Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Hoàn thiện hoạt động kiểm toán tại các đơn vị sự nghiệp có thu của kiểm toán Nhà nước khu vực 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (675.47 KB, 99 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ



NGUYỄN TRƯỜNG GIANG


HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN TẠI CÁC
ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÚ THU CỦA KIỂM TOÁN
NHÀ NƯỚC KHU VỰC 1





LUẬN VĂN THẠC SĨ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG





HÀ NỘI - 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ


NGUYỄN TRƯỜNG GIANG




HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN TẠI CÁC ĐƠN VỊ SỰ
NGHIỆP CÚ THU CỦA KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC KHU VỰC 1



Chuyên ngành: Tài chính và ngân hàng
Mã số: 60.34.20


LUẬN VĂN THẠC SĨ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS ĐẶNG ĐỨC SƠN



HÀ NỘI - 2012
MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN TẠI
CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÓ THU 5

1.1. Đặc điểm quản lý tài chính của các đơn vị sự nghiệp có thu. 5

1.1.1. Đơn vị sự nghiệp có thu. 5

1.1.2. Vai trò của đơn vị sự nghiệp có thu trong hệ thống NSNN 6

1.1.3. Đặc điểm về cơ chế tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu 8


1.1.4. Xu hướng đổi mới hoạt động của các đơn vị sự nghiệp có thu. 15

1.2. Vai trò của KTNN 18

1.2.1. Chức năng, nhiệm vụ của KTNN khu vực trong nhiệm vụ kiểm toán các
đơn vị sự nghiệp có thu. 18

1.2.2. Chất lượng hoạt động KTNN. 22

1.3. Những vấn đề đặt ra nhằm nâng cao hiệu quả kiểm toán tại các đơn
vị sự nghiệp có thu của KTNN khu vực. 24

1.3.1. Nội dung và phương pháp kiểm toán. 24

1.3.2. Đảm bảo tính độc lập, khách quan trong hoạt động kiểm toán 25

1.3.3. Nâng cao giá trị pháp lý của Báo cáo kiểm toán 26

1.3.4. Đào tạo, xây dựng đội ngũ kiểm toán viên. 26

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN TẠI CÁC
ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÓ THU 27

2.1. Thực trạng hoạt động của các đơn vị sự nghiệp có thu 27

2.1.1. Tình hình quản lý, khai thác và sử dụng các khoản thu phí, lệ phí và các
khoản thu khác tại các đơn vị sự nghiệp hiện nay. 27

2.1.2. Tình hình chế độ thu – nộp, ghi thu ghi chi NSNN. 43


2.1.3. Những bất cập trong cơ chế, chính sách ảnh hưởng đến hoạt động của
các đơn vị sự nghiệp có thu 45

2.2. Thực trạng hoạt động kiểm toán tại các đơn vị sự nghiệp có thu 51

2.2.1. Phạm vi, đối tượng và nội dung kiểm toán tại các đơn vị sự nghiệp
có thu 51

2.2.2. Các phương pháp kiểm toán đơn vị sự nghiệp có thu hiện nay 58

2.2.3. Chu trình, quy định kiểm toán nghiệp vụ thu. 65

2.2.4. Năng lực, trình độ của kiểm toán viên đối với kiểm toán các đơn vị sự
nghiệp có thu. 67

2.2.5. Một số kết quả đạt được khi kiểm toán các đơn vị sự nghiệp có thu 70

CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG
KIỂM TOÁN TẠI CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÓ THU. 75

3.1. Một số giải pháp nhằm tăng cường hoạt động các đơn vị sự
nghiệp có thu 75

3.1.1. Hoàn thiện cơ sở pháp lý và giải quyết các bất cập trong cơ chế quản lý
tài chính tại các đơn vị sự nghiệp có thu 77

3.1.2. Hoàn thiện hệ thống kiểm toán nội bộ tại đơn vị sự nghiệp có thu 80

3.2. Tăng cường sự phối hợp của KTNN và các cơ quan chuyên môn. 83


3.3. Hoàn thiện các vấn đề về nội dung kiểm toán, phạm vi kiểm toán 84

3.3.1. Đổi mới phương pháp kiểm toán 86

3.3.2. Nâng cao năng lực, trình độ, đạo đức hành nghề của kiểm toán viên và
tăng cường kiểm tra, giám sát các hoạt động kiểm toán. 86

3.3.3. Tăng cường công tác kiểm tra việc thực hiện kiến nghị của KTNN. 87

3.3.4. Một số giải pháp khác 88

KẾT LUẬN 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………91

PHỤ LỤC

i
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

STT Kí hiệu viết tắt Nguyên nghĩa
1 KTNN Kiểm toán Nhà nước
2
NSNN Ngân sách Nhà nước
3
NSĐP Ngân sách địa phương
























ii
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

TT MỤC LỤC NỘI DUNG TRANG

1 Biểu đồ 2.1 Yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán 56
2 Biểu đồ 2.2 Mức độ đáp ứng về nội dung, mục tiêu kiểm toán 70
3 Biểu đồ 2.3 Các nội dung thường sảy ra sai phạm 71
4 Biểu đồ 2.4 Các kiến nghị xử lý vi phạm chủ yếu 73

