Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Quản lý và sử dụng kinh phí ngân sách địa phương tại các cơ quan hành chính Nhà nước, đơn vị sự nghiệp trên địa bàn Lâm Đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 111 trang )




MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ - BIỂU ĐỒ
MỞ ĐẦU
i
ii
iii
1
Chương 1. Những vấn đề chung quản lý sử dụng NSNN……….
6
1.1. Bản chất, vai trò của ngân sách nhà nước
6
1.1.1. Khái niệm, bản chất NSNN
6
1.1.2. Vai trò của NSNN
7
1.1.2.1. Công cụ huy động nguồn tài chính để đảm bảo nhu cầu
chi tiêu của nhà nước…………………………………………….
7
1.1.2.2. Công cụ điều tiết vĩ mô KT-XH của nhà nước………….
8
1.2. Nội dung quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước
13
1.2.1. Quá trình hình thành và phát triển
13
1.2.2. Vai trò của các cấp ngân sách ở Việt Nam


16
1.3. Hệ thống NSNN
18
1.3.1. Khái niệm cơ quan hành chính nhà nước
18
1.3.2. Những đặc điểm cơ bản của cơ quan hành chính nhà nước
19


1.3.3. Hệ thống cơ quan hành chính nhà nước…………………
21
1.3.3.1. Chính Phủ và các cơ quan HCNN ở trung ương………
22
1.3.3.2. Cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương……………
25
1.3.4. Khái niệm đơn vị công lập………………………………
27
1.4. Nguyên tác chung về quản lý, sử dung kinh phí NS đối với
cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập
29
Kết luận chương 1
29
Chương 2. Thực trạng quản lý và sử dụng Ngân sách địa
phương tại Cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp tỉnh Lâm
Đồng
31
2.1. Quản lý và sử dụng NS địa phương tại cơ quan hành chính,
đơn vị sự nghiệp ở Lâm Đồng từ năm 2002 đến nay………….
31
2.1.1. Lập và phê duyệt dự toán

32
2.1.2. Chấp hành dự toán
32
2.1.3 Quyết toán chi ngân sách
33
2.2. Quản lý và sử dụng NS địa phương tại cơ quan hành chính,
đơn vị sự nghiệp ở Lâm Đồng sau khi có luật Ngân sách
34
2.2.1. Công tác lập và giao dự toán
35
2.2.2. Cấp phát, thanh toán và sử dụng ngân sách
40


2.2.2.1. Cấp phát, thanh toán kinh phí chi tiêu thường xuyên
40
2.2.2.2. Cấp phát, thanh toán chi đầu tư xây dựng cơ bản
44
2.2.2.3. Chấp hành chế độ, tiêu chuẩn định mức chi tiêu ngân
sách……
47
2.2.2.4. Kế toán chi tiêu ngân sách
52
2.2.3. Quyết toán chi ngân sách
54
2.2.4. Quản lý và sử dụng kinh phí NS đối với đơn vị thực hiện
cơ chế tự chủ tài chính NS tỉnh Lâm Đồng
57
2.2.4.1. Thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng
biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các CQHC Nhà

nước……………………………………………………………
58
2.2.4.2. Thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực
hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với
ĐVSN công lập
62
2.2.5. Quản lý chi đối với NS cấp xã, phường
65
2.3. Đánh giá chung
67
2.3.1. Những kết quả đạt được
68
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân
70
Kết luận chương 2
71
Chương 3. Tăng cường các biện pháp quản lý và sử dụng kinh
72


phí ngân sách địa phương tại các CQHC, đơn vị sự nghiệp trên
địa bàn TLĐ
3.1. Mục tiêu, định hướng
72
3.2. Những biện pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng kinh phí NS
tại các CQHC, ĐVSN ở tỉnh Lâm Đồng
73
3.2.1. Đổi mới việc lập, phân bổ dự toán chi ngân sách
73
3.2.2. Hướng tới lập dự toán ngân sách trung hạn, quản lý ngân

sách theo đầu ra
75
3.2.3. Cải tiến hình thức cấp phát, thanh toán các khoản chi NS
78
3.2.3.1. Đối với hình thức cấp phát, thành toán bằng lệnh chi
tiền
78
3.2.3.2. Đối với hình thức cấp phát, thanh toán theo dự toán từ
KBNN……………………………………………………………
79
3.2.4. Cái tiến nội dung, phương thức lập và phê duyệt quyết
toán chi ngân sách
83
3.2.5. Cải tiến công tác giám sát chi tiêu ngân sách
85
3.2.5.1. Nâng cao hiệu quả các hình thức gián sách chi tiêu NS
86
3.2.5.2. Nâng cao hiệu quả của hoạt động kiểm toán NS
87
3.2.6. Phân định trách nhiệm, quyền hạn của từng cơ quan trong
chu trình Ngân sách
89


