Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Giải pháp nguồn vốn ODA có hoàn lại của Tổ chức Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 100 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ




NGUYỄN QUANG THÍA




GIẢI PHÁP NGUỒN VỐN ODA CÓ HOÀN LẠI
CỦA TỔ CHỨC HỢP TÁC QUỐC TẾ
NHẬT BẢN (JICA) TẠI VIỆT NAM




LUẬN VĂN THẠC SỸ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG






Hà Nội, năm 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ



NGUYỄN QUANG THÍA


GIẢI PHÁP NGUỒN VỐN ODA CÓ HOÀN LẠI
CỦA TỔ CHỨC HỢP TÁC QUỐC TẾ
NHẬT BẢN (JICA) TẠI VIỆT NAM

Chuyên ngành: Tài chính và Ngân hàng
Mã số: 60 34 20


LUẬN VĂN THẠC SỸ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN XUÂN THIÊN




Hà Nội, năm 2012


MỤC LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU

DANH MỤC HÌNH VẼ
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGUỒN VỐN
ODA VÀ GIẢI NGÂN NGUỒN VỐN ODA 6
1.1. TỔNG QUAN VỀ ODA
6
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của ODA 6
1.1.2. Ưu điểm và mặt trái của ODA 10
1.1.3. Phân loại ODA 13
1.1.4. Ý nghĩa của nguồn vốn ODA đối với Việt nam và các nước đang
phát triển 15
1.1.5. Các điều kiện ràng buộc khi sử dụng ODA 20
1.1.6. Những xu hướng mới của ODA trên thế giới 23
1.2. QUÁ TRÌNH GIẢI NGÂN NGUỒN VỐN VAY ODA
24
1.2.1. Khái niệm 24
1.2.2. Quy trình giải ngân nguồn vốn vay ODA 25
1.2.3. Các nhân tố tác động đến việc giải ngân vốn vay ODA 27
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH GIẢI NGÂN VỐN VAY ODA
CỦA TỔ CHỨC HỢP TÁC QUỐC TẾ NHẬT BẢN TẠI VIỆT NAM 31
2.1 KHÁI QUÁT VỀ TỔ CHỨC HỢP TÁC QUỐC TẾ NHẬT BẢN - JICA
. 31
2.1.1 Lịch sử ra đời và hoạt động của JICA 31
2.1.2 Mối quan hệ Việt Nam – JICA 32
2.1.3 Quy trình, thủ tục vay vốn ODA của JICA 33
2.2. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG GIẢI NGÂN ODA CỦA JICA Ở VIỆT NAM
38
2.2.1 Tình hình thu hút và phân bổ vốn vay ODA-JICA tại Việt Nam 38



2.2.2 Về thực trạng giải ngân vốn vay ODA - JICA ở Việt Nam 48
2.3. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH GIẢI NGÂN VỐN VAY ODA-JICA Ở VIỆT NAM
TRONG THỜI GIAN QUA
53
2.3.1. Một số kết quả đạt được 53
2.3.2. Những hạn chế cần khắc phục 58
2.3.3. Nguyên nhân của các hạn chế 60
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY QUÁ TRÌNH GIẢI NGÂN VỐN
VAY ODA CỦA TỔ CHỨC HỢP TÁC QUỐC TẾ NHẬT BẢN TẠI VIỆT
NAM 64
3.1. ĐỊNH HƯỚNG THU HÚT VÀ SỬ DỤNG ODA TRONG THỜI GIAN TỚI
64
3.1.1. Quan điểm của chính phủ hiện nay về ODA 64
3.1.2. Những định hướng nhằm thu hút, sử dụng ODA 65
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY VIỆC GIẢI NGÂN VỐN VAY ODA-
JICA TẠI VIỆT NAM
69
3.2.1. Các giải pháp chung 69
3.2.2. Các giải pháp cụ thể 73
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
81
3.3.1. Kiến nghị đối với cơ quan Nhà nước và Nhà tài trợ JICA 81
3.3.2. Kiến nghị đối với chủ dự án sử dụng ODA-JICA 83
3.3.3. Kiến nghị đối với các Ngân hàng thương mại tại Việt Nam 83
KẾT LUẬN 85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 87
PHỤ LỤC




DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Viết tắt Nguyên nghĩa
ODA Hỗ trợ phát triển chính thức
JICA Tổ chức hợp tác quốc tế Nhật Bản
BQLDA Ban quản lý dự án
ADB Ngân hàng phát triển Châu Á
WB Ngân hàng phát triển thế giới
NGO Tổ chức phi chính phủ
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài






DANH MỤC BẢNG

Số TT Tên bảng Trang
Bảng 2.1 Các khoản vay cam kết theo ngành và năm 44
Bảng 2.2 Giải ngân theo các ngành kinh tế 50



DANH MỤC CÁC HÌNH

Số TT Tên hình Trang
Hình 2.1
Viện trợ phát triển chính thức ODA của Nhật Bản
cho Việt Nam


