với sự sụp đổ của thị trường chứng khoán, sẽ chỉ là một sự
bắt đầu của cuộc đại suy thoái kinh tế.
 Các nhà kinh tế học khác đã nêu thêm một số lý do khác nhau cho sự suy giảm
tổng cầu. Ví dụ, giá cổ phiểu giảm 90% trong thời kỳ này, làm cho của cải các hộ
gia đình giảm, qua đó gây ra sự trì trệ trong chi tiêu cho tiêu dùng. Thêm vào đó,
khó khăn của các ngân hàng đã làm cho một số doanh nghiệp không nhận đưo75c
nguồn tài chính cần thiết cho các dự án đầu tư, qua đó làm cho chi tiêu đầu tư
giảm mạnh. Tất nhiên tất cả các lực lượng này có thể đổng thởi làm thu hẹp tổng
cầu trong cuộc Đại suy thoái.
Cục Dự trữ Liên bang cho phép một số ngân hàng công lớn hoạt động không hiệu quả đổ
vỡ - đặc biệt là các Ngân hàng ở New York của Hoa Kỳ - làm gia tăng sự hoảng sợ trong
hệ thống ngân hàng, lan rộng đến mọi thành phố nước Mỹ, và lúc bấy giờ người ta được
thấy Cục Dự trữ Liên bang ngồi yên trong khi các ngân hàng sụp đổ. Người ta cho rằng,
nếu FED đã cung cấp cho vay khẩn cấp cho các ngân hàng chủ chốt, hoặc chỉ đơn giản là
mua trái phiếu chính phủ trên thị trường mở để cung cấp thanh khoản và tăng số lượng
tiền sau khi các ngân hàng chủ chốt giảm, tất cả các ngân hàng còn lại sẽ không lâm vào
khủng hoảng, và cung tiền sẽ không giảm đến mức nghiêm trọng như vậy. Nhà kinh
doanh không thể nhận được các khoản vay mới và thậm chí không thể gia hạn các
khoảng vay cũ, buộc nhiều người ngừng đầu tư .
Một lý do khiến Cục Dự trữ Liên bang đã không hành động để hạn chế sự suy giảm của
cung tiền đã quy định. Tại thời điểm đó, số lượng tín dụng Dự trữ Liên bang có thể phát
hành được giới hạn bởi Đạo luật Dự trữ Liên bang, trong đó yêu cầu 40 % sự ủng hộ
vàng từ cục dự trữ liên bang phát hành. Đến cuối những năm 1920, Cục Dự trữ Liên bang
đã gần như đạt đến giới hạn tín dụng được phép có thể được hỗ trợ bởi vàng trong sở hữu
của nó.
M[t số lý thuyết riêng rẽ khác giải thích Đại suy thoái:
CAO HỌC K23 ĐÊM 4 Page 18

SUY THOÁI KINH TẾ - NHÓM 4
• Khủng hoảng nợ dưới chuẩn (Deft Deflation): Khi nợ bị đánh giá khó đòi, việc
bán ra số lượng lớn với giá rẻ, làm cho tài sản nhìn chung lại càng mất giá, khiến
các khoản nợ còn tồn lại càng giảm chất lượng (do tài sản thế chấp bị giảm giá).
Vòng xoáy này như quả bóng tuyết càng ngày càng to, đẩy cả thị trường nợ và tài
sản xuống, làm cho các thể chế tài chính và cá nhân trên thị trường vỡ nợ. Khi vỡ
nợ nhiều quá, đẩy sản xuất và lợi nhuận xuống thấp, đầu tư đình trệ, việc làm mất
và dẫn tới bẫy đói nghèo.
• Sự bất công bằng trong giàu nghèo và thu nhập: Sự bất công bằng trong giàu
nghèo được Waddill Catchings và William Trufant Foster cho là nguyên nhân của
Đại suy thoái. Sản xuất ra quá nhiều hơn khả năng mua của thị trường (vốn đa số
là người nghèo). Lương tăng chậm hơn so với mức tăng năng suất, dẫn tới lợi
nhuận cao, nhưng lợi nhuận lại bị rót vào thị trường chứng khoán, mà không phải
đưa tới cho người tiêu dùng. Do thị trường chứng khoán tăng nhanh, các doanh
nghiệp mở rộng sản xuất, FED lại để mức lãi xuất cho vay rất thấp, làm đẩy mạnh
đầu tư quá mức. Nền kinh tế tăng nóng trong một thập kỷ, đến mức khả năng sản
xuất quá cao so với mức hiệu quả và so với mức cầu. Như vậy, nguyên nhân của
khủng hoảng là do đầu tư quá mức vào các ngành công nghiệp nặng thay vì vào
lương và doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nền kinh tế tăng quá mức hiệu quả và lạm
phát quá cao.
• Cấu trúc thể chế tài chính: Các ngân hàng bị cho là quá rủi ro, khi dự trữ quá ít,
đầu tư quá nhiều vào thị trường chứng khoán và các tài sản rủi ro. Khối nông
nghiệp thì quá rủi ro khi giá đất tăng quá cao, hiệu suất nông nghiệp thấp, trong
khi nông dân đi vay quá nhiều để sản xuất, khi lãi suất đột ngột tăng cao thì họ lâm
vào phá sản vì không thể sản xuất để trả lãi vay cao. Một số nhà kinh tế cho rằng
nguyên nhân có thể là từ bẫy thanh khoản (khi các chính sách tiền tệ như giảm lãi
suất và tăng cung tiền không thể thúc đẩy nền kinh tế).
• Chế độ bản vị vàng: Để chống lạm phát, các nước sau Thế chiến Thứ nhất áp dụng
bản vị vàng (đồng tiền gắn chặt với một lượng vàng nhất định). Sốc bắt đầu từ
vụ sụp đổ của thị trường chứng khoán Mỹ, nhưng vì chế độ bản vị vàng mà khủng

