Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Công tác thẩm định Dự án đầu tư tại Công ty Tài chính cổ phần Dệt may Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (871.02 KB, 107 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ


BÙI THỊ YẾN



CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI
CÔNG TY TÀI CHÍNH CỔ PHẦN DỆT MAY
VIỆT NAM




LUẬN VĂN THẠC SĨ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG










Hà Nội – 2012



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ



BÙI THỊ YẾN





CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI CÔNG
TY TÀI CHÍNH CỔ PHẦN DỆT MAY VIỆT NAM
Chuyên ngành : Tài chính và Ngân hàng
Mã số: 60 34 20


LUẬN VĂN THẠC SĨ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS.TRẦN THỊ THÁI HÀ










Hà Nội – 2012


MỤC LỤC
Trang

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU i
MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG 6

1.1. Công ty tài chính 6

1.1.1. Khái niệm Công ty tài chính 6

1.1.2. Phân loại Công ty tài chính 6

1.2. Những vấn đề cơ bản của thẩm định dự án đầu tư 10

1.2.1. Khái niệm, mục đích, yêu cầu của thẩm định dự án đầu tư 10

1.2.2. Những nội dung trong thẩm định dự án đầu tư 12

1.2.3. Chất lượng thẩm định dự án đầu tư và các nhân tố ảnh hưởng 23

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI
CÔNG TY TÀI CHÍNH CỔ PHẦN DỆT MAY VIỆT NAM 28

2.1. Giới thiệu về Công ty Tài chính Cổ phần Dệt May Việt Nam 28


2.1.1. Giới thiệu về Công ty Tài chính Cổ phần Dệt May Việt Nam 28

2.1.2. Tình hình hoạt động kinh doanh của công ty 29

2.2. Thực trạng công tác thẩm định dự án đầu tư tại Công ty Tài chính Cổ phần
Dệt May Việt Nam 36

2.2.1. Quy trình thẩm định dự án - trường hợp dự án đầu tư xây dựng 36

2.2.2. Quy trình thẩm định dự án - trường hợp dự án đầu tư thương mại 41

2.2.3. Thẩm định Dự án xây dựng khu nhà nghỉ giữa ca nhà máy TNG Sông Công 41

2.2.4. Nhận xét 57

2.3. Đánh giá chất lượng của công tác thẩm định dự án đầu tư tại Công ty Tài
chính Cổ phần Dệt May Việt Nam 60

2.3.1. Những kết quả đạt được 60

2.3.2. Những tồn tại 61


2.3.3. Nguyên nhân 63

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU
TƯ TẠI CÔNG TY TÀI CHÍNH CỔ PHẦN DỆT MAY VIỆT NAM 67

3.1. Định hướng phát triển kinh doanh của Công ty 67


3.1.1. Định hướng phát triển kinh doanh của Công ty giai đoạn 2011- 2015 67

3.1.2. Định hướng phát triển hoạt động tín dụng 69

3.2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư tại Công ty . 71

3.2.1. Chú trọng chuyên môn hóa công tác thẩm định dự án 71

3.2.2. Giải pháp về phương pháp thẩm định 72

3.2.3. Tăng cường công tác thu thập và xử lý thông tin 74

3.3 Một số kiến nghị 75

3.3.1. Kiến nghị với Tập đoàn Dệt May Việt Nam 75

3.3.2. Kiến nghị với các bộ, ban, ngành có liên quan 76

KẾT LUẬN 79

TÀI LIỆU THAM KHẢO 80















DANH MỤC CÁC BẢNG


Stt

Số hiệu Nội dung Trang
1 Bảng 2.1 Bảng phân loại nguồn vốn 31
2 Bảng 2.2 Bảng phân loại sử dụng vốn 34
3 Bảng 2.3 Bảng báo cáo kết quả kinh doanh 36
4 Bảng 2.4 Bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh 44
5 Bảng 2.5 Bảng một số chỉ tiêu tài chính cơ bản 45
6 Bảng 2.6 Kế hoạch và thực tế thực hiện năm 2010 45
7 Bảng 2.7 Kế hoạch kinh doanh năm 2011 46
8 Bảng 2.8 Dư nợ tại các tổ chức tín dụng 47
9 Bảng 2.9 Bảng tổng hợp dự toán công trình 53
10 Bảng 3.1 Bảng dự kiến lộ trình vốn điều lệ 69
















1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Qua hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước tiến đáng
kể, ngày càng bắt kịp với xu thế phát triển chung của kinh tế thế giới. Sau khi gia
nhập Tổ chức thương mại Thế giới - WTO, với sự mở cửa ngày càng sâu rộng trên
tất cả các lĩnh vực kinh tế, nền kinh tế của chúng ta có rất nhiều cơ hội nhưng cũng
gặp không ít thách thức. Điển hình nhất của những cơ hội và thách thức của hội
nhập mở cửa chính là trên lĩnh vực Tài chính và Ngân hàng. Các tổ chức tín dụng
ngày càng mở rộng mạng lưới chi nhánh với hàng loạt các sản phẩm dịch vụ đa
dạng, phong phú và đem lại tiện ích cao nhất cho khách hàng. Bên cạnh sự phát
triển của các tổ chức tín dụng trong nước, thị trường tài chính Việt Nam còn có sự
góp mặt của các tổ chức tài chính lớn quốc tế với công nghệ và kỹ thuật hiện đại,
chính điều này càng làm cho sự cạnh tranh trên thị trường tài chính trở nên nóng
hơn bao giờ hết. Và cũng trong thời gian này, thị trường chứng kiến sự ra đời và
phát triển của hàng loạt các tổ chức tín dụng phi ngân hàng, đặc biệt là các công ty
tài chính. Các công ty tài chính đã góp phần làm cho thị trường tài chính cạnh tranh
ngày càng quyết liệt hơn.
Công ty tài chính là tổ chức tín dụng phi ngân hàng, có chức năng tương tự
như ngân hàng nhưng không được thực hiện chức năng thanh toán và không được
nhận tiền gửi dưới 12 tháng. Những đặc điểm này đã quy định đặc thù riêng trong
hoạt động kinh doanh của loại hình tổ chức tài chính này. Xét một cách tổng thể,

