Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

XÂY DỰNG VĂN HOÁ CÔNG TY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (276.47 KB, 35 trang )

Xây Dựng Văn Hoá Công Ty
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 2
CHƯƠNG 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN.........................................................................4
1.1 Khái niệm văn hoá và văn hoá Việt Nam……………………………. 4
1.2 Đặc trưng văn hoá 3 miền Việt Nam……………………………….. 14
1.3 Tác động của văn hoá Việt Nam đến văn hoá công ty……………… 21
CHƯƠNG 2 : XÂY DỰNG VĂN HOÁ CÔNG TY…………………………. 24
1.1 Khái niệm văn hoá công ty…………………………………………. 24

2.2 Sự hình thành văn hoá công ty………………………………………24
2.3 Nội dung văn hoá công ty……………………………………………25
2.4 Tác động của văn hoá công ty nhân viên và hoạt
động kinh doanh của công ty………………………………………. 26
2.5 Nhận xét văn hoá công ty, của một công ty đang
hoạt động……………………………………………………………. 27
CHƯƠNG 3 : CÁC GIẢI PHÁP DUY TRÌ VĂN HOÁ CÔNG TY………... 29
3.1 Coi trọng nhân tố con người trong văn hoá công ty………………….29
3.2 Giữ gìn phát huy truyền thống văn hoá công ty……………………… 30
3.3 Không ngừng hoàn thiện văn hoá công ty…………………………… 31
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ…………………………………………….. 34
Khoa QTKD _ Đại Học Yersin Đà Lạt1
Xây Dựng Văn Hoá Công Ty
MỞ ĐẦU
Trong một vài năm trở lại đây, văn hoá công ty trở thành một đề nóng trong
các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, đa số các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
vẫn chưa hiểu rõ về khái niệm cũng như các cấp độ biểu hiện và khía cạnh của văn
hoá công ty, do đó, vẫn chưa có sự quan tâm xây dựng đúng mức yếu tố này trong
công ty mình.
Văn hóa rất quan trọng đối với cuộc sống mỗi con người,đặc biệt là giao tiếp
ứng xử ở công ty làm việc.Trong một doanh nghiệp,đặc biệt là những doanh nghiệp


có quy mô lớn,là tập hợp những con người khác nhau về trình độ chuyên môn,mức
độ nhận thức,quan hệ xã hội,vùng miền địa lí,tư tưởng văn hoá,…cùng với sự cạnh
tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường và xu hướng toàn cầu hoá đòi hỏi các
doanh nghiệp phải xây dựng và duy trì một nề nếp văn hoá đặc thù phát huy được
năng lực và thúc đẩy sự đóng góp của toàn thể nhân viên.
Văn hóa nơi công sở thì ai cũng biết,ai cũng muốn thực hiện tốt để đạt hiệu
quả công việc cao và thành công nhất định trong cuộc sống.Nhưng việc thực hiện
văn hóa nơi công ty thì không đơn giản chút nào và không phải ai cũng được suôn
sẻ ,thuận lợi trong ứng xử,giao tiếp với cấp trên và cấp dưới.Đất nứơc ngày càng
phát triển,con người ngày càng phải khéo léo hơn để theo kip với sự phát triển
đó.Vì vậy phát triển văn hóa nơi công sở là vấn đề cần thiết và quan trọng.Nếu văn
hóa công ty được chú trọng và thực hiện tốt sẽ giúp công việc được thuận lợi và xã
hội sẽ văn minh hơn.
Mục đích nghiên cứu văn hóa công ty là giúp mọi người hiểu được tầm quan
trọng của văn hóa nơi làm việc và chúng ta có thể tham khảo những bí quyết,kĩ
năng để xây dựng văn hoá doanh nghiệp ngày càng vững mạnh.
CẤU TRÚC ĐỀ TÀI
Chương 1:CƠ SỞ LÝ LUẬN.
Trong chương này , chúng ta sẽ hiểu được khái niệm văn hoá và văn hoá
Việt Nam. Đặc trưng văn hoá ba miền Việt Nam và tác động của văn hoá Việt Nam
đến văn hoá công ty.
Chương 2: XÂY DỰNG VĂN HOÁ CÔNG TY
Chương này đề cập đến khái niệm văn hoá công ty, nội dung hình thành văn
hoá công ty, tác động của văn hoá công ty đến nhân viên và hoạt dộng kinh doanh
của công ty, nhận xét văn hoá công ty của một công ty đang hoạt động.
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP DUY TRÌ VĂN HOÁ CÔNG TY
Khoa QTKD _ Đại Học Yersin Đà Lạt2
Xây Dựng Văn Hoá Công Ty
Chương này giúp ta hiểu được cách coi trọng nhân tố con người trong công
ty, giữ gìn phát huy truyền thống văn hoá công ty và không ngừng hoàn thiện văn

hoá công ty.
KẾT LUẬN
Văn hoá công ty hiện nay được xem là chỉ số nhận dạng giữa các công ty với
nhau và là yếu tố quyết định cho sự tồn tại lâu dài của công ty. Tuy nhiên, văn hoá
công ty bao gồm nhiều cấp độ và nhiều khía cạnh khác nhau nên việc xây dựng văn
hoá công ty đòi hỏi phải trải qua một thời gian dài và nhiều khó khăn. Trong giai
đoạn toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới hiện nay, các công ty xây dựng được một
nền văn hoá vững mạnh, giữ gìn các giá trị cốt lõi đồng thời biết thay đổi để phù
hợp với môi trường địa phương đảm bảo sẽ phát triển và tồn tại lâu dài.
Trong quá trình biên soạn bài luận này chúng tôi không tránh khỏi những
thiếu sót. Rất mong quý thầy cô và các bạn lượng thứ và đóng góp thêm ý kiến để
bài luận của chúng tôi hoàn thiện hơn.
Trân trọng.
Khoa QTKD – Đại Học Yersin Đà Lạt 3
Xây Dựng Văn Hoá Công Ty
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Khái niệm văn hoá và văn hoá Việt Nam