40
Hình 2.2 Cơ cấu ODA Nhật Bản theo loại hình viện trợ 41

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bất kỳ một nền kinh tế nào, muốn phát triển, tăng trưởng nhanh chóng
và bền vững, trước hết phải tập trung đáp ứng nhu cầu về vốn. Chính vì lẽ đó,
người ta cho rằng, vốn có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, không chỉ đóng vai trò
như là yếu tố mở đầu, yếu tố tham gia, yếu tố điều chỉnh mà còn là yếu tố
quyết định đối với mọi quá trình sản xuất từ hình thái kinh tế đơn giản nhất
đến hình thái kinh tế hiện đại, tinh vi và phức tạp nhất. Điều này không chỉ
đúng với các nước phát triển mà còn đúng đối với các nước đang phát triển,
Vốn cho sự phát triển được hình thành từ nguồn vốn trong nước, từ bản
thân nền kinh tế tạo ra và huy động được và nguồn vốn từ bên ngoài, thông
qua các hình thức vay nợ, viện trợ
Mặc dù vốn có từ trong nước là nguồn vốn chủ yếu nhưng nguồn vốn từ
bên ngoài có vai trò quan trọng, đóng góp rất nhiều cho tăng trưởng ở các
nước đang phát triển, đặc biệt ở thời kỳ đầu cất cánh. Lợi ích mang lại của các
nguồn tài chính nước ngoài không chỉ ở quy mô về vốn thu nhận được mà còn
ở vai trò tác động lan tỏa của nó khi chuyển giao và tiếp nhận công nghệ hiện
đại, gồm cả công nghệ mới nhất, nhằm thúc đẩy năng lực cạnh tranh trong
nước, cải thiện cơ sở hạ tầng và tạo sức ép cải thiện về thể chế.
Nguồn vốn nước ngoài thường bao gồm vốn phát triển chính thức
(Official Development Finance – ODF ) và các dòng vốn tư nhân. ODF lại
bao gồm chủ yếu phần cho vay chính thức giữa các quốc gia và viện trợ trong
đó ODA (Official Development Assistance)- chiếm tỷ trọng chủ yếu trong
nguồn ODF


là nguồn vốn quan trọng cho các nước đang phát triển trong thời
kỳ đầu của quá trình công nghiệp hóa trong đó có Việt Nam.

2

Nguồn ODA với ưu thế là một nguồn vốn tập trung lớn chủ yếu dành
cho những lĩnh vực hết sức cần thiết cho tăng trưởng và phát triển như cơ sở
hạ tầng kinh tế (giao thông, năng lượng ), cơ sở hạ tầng xã hội (giáo dục, y
tế, xoá đói giảm nghèo) và phát triển nguồn nhân lực Thời gian qua Việt
Nam đã có được sự giúp đỡ quỹ báu từ nguồn ODA của các nhà tài trợ trong
đó có Tổ chức hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA), một tổ chức có mối quan hệ
rất tốt với Việt Nam, với nguồn hỗ trợ lớn nhất, có đóng góp vô cùng quan
trọng đối với phát triển kinh tế Việt Nam đặc biệt là khi Việt Nam cũng như
một số Nhà tài trợ cho Việt Nam gặp phải những khó khăn do khủng hoảng
Tài chính - tiền tệ mang lại.
Hiện nay, JICA là Nhà tài trợ có khối lượng cam kết cho vay lớn nhất
đối với Việt Nam. Tuy nhiên, so với số vốn được cam kết và ký kết thì tốc độ
giải ngân trên thực tế của nguồn vốn này là thấp hơn mức trung bình của các
nước trong khu vực. Điều này ảnh hưởng tới tổng số ODA được giải ngân nói
riêng và sự tăng trưởng nền kinh tế Việt Nam nói chung.
Xuất phát từ thực trạng đó, tôi đã chọn đề tài ”Giải ngân nguồn vốn
ODA của Tổ chức hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) tại Việt Nam” cho luận
văn cao học của mình. Đề tài được thực hiện với mong muốn góp phần giải
quyết những hạn chế, vướng mắc gây cản trở tiến độ giải ngân nguồn vốn
ODA ở Việt Nam và hướng tới tối đa hóa hiệu quả sử dụng vốn trong đầu tư
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
2. Tình hình nghiên cứu:
Liên quan đến nguồn vốn ODA Nhật Bản đã có nhiều đề tài, báo cáo
tham luận, sách báo và tạp chí đề cập đến việc nghiên cứu dưới các góc độ,

các ngành nghề khác nhau trong đó:



3

Một số nghiên cứu trong nước:
- Lương Mạnh Hùng: “Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA tại Bộ
Nông nghiệp và phát triển nông thôn”- Luận văn thạc sỹ kinh tế
- Nguyễn Thu Trang “Vai trò của Hỗ trợ Phát triển Chính thức (ODA)
Nhật Bản đối với một số nước Châu Á Thái Bình Dương và Việt Nam”- luận
văn thạc sỹ
- Luận văn của tác giả Nguyễn Mạnh Hà: “ODA đối với quá trình phát
triển nền kinh tế Việt Nam”;
- Nguyễn Thái Vũ: “Thu hút và sử dụng ODA trong phát triển cơ sở hạ
tầng giao tông vận tải Việt Nam”, luận văn Thạc sỹ
- Phạm Thị Phương Thảo: “Tình hình quản lý các dự án sử dụng vốn
ODA tại Ban quản lý dự án 5 - Bộ Giao thông vận tải” – đề tài nghiên cứu Bộ
giao thông vận tải
Nghiên cứu của các tác giả nước ngoài:
- Dennis D. Trinidad: “Tổng quan về chính sách ODA của Nhật Bản”
năm 2003.
- Michiko Yamashita (Viện Nghiên cứu Kinh tế và Xã hội, Văn phòng
Office); bài tham luận “ODA Nhật Bản Thích ứng với các vấn đề và thách
thức của môi trường trợ giúp mới”, năm 2005
- Takamasa Akiyama (Cố vấn cao cấp, Viện Nghiên cứu Phát triển Quốc
tế, FASID) và Takehiko Nakao (Bộ trưởng, Đại sứ quán Nhật Bản
tại Washington DC): “Nghiên cứu đánh giá ODA của Nhật Bản cho
Việt Nam” theo yêu cầu của Bộ Ngoại giao, Nhật Bản.
- Kaoru Hayashi: đề tài nghiên cứu “Xu hướng hỗ trợ phát triển sau