1

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc quản lý, sử dụng có hiệu quả nguồn lực luôn là vấn đề đặt ra đối
với mỗi quốc gia, điều đó đòi hỏi mỗi quốc gia phải sử dụng rất nhiều công cụ
khác nhau trong kiểm tra, kiểm soát tài chính Nhà nước mà trọng tâm là Ngân
sách Nhà nước (NSNN). Trong đó Kiểm toán ngân sách địa phương (NSĐP)
là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của KTNN khu vực, kiểm toán NSĐP đã
từng bước góp phần quan trọng trong việc chấn chỉnh và nâng cao chất lượng
công tác quản lý tài chính, quản lý và sử dụng NSNN và lành mạnh hóa nền
tài chính quốc gia.
NSĐP được quản lý theo nguyên tắc tự cân đối điều đó có nghĩa NSĐP
phải có nguồn thu để đảm bảo cho các nhiệm vụ chi. Trong các nguồn thu của
NSĐP thì thu từ các đơn vị sự nghiệp có thu là nguồn thu khá ổn định và
chiếm tỷ lệ không nhỏ trong tổng thu NSĐP. Đặc điểm này cho thấy kiểm
toán các đơn vị sự nghiệp có thu là một trong những trọng tâm trong hoạt
động kiểm toán NSNN tại các địa phương.
Tuy KTNN đã ban hành quy trình kiểm toán NSNN và các KTNN khu
vực cũng đã kiểm toán nhiều đơn vị sự nghiệp có thu ở những lĩnh vực khác
nhau nhưng việc tổng kết rút kinh nghiệm, đưa ra các giải pháp để nâng cao
chất lượng kiểm toán thu sự nghiệp tại các đơn vị sự nghiệp có thu nhằm huy
động được đầy đủ nguồn thu NSNN cho các địa phương là một yêu cầu đặt ra
đối với KTNN khu vực I.
Do vậy việc nghiên cứu, đánh giá và nêu thực trạng về hoạt động kiểm
toán tại các đơn vị sự nghiệp có thu nhằm nâng cao chất lượng kiểm toán và
đảm bảo nguồn thu được phản ánh đầy đủ tại các địa phương là một yêu cầu
đặt ra đối với KTNN các khu vực I. Đề tài “Hoàn thiện hoạt động kiểm
toán tại các đơn vị sự nghiệp có thu của KTNN khu vực 1” cố gắng đưa ra
2
những phác họa ban đầu nhằm định hướng cho các Đoàn kiểm toán NSĐP tổ

chức kiểm toán các đơn vị sự nghiệp có thu đạt kết quả tốt.
2. Tình hình nghiên cứu:

- Đề tài luận văn thạc sỹ của Trần Hồng Hà “Quản lý tài chính các đơn
vị sự nghiệp có thu tại tỉnh Bình Thuận”. Tác giả cho biết sự cần thiết phải
đổi mới hoạt động của đơn vị sự nghiệp có thu nhằm lành mạnh hóa nền tài
chính quốc gia, sử dụng tiết kiệm kinh phí hành chính tăng cường hiệu quả
dịch vụ công, sắp xếp biên chế theo hướng tinh giản bộ máy để nâng cao hiệu
quả công việc, tăng thu nhập cho người lao động.
- Theo tiến sỹ Nguyễn Phú Giang (Đại học Thương mại) với đề tài
“Quản lý tài chính đơn vị sự nghiệp và những vấn đề đặt ra hiện nay”. Tác giả
đã trình bày quy trình quản lý tài chính gồm lập dự toán ngân sách, thực hiện
dự toán, quyết toán ngân sách. Qua đó có thể kiểm tra được công tác lập dự
toán, tình hình sử dụng kinh phí, quyết toán kinh phí của đơn vị có đúng quy
định không, kinh phí tiết kiệm được đơn vị có đảm bảo sử dụng đúng nội
dung và quy định không. Nếu chuyển nguồn thì chuyển nguồn kinh phí có
đúng quy định không, quyết toán ngân sách có đúng thời hạn, mẫu biểu
không…
- Theo tác giả đề tài luận văn thạc sỹ của Nguyễn Tấn Lượng “Hoàn
thiện quản lý tài chính tại các trường đại học công lập tự chủ tài chính trên địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh” để đổi mới thì Nhà nước cần tạo môi trường
pháp lý hoàn chỉnh để giúp các trường đại học nói riêng và đơn vị sự nghiệp
nói chung chủ động trong quản lý và sử dụng các nguồn lực một cách có hiệu
quả, đồng thời cần tăng cường quyền tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp để nâng
cao hiệu quả hoạt động của đơn vị.
- Theo tác giả đề tài nghiên cứu của Trịnh Ngọc Sơn “Hoàn thiện quy
trình kiểm toán chi ngân sách đối với đơn vị hành chính sự nghiệp thực hiện
3
khoán chi” đã nêu các tồn tại trong cơ chế và đưa ra các giải pháp để hoàn
thiện quy trình kiểm toán.

Các công trình, bài viết nghiên cứu trên đã đề cập đến những vấn đề
chung về công tác quản lý tài chính của các đơn vị sự nghiệp có thu, nguyên
nhân dẫn đến quản lý tài chính kém hiệu quả, và nêu ra một số giải pháp
nhằm cải thiện, nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính. Tuy nhiên, một số đề
tài nghiên cứu đã không còn tính chất thời sự do năm nghiên cứu là trước năm
2011, nhiều văn bản áp dụng đã thay đổi và chưa có đề tài nào nghiên cứu về
hoạt động kiểm toán tại các đơn vị sự nghiệp có thu của KTNN khu vực 1 .Vì
vậy, việc nghiên cứu, nêu thực trạng và đánh giá về hoạt động kiểm toán tại
các đơn vị sự nghiệp có thu của KTNN khu vực 1 để tìm giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng kiểm toán là hết sức cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Trình bày những vấn đề chung về hoạt động kiểm toán tại các đơn vị sự
nghiệp có thu.
Nghiên cứu về đặc điểm quản lý tài chính của các đơn vị sự nghiệp có
thu trong hệ thống NSNN.
Đánh giá thực trạng hoạt động của các đơn vị sự nghiệp có thu và thực
trạng kiểm toán tại các đơn vị sự nghiệp có thu trong các cuộc kiểm toán
NSĐP trong thời gian qua.
Trên cơ sở đánh giá về thực trạng hoạt động của các đơn vị sự nghiệp
có thu và thực trạng kiểm toán, đề tài đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện
hoạt động kiểm toán thu sự nghiệp tại các đơn vị sự nghiệp có thu.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đề tài chỉ tập trung vào nghiên cứu đối tượng là kiểm toán hoạt động
tài chính của các đơn vị sự nghiệp có thu thuộc NSĐP. Không đề cập đến các
đơn vị sự nghiệp có thu do cơ quan trung ương quản lý.