hoảng từ Mỹ lan rộng ra khắp thế giới. Chính vì các chính phủ tiếp tục giữ chế độ
CAO HỌC K23 ĐÊM 4 Page 19
SUY THOÁI KINH TẾ - NHÓM 4
bản vị vàng, họ không thể đưa ra các chính sách tiền tệ nới lỏng để chữa khủng
hoảng. Những nước nào thoát khỏi bản vị vàng sớm chính là những nước khôi
phục kinh tế sớm.
• Sụp đổ thương mại quốc tế: Do các nước châu Âu sau Thế chiến Thứ nhất nợ Mỹ
nhiều, họ phải trả nợ hàng năm. Họ cũng xuất khẩu sang Mỹ để lấy ngoại hối trả
nợ, đồng thời họ cũng nhập khẩu hàng từ Mỹ cho nhu cầu. Đến cuối thập kỷ 1920,
nhu cầu nhập hàng Mỹ giảm do khủng hoảng và do thiếu tiền để trả nợ. Đồng thời
khi hàng rào thuế quan của Mỹ tăng cao theo Luật Thuế quan Smoot–Hawley,
xuất khẩu vào Mỹ giảm, dẫn tới các nước trên thế giới càng gặp khó khăn. Thương
mại quốc tế đình trệ càng làm cho khủng hoảng kinh tế năm 1930 thêm tồi tệ.
CAO HỌC K23 ĐÊM 4 Page 20
SUY THOÁI KINH TẾ - NHÓM 4
1.6.4 Tác động và cách giải quyết của một số quốc gia:
Phần lớn các nước thiết lập các chương trình cứu trợ, và hầu hết các quốc gia này đều đã
trải qua một số biến động về chính trị, đẩy họ đi theo một hướng hoàn toàn khác. Biến
động chính trị đáng chú ý nhất là việc Adolf Hitler lên nắm quyền ở Đức – đặt nền móng
cho chiến tranh thế giới lần II.
1.6.4.1 Mỹ:
1.6.4.1.1 Tác động:
Đại suy thoái bắt đầu vào tháng 8 năm 1929, khi nền kinh tế Mỹ lần đầu tiên đi vào một
cuộc suy thoái kinh tế. Đất nước trải qua hai tháng với GDP sụt giảm. tuy nhiên bước
ngoặt làm cho nền kinh tế Mỹ lâm vào suy thoái là sự sụp đổ của phố Wall vào tháng 10,
và sau đó lan rộng ra toàn nước Mỹ, không dừng ở đó quy mô của cuộc suy thoái kinh tế
đã lan rộng ra toàn thế giới.
Biểu đồ 2.2: GPD Hoa Kỳ 1910-2960 vZi những năm của đại suy thoái (1929-1933)
CAO HỌC K23 ĐÊM 4 Page 21
SUY THOÁI KINH TẾ - NHÓM 4