khủng hoảng” , Trường Đại học Bunkyo, Nhật Bản

4

Các nghiên cứu đã nêu trên chủ yếu đề cập đến việc sử dụng nguồn vốn
ODA tại Việt Nam, tập trung vào các giải pháp để nâng cao hiệu quả quản lý,
sử dụng và thu hút nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) nói chung.
Tuy nhiên các công trình này chưa nghiên cứu sâu về tình hình giải ngân
nguồn vốn ODA có hoàn lại của tổ chức JICA tại Việt Nam. Đó cũng là lý do
tác giả luận văn lựa chọn đề tài này để thực hiện với mong muốn hiểu rõ hơn
về thực trạng giải ngân vốn vay ODA và đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm
thúc đẩy quá trình giải ngân nguồn vốn quan trọng này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận cơ bản về vốn vay hỗ trợ phát triển chính
thức (ODA), xây dựng khung phân tích áp dụng cho nghiên cứu về giải ngân
nguồn vốn ODA của JICA ở Việt Nam
- Phân tích thực trạng giải ngân nguồn vốn ODA của JICA ở Việt Nam
thời gian qua. Tìm ra những ưu điểm và hạn chế tồn tại trong quá trình giải
ngân nguồn vốn này.
- Đề xuất các giải pháp cụ thể cũng như những kiến nghị nhằm đẩy
nhanh tiến trình giải ngân nguồn vốn ODA-JICA với mục đích tối đa hóa hiệu
quả sử dụng nguồn vốn ODA này, phù hợp hơn với xu hướng và yêu cầu phát
triển nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là giải ngân nguồn vốn ODA.
- Phạm vi của đề tài: tập trung nghiên cứu chủ yếu tình hình giải ngân
nguồn vốn vay ODA của JICA tại Việt Nam từ năm 1996 đến 2009.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn là phương pháp
duy vật biện chứng, phương pháp so sánh, phân tích các thông tin và số liệu


5

thống kê, suy luận. Luận văn còn sử dụng các tài liệu, các kết quả nghiên cứu
trong và ngoài nước về các vấn đề có liên quan.
6. Dự kiến đóng góp mới của luận văn
- Luận văn đã hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về vốn vay hỗ trợ
phát triển chính thức (ODA), phân tích các nhân tố tác động đến quá trình giải
ngân nguồn vốn ODA, dự kiến xu hướng ODA trong những năm tới, mối
quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và JICA trong vấn đề viện trợ vốn vay ODA.
- Đánh giá thực trạng quá trình giải ngân vốn vay ODA-JICA, phân tích
các mặt ưu nhược điểm, nguyên nhân dẫn đến chậm trễ tiến độ giải ngân
nguồn vốn này.
- Đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm khắc phục các hạn chế về giải
ngân nguồn vốn vay ODA của JICA.

6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được kết
cấu thành 3 chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nguồn vốn ODA và giải
ngân nguồn vốn ODA
Chương 2: Thực trạng quá trình giải ngân vốn vay ODA của Tổ chức
hợp tác quốc tế Nhật Bản tại Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp thúc đẩy quá trình giải ngân vốn vay ODA của Tổ
chức hợp tác quốc tế Nhật Bản tại Việt Nam.

6

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ

NGUỒN VỐN ODA VÀ GIẢI NGÂN NGUỒN VỐN ODA
1.1. Tổng quan về ODA
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của ODA
1.1.1.1. Khái niệm ODA
Từ khi tiền tệ xuất hiện trong lưu thông, việc vay mượn lẫn nhau giữa
các nước ngày càng trở nên phổ biến mặc dù phải trải qua nhiều khâu trung
gian. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, kế hoạch Marshall của Mỹ là sự mở đầu
cho việc cung cấp viện trợ không hoàn lại hay các khoản tín dụng ưu đãi cho
các nước Tây Âu nhằm giúp các nước này khắc phục hậu quả chiến tranh.
Tiếp đó, tại Hội nghị Colombo năm 1955, những ý tưởng và nguyên tắc đầu
tiên về hợp tác phát triển đã được hình thành. Lúc này sự đóng góp của những
nước phát triển cho quá trình tăng trưởng kinh tế của những nước nghèo
không chỉ mang tính tự giác mà đã trở nên bắt buộc.
Ngày 14/12/1960 tại Paris, tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển
(Organisation for Economic Cooporation and Development – OECD) ra đời
với sự tham gia của 20 nước thành viên đều là các nước phát triển. Đồng thời
OECD cũng lập ra Ủy ban hỗ trợ phát triển (Development Assistance
Committee – DAC) với cam kết giúp đỡ các nước nghèo phát triển kinh tế và
nâng cao hiệu quả đầu tư. Tổ chức này đã đặt ra yêu cầu cho các thành viên
của mình mối năm dành ít nhất 0,7% GNP để hỗ trợ cho các nước chậm phát
triển. Tuy nhiên, thực tế con số này chỉ đạt ở mức bình quân là 0,3% đến
0,4% GNP.
Như vậy, nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (Official Development
Assistance - ODA) là một khái niệm mới chỉ xuất hiện cách đây vài thập kỷ.