4
5. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài vận dụng phương pháp khảo sát điều tra, thu thập thông tin và sử
dụng bảng hỏi để thu thập số liệu thực tế.

6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn:
Đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động kiểm toán tại các
đơn vị sự nghiệp có thu.
7. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận đề tài được chia thành 03 chương
Chương 1: Lý luận chung về hoạt động kiểm toán tại các đơn vị sự
nghiệp có thu.
Chương 2: Thực trạng hoạt động kiểm toán tại các đơn vị sự nghiệp có
thu
Chương 3: Các giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động kiểm toán tại các
đơn vị sự nghiệp có thu.
5
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN TẠI
CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÓ THU
1.1. Đặc điểm quản lý tài chính của các đơn vị sự nghiệp có thu.
1.1.1. Đơn vị sự nghiệp có thu.
1.1.1.1. Khái niệm:
Ở nước ta, trong bộ máy hành chính Nhà nước, các đơn vị sự nghiệp
nói chung và các đơn vị sự nghiệp có thu nói riêng giữ một vị trí đặc biệt quan
trọng. Thời gian qua các đơn vị sự nghiệp ở cả trung ương và địa phương đã
có những đóng góp to lớn cho sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước, góp phần thực hiện thắng lợi các chương trình, mục tiêu lớn của Đảng
và Nhà nước trong xây dựng và phát triển đất nước.
Đơn vị sự nghiệp có thu định nghĩa một cách ngắn gọn là những đơn vị
sự nghiệp do các cơ quan Nhà nước, các Tổng công ty, các Tổ chức chính trị,
các Tổ chức chính trị - xã hội có thẩm quyền thành lập, hoạt động cung cấp
hàng hóa, dịch vụ công cho xã hội và có nguồn thu hợp pháp hoạt động trong
các lĩnh vực sự nghiệp Giáo dục - Đào tạo và Dạy nghề; sự nghiệp Y tế, Đảm
bảo xã hội; sự nghiệp Văn hoá - Thông tin (bao gồm cả đơn vị phát thanh
truyền hình ở địa phương), sự nghiệp Thể dục- Thể thao, sự nghiệp kinh tế và

sự nghiệp khác.
Qua phân tích có thể thấy, đơn vị sự nghiệp có thu có một số đặc điểm
cơ bản sau:
- Được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định thành lập và quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy;
- Hoạt động cung cấp hàng hóa, dịch vụ công cho cộng đồng xã hội;
- Là đơn vị dự toán độc lập, có con dấu, tài khoản và tổ chức bộ máy kế
toán riêng;
- Có nguồn thu hợp pháp.
6
1.1.1.2. Phân loại đơn vị sự nghiệp có thu:
Căn cứ vào nguồn thu sự nghiệp, đơn vị sự nghiệp được phân loại để
thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính như sau:
- Đơn vị có nguồn thu sự nghiệp tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động
thường xuyên (gọi tắt là đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm chi phí hoạt động);
- Đơn vị có nguồn thu sự nghiệp tự bảo đảm một phần chi phí hoạt
động thường xuyên, phần còn lại được NSNN cấp (gọi tắt là đơn vị sự nghiệp
tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động);
- Đơn vị có nguồn thu sự nghiệp thấp, đơn vị sự nghiệp không có
nguồn thu, kinh phí hoạt động thường xuyên theo chức năng, nhiệm vụ do
NSNN bảo đảm toàn bộ kinh phí hoạt động (gọi tắt là đơn vị sự nghiệp do
NSNN bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động).
Việc phân loại đơn vị sự nghiệp theo quy định trên được ổn định trong
thời gian 3 năm. Sau thời hạn 3 năm sẽ xem xét phân loại lại cho phù hợp.
Trong thời gian ổn định phân loại, trường hợp đơn vị sự nghiệp có thay
đổi chức năng, nhiệm vụ, tổ chức thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem
xét điều chỉnh phân loại lại cho phù hợp.
1.1.2. Vai trò của đơn vị sự nghiệp có thu trong hệ thống NSNN
Các đơn vị sự nghiệp nói chung và đơn vị sự nghiệp có thu nói riêng là
một trong những phương tiện hữu hiệu của Nhà nước nhằm thực hiện mục