khi cạnh tranh với các ngân hàng thương mại thì các công ty tài chính có phần lép
vế hơn bởi sự hạn chế về vốn và hạn chế về chức năng. Vì vậy, khi khách hàng tìm
đến công ty tài chính thường là do họ không đáp ứng được những yêu cầu khắt khe
của ngân hàng. Và kết quả là, các công ty tài chính luôn phải đối mặt với các rủi ro
khá lớn nếu việc xem xét và duyệt cấp khoản vay cho khách hàng không được thẩm
định kỹ lưỡng. Trong các khoản cấp tín dụng của Công ty tài chính, khoản cấp tín
dụng cho đầu tư dự án thường đem lại lợi nhuận cao nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi
2

ro nhất. Do đặc điểm của khoản vay theo dự án thường là trung – dài hạn, thời gian
dài, nguồn vốn lớn và khả năng thu hồi vốn lâu nên việc thẩm định và lựa chọn
được dự án thực sự hiệu quả để cấp vốn đầu tư là rất quan trọng đối với các tổ chức
tín dụng, đặc biệt là với các công ty tài chính, với những hạn chế dẫn tới những rủi
ro đặc thù.
Xuất phát từ thực tế nêu trên, nghiên cứu thực trạng công tác thẩm định dự
án đầu tư tại một công ty tài chính, từ đó rút ra những ưu điểm, những hạn chế,
nguyên nhân và đề xuất một vài biện pháp khắc phục các hạn chế này với mong
muốn có thể giúp các công ty tài chính có những chiến lược thay đổi và phát triển
cụ thể nhằm nâng cao tính cạnh tranh trong hoạt động của các công ty tài chính trên
thị trường tài chính Việt Nam. Luận văn “Công tác thẩm định dự án đầu tư tại
Công ty Tài chính Cổ phần Dệt May Việt Nam” được lựa chọn với mục tiêu đáp
ứng nhu cầu trên.
2. Tình hình nghiên cứu
Luận văn đang từng bước nghiên cứu những quyết định, quy định của Ngân
hàng Nhà Nước và của Công ty Tài chính Cổ phần Dệt May Việt Nam về cấp tín
dụng cho khách hàng và đặc biệt là cho vay trung – dài hạn theo dự án đầu tư. Song
song đó, luận văn đang tìm hiểu thực trạng về quy trình, công tác thẩm định dự án
đầu tư tại Công ty Tài chính cổ phần Dệt May Việt Nam và lựa chọn dự án minh
họa cho quy trình thẩm định này. Trong quá trình tìm hiểu thực tế quy trình thẩm
định, luận văn cũng đã rút ra được những ưu điểm và những hạn chế, nguyên nhân

của những hạn chế và tìm hiểu, đề xuất một vài giải pháp hữu ích nhằm hoàn thiện
nâng cao hiệu quả công tác thẩm định dự án đầu tư tại Công ty Tài chính cổ phần
Dệt May Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn được lựa chọn nhằm trả lời câu hỏi: Thực trạng và hiệu quả công tác
thẩm định dự án đầu tư tại Công ty tài chính như thế nào? Với mục đích đó, luận
văn tập trung nghiên cứu những lý luận chung về công ty tài chính và thẩm định dự
3

án đầu tư. Trên cơ sở những lý luận chung đã có, luận văn sẽ đi sâu vào phân tích
thực trạng công tác thẩm định dự án đầu tư tại Công ty Tài chính cổ phần Dệt May
Việt Nam với quy trình và minh họa cụ thể. Từ thực trạng này, luận văn sẽ rút ra
những ưu điểm, những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong công tác
thẩm định dự án tại Công ty. Luận văn sẽ dựa trên những nguyên nhân của những
hạn chế để đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thẩm định dự án tại
Công ty Tài chính cổ phần Dệt May Việt Nam, góp phần đẩy mạnh phát triển tín
dụng trung – dài hạn và nâng cao vị thế cạnh tranh của Công ty Tài chính cổ phần
Dệt May Việt Nam trên thị trường tài chính. Các mục tiêu cụ thể mà luận văn
hướng tới là:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về công ty tài chính: khái niệm, phân
loại; về hoạt động của công ty tài chính khi so sánh với ngân hàng, về những khái
niệm cơ bản của thẩm định dự án đầu tư, mục đích, yêu cầu, nội dung, chất lượng
thẩm định dự án đầu tư và các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định dự án
đầu tư.
- Phân tích thực trạng công tác thẩm định dự án đầu tư tại Công ty Tài chính cổ
phần Dệt May Việt Nam: quy trình thẩm định dự án đầu tư, minh họa thẩm định dự
án đầu tư, nhận xét quy trình thẩm định dự án đầu tư và đánh giá những kết quả đạt
được, những hạn chế cùng nguyên nhân của những hạn chế.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư tại
Công ty Tài chính cổ phần Dệt May Việt Nam và một số kiến nghị với các ban

ngành có liên quan.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Xuất phát từ mục tiêu nghiên cứu được nêu trên, luận văn chủ yếu tập trung
vào những đối tượng và phạm vi giới hạn sau:
- Luận văn chủ yếu tập trung vào các dự án đầu tư thuộc lĩnh vực dệt may, không
mở rộng ra các lĩnh vực đầu tư xây dựng khác.
4