3.2.6.1. Trách nhiệm, quyền hạn của thủ trưởng đơn
89
3.2.6.2. Trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan chủ quản, đơn vị
dự toán cấp trên
90
3.2.6.3. Trách nhiệm, quyền hạn của KBNN

90
3.2.6.4. Trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan tài chính
91
3.2.7. Hoàn thiện hệ thống kế toán nhà nước
92
3.2.8. Hoàn thiện cơ chế tài chính đối với CQHC, đơn vị sự
nghiệp thực hiện cơ chế tự chủ
94
3.2.9. Đổi mới phương thức quản lý chi ngân sách cấp xã
94
3.2.10. Phụ lục
96
Kết luận chương 3
99
KẾT LUẬN
101
TÀI LIỆU THAM KHẢO
103





i

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

Stt
Ký hiệu
Nguyên nghĩa

1
CCHC
Cải cách hành chính
2
CQHC
Cơ quan hành chính
3
CQTC
Cơ quan tài chính
4
DTNS
Dự toán ngân sách
5
ĐVSN
Đơn vị sự nghiệp
6
GDP
Gross Domestics Products (Tổng sản
phẩm quốc nội)
7
GNP
Gross National Product (Tổng sản
phẩm quốc dân)
8
HCNN
Hành chính nhà nước
9
HĐND
Hội đồng nhân dân
10

KBNN
Kho bạc nhà nước
11
KT-XH
Kinh tế - Xã hội
12
MLNS
Mục lục ngân sách
13
NSNN
Ngân sách nhà nước
14
NS
Ngân sách
15
TLĐ
Tỉnh Lâm Đồng
16
UBND
Uỷ ban nhân dân






ii

DANH MỤC CÁC BẢNG


Stt
Số hiệu
Nội dung
Trang
1
Bảng 2.1
Dự toán chi NS địa phương tại TLĐ
36
2
Bảng 2.2
Quyết toán chi NS địa phương TLĐ
57


iii

DANH MỤC HÌNH

Stt
Số hiệu
Nội dung
Trang
1
Hình 1.1
Hệ thống ngân sách nhà nước ở Việt
Nam
15
2
Hình 1.2
Hệ thống cơ quan hành chính nhà

nước ở Việt Nam
22
3
Hình 2.1
Dự toán chi NS địa phương TLĐ
38
4
Hình 2.2
Quyết toán chi NS địa phương TLĐ
57
5
Hình 2.3
Tình hình thực hiện chi NSNN tại
TLĐ
67
6
Hình 2.4
Tình hình thực hiện chi thường
xuyên NS TLĐ
68

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quản lý hành chính Nhà nước (HCNN) và hoạt động sự nghiệp có vị
trị quan trọng đặc biệt trong nền kinh tế quốc dân. Thời gian qua, các cơ
quan HCNN và đơn vị sự nghiệp (ĐVSN) công lập ở trung ương và địa
phương đã có nhiều đóng góp cho sự ổn định và phát triển kinh tế xã hội của
đất nước. Chương trình đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các cơ quan

HCNN và ĐVSN công là một trong những chương trình hành động trọng
điểm từ 2011 đến 2015, xác định: phân bổ ngân sách cho cơ quan HCNN
theo kết quả đầu ra và chất lượng hoạt động, mức độ hoàn thành nhiệm vụ
được giao; thực hiện chế độ khoán chi trong cơ quan HCNN; xây dựng cơ
chế tài chính phù hợp với các tổ chức thực hiện chức năng dịch vụ công và
ĐVSN, tạo tính chủ động của các tổ chức này, giảm dần chi từ ngân sách
nhà nước (NSNN) tiến tới thực hiện chế độ tự quản tài chính.
Trong những năm qua, Lâm Đồng đã đạt được những chuyển biến
tích cực trong phương thức quản lý chi tiêu, được Chính phủ đánh giá cao về
phương thức thực hiện khoán chi và cho nhân rộng ra toàn quốc. Là địa
phương vừa cải tiến mạnh mẽ, vừa kết hợp duy trì quy trình cũ. Chính vì vậy
tuy có nhiều thành công nhưng Lâm Đồng cũng còn hạn chế trong khâu tổ
chức lập, phân bổ dự toán, chấp hành và quyết toán ngân sách; chi tiêu ngân
sách còn sai chế độ, lãng phí trong lĩnh vực sử dụng trụ sở làm việc như xây
vượt định mức tiêu chuẩn cho phép; sử dụng trụ sở sai mục đích như cho
thuê các hoạt động dịch vụ kinh doanh, còn lãng phí mua sắm ô tô vượt mức
quy định, sử dụng sai mục đích; ý thức trách nhiệm của người đứng đầu
trong các cơ quan hành chính (CQHC), ĐVSN sử dụng kinh phí ngân sách
chưa cao. Chính vì vậy vấn đề: “Quản lý và sử dụng kinh phí ngân sách