tiêu không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Do
đó hoạt động của các đơn vị này dù muốn hay không thì Nhà nước phải duy
trì để thực hiện nhiệm vụ của mình, có nghĩa là NSNN phải đảm bảo kinh phí
hoạt động cho các đơn vị này. Mặt khác hoạt động của các đơn vị sự nghiệp
có thu lại thường gắn liền với các khoản thu phí, lệ phí thuộc NSNN. Điều
này cho thấy các đơn vị sự nghiệp có thu có vai trò quan trọng trong việc
đóng góp nguồn thu và đảm bảo cân đối ngân sách.
7
Trong thời kỳ bao cấp do chưa phân định rõ trách nhiệm quản lý thu,
chi và chưa có cơ chế tài chính hợp lý nhằm khuyến khích các đơn vị này tăng
thu, bảo đảm chi, nâng cao chất lượng dịch vụ, nên các đơn vị này hoạt động
trì trệ, kém hiệu quả và đã trở thành gánh nặng thật sự cho NSNN. Những
năm gần đây thực hiện đường lối mới của Đảng và Nhà nước, các đơn vị này
đã từng bước chủ động khai thác, quản lý nguồn thu, nhiều đơn vị tự trang trải
kinh phí hoạt động, đầu tư cơ sở vật chất và đóng góp nguồn thu ngày càng
lớn cho NSNN.
Hoạt động có hiệu quả của các đơn vị sự nghiệp có thu một mặt nâng
cao chất lượng dịch vụ của đơn vị này, mặt khác nó có ảnh hưởng tích cực
đến cân đối NSNN. Khả năng tự đảm bảo chi phí hoạt động của các đơn vị
này càng lớn, có nghĩa là kết quả thu phí, lệ phí và các đóng góp khác từ kết
quả hoạt động kinh doanh của các đơn vị sự nghiệp có thu cho NSNN càng
cao và phần chi của NSNN cho các đơn vị này càng nhỏ, cân đối NSNN được
đảm bảo bền vững, từ đó có thể tập trung cho chi đầu tư phát triển và các
nhiệm vụ chi khác của NSNN.
Nhằm quản lý thống nhất nguồn thu, chi và phát huy mọi khả năng của
đơn vị để cung cấp dịch vụ với chất lượng cao cho xã hội; tăng nguồn thu
nhằm từng bước giải quyết thu nhập cho người lao động; Thực hiện chủ
trương xã hội hoá trong việc cung cấp dịch vụ cho xã hội, huy động sự đóng
góp của cộng đồng xã hội để phát triển các hoạt động sự nghiệp, từng bước
giảm dần bao cấp từ NSNN, Nhà nước khuyến khích các đơn vị sự nghiệp

công lập chuyển đổi sang hoạt động theo loại hình doanh nghiệp, loại hình
ngoài công lập nhằm phát huy mọi khả năng của đơn vị trong việc thực hiện
các hoạt động của đơn vị theo quy định của pháp luật; ngày 25 tháng 4 năm
2006 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 43/2006/NĐ-CP quy định quyền tự
chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và
8
tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập. Đây là chủ trương đúng đắn và là
cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động của các đơn vị sự nghiệp có thu trong
giai đoạn hiện nay.
1.1.3. Đặc điểm về cơ chế tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu
Khác với đơn vị hành chính, sự nghiệp thuần túy sử dụng kinh phí
NSNN cấp, các đơn vị sự nghiệp có thu vừa là đơn vị thụ hưởng NSNN, vừa
là đơn vị quản lý thu phí, lệ phí thuộc NSNN và một số đơn vị còn có hoạt
động kinh doanh, liên doanh liên kết khác. Do đó cơ chế tài chính của đơn vi
sự nghiệp có thu cũng có nhiều đặc điểm riêng, biểu hiện cụ thể ở các khía
cạnh sau đây:
1.1.3.1. Về nguồn tài chính.
a. Kinh phí do NSNN cấp, gồm:
- Kinh phí bảo đảm hoạt động thường xuyên thực hiện chức năng,
nhiệm vụ đối với đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động
(sau khi đã cân đối với nguồn thu sự nghiệp); được cơ quan quản lý cấp trên
trực tiếp giao, trong phạm vi dự toán được cấp có thẩm quyền giao;
- Kinh phí thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ (đối với các
đơn vị không phải là tổ chức khoa học và công nghệ);
- Kinh phí thực hiện chương trình đào tạo bồi dưỡng cán bộ, viên chức;
- Kinh phí thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia;
- Kinh phí thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
đặt hàng (điều tra, quy hoạch, khảo sát, các nhiệm vụ khác);
- Kinh phí thực hiện nhiệm vụ đột xuất được cấp có thẩm quyền giao;
- Kinh phí thực hiện chính sách tinh giản biên chế theo chế độ do Nhà

nước quy định (nếu có);
9
- Vốn đầu tư xây dựng cơ bản, kinh phí mua sắm trang thiết bị, sửa
chữa lớn tài sản cố định phục vụ hoạt động sự nghiệp theo dự án được cấp có
thẩm quyền phê duyệt trong phạm vi dự toán được giao hàng năm;
- Vốn đối ứng thực hiện các dự án có nguồn vốn nước ngoài được cấp
có thẩm quyền phê duyệt;
- Kinh phí khác (nếu có).
b. Nguồn thu sự nghiệp; gồm:
- Phần được để lại từ số thu phí, lệ phí cho đơn vị sử dụng theo quy
định của nhà nước;
- Thu từ hoạt động dịch vụ phù hợp với lĩnh vực chuyên môn và khả
năng của đơn vị, cụ thể:
+ Sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo: Thu từ hợp đồng đào tạo với các tổ
chức trong và ngoài nước; thu từ các hoạt động sản xuất, tiêu thụ sản phẩm
thực hành thực tập, sản phẩm thí nghiệm; thu từ các hợp đồng dịch vụ khoa
học và công nghệ và các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
+ Sự nghiệp Y tế, Đảm bảo xã hội: Thu từ các hoạt động dịch vụ về
khám, chữa bệnh, phục hồi chức năng, y tế dự phòng, đào tạo, nghiên cứu
khoa học với các tổ chức; cung cấp các chế phẩm từ máu, vắc xin, sinh phẩm;
thu từ các hoạt động cung ứng lao vụ (giặt là, ăn uống, phương tiện đưa đón
bệnh nhân, khác); thu từ các dịch vụ pha chế thuốc, dịch truyền, sàng lọc máu
và các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
+ Sự nghiệp Văn hóa, Thông tin: Thu từ bán vé các buổi biểu diễn, vé
xem phim, các hợp đồng biểu diễn với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài
nước; cung ứng dịch vụ in tráng lồng tiếng, phục hồi phim; thu từ các hoạt
động đăng, phát quảng cáo trên báo, tạp chí, xuất bản, phát thanh truyền hình;
thu phát hành báo chí, thông tin cổ động và các khoản thu khác theo quy định
của pháp luật.
10