- Các số liệu, thông tin chủ yếu tổng hợp trong giai đoạn 2008 – 2010 và ước tính
kế hoạch năm 2011
- Các phân tích và nhận xét chỉ mang tính chủ quan cá nhân xuất phát từ thực tế,
không mang tính đại diện và chính thống.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu dùng phương pháp tổng hợp, phân tích và so sánh các số
liệu được lấy từ nguồn báo cáo kinh doanh, báo cáo hoạt động qua các thời kỳ và
báo cáo tình hình khách hàng của Công ty Tài chính cổ phần Dệt May Việt Nam, từ
đó rút ra các nhận xét, kết luận. Để làm sáng tỏ hơn cho các luận cứ được đưa ra,
luận văn cũng bổ sung các bảng biểu để người xem dễ theo dõi.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Trên thị trường tài chính quốc tế, Công ty tài chính là một loại hình tổ chức
tín dụng hoạt động khá mạnh và mở rộng trên nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, tại thị
trường tài chính Việt Nam, các công ty tài chính còn gặp nhiều khó khăn và hạn chế
khi cạnh tranh với các ngân hàng kèm theo rất nhiều rủi ro do đặc thù hoạt động của
mình. Chính vì thế, luận văn sẽ nghiên cứu thực trạng một Công ty tài chính điển
hình là Công ty Tài chính cổ phần Dệt May Việt Nam để từ đó rút ra được những
điểm cần thay đổi nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của các Công ty Tài chính.
Luận văn sẽ cung cấp những phân tích cụ thể về thực trạng và quy trình thẩm định
dự án đang áp dụng tại Công ty Tài chính cổ phần Dệt May Việt Nam một cách chi
tiết và khách quan. Những ý kiến, đề xuất cá nhân được đưa ra hoàn toàn xuất phát
từ thực tế nghiên cứu với hi vọng có thể giúp Ban điều hành công ty có những thay

đổi trong chính sách, cơ cấu và hoạt động nhằm đạt được kết quả cao hơn, nâng cao
khả năng cạnh tranh của Công ty Tài chính cổ phần Dệt May Việt Nam trong hệ
thống tài chính Việt Nam và giảm thiểu được những rủi ro do đặc thù hoạt động
kinh doanh của Công ty tài chính.
7. Bố cục của luận văn
5

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung
Chương 2: Thực trạng công tác thẩm định dự án đầu tư tại Công ty Tài chính Cổ
phần Dệt May Việt Nam
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư tại Công ty Tài
chính cổ phần Dệt May Việt Nam.













6

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
1.1. Công ty tài chính
1.1.1. Khái niệm Công ty tài chính
Theo “Luật các tổ chức tín dụng” số 47/2010/QH12 ngày 17/06/2010, có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2011 quy định: “Tổ chức tín dụng phi ngân hàng là
loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện một hoặc một số hoạt động ngân hàng
theo quy định của Luật này, trừ các hoạt động nhận tiền gửi của cá nhân và cung
ứng các dịch vụ thanh toán qua tài khoản của khách hàng. Tổ chức tín dụng phi
ngân hàng bao gồm công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính và các tổ chức tín
dụng phi phân hàng khác.
Công ty cho thuê tài chính là loại hình công ty tài chính có hoạt động chính
là cho thuê tài chính theo quy định của Luật này” (Điều 4, khoản 4)
Theo đó, Công ty Tài chính là tổ chức tín dụng phi ngân hàng, được thực
hiện một số các hoạt động ngân hàng theo quy định nhưng không được huy động
tiền gửi của cá nhân, tiền gửi dưới 01 (một) năm của tổ chức và không được thực
hiện chức năng thanh toán.
Khái niệm này quy định hoạt động và chức năng riêng biệt của Công ty tài
chính khi so sánh với các tổ chức tín dụng khác.
1.1.2. Phân loại Công ty tài chính
Công ty tài chính chủ yếu được chia ra làm 3 loại chính sau đây:
a. Công ty tài chính thương mại: gồm công ty tài chính bao thanh toán, công ty tài
chính cho thuê tài sản, công ty tài chính cho vay đảm bảo bằng giấy sở hữu
- Công ty tài chính bao thanh toán:
Bao thanh toán là hình thức cấp tín dụng cho bên bán hàng hoặc bên mua
hàng thông qua việc mua lại có bảo lưu quyền truy đòi các khoản phải thu hoặc các
7

khoản phải trả phát sinh từ việc mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ theo hợp
đồng mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ
Các công ty tài chính kinh doanh cung cấp các dạng tín dụng chuyên môn

hóa tới các doanh nghiệp bằng cách thực hiện các khoản vay và mua những khoản
phải thu với một mức giá chiết khấu, thường được gọi là công ty tài chính bao thanh
toán.
Các công ty tài chính bao thanh toán cũng cung cấp tài trợ các khoản phải
thu mà không giữ quyền sở hữu với khoản phải thu đó. Trong trường hợp này, công
ty tài chính nhận các chứng từ từ doanh nghiệp, cho doanh nghiệp quyền được thu
và giữ các khoản phải thu nếu đối tác không trả được nợ cho công ty tài chính.
Nhiều doanh nghiệp thích kiểu dàn xếp này hơn là bao thanh toán bởi nó vẫn để lại
cho họ quyền kiểm soát đối với các khoản phải thu. Họ có thể làm việc với những
khách hàng của mình nếu cần có những dàn xếp cụ thể để đảm bảo việc thanh toán.
- Công ty tài chính cho thuê tài sản: Các công ty tài chính kinh doanh cũng chuyên
môn hóa vào việc cho thuê thiết bị mà họ mua về rồi cho thuê tới các doanh nghiệp
trong một thời gian nhất định. Trên thực tế, phần lớn tăng trưởng của các công ty tài
chính trong những năm gần đây có nguồn gốc từ cho thuê tài sản tới các hãng kinh
doanh.
- Công ty tài chính cho vay đảm bảo bằng giấy sở hữu. Một số nhà chế tạo ô tô đòi
hỏi các nhà bán lẻ chấp nhận việc giao ô tô trong cả năm, mặc dù việc bán thường
mang tính thời vụ. Để giúp các nhà bán lẻ thanh toán cho những chiếc xe lưu kho,
công ty tài chính chào các khoản vay đảm bảo bằng giấy sở hữu. Trong một dàn xếp
như thế, công ty tài chính sẽ trả tiền cho số ô tô của nhà bán lẻ đang lưu kho, nhận
được từ nhà sản xuất và đặt một quyền xiết nợ lên mỗi chiếc xe trong phòng trưng
bày. Khi một chiếc xe được bán, nhà bán lẻ phải hoàn trả khoản nợ đã mang đối với
chiếc xe đó để nhận lại được giấy chứng nhận quyền sở hữu chiếc xe từ công ty tài
chính. Nhà bán lẻ cũng phải trả cho công ty tài chính tiền lãi trên khoản vay này cho
tới khi hàng lưu kho được bán đi. Tài trợ qua khoản vay đảm bảo bằng giấy sở hữu
8