7

Hiện nay có nhiều khái niệm khác nhau về Hỗ trợ phát triển chính thức
(ODA). Có một định nghĩa chính thức được Uỷ ban Hỗ trợ Phát triển (DAC)
thuộc OECD đưa ra đồng thời được nhiều quốc gia và tổ chức tài chính trên

thế giới sử dụng, đó là: “Hỗ trợ phát triển chính thức bao gồm tất cả các
khoản viện trợ không hoàn lại và các khoản cho vay của các chính phủ, các tổ
chức quốc tế và các tổ chức phi chính phủ dành cho các nước đang và chậm
phát triển, có các đặc điểm sau: (a) được thực hiện nhằm thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế và sự thịnh vượng của các nước đang và chậm phát triển theo
đúng mục tiêu của nguồn vốn này; (b) có yếu tố không hoàn lại (hay còn gọi
là “thành tố hỗ trợ”) đạt ít nhất 25%”. [2]
Theo Quy chế quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức ban
hành kèm theo Nghị định 17/2001/NĐ-CP ngày 04/05/2001 của Chính phủ thì
ODA được định nghĩa là: “Hỗ trợ phát triển chính thức được hiểu là hoạt
động hợp tác phát triển giữa Nhà nước hoặc Chính phủ nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt nam với Nhà tài trợ, bao gồm: (a) Chính phủ nước ngoài;
(b) Các tổ chức liên chính phủ hoặc liên quốc gia”. [9]
Đối với Việt Nam, ODA là một trong những nguồn vốn nước ngoài quan
trọng cho đầu tư và phát triển, là một nguồn thu của Ngân sách Nhà nước,
phải được hạch toán vào Ngân sách và quản lý theo quy định của Luật Ngân
sách Nhà nước và các văn bản hướng dẫn Luật.
1.1.1.2. Đặc điểm của ODA
a. Vốn ODA mang tính ưu đãi:
Vốn ODA có thời gian cho vay (hoàn trả vốn) và thời gian ân hạn dài.
Chẳng hạn, vốn ODA của WB, ADB, JBIC có thời gian hoàn trả là 40 năm và
thời gian ân hạn là 10 năm. Thông thường, trong ODA có thành tố viện trợ
không hoàn lại (cho không), đây cũng chính là điểm phân biệt giữa viện trợ
và cho vay thương mại. Thành tố cho không được xác định dựa vào thời gian

8

cho vay, thời gian ân hạn và so sánh lãi suất viện trợ với mức lãi suất tín dụng
thương mại.
Sự ưu đãi ở đây là so sánh với tập quán thương mại quốc tế. Sự ưu đãi

còn thể hiện ở chỗ vốn ODA chỉ dành riêng cho các nước đang và chậm phát
triển, vì mục tiêu phát triển. Có hai điều kiện cơ bản nhất để các nước đang và
chậm phát triển có thể nhận được ODA là:
Điều kiện thứ nhất: Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người
thấp. Nước có GDP bình quân đầu người càng thấp thì thường nhận được tỷ
lệ viện trợ không hoàn lại càng lớn và khả năng vay với lãi suất thấp và thời
hạn ưu đãi càng lớn.
Điều kiện thứ hai: Mục tiêu sử dụng vốn ODA của các nước này phải
phù hợp với chính sách và phương hướng ưu tiên xem xét trong mối quan hệ
giữa bên cấp và bên nhận ODA. Thông thường, các nước cung cấp ODA đều
có những chính sách và ưu tiên riêng của mình, tập trung vào một số lĩnh vực
mà họ quan tâm hay có khả năng kỹ thuật và tư vấn. Đồng thời, đối tượng ưu
tiên của các nước cung cấp ODA cũng có thể thay đổi theo từng giai đoạn cụ
thể. Vì vậy, nắm bắt được xu hướng ưu tiên và tiềm năng của các nước, các tổ
chức cung cấp ODA là việc làm rất cần thiết.
Về thực chất, ODA là sự chuyển giao có hoàn lại hoặc không hoàn lại
trong những điều kiện nhất định một phần tổng sản phẩm quốc dân từ các
nước phát triển sang các nước đang phát triển. Do vậy, ODA rất nhạy cảm về
mặt xã hội và chịu sự điều chỉnh của dư luận xã hội từ phía nước cung cấp
cũng như từ phía nước tiếp nhận ODA.
b. Vốn ODA mang tính ràng buộc:
ODA có thể ràng buộc (hoặc ràng buộc một phần hoặc không ràng buộc)
nước nhận về địa điểm chi tiêu. Ngoài ra mỗi nước cung cấp viện trợ cũng
đều có những ràng buộc khác và nhiều khi các ràng buộc này rất chặt chẽ đối

9

với nước nhận. Ví dụ, Nhật Bản quy định vốn ODA của mình được thực hiện
bằng đồng Yên Nhật.
Vốn ODA mang yếu tố chính trị: Các nước viện trợ nói chung đều không

quên dành được lợi ích cho mình vừa gây ảnh hưởng chính trị vừa thực hiện
xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ tư vấn vào nước tiếp nhận viện trợ. Chẳng hạn,
Bỉ, Đức và Đan Mạch yêu cầu khoảng 50% viện trợ phải mua hàng hoá dịch
vụ của nước mình. Trong khi đó, Canada yêu cầu tới 65%.
Kể từ khi ra đời cho tới nay, viện trợ luôn chứa đựng hai mục tiêu cùng
tồn tại song song. Mục tiêu thứ nhất là thúc đẩy tăng trưởng bền vững và
giảm nghèo ở các nước đang phát triển. Bản thân các nước phát triển nhìn
thấy lợi ích của mình trong việc hỗ trợ, giúp đỡ các nước đang phát triển để
mở mang thị trường tiêu thụ sản phẩm và thị trường đầu tư. Viện trợ thường
gắn với các điều kiện kinh tế xét về lâu dài, các nhà tài trợ sẽ có lợi về mặt an
ninh, kinh tế, chính trị khi kinh tế các nước nghèo tăng trưởng. Mục tiêu
mang tính cá nhân này được kết hợp với tinh thần nhân đạo, tính cộng đồng.
Mục tiêu thứ hai là tăng cường vị thế chính trị của các nước tài trợ. Các nước
phát triển sử dụng ODA như một công cụ chính trị: xác định vị thế và ảnh
hưởng của mình tại các nước và khu vực tiếp nhận ODA.
Ví dụ, Nhật Bản hiện là nhà tài trợ hàng đầu thế giới và cũng là nhà tài
trợ đã sử dụng ODA như một công cụ đa năng về chính trị và kinh tế. ODA
của Nhật không chỉ đưa lại lợi ích cho nước nhận mà còn mang lại lợi ích cho
chính họ. Trong những năm cuối thập kỷ 90, khi phải đối phó với những suy
thoái nặng nề trong khu vực, Nhật Bản đã quyết định trợ giúp tài chính rất lớn
cho các nước Đông Nam Á là nơi chiếm tỷ trọng tương đối lớn về mậu dịch
và đầu tư của Nhật Bản. Nhật đã dành 15 tỷ USD tiền mặt cho các nhu cầu
vốn ngắn hạn với lãi suất thấp, tính bằng đồng Yên và dành 15 tỷ USD cho