+ Sự nghiệp Thể dục, thể thao: Thu hoạt động dịch vụ sân bãi, quảng
cáo, bản quyền phát thanh truyền hình và các khoản thu khác theo quy định
của pháp luật.
+ Sự nghiệp kinh tế: Thu tư vấn, thiết kế, quy hoạch, dịch vụ nông lâm,
thuỷ lợi, thuỷ sản, giao thông, công nghiệp, xây dựng, địa chính, địa chất và
các ngành khác; các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
- Thu khác (nếu có).
- Lãi được chia từ các hoạt động liên doanh, liên kết, lãi tiền gửi ngân
hàng từ các hoạt động dịch vụ.
c. Nguồn vốn viện trợ, quà biếu, tặng, cho theo quy định của pháp
luật.
d. Nguồn khác, gồm:
- Nguồn vốn vay của các tổ chức tín dụng và vốn huy động của cán bộ,
viên chức trong đơn vị.
- Nguồn vốn tham gia liên doanh, liên kết của các tổ chức, cá nhân
trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật.
1.1.3.2. Về các nội dung chi.
Đơn vị sự nghiệp có thu được chủ động sử dụng các nguồn tài chính
của mình để đáp ứng các nhu cầu chi hoạt động thường xuyên của đơn vị theo
chức năng, nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao, chi cho các hoạt động có
thu sự nghiệp và các khoản chi thực hiện các nhiệm vụ khác được giao như:
chi thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ; Chi thực hiện chương
trình đào tạo bồi dưỡng cán bộ, viên chức; chi thực hiện chương trình mục
tiêu quốc gia; chi thực hiện các nhiệm vụ do nhà nước đặt hàng (điều tra, quy
hoạch, khảo sát, nhiệm vụ khác) theo giá hoặc khung giá do nhà nước quy
định; chi vốn đối ứng thực hiện các dự án có nguồn vốn nước ngoài theo quy
định; chi thực hiện các nhiệm vụ đột xuất được cấp có thẩm quyền giao; chi
11
thực hiện tinh giản biên chế theo chế độ do nhà nước quy định (nếu có); chi
đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm trang thiết bị, sửa chữa lớn tài sản cố định

thực hiện các dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt; chi thực hiện các dự
án từ nguồn vốn viện trợ nước ngoài; chi cho các hoạt động liên doanh, liên
kết; Các khoản chi khác theo quy định (nếu có).
- Về định mức chi:
Trên cơ sở các định mức kinh tế kỹ thuật và chế độ chi tiêu của Nhà
nước, các đơn vị sự nghiệp có thu được chủ động xây dựng tiêu chuẩn, định
mức và chế độ chi tiêu nội bộ phù hợp với hoạt động đặc thù của đơn vị. Đối
với các khoản chi quản lý, chi hoạt động nghiệp vụ thường xuyên, tùy theo
nội dung công việc, nếu xét cần thiết và có hiệu quả, thủ trưởng đơn vị có thể
quyết định mức chi cao hơn hoặc thấp hơn mức chi do Nhà nước quy định
trong phạm vi nguồn thu được sử dụng.
- Về chế độ tiền lương, tiền công của người lao động:
Nhà nước khuyến khích đơn vị sự nghiệp tăng thu, tiết kiệm chi, thực
hiện tinh giản biên chế, tăng thêm thu nhập cho người lao động trên cơ sở
hoàn thành nhiệm vụ được giao, sau khi thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với
NSNN; tuỳ theo kết quả hoạt động tài chính trong năm, đơn vị được xác định
tổng mức chi trả thu nhập trong năm của đơn vị, trong đó:
+ Đối với đơn vị tự bảo đảm chi phí hoạt động được quyết định tổng
mức thu nhập trong năm cho người lao động sau khi đã thực hiện trích lập
quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp theo quy định.
+ Đối với đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động,
được quyết định tổng mức thu nhập trong năm cho người lao động, nhưng tối
đa không quá 3 lần quỹ tiền lương cấp bậc, chức vụ trong năm do nhà nước
quy định sau khi đã thực hiện trích lập quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp.
12
+ Đối với đơn vị sự nghiệp do nhà nước đảm bảo toàn bộ kinh phí hoạt
động, được quyết định tổng mức thu nhập trong năm cho người lao động,
nhưng tối đa không quá 2 lần quỹ tiền lương cấp bậc, chức vụ trong năm do
nhà nước quy định.
Việc chi trả thu nhập cho người lao động trong đơn vị được thực hiện