là thông dụng nhất trong ngành ô tô vì loại hàng này có những giấy sở hữu mà công
ty tài chính có thể nắm giữ để đảm bảo cho khoản vay của họ. Cách tài trợ này cũng
tồn tại trong những ngành khác nơi mà tài sản có các giấy tờ sở hữu đi kèm như

thiết bị xây dựng hay tàu thuyền. Giữa công ty tài chính và nhà bán lẻ thường hình
thành một mối quan hệ chặt chẽ bởi mỗi thương vụ đều cần có sự phối hợp của cả
hai bên.
b. Công ty tài chính tiêu dùng
Công ty tài chính tiêu dùng thực hiện các khoản vay tới người tiêu dùng để
mua những mặt hàng như đồ nội thất hay các thiết bị gia dụng hoặc để sửa chữa
nhà. Công ty tài chính tiêu dùng là những công ty riêng biệt hoặc do các ngân hàng
làm chủ sở hữu. Những công ty này thường thực hiện những khoản vay tới những
người tiêu dùng mà không nhận được tín dụng từ nguồn khác do thu nhập thấp hoặc
do lịch sử tín dụng không tốt. Ngoài các hoạt động cấp tín dụng tiêu dùng dưới hình
thức cho vay mua trả góp và cho vay trực tiếp bằng tiền, công ty tài chính tiêu dùng
còn cung ứng các dịch vụ tư vấn tài chính, ngân hàng, tiền tệ và đầu tư về tiêu dùng
cho khách hàng.
c. Công ty tài chính doanh số
Công ty tài chính doanh số thực hiện các khoản vay tới những người tiêu
dùng để mua những mặt hàng từ một nhà bán lẻ hay một nhà chế tạo cụ thể. Những
công ty tài chính doanh số này trực tiếp cạnh tranh với các ngân hàng để thực hiện
các khoản vay tiêu dùng và được người tiêu dùng sử dụng bởi các khoản vay có thể
nhận được một cách tiện lợi và nhanh chóng ngay chính tại nơi mà khách hàng mua
sản phẩm.
Một công ty tài chính doanh số do nhà chế tạo sở hữu để thực hiện các khoản
vay tới khách hàng, giúp tài trợ việc mua sản phẩm của nhà chế tạo này. Lãi suất
được chào bởi những công ty này thường thấp hơn lãi suất của ngân hàng hoặc của
các công ty tài chính khác để tăng doanh số. Lợi nhuận thu được trên doanh số sẽ bù
lại những khoản thất thoát trên khoản vay.
9

Nhìn chung, các công ty tài chính được xem như một hãng kinh doanh bên
cạnh các định chế tài chính nhận tiền gửi, với tài sản chủ yếu là khoản vay tới các
cá nhân và doanh nghiệp. Các công ty tài chính giống với các ngân hàng ở chỗ:

chúng cùng là các trung gian tài chính vay quỹ để cho vay lại, kiếm lợi nhuận trên
khoản chênh lệch giữa lãi suất trên quỹ vay và lãi suất trên khoản vay. Công ty tài
chính cũng phải chấp hành các mức trần được quy định đối với lãi suất cho vay tối
đa đối với một khách hàng riêng lẻ và bị quy định về mức độ có thể thu hồi được
các khoản vay. Tuy nhiên, do các công ty tài chính không nhận tiền gửi nên họ
không chịu sự giám sát của các cơ quan quản lý như đối với các ngân hàng, cho dù
họ cung cấp các dịch vụ cạnh tranh trực tiếp với các ngân hàng đó, như các khoản
vay tiêu dùng trả góp hay khoản vay cầm cố nhà. Do không bị giám sát, các công ty
tài chính rộng đường cung cấp nhiều dịch vụ như ngân hàng nhưng lại tránh được
các quy định áp dụng cho ngân hàng.
Về mặt tổ chức, công ty tài chính là tổ chức kinh doanh chuyên nghiệp trên
thị trường tài chính, hạch toán độc lập, được đăng ký kinh doanh theo quy định của
pháp luật. Quy mô công ty tài chính thường là nhỏ và vừa và không có nhiều chi
nhánh như các ngân hàng thương mại.
Về hoạt động, khác với ngân hàng thương mại (được hoạt động trên cả ba
khâu: nhận tiền gửi, cho vay và thanh toán), hoạt động của công ty tài chính hẹp
hơn, giới hạn ở một số khâu và mang tính chuyên biệt trong một số nghiệp vụ nhất
định.
Hoạt động của các ngân hàng thương mại chủ yếu là tập hợp các khoản tiền
gửi nhỏ để cho vay các khoản tiền lớn, trong khi các công ty tài chính lại huy động
những khoản tiền lớn rồi chia ra để cho vay những khoản tiền nhỏ. Một điểm khác
biệt đặc trưng là công ty tài chính không được huy động các dạng tiền gửi như ngân
hàng thương mại cũng như không được thực hiện dịch vụ thanh toán.
10

1.2. Những vấn đề cơ bản của thẩm định dự án đầu tư
1.2.1. Khái niệm, mục đích, yêu cầu của thẩm định dự án đầu tư
a. Khái niệm:
- Đầu tư: theo nghĩa rộng, nói chung là sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến
hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định

trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra. Đối với các doanh nghiệp hiểu đơn
giản đầu tư là việc bỏ vốn kinh doanh để mong thu được lợi nhuận trong tương lai.
Trên quan điểm xã hội thì đầu tư là hoạt động bỏ vốn phát triển từ đó thu được các
hiệu kinh tế xã hội vì mục tiêu phát triển quốc gia. [1]
- Dự án đầu tư: Theo Nghị định 52/1999/NĐ-CP ngày 08/07/1999 về Quy chế quản
lý đầu tư và xây dựng cơ bản: "Dự án đầu tư là một tập hợp những đề xuất có liên
quan đến việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất nhất
định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì, cải tiến, nâng cao
chất lượng của sản phẩm hoặc dịch vụ trong khoảng thời gian xác định.”
- Thẩm định dự án đầu tư: là việc phân tích, đánh giá, xem xét một cách khách
quan, có khoa học và toàn diện các nội dung cơ bản ảnh hưởng trực tiếp tới tính khả
thi của một dự án để từ đó ra các quyết định đầu tư, cho phép đầu tư hay ra các
quyết định tài trợ. [1]
Đối với các nhà tài trợ, tổ chức cho vay, ngân hàng : Thẩm định dự án đầu tư là
một quá trình được thực hiện bằng kỹ thuật phân tích dự án đã được thiết lập trên cơ sở
những chuẩn mực, nhằm rút ra những kết luận làm căn cứ quyết định cho khách hàng vay
vốn đầu tư dự án. [1]
b. Mục đích của thẩm định dự án đầu tư
Thẩm định dự án đầu tư có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các tổ chức
tín dụng trong hoạt động tín dụng đầu tư. Một trong những đặc trưng của hoạt động
đầu tư là diễn ra trong một thời gian dài nên có thể gặp nhiều rủi ro, muốn cho vay
11