1.1.1 Khái niệm văn hoá
Muốn nghiên cứu vai trò của văn hóa đối với phát triển, trước tiên phải có
một khái niệm chính xác và nhất quán về văn hóa cũng như cấu trúc của nó. Trên
thực tế, cũng đã có rất nhiều người cố gắng định nghĩa văn hóa. Nhưng cho đến
nay vẫn chưa có được một sự nhất trí và cũng chưa có định nghĩa nào thoả mãn
được cả về định tính và định lượng. Điều đó, theo tôi, có những nguyên nhân sau
đây:
Trước hết, trong số những người nghiên cứu văn hóa, hoặc, như người ta
thường gọi, những nhà văn hóa, ngoài những định kiến và những hạn chế có tính
chất lịch sử, rất nhiều người bị mắc những bệnh nghề nghiệp. Họ thường qui văn
hóa vào những lĩnh vực hạn hẹp cụ thể, thường bói văn hóa, cũng như bói cuộc

sống nói chung, theo kiểu thầy bói xem voi, bằng cách xem xét những bộ phận cá
biệt của nó chứ chưa có một cách tiếp cận tổng thể.
Thứ hai, văn hóa là một lĩnh vực rộng lớn, rất phong phú và phức tạp, do đó
khái niệm văn hóa cũng đa nghĩa. Khi đề cập đến nó mỗi người có một cách hiểu
riêng tùy thuộc vào góc độ tiếp cận của họ là điều dễ hiểu.
Thứ ba, giống như tất cả các ngành khoa học xã hội khác, ngành văn hóa học
có lịch sử phát sinh và phát triển lâu dài trong lịch sử loài người. Trong quá trình
lịch sử đó nội dung của khái niệm văn hóa cũng thay đổi theo.
Tôi cho rằng văn hóa, nói một cách giản dị, là những gì còn lại sau những
chu trình lịch sử khác nhau, qua đó người ta có thể phân biệt được các dân tộc với
nhau. Thông qua mỗi một chu kỳ của sự phát triển, dân tộc đó tương tác với mình
và với những dân tộc khác, cái còn lại được gọi là bản sắc, hay còn gọi là văn hóa.
Khoa QTKD _ Đại Học Yersin Đà Lạt4
Xây Dựng Văn Hoá Công Ty
Ở đây, tôi gần gũi với cựu Tổng Giám đốc UNESCO Federico Mayor khi
ông đưa ra một định nghĩa: "Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát và
sông động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và cả cộng đồng) đã diễn ra
trong quá khử cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ,nó đã cấu
thành một hệ thông các giá trị, truyền thống thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó
từng dân tộc tự khẳng địinh bản sắc riêng của mình".
Văn hóa là một hiện tượng khách quan, là tổng hoà của tất cả các khía cạnh
của đời sống. Ngay cả những khía cạnh nhỏ nhặt nhất của cuộc sống cũng mang
những dấu hiệu văn hóa. Rất nhiều thứ mới thoạt nhìn thì giống nhau, nhưng nếu
xem xét kỹ thì lại có những điểm riêng biệt. Trong thực tế, không có sự giống nhau
tuyệt đối.
Gần đây, có ý kiến cho rằng trên thế giới đang diễn ra hiện tượng xâm lược
về văn hóa như là sự tiếp tục của những cuộc xâm lược bằng súng đạn và kinh tế.
Tôi không đồng ý như vậy. Bởi văn hóa là hoà bình, văn hóa là không xâm lược.
Cảm giác bị xâm lược, nếu có, chẳng qua là cái cảm giác và sĩ diện của kẻ yếu.
Chúng ta đang sống trong một thế giới duy nhất và cũng có thể nói là thống nhất.

Chúng ta phải bắt đầu từ mô hình kinh tế mà Alvin Tofler từng mô tả bằng hình
ảnh "con tàu vũ trụ”. Trái đất là một kho chứa hữu hạn các nguồn năng lượng sống
và toàn cầu hóa là một quá trình để tiết kiệm nguồn năng lượng ấy bằng cách đảm
bảo không sản xuất thừa, không sử đụng nguyên liệu một cách bừa bãi trên phạm
vi toàn cầu. Nhưng cùng với quá trình hội nhập về mặt kinh tế còn có một quá trình
khác luôn luôn tồn tại bên cạnh, và thậm chí đã đi trước, đó là sự hội nhập về mặt
văn hóa. Sự hội nhập về mặt văn hóa chính là quá trình con người đi tìm ngôn
ngữ chung cho một cuộc sống chung. Quan niệm về sự xâm lược văn hóa là quan
niệm của những cộng đồng người chỉ có kinh nghiệm hình thành trong quan hệ
phát triển lưỡng cực, những kinh nghiệm chiến tranh, nhất là chiến tranh lạnh. Văn
hóa không phải là ý thức của tôi, của anh hay của bất kỳ ai, mà thuộc về con người
một cách tự nhiên. Con người khi sống chung với nhau sẽ gây ảnh hưởng lẫn nhau.
Đến phương Tây ta sẽ nhìn thấy rằng trong ngôi nhà nào của người Mỹ, người
Anh, người Pháp...cũng có một vài vật dụng gì đó, một vài thứ souvenirs gì đó từ
phương Đông. Đôi khi trong xã hội phương Tây người ta có xu hướng xem sự hiện
hữu của một vài kỷ vật, một vài đồ trang trí từ phương Đông như là dấu hiệu của
tầng lớp thượng lưu hoặc văn minh. Đó là sự đan xen lẫn nhau của cuộc sống, đấy
là sự chung sống hoà bình của quá khứ, và đấy cũng chính là cơ sở văn hóa của
sự chung sống hoà bình trong tương lai.
1.1.2 Văn hoá Việt Nam
Khoa QTKD – Đại Học Yersin Đà Lạt 5
Xây Dựng Văn Hoá Công Ty
Đời sống gia đình: Trong xã hội truyền thống Việt Nam trước đây, một gia
đình điển hình thường bao gồm ba, bốn thế hệ cùng sống chung. Với tâm lý “nhiều
con, nhiều lộc” nên mọi gia đình mong muốn “con đàn, cháu đống”. Do ảnh hưởng
tư tưởng Nho giáo và quan niệm phong kiến “trọng nam, khinh nữ”, con trai luôn
được coi là trụ cột trong gia đình và có tiếng nói quyết định. Còn phụ nữ phải tuân
thủ lễ giáo phong kiến ‘tam tòng, tứ đức” (Tam tòng: lúc nhỏ sống dựa vào cha,
lớn lên lấy chồng phải tuân thủ theo chồng, chồng chết phải ở vậy sống theo con
trai; Tứ đức: công, dung, ngôn, hạnh).