theo nguyên tắc: người nào có hiệu suất công tác cao, đóng góp nhiều cho
việc tăng thu, tiết kiệm chi được trả nhiều hơn. Thủ trưởng đơn vị chi trả thu
nhập theo quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị.
Khi nhà nước điều chỉnh các quy định về tiền lương, nâng mức lương
tối thiểu; khoản tiền lương cấp bậc, chức vụ tăng thêm theo chế độ nhà nước
quy định (gọi tắt là tiền lương tăng thêm theo chế độ nhà nước quy định) do
đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm từ các khoản thu sự nghiệp và các khoản khác
theo quy định của Chính phủ.
Trường hợp sau khi đã sử dụng các nguồn trên nhưng vẫn không bảo
đảm đủ tiền lương tăng thêm theo chế độ nhà nước quy định, phần còn thiếu
sẽ được NSNN xem xét, bổ sung để bảo đảm mức lương tối thiểu chung theo
quy định của Chính phủ.
- Về lập và giao dự toán thu, chi:
Việc lập và giao dự toán thu, chi đối với các đơn vị sự nghiệp có thu
được thực hiện trong thời kỳ ổn định (03 năm).
Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao, nhiệm
vụ của năm kế hoạch, chế độ chi tiêu tài chính hiện hành; căn cứ kết quả hoạt
động sự nghiệp, tình hình thu, chi tài chính của năm trước liền kề; đơn vị lập
dự toán thu, chi năm kế hoạch; xác định phân loại đơn vị sự nghiệp; số kinh
phí đề nghị NSNN bảo đảm hoạt động thường xuyên (đối với đơn vị sự
nghiệp tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động và đơn vị sự nghiệp do NSNN
13
bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động); lập dự toán kinh phí chi không thường
xuyên theo quy định hiện hành.
Năm đầu của thời kỳ ổn định, Bộ chủ quản (đối với đơn vị sự nghiệp
trực thuộc Trung ương); Ủy ban nhân dân các cấp (đối với đơn vị sự nghiệp
trực thuộc địa phương) quyết định giao dự toán thu, chi ngân sách năm đầu
thời kỳ ổn định phân loại cho đơn vị sự nghiệp, trong phạm vi dự toán thu, chi
ngân sách được cấp có thẩm quyền giao, sau khi có ý kiến thống nhất bằng
văn bản của cơ quan tài chính cùng cấp.

Hai năm tiếp theo của thời kỳ ổn định, căn cứ vào dự toán thu, chi hoạt
động thường xuyên được Bộ chủ quản và Ủy ban nhân dân các cấp giao năm
đầu, các đơn vị sự nghiệp lập dự toán thu, chi theo nhiệm vụ và tiến độ hoạt
động hàng năm gửi Bộ chủ quản Bộ chủ quản (đối với đơn vị sự nghiệp trực
thuộc Trung ương); gửi cơ quan chủ quản địa phương (đối với đơn vị sự
nghiệp trực thuộc địa phương) và Kho bạc Nhà nước nơi giao dịch để theo
dõi, kiểm soát chi theo dự toán của đơn vị. Cơ quan chủ quản và cơ quan tài
chính không duyệt lại dự toán cho 02 năm tiếp theo của thời kỳ ổn định.
- Về trích lập và sử dụng các quỹ:
Hàng năm, căn cứ vào kết quả hoạt động tài chính, sau khi trang trải
các khoản chi phí, nộp thuế và các khoản nộp khác (nếu có) cho NSNN; nếu
còn chênh lệch thu lớn hơn chi, đơn vị sự nghiệp có thu được trích lập: Quỹ
dự phòng ổn định thu nhập, Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi và Quỹ phát triển
hoạt động sự nghiệp.
Nguồn trích lập các quỹ không bao gồm: kinh phí NSNN cấp để thực
hiện đề tài nghiên cứu khoa học; chương trình mục tiêu quốc gia; nhiệm vụ
nhà nước đặt hàng, tinh giản biên chế, tiền mua sắm sửa chữa tài sản; vốn đầu
tư xây dựng cơ bản; vốn đối ứng các dự án; vốn viện trợ; vốn thực hiện các
14
nhiệm vụ đột xuất khác và kinh phí của nhiệm vụ phải chuyển tiếp sang năm
sau thực hiện.
- Về ghi thu - ghi chi NSNN:
Theo hướng dẫn của Bộ Tài chính tại Thông tư số 81/2006/TT-BTC
ngày 06 tháng 9 năm 2006; Thông tư số 172/2009/TT-BTC ngày 26/8/2009
sửa đổi một số điểm Thông tư 81 và Thông tư số 63/2002/TT-BTC ngày
24/7/2002; Tiền thu phí, lệ phí thuộc NSNN được quản lý, sử dụng như sau:
+ Tiền phí, lệ phí do cơ quan thuế trực tiếp tổ chức thu và trường hợp tổ
chức khác thu phí, lệ phí đã được NSNN bảo đảm kinh phí cho hoạt động thu
phí, lệ phí theo dự toán hàng năm thì tổ chức thu phải nộp toàn bộ số tiền phí,
lệ phí thu được vào NSNN;

+ Trường hợp tổ chức thu chưa được NSNN bảo đảm kinh phí cho hoạt
động thu phí, lệ phí hoặc tổ chức thu được uỷ quyền thu phí, lệ phí thì tổ chức
thu được để lại một phần trong số tiền phí, lệ phí thu được để trang trải chi phí
cho việc thu phí, lệ phí; phần tiền phí, lệ phí còn lại phải nộp vào NSNN.
+ Tiền phí, lệ phí để lại cho đơn vị thu phí, lệ phí để trang trải chi phí
cho việc thu phí, lệ phí không phản ánh vào NSNN. Khoản thu này được xác
định là nguồn thu sự nghiệp của đơn vị. Khoản thu này không phải chịu thuế
thu nhập doanh nghiệp, kể cả thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung (nếu có).
Định kỳ hàng quý đơn vị phải lập báo cáo chi tiết các khoản thực thu, thực chi
theo Mục lục NSNN gửi cơ quan tài chính để thực hiện ghi thu NSNN và ghi
chi cho đơn vị.
- Về kinh phí chuyển năm sau:
Cuối năm ngân sách, các khoản kinh phí NSNN cấp bảo đảm hoạt động
thường xuyên và các khoản thu sự nghiệp chưa sử dụng hết, đơn vị được
chuyển sang năm sau để tiếp tục sử dụng
- Về mở và sử dụng tài khoản:
15
Các đơn vị sự nghiệp có thu được mở 02 tài khoản tại Kho bạc Nhà
nước, gồm:
+ Tài khoản hạn mức kinh phí để nhận kinh phí NSNN cấp.
+ Tài khoản tiền gửi để thực hiện thu, chi các khoản phí, lệ phí thuộc
NSNN nhưng đơn vị được phép giữ lại để chi theo quy định.
Đối với các khoản thu, chi của hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ
đơn vị được mở tài khoản giao dịch tại Kho bạc Nhà nước hoặc ngân hàng.
1.1.4. Xu hướng đổi mới hoạt động của các đơn vị sự nghiệp có thu.
Qua tìm hiểu các đề tài nghiên cứu có liên quan đến hoạt động của các
đơn vị sự nghiệp có thu như:
- Đề tài luận văn thạc sỹ của Trần Hồng Hà “Quản lý tài chính các đơn
vị sự nghiệp có thu tại tỉnh Bình Thuận”. Tác giả cho biết sự cần thiết phải
đổi mới hoạt động của đơn vị sự nghiệp có thu nhằm lành mạnh hóa nền tài