10

mậu dịch và đầu tư có nhân nhượng trong vòng 3 năm. Các khoản cho vay
tính bằng đồng Yên gắn với những dự án có các công ty Nhật tham gia.
Viện trợ của các nước phát triển không chỉ đơn thuần là việc trợ giúp
hữu nghị mà còn là một công cụ lợi hại để thiết lập và duy trì lợi ích kinh tế

và vị thế chính trị cho các nước tài trợ. Những nước cấp tài trợ đòi hỏi nước
tiếp nhận phải thay đổi chính sách phát triển cho phù hợp với lợi ích của bên
tài trợ. Khi nhận viện trợ các nước nhận cần cân nhắc kỹ lưỡng điều kiện của
các nhà tài trợ không vì lợi ích trước mắt mà đánh mất quyền lợi lâu dài.
Quan hệ hỗ trợ phát triển phải đảm bảo tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ của nhau,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
c. ODA là nguồn vốn có khả năng gây nợ:
Khi tiếp nhận và sử dụng nguồn vốn ODA do tính chất ưu đãi nên gánh
nặng nợ thường chưa xuất hiện. Một số nước do không sử dụng hiệu quả
ODA có thể tạo nên sự tăng trưởng nhất thời nhưng sau một thời gian lại lâm
vào vòng nợ nần do mất khả năng trả nợ. Vấn đề là ở chỗ vốn ODA không có
khả năng đầu tư trực tiếp cho sản xuất, nhất là cho xuất khẩu trong khi việc
trả nợ lại dựa vào xuất khẩu thu ngoại tệ. Do đó, trong khi hoạch định chính
sách sử dụng ODA phải phối hợp với các nguồn vốn để tăng cường sức mạnh
kinh tế và khả năng xuất khẩu.
1.1.2. Ưu điểm và mặt trái của ODA
Có thể dễ dàng nhận thấy nguồn vốn ODA có tính ưu đãi rất cao với mục
đích hỗ trợ phát triển như được thể hiện ở ngay trong tên của nguồn vốn này.
Tuy nhiên đây là nguồn vốn có tính 2 mặt và cần được nhận thức rõ để đảm
bảo hiệu quả và sự thành công trong việc sử dụng nguồn vốn này.[12]

11

1.1.2.1. Ưu điểm của ODA
Thứ nhất, đây là nguồn vốn bổ sung cho đầu tư phát triển. Bên cạnh các
khoản viện trợ không hoàn lại, các khoản vay ODA có thời gian trả nợ kéo dài
và có thành tố ưu đãi tối thiểu là 25%. Theo số liệu của Bộ Tài chính, từ năm
1993 đến năm 1999 Việt Nam đã ký vay ODA 11.627 triệu USD trong đó có
9.632 triệu USD (chiếm 83%) là vay với thời hạn 30-40 năm và lãi suất từ
0,75% đến 2%/năm. Thành tố hỗ trợ không hoàn lại của các khoản vay này

đạt từ 25% đến 80%. Chỉ có nguồn vốn lớn với điều kiện vay ưu đãi như vậy
Chính phủ mới có thể tập trung đầu tư cho các dự án hạ tầng kinh tế lớn như
đường xá, điện, nước, thuỷ lợi, cảng, và các dự án hạ tầng xã hội như giáo dục
y tế, có thời gian hoàn vốn lâu và tỷ lệ hoàn vốn thấp.
Thứ hai, đây là nguồn bổ sung ngoại tệ cho đất nước và bù đắp cán cân
thanh toán. Hiện nay, một số nước ASEAN có tỷ lệ tiết kiệm nội địa khá cao
tới 35-40% GDP, song tại các nước này vẫn có thâm hụt cán cân vãng lai.
Vốn ODA vào các nước này là nguồn bù đắp quan trọng cho cán cân vãng lai.
Trong điều kiện đồng tiền nội tệ không có khả năng tự do chuyển đổi thì một
dự án nếu đã chuẩn bị đủ 100% vốn đầu tư bằng nguồn vốn trong nước nhưng
nếu yêu cầu chuyển đổi tiền nội tệ ra ngoại tệ để nhập khẩu trang thiết bị cho
dự án không được đáp ứng đầy đủ thì chắc chắn dự án không khả thi. Như
vậy số tiền tiết kiệm nội địa không thể chuyển thành đầu tư. Trường hợp của
Việt Nam, vừa thiếu hụt cán cân tiết kiệm -đầu tư vừa thâm hụt cán cân thanh
toán vãng lai nên vốn ODA vào Việt Nam cùng lúc phát huy hai tác dụng.
Thứ ba, áp dụng được công nghệ tiên tiến, chất lượng cao của thế giới và
phương thức quản lý tiên tiến do có điều kiện về vốn và cũng là yêu cầu đối
với các dự án của nguồn vốn này. Từ năm 1993, khi vốn ODA bắt đầu vào
Việt Nam đến nay, rất nhiều cán bộ Việt Nam có điều kiện tiếp cận và hiểu
biết các quy trình công nghệ mới trong các lĩnh vực cầu, đường, điện, nhiều