Kể từ khi đất nước thống nhất, Nhà nước Việt Nam đã thông qua nhiều văn
bản luật, điển hình là Luật Hôn nhân và Gia đình để điều chỉnh các mối quan hệ
trong gia đình cho bình đẳng hơn. Bên cạnh đó, nhiều biện pháp tuyên truyền vận
động cũng được thực hiện nhằm thay đổi nhận thức lạc hậu của người dân, bảo
đảm bình đẳng giới, đấu tranh cho quyền lợi chính đáng của phụ nữ.
Ngày nay, quy mô một gia đình hiện đại Việt Nam có xu hướng thu hẹp lại,
chỉ 2-3 thế hệ. Số con của một cặp vợ chồng là hai (chiếm đa số), tư tưởng “trọng
nam, khinh nữ” không nặng nề như xưa và dần dần bị loại bỏ. Truyền thống “kính
trên, nhường dưới” có từ xa xưa vẫn luôn được duy trì và phát huy trong mỗi gia
đình Việt Nam.
Trang phục : Hầu hết các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam đều có trang phục
riêng mang đậm bản sắc truyền thống của dân tộc mình. Nhìn chung đa phần trang
phục của các dân tộc được trang trí hoa văn có màu sắc rực rỡ, tương phản: đen -
trắng, đen - đỏ, xanh - đỏ hoặc xanh - trắng và được dệt từ sợi có nguồn gốc tự
nhiên như sợi gai, tơ tằm, tơ dứa, sợi bông..., vừa đẹp, vừa bền mà thoáng mát, phù
hợp khí hậu nhiệt đới.
Thường phục truyền thống của người Việt đối với đàn ông là quần trắng, áo
nâu, đầu vấn khăn, chân đi guốc hoặc dép. Bộ lễ phục thêm áo dài đen bằng vải
hoặc the, đầu đội khăn xếp. Đối với phụ nữ, trang phục cầu kỳ và rực rỡ hơn: váy
đen, yếm trắng, áo tứ thân, đầu chít khăn mỏ quạ, thắt lưng hoa lý. Bộ lễ phục gồm
ba chiếc áo, ngoài cùng là chiếc áo tứ thân bằng the thâm hay màu nâu non, kế đến
là chiếc áo màu mỡ gà và trong cùng là chiếc áo màu cánh sen. Khi mặc, cả ba
chiếc áo chỉ cài khuy bên sườn, phần từ ngực đến cổ lật chéo để lộ ba màu áo.
Trong cùng là chiếc yếm thắm. Đầu đội nón trông rất duyên dáng và kín đáo. Cách
ăn mặc truyền thống này đã mang đến cho người phụ nữ Việt một vẻ đẹp đằm
thắm, dịu dàng, thướt tha.
Khoa QTKD _ Đại Học Yersin Đà Lạt6
Xây Dựng Văn Hoá Công Ty
Ngày nay, trang phục truyền thống của người Việt đã thay đổi. Bộ âu phục
thay thế cho bộ đồ truyền thống của đàn ông. Chiếc áo dài khởi phát từ thời chúa