chính quốc gia, sử dụng tiết kiệm kinh phí hành chính tăng cường hiệu quả
dịch vụ công, sắp xếp biên chế theo hướng tinh giản bộ máy để nâng cao hiệu
quả công việc, tăng thu nhập cho người lao động.
- Theo tiến sỹ Nguyễn Phú Giang (Đại học Thương mại) với đề tài
“Quản lý tài chính đơn vị sự nghiệp và những vấn đề đặt ra hiện nay”. Tác giả
đã trình bày quy trình quản lý tài chính gồm lập dự toán ngân sách, thực hiện
dự toán, quyết toán ngân sách. Qua đó có thể kiểm tra được công tác lập dự
toán, tình hình sử dụng kinh phí, quyết toán kinh phí của đơn vị có đúng quy
định không, kinh phí tiết kiệm được đơn vị có đảm bảo sử dụng đúng nội
dung và quy định không. Nếu chuyển nguồn thì chuyển nguồn kinh phí có
đúng quy định không, quyết toán ngân sách có đúng thời hạn, mẫu biểu
không…
- Theo tác giả đề tài luận văn thạc sỹ của Nguyễn Tấn Lượng “Hoàn
thiện quản lý tài chính tại các trường đại học công lập tự chủ tài chính trên địa
16
bàn thành phố Hồ Chí Minh” để đổi mới thì Nhà nước cần tạo môi trường
pháp lý hoàn chỉnh để giúp các trường đại học nói riêng và đơn vị sự nghiệp
nói chung chủ động trong quản lý và sử dụng các nguồn lực một cách có hiệu
quả, đồng thời cần tăng cường quyền tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp để nâng
cao hiệu quả hoạt động của đơn vị.
Từ những đánh giá nhận xét của các tác giả trên, tôi nhận thấy xuất
phát từ bản chất của Nhà nước ta là “Nhà nước của dân, do dân và vì dân” và
xuất phát từ mục tiêu đem lại hạnh phúc và sự phát triển toàn diện cho con
người, phát triển hài hòa, đáp ứng các nhu cầu đa dạng của xã hội, Nhà nước
có nghĩa vụ và có trách nhiệm chăm lo, đảm bảo các quyền lợi cơ bản của
nhân dân, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân,
được thể hiện rõ nhất qua các hoạt động sự nghiệp về y tế, giáo dục, văn hóa,
thể dục thể thao, giao thông vận tải… của Nhà nước. Tuy nhiên những năm
gần đây thực hiện đường lối đổi mới và cải cách, nền kinh tế nước ta đã khởi
sắc, liên tục tăng trưởng với tốc độ cao, đời sống nhân dân được nâng lên rõ

rệt, các nhu cầu của xã hội phát triển hết sức đa dạng, trong đó nhu cầu về các
dịch vụ y tế, văn hóa, giáo dục…chất lượng ngày càng lớn. Nhưng đáp ứng
đầy đủ tất cả những yêu cầu này thì NSNN không đủ khả năng và giải pháp
hữu hiệu để giải quyết vấn đề này là xã hội hóa các hoạt động trong lĩnh vực
văn hóa, y tế, giáo dục, thể thao.
Xã hội hóa các hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, y tế, giáo dục, thể
thao là vận động và tổ chức sự tham gia rộng rãi của nhân dân, của toàn xã
hội vào sự nghiệp phát triển các sự nghiệp đó nhằm từng bước nâng cao mức
hưởng thụ về giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao trong sự phát triển về vật chất
và tinh thần của nhân dân. Cùng với củng cố các tổ chức công lập, Nhà nước
khuyến khích thành lập các cơ sở ngoài công lập phù hợp với quy hoạch của
Nhà nước, hoạt động không theo mục đích thương mại hóa. Các dịch vụ ngoài
17
công lập được Nhà nước và xã hội coi trọng và đối xử bình đẳng như các sản
phẩm và dịch vụ của cơ sở công lập, đồng thời các cơ sở ngoài công lập cũng
có một phần trách nhiệm thu nhận và cung cấp dịch vụ cho các đối tượng
chính sách xã hội như các cơ sở công lập.
Để thực hiện chủ trương này, ngày 19 tháng 8 nămg 1999 Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 73/1999/NĐ-CP về chính sách khuyến khích xã hội
hóa với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao. Theo
đó Nhà nước khuyến khích các tổ chức và cá nhân huy động các nguồn lực
trong nhân dân và trong các tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế để phát
triển các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao theo đúng quy định của
pháp luật. Các tổ chức ngoài công lập được thành lập và hoạt động dưới 03
hình thức:
- Bán công: là cơ sơ được thành lập trên cơ sở liên kết giữa tổ chức Nhà
nước với tổ chức không phải tổ chức Nhà nước thuộc mọi thành phần kinh tế
hoặc cá nhân theo các phương thức: thành lập mới, chuyển toàn bộ hoặc một
phần từ đơn vị công lập để cùng đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, quản lý, điều
hành mọi hoạt động theo quy định của pháp luật.