một cách an toàn, đảm bảo khả năng thu hồi vốn và lãi đầu tư thì quyết định cho
vay của tổ chức tín dụng là dựa trên cơ sở thẩm định dự án đầu tư.
Thẩm định dự án đầu tư sẽ rút ra được những kết luận chính xác về tính khả
thi, hiệu quả kinh tế của dự án đầu tư, khả năng trả nợ, những rủi ro có thể xảy ra để
đưa ra quyết định cho vay hay từ chối.
Từ kết quả thẩm định có thể tham gia góp ý cho các chủ đầu tư, làm cơ sở để
xác định số tiền cho vay, mức thu nợ hợp lý, tạo điều kiện cho doanh nghiệp làm ăn

có hiệu quả.
c. Yêu cầu của thẩm định dự án đầu tư
Thẩm định được tiến hành với tất cả các dự án thuộc mọi nguồn vốn, của
mọi thành phần kinh tế. Tuy nhiên, yêu cầu về nội dung thẩm định có khác nhau về
mức độ và chi tiết giữa các dự án, tuỳ thuộc vào quy mô, tính chất của dự án, nguồn
vốn được huy động và chủ thể có thẩm quyền thẩm định. Tuy vậy, dù đứng trên góc
độ nào đi chăng nữa, để có kết quả thẩm định có sức thuyết phục thì chủ thể có
thẩm quyền thẩm định phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Nắm vững chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, của ngành, của địa
phương và các quy chế luật pháp về quản lý kinh tế, quản lý đầu tư và xây dựng của
nhà nước.
- Hiểu biết về bối cảnh, điều kiện và đặc điểm cụ thể của dự án, tình hình và trình
độ kinh tế chung của đất nước, của địa phương, của ngành, của thế giới. Nắm vững
tình hình sản xuất kinh doanh, các số liệu tài chính của doanh nghiệp, các quan hệ
tài chính - tín dụng của doanh nghiệp hoặc của chủ đầu tư với các doanh nghiệp
khác hoặc chủ đầu tư khác, với các ngân hàng…
- Biết khai thác các số liệu trong các báo cáo tài chính của doanh nghiệp hoặc chủ
đầu tư, các thông tin liên quan đến giá cả, thị trường để phân tích hoạt động chung
của doanh nghiệp hoặc chủ đầu tư, từ đó có thêm căn cứ vững chắc để quyết định
đầu tư.
12

- Biết xác định và kiểm tra được các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật quan trọng của dự án,
đồng thời thường xuyên thu thập, đúc kết, xây dựng các chỉ tiêu định mức kinh tế -
kỹ thuật tổng hợp trong và ngoài nước để phục vụ cho việc thẩm định.
- Đánh giá khách quan, khoa học và toàn diện về nội dung của dự án, có sự phối
hợp chặt chẽ với các cơ quan chuyên môn, các chuyên gia trong và ngoài ngành có
liên quan cả trong và ngoài nước.
- Thẩm định kịp thời, tham gia ý kiến ngay từ khi nhận được hồ sơ dự án.
- Thường xuyên hoàn thiện quy trình thẩm định để quá trình thẩm định diễn ra

nhanh chóng, hiệu quả, tránh gây phiền hà.
1.2.2. Những nội dung trong thẩm định dự án đầu tư
 Thẩm định các điều kiện pháp lý và mục tiêu của dự án
Thẩm định với tư cách pháp nhân của chủ đầu tư (Quyết định thành lập, giấy
phép kinh doanh, văn bản bổ nhiệm giám đốc, kế toán trưởng). Xem xét các hồ sơ
trình duyệt có đủ theo quy định của nhà nước và pháp luật có đúng, hợp lệ hay
không.
Thẩm định mục tiêu dự án để xem xét xem: mục tiêu của dự án có phù hợp
với chương trình phát triển kinh tế xã hội của cả nước, vùng hay địa phương, ngành
hay không. Ngành nghề trong dự án có thuộc nhóm ngành nghề nhà nước cho phép
hoạt động hay không. Có thuộc nhóm ngành nghề ưu tiên hay không.
 Thẩm định về thị trường của dự án
Khía cạnh này cho phép thấy được đầu ra của dự án có thực hiện được không
khi dự án được tiến hành. Vì vậy nội dung của thẩm định là kiểm tra, xem xét sản
phẩm của dự án được sử dụng để đáp ứng nhu cầu trong nước hay bán trên thị
trường quốc tế. Dự án có những ưu thế và bất lợi gì so với các đối thủ cạnh tranh.
Lưu ý đến xu hướng sản phẩm xét theo trình độ phát triển công nghệ và chu kỳ sản
phẩm.
13