Hình 2.3: Tỷ lệ th\t nghiệp ở Mỹ 1910-1960, vZi năm cu[c Đại suy thoái (1929-1939)
GDP thực của Mỹ có sự tụt giảm so với giai đoạn phát triển mạnh trước đó. Cụ thể GDP
thực tế (không bao gồm lạm phát) giảm 27% từ năm 1929-1933 trong khi thất nghiệp
tăng từ 3% lên đến trên 20%. Trong thời kỳ này, mức giá giảm 22% trong vòng 4 năm.
Sự sụp đổ của thị trường đánh dấu sự khởi đầu của một thập kỷ với tỷ lệ thất nghiệp cao,
nghèo đói, lợi nhuận sụt giảm, đi kèm theo lạ hiện tượng giảm phát,…
Có nhiều yếu tố tác động đế sự sụt giảm này như: cho vay tiêu dùng cao, thị trường hoạt
động thiếu hiệu quả, thiếu động lực tăng trưởng cho các ngành công nghiệp mới, tất cả
tương tác nhau để tạo ra một vòng xoáy đi xuống của nền kinh tế. Làm sụt giảm chi tiêu,
người dân mất niềm tin vào nền kinh tế, thất nghiệp ngày một tăng cao, giảm sản lượng
quốc gia.
Hầu hết các ngành nông - công nghiệp nước Mỹ đều chịu tác động của cuộc suy thoái.
Nền kinh tề chạm đáy vào mùa đông năm 1932-1933.
CAO HỌC K23 ĐÊM 4 Page 22
SUY THOÁI KINH TẾ - NHÓM 4
Đại suy thoái còn gây ra những ảnh hưởng to lớn đến chính trị Mỹ. Sau ba năm sống
cùng khủng hoảng, Herbert Hoover mất chức trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1932,
ranklin Delano Roosevelt bắt đầu cầm lái con tàu Mỹ với kỳ vọng thoát khỏi cơn bão
đang tàn phá nước Mỹ. Kế hoạch phục hồi nước Mỹ của tổng thống Roosevelt, đươc gọi
là New Deal, dựng các chương trình chưa từng có tiền lệ trước đấy là đưa ra các gói cứu
trợ nhằm phục vụ cho việc phục hồi và cải cách, và đi đến tái cấu trúc lại nền kinh tế Mỹ.
Đại khủng hoảng cũng dẫn đến sự gia tăng của lượng dân di cư trở về quê hương của
mình. Ví dụ như, một số người nhập cư trở về quê hương của họ, lại có một số người dân
bản địa ở Mỹ đế Canada, Úc và cả Nam Phi. Nó cũng dẫn đến sự di cư hàng loạt của
người dân từ các khu vực ảnh hưởng nặng nề ở phía Nam đến những nơi như miền Bắc
và California (Xem thêm Great Migration of African American).
1.6.4.1.2 Các biện pháp:
Các biện pháp đầu tiên của Hoover để chống lại tình trạng đình truệ hiện tại là dựa trên
sự tình nguyện của các doanh nghiệp: “không giảm lực lượng lao động” hoặc “không cắt
giảm tiền lương”. Tuy nhiên các doanh nghiệp đã lựa chọn việc giảm tiền lương, nhiều

công nhân bị sa thải và các khoản đầu tư bị hoãn lại.
Trong tháng 6 năm 1930 Quốc Hội đã thông qua Đạo luât thuế quan Smoot – Hawlay,
tăng thuế trên hàng ngàn mặt hàng nhập khẩu. Mục đích của luật này là nhằm khuyến
khích việc mua các sản phẩm ở nước Mỹ bằng cách nâng cao doanh thu cho chính phủ
liên bang và bảo vệ nông dân trong nước. Tuy nhiên ngay sau đó, các quốc gia khác tăng
thuế đối với hàng hóa xuất khẩu của Mỹ để trả đũa, làm giảm tổng sản lượng thương mại
quốc tế và làm tồi tệ hơn cuộc Đại suy thoái.
Nhiều nhà kinh tế cho rằng sự sụt giảm mạnh trong thương mại quốc tế sau năm 1930 đã
suy thoái càng thêm thu thoại, đặc biệt là cho các nước phụ thuộc nhiều vào ngoại
thương. Hầu hết các nhà sử học và các nhà kinh tế một phần đổ lỗi cho các luật thuế quan
Smoot-Hawley Mỹ (ban hành ngày 17 tháng 6 năm 1930) làm suy thoái thêm trầm trọng
khi mà thương mại quốc tế giảm nghiêm trọng và nhận lại các khoản trả đũa của các nền
CAO HỌC K23 ĐÊM 4 Page 23
SUY THOÁI KINH TẾ - NHÓM 4
kinh tế khác. Tỷ lệ thuế nhập khẩu tính thuế cho năm 1921 -1925 trung bình là 25,9%
nhưng theo luật mới lên đến 50 % trong 1931-1935 .
Xuất khẩu của Mỹ đã giảm từ 5.2 tỷ USD trong năm 1929 xuống còn 1,7 tỷ USD vào
năm 1933, nhưng giá cả cũng giảm, do đó khối lượng vật lý của xuất khẩu chỉ còn một
nửa. Ảnh hưởng nặng nhất là mặt hàng nông sản như lúa mỳ, bông, thuốc lá, và gỗ.
Năm 1931, Hoover đã kêu gọi các ngân hàng thành lập tồng công ty tín dụng quốc gia để
các ngân hàng lớn có thể giúp các ngân hàng hoạt động kém được tồn tại. Tuy nhiên đây
lại là một chính sách thất bại nữa của Hoover khi các chủ ngân hàng chỉ miễn cưỡng đầu
tư các ngân hàng hoạt động kém hiệu quả này.
1933, tổng thống Roosevelt lên nắm giữa nước Mỹ, ông cho rằng tái cơ cấu nền kinh tế
nước Mỹ là cần thiết để đối phó với suy thoái thoái kinh tế hiện tại. Chương trình New
Deal được kích hoạt nhằm kích thích nhu cầu và cung cấp cấp việc làm, cứu trợ cho
người nghèo thông qua tăng chi tiêu chính phủ và tổ chức các cuộc cải cách tài chính.
Luật điều chỉnh ngành Nông nghiệp cung cấp mức ưu đãi cao song song với việc cắt
giảm sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao giá nông sản. Cục quản lý phục hồi quốc gia
NRA thực hiện một số thay đổi sâu rộng đối với nền kinh tế Mỹ. Nó buộc các doanh