12

công ty Việt Nam đã vươn lên đủ sức cạnh tranh với các công ty nước ngoài
và đã thắng thầu trong các cuộc đấu thầu quốc tế. Các cán bộ quản lý dự án,
các cán bộ công chức của Chính phủ làm quen dần và ngày càng hiểu rõ hơn
các quy tắc tổ chức đấu thầu quốc tế, giải ngân và quản lý thực hiện dự án. Có
thể nói các dự án phát triển là các cơ sở thử nghiệm cho các ý tưởng hay khái
niệm mới đối với một số nước, chứng minh cho Chính phủ hoặc nhân dân của
các nước đó thấy được tác dụng của những công việc như thầu khoán các dịch

vụ công cộng, vận động các nhóm những người hưởng lợi từ dự án tham gia
vào công tác quản lý, Dự án ODA cũng có thể giúp phá vỡ những quan
điểm trói buộc khu vực công cộng vào những cơ chế không hiệu quả.
Bên cạnh những ưu điểm nổi trội của nguồn vốn này thì cũng có những
mặt trái mà các nước cần chú ý để đảm bảo tình phát triển bền vững, tránh
được những khó khăn và thiệt hại lâu dài.
1.1.2.2. Mặt trái của ODA
Thứ nhất, vốn ODA trong rất nhiều trường hợp gắn liền với yếu tố chính
trị chứ không chỉ đơn thuần là các yếu tố hiệu quả kinh tế - xã hội. Đây là
thực tế đã xảy ra ở nhiều nước. Ví dụ : khi Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) yêu cầu
công khai các khoản dự trữ quốc gia cũng như yêu cầu cho họ kiểm toán
Ngân hàng Nhà nước, chúng ta đã không đồng ý và dự án đã bị chấm dứt.
Thứ hai, vốn vay ODA làm tăng gánh nặng nợ của quốc gia. Mặc dù thời
gian vay thường kéo dài 30-40 năm nhưng rồi cũng đến lúc phải trả nợ nước
ngoài bằng chính nguồn tiền trong nước. Một trong những rủi ro dễ nhận thấy
nhất là rủi ro về tỷ giá. Thực tế nhiều năm qua trên thế giới đã chỉ rõ: cái được
coi là lợi ích của các khoản ODA cho vay với lãi suất thấp và thời hạn dài
ngày hôm nay có thể không bù lại được cho những thiệt hại to lớn do sự thay
đổi bất lợi về tỷ giá hối đoái trong tương lai. Vì vậy, nếu như nước tiếp nhận
không có chính sách quản lý nợ thận trọng sẽ dẫn đến mất khả năng trả nợ.

13

Bài học kinh nghiệm từ các nước Châu Phi cho thấy từ những năm 1960 các
nước này chủ yếu là vay vốn ODA và đến cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 các
nước nghèo ở Châu Phi lâm vào khủng hoảng mất khả năng trả nợ. Cho đến
nay cộng đồng quốc tế vẫn tiếp tục tìm kiếm các biện pháp hữu hiệu giải
quyết nợ cho các nước này thông qua Câu lạc bộ Pari và các diễn đàn quốc tế
khác để giãn hoặc xoá nợ.
Thứ ba, các khoản vay ODA thường gắn với chính sách hỗ trợ cho các

doanh nghiệp của nước tài trợ nên thông thường có sự ràng buộc của các nhà
tài trợ trong việc lựa chọn dự án, thuê tư vấn, chọn nhà thầu, nhà cung ứng
hàng hoá thiết bị cho dự án. Do đó giá cả trong các hợp đồng sử dụng vốn
ODA thường cao hơn các hợp đồng cùng loại theo hình thức thương mại
thông thường. Cá biệt có trường hợp mức chênh lệch giá nói trên đến 30%.
Hơn nữa vốn ODA khi đã được chỉ định cho một số dự án nhất định thì việc
thay đổi quy mô dự án hoặc điều chuyển vốn từ dự án này sang dự án khác là
rất khó khăn hoặc không thể thực hiện được, đặt nước đi vay vào tình thế
hoặc chấp nhận dự án hoặc không được vay.
Thứ tư, các chương trình, dự án vay ODA thường có thủ tục phức tạp và
cần nhiều thời gian để được nhà tài trợ chấp thuận. Điều này dẫn đến tình
trạng thời gian thực hiện chương trình, dự án kéo dài và nghiên cứu khả thi
thường phải được xem xét lại do thời gian từ khi xây dựng ban đầu cho đến
khi được các nhà tài trợ phê duyệt và chấp nhận cách nhau khá xa. Từ đó dẫn
tới việc tăng chi phí quản lý trong toàn chương trình, dự án.
1.1.3. Phân loại ODA
1.1.3.1. Căn cứ theo tính chất
ODA không hoàn lại: là hình thức cung cấp ODA mà nước tiếp nhận
không phải hoàn lại của các nhà tài trợ. [3]

14

ODA cho vay ưu đãi (hay còn gọi là “tín dụng ưu đãi”): là hình thức
cung cấp ODA của các nhà tài trợ cho các nước vay với lãi suất và điều kiện
ưu đãi sao cho yếu tố không hoàn lại đạt không dưới 25% của tổng trị giá
khoản vay.
ODA hỗn hợp: là các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc các khoản vay
ưu đãi được cung cấp đồng thời với các khoản tín dụng thương mại nhưng
tính chung yếu tố không hoàn lại đạt không dưới 25% của tổng trị giá các
khoản vay đó.