2

địa phƣơng tại các cơ quan hành chính nhà nƣớc, đơn vị sự nghiệp trên
địa bàn Lâm Đồng” là đề tài nghiên cứu luận văn.
2. Tình hình nghiên cứu
Một số tác giả đã có những nghiên cứu về vấn đề này làm luận văn
thạc sĩ và các bài đăng trên tạp chí như sau:
- Trần Hồng Hà (2006); Quản lý tài chính các đơn vị sự nghiệp có thu
tại tỉnh Bình Thuận; Luận văn thạc sĩ, Đại học Kinh tế TP.HCM.
Qua tìm hiểu và nghiên cứu tôi thấy luận văn nay chưa nêu rõ được

vấn đề quản lý tài chính của các đơn vị nhà nước, đơn vị sự nghiệp mà chỉ
nhấn mạnh về quản lý tài chính các đơn vị sự nghiệp có thu.
- Lê Văn Hoạt (2006), Quy trình lập dự toán NSNN ở các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương và vai trò của kiểm toán Nhà nước; Tạp chi kiểm
toán số 04.
- Nguyễn Sinh Hùng (2005), Quản lý và sử dụng NSNN trong tiến
trình cải cách tài chính công; Tạp chí Cộng sản, số 3.
- Đặng Văn Thanh (2005), Khoán chi hành chính- kết quả bước đầu
và những vấn đề đặt ra; Tạp chí quản lý Nhà nước, số 8.
- Sử Đình Thành (2004), Luận bàn về phương thức quản lý ngân sách
theo đầu ra; Tạp chí kinh tế số 170.
- Sử Đình Thành (2005), Vận dụng phương thức lập ngân sách theo
kết quả đầu ra trong quản lý chi tiêu công của Việt Nam; Tạp chí phát triển
kinh tế, số 172.
- Nguyễn Thái Hà (2007), Quản lý chi NSNN Việt Nam trong hội
nhập kinh tế toàn cầu; Luận văn Thạc sĩ, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí
Minh.

3

Luận văn này nói về quản lý chi NSNN trong hội nhập kinh tế toàn
cầu nhưng chưa nêu được một cách cụ thể về kết quả đạt được khi đất nước
chúng ta hội nhập toàn cầu, ví dụ cụ thể một tỉnh nào đó.
- Lê Ngọc Khánh (2006); Hoàn thiện phân cấp quản lý NSNN ở tinh
Bà Rịa Vũng Tàu; Luận văn Thạc sĩ, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí
Minh.

Qua tìm hiểu luận văn này nói lên sự hoàn thiện về phân cấp quản lý
nhưng chưa nêu rõ hiệu quả sử dụng kinh phí sau khi đã phân cấp.
- Lương Ngọc Tuyền (2005), Hoàn thiện công tác kiểm soát chi

thường xuyên của NSNN qua KBNN; Luận văn thạc sĩ, Đại học Kinh tế
Thành phố Hồ Chí Minh.
Qua luận văn này tôi thấy nhấn mạnh về công tác kiểm soát chi
NSNN qua kho bạc đối với chi thường xuyên nhưng không nói đến việc
kiểm soát chi những khoản chi lớn qua kho bạc như chi xây dựng cơ bản,
sắm trang thiệt bị, xe
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Mục đích: đề tài luận văn trình bày một cách rõ nét cơ sở lý luận về
ngân sách nhà nước (NSNN), CQHC Nhà nước và ĐVSN trong nền kinh tế
thị trường; phân tích và đánh giá tình hình quản lý và sử dụng NS địa
phương ở tỉnh Lâm Đồng (TLĐ). Trên cơ sở đó, kiến nghị chính quyền Tỉnh
trong thẩm quyền của mình, cần thay đổi một số cơ chế hiện hành về quản lý
chi tiêu NS; các vấn đề vượt thẩm quyền, cần tiếp tục kiến nghị các Bộ,
Ngành và Chính Phủ sửa đổi.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