nghiệp phải làm việc với chính phủ để thiết lập mã giá được NRA thông qua nhằm giảm
“sự cạnh tranh khốc liệt” bằng cách thiết lập giá và tiền lương tối thiểu, tiêu chuẩn lao
đông, NRA còn thiết lập luôn cả điều kiện cạnh tranh trong tất cả các ngành công nghiệp.
Nó khuyến khích công đoàn tăng tiền lương, và tăng sức mua của tần lớp lao động. Tuy
nhiên hoạt động của NRA lại được coi là trái với hiến pháp của Toàn án tối cao Hoa Kỳ
vào năm 1935.
Những cải cách này, cùng với một số cứu trợ khác và các biện pháp phục hồi kinh tế,
được gọi là First New Deal. Đến năm 1935, “Second New Deal” bổ sung an sinh xã hội,
các chương trình việc làm cho người thất nghiệp, kích thích mạnh sự tăng trưởng của các
công đoàn lao động.
CAO HỌC K23 ĐÊM 4 Page 24
SUY THOÁI KINH TẾ - NHÓM 4
Đến năm 1936, các chỉ số kinh tế chính của Mỹ đạt được mức gần những năm 1920,
ngoại trừ thất nghiệp vẫn còn ở mức cao 11%, tuy nhiên nó vẫn thấp hơn rất nhiều so với
tỷ lệ thất nghiệp trên 20% của năm 1933.
Vào mùa xuân 1937, sản xuất công nghiệp của Mỹ đã vượt mốc 1929 trước thời điểm suy
thoái, và vẫn duy trì cho đến giữa năm 1937. Trong tháng 6 năm 1937, chính quyền
Roosevelt cắt giảm chi tiêu và tăng thuế nhằm nỗ lực để cân bằng ngân sách liên bang.
1.6.4.2 Châu Âu:
1.6.4.2.1 Tác động:
Trong tháng 10 năm 1929, thị trường chứng sụp đổ thị trường tại New York báo trước
cuộc Đại suy thoái trên toàn thế giới. John Maynard Keynes, người đã không dự đoán suy
thoái sẽ xảy ra, cho biết, "Sẽ không có hậu quả nghiêm trọng ảnh hưởng trực tiếp ở
London”.
Diễn biến sau đó là sự sụp đổ kinh tế Mỹ làm rung chuyển thế giới: Thương mại thế giới
lâm vào sự bế tắc thật sự. Nhiều quốc gia đã thông qua một phản ứng khẩn cấp với cuộc
suy thoái bằng cách dựng rào cản thương mại và thuế quan, mà trở nên tồi tệ thêm cuộc
suy thoái vì nó cản trở thương mại toàn cầu. Đế quốc Anh đã cố gắng liên kết với các
thành viên trong khu vực châu Âu khi huy động họ chống lại Mỹ.
Nước Anh lĩnh vực công nghiêp ở phía Bắc bị tàn phá nặng nề, nhu cầu về sản phẩm

công nghiệp truyền thông hoàn toàn sụp đổ. Đến cuối năm 1930 thất nghiệp đã tăng hơn
gấp đôi từ 1 triệu lên đến 2.5 triệu và kim ngạch xuất khẩu giảm về mặt giá trị lên đến
50%. Trái ngược với phía Bắc, Trung du và miền Nam ít công nghiệp chỉ chịu tác động
nhẹ và ngắn ngủi bởi cuộc suy thoái và những năm sau 1930 khu vực này trải qua một
thời kì thịnh vượng. Ngành công nghiệp xe hơi động cơ chứng kiến sự bùng nổ song song
đó là sản xuất nông nghiệp hiệu quả.
Nước Đức là một trong số những nước bị ảnh hưởng nặng nề bởi suy thoái. Hầu như các
khoản vay của Mỹ giúp Đức xây dựng lại nền kinh tế đều bị ngưng lại, khi mà Mỹ bị ảnh
CAO HỌC K23 ĐÊM 4 Page 25

×