1.1.3.2. Căn cứ theo hình thức sử dụng vốn
ODA dự án: là các khoản ODA cung cấp cho các dự án cụ thể. Loại hình
này phải tuân thủ nhiều quy định nghiêm ngặt từ phía các nhà tài trợ cũng như
yêu cầu quản lý đầu tư của nhà nước do quy mô lớn về vốn đầu tư thường là
rất lớn và thời gian sử dụng lâu hơn so với các loại hình khác.
ODA hỗ trợ kỹ thuật: có cơ cấu là cho thuê tư vấn nước ngoài, tổ chức
đào tạo, đi nghiên cứu khảo sát và thiết bị văn phòng. Đối tượng tham gia là
các cán bộ nghiên cứu, quản lý, các chuyên gia, tư vấn nước ngoài.
ODA chương trình: là loại hình cung cấp ODA để thực hiện những
chương trình nhất định lồng ghép một hoặc nhiều mục tiêu với tập hợp nhiều
dự án. Ví dụ như chương trình nông nghiệp nông thôn, chương trình tái cơ
cấu hoạt động ngân hàng,
ODA hỗ trợ ngân sách: là loại hình cung cấp ODA để hỗ trợ ngân sách
trong nước giải quyết quan trọng, thường là để trả nợ các khoản nợ cũ để tăng
uy tín và có thể tiếp tục vay các khoản vay mới.
1.1.3.3. Căn cứ theo điều kiện
ODA không ràng buộc nước nhận: việc sử dụng nguồn tài trợ không bị
ràng buộc bởi nguồn sử dụng hay mục đích sử dụng.
ODA có ràng buộc nước nhận:

15

+ Bởi nguồn sử dụng: Có nghĩa là việc mua sắm hàng hóa, trang thiết
bị hay dịch vụ bằng nguồn vốn ODA chỉ giới hạn cho một số công ty do
nước tài trợ sở hữu hoặc kiểm soát (đối với viện trợ song phương), hoặc
các công ty của các nước thành viên (đối với viện trợ đã phương).
+ Bởi mục đích sử dụng: Có nghĩa là chỉ được sử dụng cho một số
lĩnh vực nhất định hoặc một số dự án cụ thể.
ODA có ràng buộc một phần: một phần chi ở nước viện trợ, phần còn lại
chi ở bất cứ nơi nào.

1.1.3.4. Căn cứ theo nhà tài trợ
ODA song phương: là nguồn vốn ODA của chính phủ một nước cung
cấp cho chính phủ nước tiếp nhận.
ODA đa phương: là nguồn vốn ODA của các tổ chức quốc tế cung cấp
cho chính phủ nước tiếp nhận.
ODA thông qua các tổ chức phi chính phủ (NGO) và các đơn vị tư nhân:
là nguồn vốn ODA từ một NGO hoặc một đơn vị tư nhân giúp đỡ các nước
đang và chậm phát triển trong việc xóa đói, giảm nghèo.
1.1.4. Ý nghĩa của nguồn vốn ODA đối với Việt nam và các nước đang phát
triển
1.1.4.1. Nguồn vốn ODA là nguồn vốn đầu tư quan trọng
Các nhà kinh tế kinh điển cho rằng đầu tư là một trong các động lực chủ
yếu thúc đẩy phát triển kinh tế. Trong giai đoạn đầu xây dựng và phát triển
kinh tế, Việt nam cũng như các nước đang và chậm phát triển phải đối mặt
với một thách thức kìm hãm sự phát triển, đó là vốn đầu tư. Khả năng cung
ứng vốn đầu tư ở mỗi nước lại phụ thuộc vào khả năng huy động vốn từ trong
nước và khả năng huy động các nguồn vốn từ bên ngoài. Đối với các nước
đang và chậm phát triển, tích luỹ trong nước thường rất thấp nên nếu không
có nguồn vốn bên ngoài thì sẽ khó có thể phát triển kinh tế thành công.

16

Việt Nam trong thời gian qua đã chú trọng đến các nguồn vốn trong
nước, tuy nhiên vẫn chưa đủ để đảm bảo mức tăng trưởng cao. Theo số liệu
thống kê, tỷ lệ tiết kiệm trong nước của Việt Nam là 5% GDP trong năm
1990, đến năm 1999 đạt mức 18,5% GDP. Trong các năm tới tỷ lệ tiết kiệm
nội địa có thể tăng lên song không thể có đột biến do thu nhập dân cư còn ở
mức thấp, mạng lưới huy động tiết kiệm của Việt Nam đã có nhiều tiến bộ
trong thời gian vừa qua nhưng vẫn còn nhiều bất cập. Hiện nay tỷ lệ huy động
vốn trong nước thông qua kênh tiết kiệm và các khoản thu của Nhà nước