Nguyễn Phúc Khoát ngày càng được cải tiến và hoàn thiện hơn, được phụ nữ Việt
Nam ưa thích mặc vào nhiều dịp lễ hội quan trọng trong năm. Chiếc áo dài hiện tại
có thân tương đối bó sát thân người, hai tà áo thả xuống ngang nửa ống chân, làm
cho thân thể người phụ nữ hiện lên những đường cong mềm mại, dịu dàng nhưng
kín đáo, phù hợp với vóc dáng nhỏ nhắn của người phụ nữ Việt Nam.
Hiện nay, việc giao lưu giữa các nền văn hóa trên thế giới ngày càng mở
rộng, trang phục của người Việt nam ngày càng phong phú và mang tính hòa nhập
và thời trang hơn, nhất là trong giới trẻ ở thành phố.
Một số lễ hội lớn của Việt Nam: Sinh hoạt lễ hội là loại hình văn hóa dân
gian đặc trưng tại mọi miền trên đất nước Việt Nam. Trong tâm lý và tình cảm, lễ
hội mang lại sự thanh thản cho con người Việt Nam, gạt đi những lo toan thường
nhật, tăng thêm sự gắn bó và tình yêu đối với thiên nhiên, đất nước. Là một nước
nông nghiệp, nên hầu hết các lễ hội diễn ra vào lúc “nông nhàn” - mùa xuân và
mùa thu, trong đó có một số lễ hội chung cho mọi người trên khắp đất nước như
Tết Nguyên Đán, Rằm Tháng Bẩy, Rằm Tháng Tám, Giỗ tổ Hùng Vương...
Tết Nguyên Đán (thường vào cuối tháng Một, đầu tháng Hai hàng
năm): Là Lễ hội lớn nhất trong các Lễ hội truyền thống Việt Nam. Đây là dịp cả
gia đình xum họp, cùng nhau thưởng thức những món ăn truyền thống, đi thăm hỏi
và chúc tụng những người trong gia tộc, bạn bè, đồng nghiệp. Trong quan niệm của
mọi người, Tết là sự kết thúc của năm cũ - kết thúc của những điều xấu, rủi ro để
bước sang năm mới với những điều tốt lành sẽ đến. Giao thừa là lúc thiêng liêng
nhất; mọi gia đình đều lấy khoảnh khắc này để đặt lễ, thắp hương thờ cúng thần
linh, tổ tiên. Ngoài việc cúng giao thừa, còn nhiều tập tục vẫn được duy trì vào dịp
Tết như xông đất, hái lộc, mừng tuổi.
Lễ Vu Lan (Rằm tháng Bảy âm lịch): Lễ Vu Lan là một đại lễ báo hiếu
cha mẹ, ông bà, tổ tiên đã khuất - một tập tục đáng quý, đáng trọng của người Việt,
thể hiện tấm lòng ”ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Theo Phật giáo, ngày này các âm hồn
được lên trần hưởng lộc. Hầu hết các gia đình đều làm cỗ cúng gia tiên; cúng xong
đốt vàng mã cho vong hồn dùng. Rằm tháng Bảy cũng là ngày xá tội vong nhân mà
gọi nôm na theo dân gian là ngày cúng chúng sinh. Lễ vật gồm có cháo, bỏng gạo,

bánh đa, bánh kẹo, hoa quả… để cúng cho những cô hồn lang thang, không người
hương khói.
Khoa QTKD – Đại Học Yersin Đà Lạt 7
Xây Dựng Văn Hoá Công Ty
Tết Trung Thu (Rằm tháng Tám âm lịch): Tết Trung thu, còn gọi
là ”Tết trông Trăng”, là ngày Tết dành cho trẻ em. Trẻ em rất mong đợi được đón
Tết này vì thường được người lớn tặng đồ chơi như đèn ông sao, mặt nạ, đèn kéo
quân, bánh nướng, bánh dẻo...Tối đêm Rằm, hầu hết các gia đình có trẻ em đều có
mâm cỗ trông trăng. Cỗ trung thu chủ yếu là bánh kẹo và hoa quả được tạo thành
các con giống bày trên mâm cỗ. Đêm Rằm, không khí thật náo nhiệt bởi tiếng vui
đùa, múa hát của trẻ nhỏ, kết hợp với ánh sáng của trăng, đèn và nến... Một số nơi
còn tổ chức các trò chơi như rước đèn, múa Lân, múa Sư tử, múa Rồng... cho các
em nhỏ vui chơi.
Giỗ tổ Hùng Vương: Ngày 10/3 âm lịch hàng năm là ngày Giỗ tổ Vua
Hùng. Ngày Giỗ tổ được tổ chức tại khắp mọi miền đất nước Việt Nam và cả ở
nhiều nước trên thế giới, nơi có đông cộng đồng người Việt Nam sinh sống. Nơi tổ
chức Lễ Giỗ tổ chính thức là Phú Thọ (kinh đô của Nhà nước đầu tiên của Việt
Nam – Văn Lang), nơi đặt Đền thờ 18 vị Vua Hùng. Những lễ phẩm có tính chất
tục lệ của Việt Nam được làm ra và dâng cúng vào dịp này gồm đèn, hương, rượu,
trầu cau, nước lã, bánh trưng, bánh dày. Từ năm 2007, Giỗ tổ Hùng Vương chính
thức được công nhận là ngày Quốc lễ của Việt Nam. Đền thờ Vua Hùng
Phong Châu, Phú Thọ
Văn học: Việt Nam có một nền văn học phát triển khá sớm mang bản sắc
riêng. Là một quốc gia có nhiều dân tộc sinh sống, mỗi dân tộc đều có nền văn học
riêng của mình, tất cả tạo nên một nền văn học Việt Nam đa bản sắc.
Văn học cổ: bao gồm dòng văn học dân gian, văn học chữ Hán và văn
học chữ Nôm. Dòng văn học dân gian xuất hiện trong quá trình lao động sản xuất,
xây dựng và đấu tranh ngay từ thuở sơ khai, chủ yếu là truyền miệng dưới nhiều
hình thức khác nhau như truyện kể, thần thoại, sử thi, truyền thuyết, cổ tích, truyện
cười, truyện ngụ ngôn, truyện thơ, tục ngữ, ca dao, câu đố, vè... được truyền từ đời