Xem xét thị trường là cơ sở cho việc lựa chọn quy mô của dự án, lựa chọn
thiết bị, công suất và dự kiến khả năng tiêu thụ. Phân tích và dự đoán đúng về thị
trường là một công việc khó khăn, song độ chính xác của phân tích thị trường sẽ
ảnh hưởng tới thành công của dự án.
 Thẩm định khía cạnh kỹ thuật của dự án
Mục tiêu thẩm định ở đây là để kiểm tra việc xác định cấu hình kỹ thuật cũng
như những phương diện cốt yếu khác định hình trên dự án. Câu hỏi đặt ra ở đây cần
trả lời là liệu dự án có thực hiện về mặt kỹ thuật hay không. Thông tin về đời công
nghệ hữu dụng của dự án. Thường thì khía cạnh này được quan tâm ngay từ khi lập
dự án, vì các chủ đầu tư phải quyết định việc lựa chọn trang thiết bị, máy móc, quy

trình công nghệ.
Nhưng các nhà thẩm định độc lập sẽ kiểm tra công cụ sử dụng trong tính
toán, trong đó lưu ý đặc biệt đến các định mức kinh tế kỹ thuật. Đối với định mức
kinh tế - kỹ thuật phải rà soát cho phù hợp với điều kiện cụ thể của dự án như:
- Kiểm tra những sai sót trong tính toán: tính toán không đúng, không đủ,
không phù hợp.
- Kiểm tra tính phù hợp của công nghệ thiết bị đối với dự án, cũng như tác
động của chúng đến môi trường.
 Thẩm định khía cạnh nhân lực và tổ chức quản lí
Việc thẩm định dự án để cho được hiệu quả thì không thể chỉ hạn chế trong
việc đánh giá về tài chính và kinh tế các chi phí và lợi ích với giả thiết rằng dự án sẽ
được xây dựng và hoạt động đúng kỳ hạn. Điều này giả thiết là phải có sự hỗ trợ về
mặt hành chính để thực hiện dự án, điều này đặc biệt quan trọng đối với các nước
đang phát triển, mà ở nhiều nước việc đó lại hoàn toàn không có. Triển vọng các lợi
ích về mặt kinh tế tài chính có đạt được hay không là tuỳ thuộc vào năng lực quản lí
hành chính của cơ quan có trách nhiệm thi hành dự án.
 Thẩm định khía cạnh tài chính của dự án
14

Ngân hàng, các tổ chức tín dụng thu lợi chủ yếu nhờ hoạt động cho vay.
Chính vì vậy mỗi một khoản tín dụng được cấp ra nhất thiết phải mang lại hiệu quả,
điều đó đồng nghĩa với việc đảm bảo cho hoạt động của tổ chức được an toàn và
hiệu quả. Vì vậy, điều mà bất cứ tổ chức tín dụng nào quan tâm nhất là khả năng
hoàn trả khoản vay cả gốc lẫn lãi đúng thời hạn. Do đó, việc tổ chức tín dụng phải
tiến hành thẩm định dự án trên mọi phương diện kỹ thuật, thị trường, tổ chức quản
lý, tài chính…là rất quan trọng, trong đó thẩm định tài chính dự án có thể nói là
quan trọng nhất. Cùng với thẩm định kinh tế, thẩm định tài chính giúp các nhà đầu
tư có những thông tin cần thiết để đưa ra quyết định đầu tư đúng đắn.
Thẩm định tài chính dự án là việc rà soát, đánh giá một cách toàn diện và khoa
học mọi khía cạnh tài chính của dự án trên giác độ của nhà đầu tư. Nếu như Chính

Phủ, các cơ quan quản lý vĩ mô quan tâm nhiều hơn đến hiệu quả kinh tế xã hội của
dự án thì các nhà đầu tư lại quan tâm nhiều hơn đến khả năng sinh lợi của dự án.
Nội dung thẩm định tài chính dự án đầu tư
Thẩm định tài chính dự án bao gồm nhiều nội dung liên quan chặt chẽ với
nhau. Những nội dung chủ yếu được ngân hàng chú trọng khi thẩm định là:
 Phân tích khả năng thanh toán
Phân tích khả năng thanh toán có nhiệm vụ đánh giá tình trạng tiền mặt trong
suốt quá trình hoạt động của dự án. Nó giúp cho việc xét đoán liệu vốn tự có và các
khoản vay dài hạn có thích hợp hay không, liệu sự thiếu hụt tiền mặt có thể xảy ra
không và nếu xảy ra thì sẽ được giải quyết như thế nào. Phân tích khả năng thanh
toán tính đến tất cả những thay đổi như trả nợ (vốn và lãi), trả lợi tức cổ phần (nếu
có), các khoản chi tiêu bằng tiền mặt và các nguồn thu bằng tiền mặt, chỉ tiêu này
được thực hiện trong từng năm của dự án và tốt nhất là với giá hiện hành. [11]
Dòng tiền mặt vào: gồm tất cả những khoản thu bằng tiền mặt của dự án từ
việc bán các sản phẩm, dịch vụ của dự án, và giá trị các khoản nợ.
15

Dòng tiền mặt ra: gồm toàn bộ các chi phí sản xuất, vận hành, bảo dưỡng và
đầu tư. Một dòng tiền mặt ra quan trọng khác là thanh toán nợ và lãi vay.
Tình trạng tiền mặt của dự án có thể là dư thừa hay thiếu hụt tại một thời điểm
nào đó và được xác định trên cơ sở tổng các nguồn thu bằng tiền mặt trừ đi tổng các
khoản chi bằng tiền mặt tại thời điểm đó. Tình trạng tiền mặt được xem là tốt nếu
đảm bảo khả năng thanh toán cho các khoản nợ bằng tiền mặt và có một khoản dự
trữ nhất định, trong trường hợp thâm hụt ngân quỹ thì cần phải bù đắp bằng các
khoản vay.
Sau khi đã đưa hết tất cả các khoản thuộc giao dịch tài chính vào đánh giá dự
án, người đánh giá có thể xem xét liệu :
- Vốn cổ phần và vốn vay dài hạn có đáp ứng đủ không ?
- Các khoản thiếu hụt tiền mặt có được giới hạn ở mức có thể trang trải vay tín
dụng ngân hàng ngắn hạn, hoặc có thể trừ đi bằng cách điều chỉnh lại một số khoản