- Dân lập: là cơ sở do tổ chức đứng ra thành lập, được đầu tư bằng vốn
ngoài NSNN (vốn của tổ chức, tập thể, cá nhân) và quản lý điều hành mọi
hoạt động theo quy định của pháp luật.
- Tư nhân: là cơ sở do cá nhân, hộ gia đình thành lập và quản lý điều
hành mọi hoạt động theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh sự mở rộng các hình thức ngoài công lập theo chủ trương của
Chính phủ, hoạt động của các đơn vị sự nghiệp có thu (công lập) cũng theo xu
hướng mở rộng đầu tư, tăng cường hợp tác liên doanh liên kết để sản xuất
cung ứng sản phẩm dịch vụ có chất lượng cao nhằm đáp ứng nhu cầu hết sức
đa dạng trong nhân dân. Tuy nhiên cơ chế tự chủ tài chính, cũng như việc mở
18
rộng các hoạt động dịch vụ cũng đã tạo ra nhiều xu hướng tiêu cực trong hoạt
động của các đơn vị sự nghiệp có thu hiện nay:
+ Chất lượng các dịch vụ công (do NSNN đài thọ) có xu hướng giảm,
do các đơn vị tập trung phương tiện, điều kiện, nhân lực tốt nhất có thể cho
các hoạt động dịch vụ chất lượng cao có thu phí, biểu hiện rõ nét trong
nghành y tế.
+ Một số lĩnh vực có biểu hiện hướng đối tượng phục vụ sang các hoạt
động dịch vụ thu phí, cụ thể: trong giáo dục là tình trạng dạy thêm, học thêm
tràn lan, quá tải; trong y tế là tình trạng lạm dụng chỉ định xét nghiệm kỹ thuật
cao, ghi toa thuốc ngoại đắt tiền.
+ Một số đơn vị hoạt động cung cấp dịch vụ công ích độc quyền có tình
trạng sử dụng kinh phí không hiệu quả, chất lượng dịch vụ kém, thậm chí có
nơi có biểu hiện nhũng nhiễu, hành dân.
1.2. Vai trò của KTNN
1.2.1. Chức năng, nhiệm vụ của KTNN khu vực trong nhiệm vụ kiểm toán các
đơn vị sự nghiệp có thu.
Khái niệm về kiểm toán: Kiểm toán là hoạt động xác minh và bày tỏ ý
kiến về thực trạng của tổ chức cần kiểm toán bằng hệ thống phương pháp kĩ
thuật của kiểm toán chứng từ và kiểm toán ngoài chứng từ do các kiểm toán

viên có trình độ tương xứng thực hiện và dựa trên cơ sở hệ thống pháp lí đang
có hiệu lực.
Hiện nay KTNN Việt Nam cũng như cơ quan KTNN của hầu hết các
nước trên thế giới đều có 03 chức năng kiểm toán chủ yếu:
- Chức năng kiểm toán Báo cáo tài chính
- Chức năng kiểm toán tuân thủ
- Chức năng kiểm toán hoạt động
19
Các chức năng của KTNN được quy định tại Điều 14, Luật KTNN,
theo đó “KTNN có chức năng kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân
thủ, kiểm toán hoạt động đối với cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng ngân sách,
tiền và tài sản nhà nước”.
Việc thực hiện kiểm toán, đánh giá việc chấp hành các quy định của
Nhà nước về chế độ thu nộp NSNN tại các doanh nghiệp nhà nước, các đơn vị
sự nghiệp có thu và các tổ chức cá nhân khác có phát sinh nghĩa vụ với
NSNN là nhằm thực hiện 3 chức năng nói trên của KTNN. Hiện nay khi thực
hiện kiểm toán, KTNN thường lồng ghép cả 03 chức năng này vào trong mỗi
cuộc kiểm toán. Báo cáo kiểm toán đánh giá và đưa ra ý kiến về:
- Tính đúng đắn, hợp pháp của báo cáo tài chính, trong đó bao gồm tính
chính xác của các số liệu có liên quan đến thực hiện nghĩa vụ với NSNN, như:
số phải nộp NSNN, số đã nộp NSNN, số còn phải nộp NSNN, số ghi thu –
ghi chi NSNN.
- Đánh giá tính tuân thủ pháp luật: đánh giá chấp hành chế độ tài chính,
kế toán, luật NSNN, chấp hành các luật thuế, pháp lệnh phí, lệ phí, các văn
bản có liên quan đến việc thu nộp ngân sách, quản lý qua NSNN, chấp hành
quy chế quản lý đầu tư và xây dựng, quy chế đấu thầu…
- Đánh giá tính hiệu quả, hiệu lực trong sử dụng NSNN và tài sản công:
bao gồm đánh giá hiệu quả hoạt động của các cơ quan thuế, cơ quan tài chính
các cấp trong quản lý và khai thác các nguồn thu của NSNN.
Nói cách khác kiểm toán việc chấp hành nghĩa vụ với NSNN tại các

đơn vị có liên quan đến thu NSNN là một trong những nhiệm vụ quan trọng
của KTNN, nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ đã được Quốc hội giao
và cũng nhằm đáp ứng yêu cầu và đòi hỏi của Đảng, của Nhân dân đối với
hoạt động KTNN. KTNN không chỉ đánh giá tính đúng đắn, trung thực của
các số liệu quyết toán tài chính, ngân sách mà phải đánh giá tính tuân thủ, tính

×