này sang đời khác. Dòng văn học chữ Hán: Chữ Hán bắt đầu du nhập vào Việt
Nam từ đầu thời kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất. Sau khi giành được độc lập dân tộc
(năm 938), các triều đại phong kiến Việt Nam, với tinh thần tự lực, tự cường đã
phát triển nền văn học Việt Nam và sử dụng chữ Hán để ghi lại. Nhiều áng văn thơ
bất hủ bằng chữ Hán còn lưu lại đến ngày nay như Bài thơ Thần của Lý Thường
Kiệt, Hịch Tướng Sỹ của Trần Hưng Đạo; Đại Việt Sử ký của Lê Văn Hưu. Dòng
văn học chữ Nôm: Chữ Nôm được Việt hóa từ chữ Hán. Văn học chữ Nôm xuất
hiện từ thế kỷ VIII, được phát triển đỉnh cao vào thế kỷ XVIII và tiếp tục phát triển
Khoa QTKD _ Đại Học Yersin Đà Lạt8
Xây Dựng Văn Hoá Công Ty
tới đầu thế kỷ XX. Nhiều tác phẩm nổi tiếng được lưu danh tới ngày nay như Bình
Ngô Đại Cáo, Quốc Âm Thi Tập với 254 bài thơ của đại danh nhân Văn hóa Thế
giới Nguyễn Trãi; tác phẩm Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập của Vua Lê Thánh Tông;
Bách Vân Thi Tập của nhà học giả Nguyễn Bỉnh Khiêm; Chinh Phụ Ngâm của
Đặng Trần Côn; những bài thơ thể hiện khát vọng cho quyền bình đẳng nam nữ
trong chế độ phong kiến của “Bà Chúa Thơ Nôm” Hồ Xuân Hương… Đỉnh cao
phát triển của văn học của thời kỳ này là Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du.
Bên cạnh đó, những tác phẩm lịch sử viết bằng chữ Nôm cũng xuất hiện nhiều như
bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của các sử thần nhà Lê (Phan Phu Tiên, Ngô Sỹ Liên,
Vũ Quỳnh) hay Lê Triều Thông Sử của học giả Lê Quý Đôn…
Văn học hiện đại: Việc xuất hiện chữ Quốc ngữ là tiền đề sản sinh nền văn
học mới, văn học hiện đại đầu thế kỷ 18. Dòng văn học hiện thực phê phán và
phong trào thơ mới lãng mạn đã đóng góp những tác phẩm nổi tiếng cho nền văn
học hiện đại Việt Nam với các tên tuổi như Hồ Biểu Chánh, Hoàng Ngọc Phách,
Nguyễn Trọng Thuật, Trương Vĩnh Ký, Tản Đà, Thế Lữ, Ngô Tất Tố, Nguyễn
Công Hoan, Nguyên Hồng, Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Nam Cao…
Văn học Cách mạng Việt Nam bắt đầu từ 1945 đến nay:
Thời kỳ 1945-1975: Văn học thể hiện khát vọng của toàn dân tộc mong
muốn hòa bình, độc lập, kêu gọi mọi người dân đứng lên đấu tranh giành độc lập
dân tộc, thống nhất đất nước.…

Kể từ khi đất nước thống nhất năm 1975, với chủ trương “xây dựng một nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, giới văn nghệ sỹ Việt Nam đi sâu phản
ánh nhiều mặt đời sống xã hội, kêu gọi toàn dân chung sức xây dựng một đất nước
“dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh”. Nền văn học Việt
Nam, với sự đóng góp của hàng nghìn nhà thơ, nhà văn, ngày càng phát triển
nhanh với các loại hình: văn xuôi, thơ, phê bình lý luận... đóng góp to lớn cho sự
phát triển của nền văn hóa Việt Nam.
Nghệ thuật biểu diễn: Trong nghệ thuật biểu diễn của Việt Nam, có nhiều
thể loại như chèo, tuồng, cải lương, rối nước, ca múa nhạc cung đình, hát quan họ,
chầu văn, ca trù, hát then, lý Nam Bộ… nhưng phổ biến nhất và thường được biểu
diễn nhiều nhất là chèo, tuồng, cải lương, hát quan họ, rối nước, lý Nam Bộ và
nhã nhạc (một hình thức của ca múa nhạc cung đình). Dưới đây là sơ lược một vài
loại hình trong nghệ thuật biểu diễn.
Khoa QTKD – Đại Học Yersin Đà Lạt 9
Xây Dựng Văn Hoá Công Ty
Ca múa nhạc cung đình: Ca múa nhạc cung đình phát triển mạnh vào triều
đại vua Lê Thái Tông với nhiều loại hình ca múa nhạc phong phú như Trung cung
chỉ nhạc, Yến nhạc, Nhã nhạc, Đại nhạc, Văn vũ, Võ vũ… Dưới triều nhà Nguyễn,
ca múa nhạc cung đình phát triển rực rỡ với những điệu múa Bát dật biểu diễn
trong các lễ tế trời của các vị vua Triều Nguyễn tại Đàn Nam Giao, Múa quạt, Tam
tinh Chúc thọ, Bát tiên hiến, Lục triệt hoa mã đăng, Lục cúng hoa đăng trong các
nghi lễ của triều đình phong kiến. Nhiều điệu múa, bản nhạc cung đình còn được
lưu giữ và phát triển cho đến ngày nay. Nhã nhạc cung đình Huế đã được
UNESCO chính thức công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của thế giới năm
2003.
Múa rối nước: Múa rối nước xuất hiện từ thời Lý (1009 - 1225). Một vở rối
nước thường có nhiều nhân vật. Mỗi nhân vật (con rối) là một tác phẩm điêu khắc
dân gian, mang dáng vẻ khác nhau, tính cách khác nhau. Con rối được làm bằng
gỗ, bên ngoài phủ lớp chống thấm nước. Nhân vật tiêu biểu của rối nước là chú
Tễu với thân hình tròn trĩnh và nụ cười hóm hỉnh lạc quan. Nghệ nhân biểu diễn