thu hoặc khoản chi hay không ?
- Các điều kiện vay vốn dài hạn có thích hợp không ?
- Lãi cổ phần như chủ đầu tư dự tính có thích hợp hay không ?
 Phân tích cơ cấu vốn
Đối với một dự án đầu tư, để có thể vận hành bình thường thì nguồn tài trợ
cho dự án cần phải được đảm bảo: có nhiều nguồn vốn để có thể được huy động
nhằm tài trợ cho dự án, chẳng hạn như vốn cổ phần, vốn vay ngắn hạn, dài hạn
Đối với một dự án, thì tỷ lệ các nguồn vốn huy động phải được xác định sao cho
hiệu quả sử dụng vốn là cao nhất, đem lại lợi nhuận lớn nhất, đó chính là cơ cấu vốn
tối ưu. Chẳng hạn, nếu như sử dụng nguồn vốn ngắn hạn để tài trợ cho tài sản cố
định sẽ gây khó khăn cho việc cân đối tiền mặt của dự án bởi vì phải trả các khoản
tiền gốc lớn và sớm hơn trong khi các khoản thu của dự án thường nhỏ trong thời
gian đầu hoạt động, phải trải dài quan các năm thì dự án mới bù đắp đủ vốn đầu tư.
Vì vậy, cơ cấu vốn có liên quan chặt chẽ tới khả năng sinh lời của dự án.
16

Nếu vốn tự có của dự án là vốn chịu rủi ro và sự hoàn trả là điều không chắc
chắn thì dự án có trách nhiệm phải hoàn trả vốn đi vay (cả gốc và lãi), bất chấp kết
quả hoạt động kinh doanh của dự án đó như thế nào. Bởi vậy, tỷ lệ giữa hai loại vốn
này cho phép xác định được tình trạng tài chính của dự án.
Tiêu chuẩn thường được dùng để đánh giá cơ cấu vốn là tỷ lệ nợ /vốn tự có. Tỷ
lệ này được tính dựa trên cơ sở so sánh các khoản nợ dài hạn với vốn tự có của dự
án:
R
dc
=
L
Q

Trong đó : Rdc : Tỷ lệ nợ trên vốn tự có

L : Giá trị các khoản nợ dài hạn.
Q: Vốn tự có.
Cơ cấu vốn hợp lý thường được xác định là 50% vốn vay và 50% vốn tự có.
Lúc này, Rdc = 1. Khi Rdc lớn hơn 1, tức là dự án sử dụng vốn đi vay nhiều hơn
vốn tự có, điều này có thể làm tăng tính rủi ro của dự án và tăng sự phụ thuộc của
dự án vào những nguồn kinh phí bên ngoài. Ngược lại, khi tỷ lệ này nhỏ hơn 1 thì
dự án chưa khai thác tốt những nguồn vốn bên ngoài.
 Thẩm định hiệu quả tài chính của dự án
 Chỉ tiêu giá trị hiện tại ròng ( NPV)
Phân tích tài chính một dự án đầu tư là phân tích căn cứ trên các dòng tiền
của dự án. Trên cơ sở các luồng tiền được dự tính, các chỉ tiêu về tài chính được
tính toán làm cơ sở cho việc ra quyết định đầu tư.
Giá trị hiện tại ròng (NPV) của một dự án là chênh lệch giữa giá trị hiện tại
của các luồng tiền dự tính mang lại trong tương lai với chi phí đầu tư ban đầu.Đây
là chỉ tiêu quan trọng nhất trong thẩm định dự án đầu tư. [11]
Công thức tính giá trị hiện tại ròng (NPV) như sau:
Rdc
Q
L

17

NPV =
3
1 2
2 3

(1 ) (1 ) (1 ) (1 )
n
n

CF CF
CF CF
r r r r
   
   
- CF
0

Trong đó: CF
0
- đầu tư ban đầu
CF
n
- dòng tiền của dự án năm thứ n
r - tỷ lệ chiết khấu dự án ( còn gọi là chi phí vốn của dự án hay chi
phí cơ hội – WACC).
Nói cách khác, để tính giá trị hiện tại ròng, ta chiết khấu tất cả dòng tiền kỳ
vọng nhận được trong tương lai về hiện tại và trừ chi phí đầu tư ban đầu.
Dự án sẽ được chấp nhận nếu NPV > 0, khi đó tổng lợi ích kỳ vọng nhận
được sẽ lớn hơn tổng chi phí đầu tư ban đầu tức là dự án có khả năng sinh
lời.Ngược lại, khi NPV < 0 , dự án không bù đắp được chi phí bỏ ra và đem lại thu
lỗ cho nhà đầu tư. Với NPV = 0, việc lựa chọn dự án hay không sẽ phụ thuộc vào
các tiêu chí khác như môi trường, xã hội…
NPV có tính đến giá trị thời gian của tiền, nó cho biết lợi nhuận của dự án
đầu tư và giúp chỉ đầu tư tối đa hóa được lợi nhuận. Đây cũng là tiêu chuẩn tốt nhất
để lựa chọn các dự án loại trừ lẫn nhau. Tuy nhiên, NPV cũng có một số hạn chế
như sau:
- NPV là chỉ tiêu tuyệt đối nên chỉ chỉ ra được quy mô lỗ lãi của dự án nhưng không
cho biết tỷ lệ lãi trên vốn đầu tư. Điều này rất cần thiết khi so sánh các phương án
đầu tư có vốn đầu tư khác nhau.

- NPV không quan tâm đến sự khác biệt về thời gian hoạt động của các dự án nên
việc lựa chọn dự án có NPV lớn nhất không được chính xác.
- NPV rất nhạy cảm với lãi suất được sử dụng. Sự thay đổi của lãi suất có ảnh
hưởng lớn đến giá trị hiện tại của các khoản lợi ích và chi phí. Dự án thường phải
chịu các khoản chi phí lớn trong những năm đầu, khi vốn đầu tư được thực hiện và
các lợi ích chỉ xuất hiện trong những năm sau, khi dự án đi vào hoạt động. Bởi vậy,
khi lãi suất tăng, giá trị hiện tại của dòng lợi ích sẽ giảm nhanh hơn giá trị hiện tại
18

của chi phí và do đó giá trị hiện tại ròng của dự án sẽ giảm xuống. Khi lãi suất này
vượt qua một giới hạn nào đó, giá trị hiện tại sẽ chuyển từ dương sang âm. Như vậy,
muốn dùng chỉ tiêu NPV thì người ta cần phải xác định được tỷ suất chiết khấu
thích hợp. Để tránh hạn chế này người ta dùng phương pháp tỷ suất hoàn vốn nội bộ
(IRR).
 Tỷ suất hoàn vốn nội bộ ( hệ số nội hoàn – IRR)
Tỷ suất hoàn vốn nội bộ là tỷ lệ chiết khấu làm cho giá trị hiện tại của các
dòng tiền kỳ vọng nhận được trong tương lai bằng với giá trị hiện tại của chi phí
đầu tư ban đầu. Nói cách khác, đó là tỷ lệ chiết khấu làm cho giá trị hiện tại ròng
NPV = 0. [11]
Trong biểu thức tính NPV ở trên, ta thay r = IRR và nhận được phương trình:
3
1 2
2 3