chiếm khoảng 22% GDP, trong khi đó tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội cần phải
đạt 30-35% GDP. Khoản chênh lệch này nếu không tìm được nguồn vốn nước
ngoài thì sẽ tác động tiêu cực đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. Theo dự tính của
các nhà kinh tế thì Việt Nam chỉ có thể đạt được mức tăng trưởng tối đã
khoảng 4,5%/năm nếu thiếu nguồn vốn nước ngoài.
Vốn bên ngoài có hai nguồn vốn quan trọng nhất là vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) và vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Những nước
đang và chậm phát triển thường có cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội thấp kém,
nên việc thu hút vốn FDI gặp nhiều khó khăn do hiệu quả kinh tế không cao.
Trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, nguồn vốn ODA thường
được sử dụng đầu tư cho cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội cần nhiều thời gian và
vốn đầu tư rất lớn mà vốn đầu tư trong nước quá ít không thể nhanh chóng cải
thiện được còn vốn FDI thì đòi hỏi hiệu quả nhanh chóng, đây là hạng mục
cần đi trước để tạo tiền đề cho đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước
ngoài phát huy hiệu quả hoạt động.
Ở nước ta, trong những năm gần đây Chính phủ Việt Nam đã nỗ lực cải
thiện môi trường đầu tư bằng việc cải tiến các thủ tục cấp phép, cải tiến chế
độ cấp đất cho các nhà đầu tư vv Song, theo số liệu thống kê của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư

thì tổng số vốn đăng ký FDI vào Việt Nam trong năm 2008

17

đạt hơn 64 tỷ USD, gấp gần 3 lần con số của năm 2007, trong khi sang năm
2009 con số này chỉ đạt 21,48 tỷ USD, vốn thực hiện đạt 10 tỷ USD. Đây là
mức suy giảm khá mạnh và chỉ bằng 30% so với năm 2008
.
So với một số
nước trong khu vực như Trung Quốc, Hàn Quốc và các nước ASEAN thì khả

năng cạnh tranh của Việt Nam trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài còn
khá hạn chế.
Nguyên nhân chủ yếu do hệ thống pháp luật của Việt Nam chưa đồng bộ
chưa ổn định. Hơn nữa, việc thực thi pháp luật của các ngành các cấp chưa
nghiêm, đặc biệt ở các địa phương. Về thị trường lao động thì Việt Nam thừa
lao động phổ thông nhưng lại thiếu lao động có trình độ và có tay nghề cao.
Nhiều chuẩn mực của Việt Nam về kế toán, kiểm toán, thuế, chưa có hoặc
chưa phù hợp với chuẩn mực quốc tế phần nào gây tâm lý lo ngại cho các nhà
đầu tư nước ngoài. Dự kiến trong các năm tới, cùng với tiến trình gia nhập
AFTA, với việc phê chuẩn Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ và gia nhập
WTO của Việt Nam, vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào Việt Nam có thể
khôi phục lại mức trước khủng hoảng kinh tế tại Châu Á.
Tuy nhiên, cho dù có đạt được mức đầu tư cao nhất như trước đây thì để
đạt được mục tiêu tăng trưởng GDP 8-10% trong năm năm tới thì cán cân tiết
kiệm - đầu tư vẫn còn thiếu hụt 3-5% GDP. Thực tế nguồn vốn ODA trong
giai đoạn 2006-2009 ở nước ta luôn chiếm khoảng 12-13% tổng số vốn đầu tư
từ Ngân sách Nhà nước, đóng góp một phần quan trọng cho tổng đầu tư toàn
xã hội.
Cơ cấu vốn ODA trong tổng nguồn vốn đầu tư ở nước ta chiếm khoảng
3-4% GDP và bù đắp phần thiếu hụt trong cán cân vốn đầu tư. Quan trọng
hơn là nguồn vốn này chủ yếu hình thành nên các công trình trọng điểm của
đất nước, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đầu tư vào những lĩnh vực, những vùng

18

mà các thành phần kinh tế khác không làm được hoặc không muốn làm và là
nguồn vốn có tác dụng thu hút các nguồn vốn khác, đặc biệt là vốn FDI.
Vì vậy, để đảm bảo đủ vốn cho nhu cầu phát triển kinh tế nhanh, bên
cạnh các chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, cần tìm mọi cách
thu hút và tối đã hoá hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA có nhiều ưu điểm này.

1.1.4.2. Nguồn vốn ODA giúp các nước nghèo tiếp thu những thành tựu khoa
học, công nghệ hiện đại, và phát triển nguồn nhân lực
Tiếp cận được với nguồn vốn này, các nước đang phát triển có điều kiện
tiếp nhận những công nghệ, kỹ thuật hiện đại thông qua quá trình mua sắm
máy móc, thiết bị. Được tiếp thu những kỹ thuật chuyên môn và trình độ quản
lý tiên tiến của các đối tác nước ngoài và của các nhà tài trợ trong quá trình
thực hiện chương trình, dự án hoặc thông qua hợp tác, đào tạo kỹ thuật,
Việt nam có thuận lợi khi nhà tài trợ lớn nhất là Nhật bản có nền công
nghiệp tiên tiến và nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật, đội ngũ chuyên gia giàu
kinh nghiệm. Trong quá trình tiếp nhận nguồn vốn ODA chúng ta cũng được
trợ giúp rất nhiều để tiếp thu những thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại,
công nghệ tiên tiến và phát triển nguồn nhân lực. Nguồn vốn ODA của Nhật
bản đã giúp nhiều nhà máy điện của nước ta đã sử dụng những thiết bị điện
tiên tiến của Nhật Bản, Thuỵ Điển; sử dụng phổ biến công nghệ cáp quang
cũng như các công nghệ viễn thông hiện đại khác của Úc, Thuỵ Điển.
1.1.4.3. Nguồn vốn ODA giúp các nước đang và chậm phát triển điều chỉnh
cơ cấu kinh tế
Hầu hết các nước này có nền công nghiệp và dịch vụ không phát triển,
sản xuất kém hiệu quả trong khi dân số tăng nhanh. Các tổ chức như Ngân
hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ quốc tế và nhiều tổ chức quốc tế khác thường
xuyên có những chương trình giúp các nước điều chỉnh cơ cấu kinh tế cho
phù hợp vào điều kiện từng nước, tạo tiền đề cho sự phát triển.

×