múa rối phải ngâm mình dưới nước sau màn sân khấu để điều khiển con rối thông
qua máy sào, máy dây. Nhạc đệm cho cuộc diễn là bộ gõ gồm trống, mõ, thanh
la… Nghệ thuật múa rối nước của Việt Nam là loại hình sân khấu cổ truyền, độc
đáo được khán giả nhiều nước trên thế giới ưa chuộng.
Chèo: Bắt nguồn từ âm nhạc và múa dân gian, chèo là một loại hình nghệ
thuật sân khấu truyền thống tiêu biểu nhất của Việt Nam. Lúc đầu xuất hiện ở các
làng quê, dần trở thành loại hình sân khấu tiêu biểu của cư dân đồng bằng Bắc Bộ.
Nghệ thuật chèo bao gồm múa, hát, âm nhạc và văn học trong tích trò. Văn chèo tự
sự (kể chuyện) mang đậm tính trữ tình của ca dao, tục ngữ; tràn đầy tính lạc quan
trong những cái cười dân dã, thông minh, hóm hỉnh, trí tuệ; tính nhân văn rất rõ
nét; thể hiện khát khao vươn tới hạnh phúc và xã hội hòa thuận, bảo vệ quyền con
người; cái thiện luôn thắng cái ác. Nhân vật trong chèo mang tính ước lệ, chuẩn
hóa với tính cách và tâm lý không thay đổi trong suốt vở. Một số vở chèo nổi tiếng
thu hút sự quan tâm của nhiều thế hệ khán giả là Quan Âm Thị Kính, Chu Mãi
Thần, Kim Nhan… được xếp vào vốn quý của sân khấu cổ truyền dân tộc Việt
Nam.
Tuồng: còn gọi là hát bội, bộ môn nghệ thuật cổ điển và bác học bậc nhất
Việt Nam, một loại văn nghệ trình diễn cổ truyền ở Việt Nam, phát triển từ loại
hình sân khấu dân gian của văn học Việt Nam, được hình thành trên cơ sở ca vũ
Khoa QTKD _ Đại Học Yersin Đà Lạt10
Xây Dựng Văn Hoá Công Ty
nhạc và các trò diễn xướng dân gian vốn có từ lâu đời và rất phong phú của dân tộc
Việt Nam. Ðến cuối thế kỷ XVIII, Tuồng đã phát triển một cách hoàn chỉnh về mọi
mặt từ kịch bản văn học đến nghệ thuật biểu diễn. Ngày nay môn nghệ thuật này
vẫn được coi là “quốc hồn, quốc túy” của người Việt, sánh như Kinh kịch của
Trung Quốc hay kịch Noh của Nhật Bản.
Cải lương: là loại hình sân khấu kịch hát dân tộc ra đời vào đầu thế kỷ 20.
Nguồn gốc của cải lương là các bài hát lý, ca nhạc tài tử ở miền Tây Nam Bộ. Cải
lương sử dụng nhiều cách diễn, âm nhạc của tuồng Việt Nam. Cũng như các nghệ
thuật kịch hát dân tộc khác, cải lương bao gồm múa, hát, âm nhạc. Nhạc cụ chủ

đạo trong dàn nhạc cải lương là đàn ghi ta phím lõm và đàn nguyệt. Nhiều vở diễn
đã thu hút sự quan tâm của người hâm mộ như Lục Vân Tiên, Lưu Bình Dương Lễ,
Đời Cô Lựu, Tô Ánh Nguyệt và Mộng Hoa Vương, Nửa đời hương phấn, Chim
Việt cành Nam, Thái hậu Dương Vân Nga…
Hát quan họ (hay Quan họ Bắc Ninh): bắt nguồn từ những lối hát đối đáp
nam nữ có từ lâu đời. Hát quan họ chủ yếu chỉ được tổ chức ở mỗi làng, mỗi năm
một lần vào dịp hội làng. Nó gắn liền với tục kết bạn nam nữ, kết nghĩa giữa hai
làng khác nhau. Hát quan họ bao giờ cũng hát đôi, trình tự hát vừa theo nội dung
vừa theo làn điệu, đối lời kèm theo đối giọng. Hơn 180 làn điệu quan họ còn lưu
giữ đến nay đều mang nội dung giao duyên trữ tình thắm thiết, với lời hay, ý đẹp,
ngôn ngữ bình dân nhưng tinh tế, ý nhị, giàu hình tượng và cảm xúc, với âm điệu
phong phú, trữ tình, với lối hát mượt mà, kỹ thuật “vang rền nền nảy” độc đáo. Tất
cả điều này đã làm nên vẻ đẹp và sức hấp dẫn của dân ca Quan họ Bắc Ninh.
Kiến trúc Việt Nam
Kiến trúc dân gian: bao gồm kiến trúc gỗ, kiến trúc gạch đá, kiến trúc tre
nứa lá khá phổ biến ở khắp mọi nơi trên đất nước Việt Nam. Trong khi kiến trúc
tranh nứa lá phổ biến dưới dạng nhà ở của những cư dân tại nhiều vùng nông thôn
Việt Nam thì kiến trúc gỗ phổ biến và tiêu biểu nhất lại thể hiện dưới dạng chùa,
đình, nhà của những gia đình giàu có trên khắp đất nước. Có thể điểm tên một số di
tích về kiến trúc gỗ như Chùa Một Cột, chùa Dâu, chùa Bối Khê, chùa Thái Lạc,
chùa Keo, chùa Bút Tháp, chùa Tây Phương, đình Đình Bảng, những ngôi nhà cổ
tại các thành phố lớn, nhất là tại Hà Nội, Hội An và Huế... Kiến trúc gạch đá: tiêu
biểu được lưu giữ đến ngày nay là tháp chùa (tháp Hòa Phong, tháp Báo Thiên,
tháp chùa Phổ Minh, tháp chùa Thiên Mụ…), cổng thành, tường thành (cổng thành
nhà Hồ, cổng thành Hà Nội…), tam quan chùa đền (tam quan Văn Miếu, tam quan
Khoa QTKD – Đại Học Yersin Đà Lạt 11
Xây Dựng Văn Hoá Công Ty
Trấn Vũ, cửa Hiển Nhân), Cột cờ Hà Nội, cửa Ngọ Môn Huế... Kiến trúc gạch đá
còn một bộ phận đáng kể các đền đài do người Chăm xây dựng (thường gọi là tháp
Chăm) nằm rải rác từ Quảng Nam vào đến Bình Thuận, tiêu biểu và tập trung nhất