(1 IRR) (1 IRR) (1 IRR) (1 IRR)
n
n
CF CF
CF CF
   

   
- CF
0
= 0

1
(1 IRR)
n
i
i
i
CF



= CF
0
Ta có thể tính IRR gần đúng bằng cách công thức:
IRR= r
1
+
1 2 1
1 2
( )NPV r r
NPV NPV



Sau khi tìm ra IRR ta so sánh với tỷ lệ chiết khấu của dự án - r và đánh giá ra
quyết định đầu tư.

Nếu IRR > r thì dự án được chấp nhận
Nếu IRR < r: dự án bị loại bỏ
Nếu IRR = r thì các khoản thu nhập từ dự án chỉ đủ hoàn trả phần gốc và lãi
đã đầu tư ban đầu vào dự án. Nó chính là mức lãi suất tiền vay cao nhất mà nhà đầu
tư có thể chấp nhận mà không bị thua thiệt nếu toàn bộ số tiền đầu tư cho dự án là
vốn vay.
19

Tỷ suất hoàn vốn nội bộ là một tiêu chuẩn thường được sử dụng để mô tả tính
hấp dẫn của dự án đầu tư, vì đó là một tiêu chuẩn hữu ích để tổng kết tính doanh lợi
của dự án. Việc sử dụng phương pháp này thích hợp với trường hợp ta khó xác định
được chính xác tỷ suất chiết khấu – r dùng trong phương pháp NPV.
Tuy nhiên, nhược điểm của phương pháp này là:
- Tỷ suất hoàn vốn nội bộ có thể dẫn tới những quyết định không chính xác khi lựa
chọn các dự án loại trừ lẫn nhau. Những dự án có IRR cao nhưng quy mô nhỏ có
thể có NPV nhỏ hơn dự án khác tuy có IRR thấp hơn nhưng lại có NPV cao hơn.
- IRR không phải là một tiêu chuẩn đáng tin cậy tuyệt đối. IRR chỉ tồn tại khi dòng
lợi ích ròng của dự án có ít nhất một giá trị âm. Nếu dòng lợi ích ròng trong tất cả
các năm đều dương thì dù lãi suất thế nào, NPV vẫn dương. Ngoài ra, có thể xảy ra
tình huống không phải chỉ có một, mà là có nhiều IRR, gây khó khăn cho việc đánh
giá dự án.
 Phương pháp thời gian hoàn vốn (PP)
Thời gian hoàn vốn là khoảng thời gian cần thiết để các dòng tiền sinh ra của
dự án đủ bù đắp được chi phí đầu tư ban đầu cho dự án. [11]
Có hai phương pháp của chỉ tiêu này đó là: Phương pháp thời gian hoàn vốn
giản đơn và phương pháp thời gian hoàn vốn chiết khấu.
Theo phương pháp thời gian hoàn vốn giản đơn thì công thức thu hồi vốn
được tính như sau:
Thời gian thu hồi vốn (PP) = Số năm trước khi doanh thu bù đắp được chi phí + Chi
phí còn lại chưa được bù đắp / Dòng tiền của năm sau.

Dự án được coi là có thể chấp nhận được khi thời gian hoàn vốn nhỏ hơn thời
gian hoàn vốn cho phép tối đa do công ty đưa ra.
20

Phương pháp thời gian hoàn vốn có thể áp dụng trong trường hợp cần lựa chọn
quyết định đầu tư đối với 2 dự án có cùng số vốn đầu tư ban đầu. Dự án nào có thời
gian hoàn vốn ngắn hơn sẽ được chấp nhận.
Phương pháp tính thời gian hoàn vốn giản đơn rất dễ dàng, đơn giản khi ra
quyết định đầu tư nhưng nó lại không tính đến giá trị thời gian của tiền. Để khắc
phục điều này, người ta tính thời gian hoàn vốn chiết khấu, trong đó có tính đến yếu
tố thời gian của tiền.
Phương pháp tính thời gian hoàn vốn chiết khấu là áp dụng kỹ thuật chiết
khấu để tính giá trị hiện tại của các dòng tiền trong các năm (chiết khấu các dòng
tiền kỳ vọng nhận được trong các năm về hiện tại) .
Phương pháp thời gian hoàn vốn dễ áp dụng và nó có thể tạo ra hình ảnh ban
đầu về dự án. Tuy nhiên, phương pháp này cũng có một số hạn chế sau:
- Phần thu nhập ngoài thời gian hoàn vốn bị bỏ qua hoàn toàn mà không được tính
trong dự án. Do đó không biết được chính xác về doanh lợi của dự án đầu tư.
- Yếu tố rủi ro đối với luồng tiền tương lai của dự án không được xem xét, đánh giá.
- Không đo lường được tác động trực tiếp của dự án đối với thu nhập của cổ đông.
 Phương pháp tỷ lệ lợi ích / chi phí
Tỷ lệ lợi ích /chi phí (B/C) là tỷ lệ nhận được khi chia giá trị hiện tại của dòng
lợi ích cho giá trị hiện tại của dòng chi phí. [11] Ta có:
n
t
t 0
0
Bt
(1 r)


(1 )
/
n
t
t
Ct
r
B C








Trong đó: B
t
– lợi ích trong năm t
C
t
– chi phí năm t
Khi sử dụng tiêu chuẩn B/C để đánh giá các dự án đầu tư, ta sẽ chấp nhận bất
kỳ dự án nào có tỷ lệ B/C lớn hơn hay bằng 1. Khi đó, những lợi ích mà dự án đem

×