ở Khu di tích Mỹ Sơn.
Kiến trúc ngoại du: Từ thế kỷ 19, kiến trúc Việt Nam có sự chuyển hóa, hòa
trộn giữa hai trường phái kiến trúc của Châu Âu, Bắc Mỹ và kiến trúc truyền thống
Á Đông. Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng với những khu phố theo kiểu ô bàn cờ thuận
lợi cho việc đi lại. Nhiều tòa nhà đươc xây dựng theo phong cách cổ điển Châu Âu
mà tiêu biểu là Phủ Chủ tịch, Tòa án Tối cao, Nhà hát lớn Hà Nội, Ngân hàng
Ngoại thương, Bộ Ngoại giao, Tòa Thị chính Sài Gòn, Bưu điện Trung tâm thành
phố Sài Gòn, một số biệt thự… Bức tranh kiến trúc thời kỳ này xuất hiện những
nét mới, đó là những nhà thờ đạo Thiên Chúa ở Sài Gòn, Hà Nội, Huế và xứ đạo
các địa phương. Một điều khá thú vị là ngay cả những công trình kiến trúc mang
đậm phong cách châu Âu ấy khi xây ở Việt Nam lại được pha lẫn bóng dáng đình
chùa và những nét kiến trúc truyền thống của Việt Nam, mà tiêu biểu nhất là nhà
thờ Phát Diệm.
Giai đoạn 1954–1975: ở Miền Bắc nhiều công trình được dựng lên theo
kiểu kiến trúc của Liên Xô (cũ) như Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Cung Văn hóa
Hữu nghị…; ở miền Nam nhiều tòa nhà được xây theo lối kiến trúc Mỹ mà tiêu
biểu là Thư viện Khoa học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, Dinh Độc lập…
Kiến trúc giai đoạn Đổi mới: Nhiều công trình lớn hiện đại với phong cách
kiến trúc khác nhau như các khách sạn, tòa nhà văn phòng liên doanh (Horison,
Tháp Hà Nội, Sophitel Plaza, Omni, New World…), các khu đô thị Phú Mỹ Hưng,
Ciputra... được xây dựng. Giống như nhiều quốc gia khác, kiến trúc ngày nay
thường bao gồm 4 mảng chính: thiết kế nội thất, thiết kế kiến trúc, thiết kế quy
hoạch đô thị, thiết kế môi trường và quy hoạch vùng.
Hội họa và điêu khắc
Tranh dân gian: Tranh dân gian gồm hai loại, tranh Tết và tranh Thờ. Tranh
dân gian gắn liền với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và các vị thần linh. Tranh dân
gian thường được in với kỹ thuật khắc ván để in với số lượng lớn. Tranh dân gian
phát triển khá mạnh vào thế kỷ thứ 16, sang thế kỷ thứ 18, 19 phát triển ổn định ở
mức cao. Dựa vào phong cách nghệ thuật, kỹ thuật in vẽ và nguyên liệu làm tranh,
có thể quy về một số dòng tranh khác nhau.

Khoa QTKD _ Đại Học Yersin Đà Lạt12
Xây Dựng Văn Hoá Công Ty
Tranh dân gian ngày nay hầu hết đã bị thất truyền. Trong số ít dòng tranh còn tồn
tại và được bảo tồn có dòng tranh Đông Hồ được bảo tồn, phát triển và hiện có mặt
ở nhiều nước như Nhật, Pháp, Mỹ… Đông Hồ là một làng nhỏ nằm ven bờ nam
sông Đuống, tỉnh Bắc Ninh. Nghệ thuật làm tranh Đông Hồ từ các khâu như vẽ
mẫu, khắc bản in, sản xuất giấy, chế biến màu, rồi đến các khâu in vẽ tranh đều có
những điểm độc đáo về kỹ thuật, mỹ thuật (màu được chế biến từ nguyên liệu có
sẵn trong tự nhiên; giấy dó làm tranh là loại giấy làm thủ công).
Hội họa đương đại: Việc thành lập trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
năm 1924 là một bước chuyển quan trọng trong phát triển nền nghệ thuật tạo hình
đương đại của Việt Nam. Tên tuổi của lớp họa sỹ đầu tiên của Trường Cao đẳng
Mỹ thuật Đông Dương gắn liền với những tác phẩm nổi tiếng được thế giới biết
đến như “Phố cổ Hà Nội” của Bùi Xuân Phái, bức tranh lụa “Chơi ô ăn quan” của
Nguyễn Phan Chánh, “Em Thúy” của Trần Văn Cẩn hay “Thiếu nữ bên hoa Huệ”
của Tô Ngọc Vân, tranh sơn mài “Bên Hồ Gươm” của Nguyễn Gia Trí, tranh sơn
mài “Tiễn anh khóa đi thi” của Tô Ngọc Vân. Đây là những kiệt tác nghệ thuật vô
giá trong kho tàng văn hóa của Việt Nam. Lớp họa sỹ ngày nay, kế tiếp lớp đàn
anh, chú trọng tiếp nhận tinh hoa nghệ thuật thế giới, đồng thời tìm tòi phong cách
thể hiện mới cho hội họa Việt Nam như sơn dầu, sơn mài, tranh lụa... Tên tuổi lớp
họa sỹ này được nhiều người biết đến thông qua những tác phẩm của họ là Lưu
Công Nhân, Phạm Công Thành, Nguyễn Thụ, Đặng Xuân Hòa, Thành Chương...
đang góp phần làm phong phú thêm kho tàng mỹ thuật đương đại Việt Nam.
Điêu khắc cổ: Trong di sản nghệ thuật truyền thống, điêu khắc có một lịch
sử phát triển liên tục và cô đúc hình ảnh con người Việt Nam từng miền, từng thời,
dù dưới dạng thần linh hay con người thế tục. Nền điêu khắc cổ Việt Nam rất đa
dạng nhưng chủ yếu tồn tại các bộ phận điêu khắc sau: Điêu khắc thời tiền sử với
những hình điêu khắc trên đá, trong hang động, trên trống đồng, các đồ gia
dụng…; điêu khắc vương quốc Phù Nam và Chân Lạp ở Nam Bộ; điêu khắc Chăm
Pa ở Trung Nam Bộ; điêu khắc Đại Việt ở Bắc Bộ; điêu khắc nhà mồ của thổ dân

Tây Nguyên. Mặc dù trải qua bao năm tháng chiến tranh, nhưng hiện nay ở nhiều
nơi trên đất nước Việt Nam vẫn bảo tồn được nhiều đình, chùa miếu mạo với nhiều
tượng Phật và các phù điêu.
Thủ công mỹ nghệ truyền thống : Nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống của
Việt Nam có lịch sử lâu đời và phong phú với nhiều mặt hàng nổi tiếng cả trong và
ngoài nước. Các sản phẩm gốm, sơn mài, lụa, mây tre… có mặt tại nhiều nơi trên
thế giới và được ưa chuộng. Một số nghề vẫn còn lưu giữ và phát triển tới ngày
Khoa QTKD – Đại Học Yersin Đà Lạt 13
Xây Dựng Văn Hoá Công Ty
hôm nay, tạo ra công ăn việc làm và thu nhập cho nhiều lao động, đóng góp lớn
cho xuất khẩu như nghề làm gốm, dệt lụa, sơn mài, đan lát mây tre, đan nón, đúc
đồng, làm đồ gỗ…
Nổi bật trong số các nghề truyền thống là: Nghề gốm với nhiều loại sản phẩm khác
nhau phục vụ nhu cầu dân dụng và công nghiệp. Ở Việt Nam có nhiều nơi làm
nghề gốm như Bắc Giang, Bắc Ninh, Quảng Ninh, Đồng Nai, Đồng Tháp và Bát
Tràng của Hà Nội, gốm Chăm. Nghề dệt lụa: xuất hiện từ rất sớm trên khắp đất
nước Việt Nam, nhưng nổi tiếng và còn bảo tồn và phát triển tới ngày hôm nay có
Vạn Phúc (Hà Đông), Phương Tành - Trực Ninh (Nam Định). Từ thế kỷ XV, lụa
Việt Nam đã theo chân các thương gia và được nhiều nơi trên thế giới biết đến.
Nghề đan lát mây tre: Với lịch sử hàng nghìn năm, nghề này gắn liền với các loại
nguyên liệu tự nhiên sẵn có tại khắp các miền trên đất nước Việt Nam. Bàn tay
khéo léo của người thợ thủ công Việt Nam đã cho ra đời nhiều mẫu mã đẹp, hấp
dẫn như bàn ghế, gường tủ, khay bàn hoa quả, lẵng cắm hoa…. Những địa phương
nổi tiếng làm những mặt hàng này phải kể đến Hà Tây, Thanh Hóa.
1.2 Đăc trưng văn hoá 3 miền .
Miền Nam
Trong nền văn hóa chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam thì mỗi dân
tộc, mỗi vùng miền lại có nét văn hóa riêng rất độc đáo, đa dạng và phong phú.
Nam bộ tuy là vùng đất tổ tiên ta mới khai phá lập nghiệp hơn 300 năm, nhưng
văn hóa của nông thôn Nam bộ bắt nguồn từ nền văn hóa chung của cộng đồng

dân tộc Việt Nam có hơn 2000 năm lịch sử.
Những người nông dân có mặt ở vùng đất Nam bộ này hơn 200 năm trước
đây là những nông dân đến từ nhiều vùng ở miền Trung, miền Bắc. Tuy buổi đầu
lập nghiệp trên vùng đất hoang sơ trăm đắng ngàn cay bời rừng thiêng nước độc,
thú dữ, người nông dân thiếu cả công cụ, phương tiện lao động… nhưng mọi
người kiên cường bám trụ “đến đây thì ở tại đây trăm năm bám rễ xanh cây không
về”. Tấm lòng người nông dân Nam bộ xưa nay luôn đức độ bao dung, sẵn sàng
tha thứ cho những ai biết hối cải lỗi lầm, nhưng cũng không tha thử kẻ gian ác,
điêu ngoa. Họ coi trọng nhân-nghĩa-trí-dũng-liêm, lòng thương người bao la vô
tận, nhưng rất ghét bọn gian tà, tham nhũng, xu nịnh, những kẻ “tham phú phụ
bần”
Nền kinh tế Nam Bộ ngày càng phát triển, đường giao thông ngày càng
thuận lợi, sự giao lưu kinh tế, văn hóa, xã hội của nông dân các làng quê ngày
Khoa QTKD _ Đại Học Yersin Đà Lạt14

×