4

Đề tài luận văn tập trung nghiên cứu quy trình quản lý chi tiêu ngân
sách địa phương; việc sử dụng kinh phí ngân sách của các cơ quan HCNN,
ĐVSN trên địa bàn Lâm Đồng. Lâm Đồng bao gồm các cơ quan, Sở, ban
ngành và đơn vị trực thuộc sử dụng kinh phí ngân sách tỉnh; các cơ quan và
đơn vị thuộc khối TP, huyện, ngân sách xã.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng phương pháp duy vật biến chứng và duy vật lịch sử
làm phương pháp khảo sát điều tra thực tế kết hợp phân tích và tổng hợp,
phương pháp thống kê kinh tế, phương pháp logic biện chứng. Nguồn số liệu
sơ cấp qua việc trực tiếp thu thập từ các đơn vị, một số nguồn thứ cấp từ các
báo cáo quyết toán Ngân sách trình Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Lâm
Đồng, Bộ Tài chính.

6. Đóng góp mới của luận văn
Nâng cao hiệu quả sử dụng kinh phí ngân sách (NS) bằng hình thức
khoán chi đã đạt được một số mặt nhất định, tuy nhiên tỉnh Lâm Đồng cũng
còn một số mặt cần tiếp tục đổi mới. Đề tài kiến nghị các nhà hoạch định
chính sách cần quan tâm đổi mới các mặt sau:
- Đổi mới trong khâu tổ chức lập dự toán, phân bổ dự toán, chấp hành
và quyết toán ngân sách.
- Chống lãng phí trong việc chi tiêu thường xuyên và xây dựng, sử
dụng trụ sở làm việc bao gồm xây mới vượt định mức tiêu chuẩn cho phép;
sử dụng trụ sở không đúng mục đích như cho thuê các hoạt động dịch vụ
kinh doanh; chống lãng phí mua sắm ô tô vượt mức do chính phủ quy định,
sử dụng sai mục đích.
- Cần chấn chỉnh kỷ luật tài chính, tăng cường ý thức trách nhiệm của

5

người đứng đầu trong cơ quan HCNN, ĐVSN sử dụng kinh phí ngân sách.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương:
Chương 1. Những vấn đề chung quản lý sử dụng ngân sách nhà nước.
Chương 2. Thực trạng quản lý và sử dụng Ngân sách địa phương tại
Cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp ở tỉnh Lâm Đồng trong những năm
qua.
Chương 3. Tăng cường các biện pháp quản lý và sử dụng kinh phí
ngân sách địa phương tại các CQHC, đơn vị sự nghiệp trên địa bàn tỉnh Lâm
Đồng.
















6

CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG QUẢN LÝ SỬ DỤNG
NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC

1.1. Bản chất, vai trò NSNN
1.1.1. Khái niệm, bản chất Ngân sách nhà nƣớc
Theo khái niệm chung thì NSNN là dự toán thu - chi bằng tiền của
Nhà nước trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm. Như
vậy, NSNN là một kế hoạch tài chính cơ bản của quốc gia, trong đó gồm có
kế hoạch thu, kế hoạch chi và được lập theo phương pháp cân đối: thu phải
đủ chi, chi không vượt thu.
Theo Luật NSNN Việt Nam thì: NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi
của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được
thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của
Nhà nước.
Năm NS hay còn gọi là năm tài chính, là giai đoạn mà trong đó, dự

toán thu - chi tài chính đã được phê chuẩn của Quốc hội có hiệu lực thi
hành. Ở tất cả các nước, năm NS đều có thời hạn bằng một năm dương lịch,
nhưng thời điểm bắt đầu và kết thúc ở mỗi nước có khác nhau. Ở đa số các
nước, năm NS trùng với năm dương lịch, bắt đầu ngày 1/1 và kết thúc vào
ngày 31/12, như: Pháp, Bỉ, Hà Lan, Trung Quốc, Philippine, Ở các nước
khác, thời điểm bắt đầu và kết thúc năm NS thường rơi vào tháng 3,4,6 hoặc
7 hàng năm. Cụ thể là: Anh, Nhật, Canada, Singapore có năm NS bắt đầu
vào ngày 1/4 năm trước và kết thúc vào ngày 31/3 năm sau; Ý, Na Uy, Đài
Loan, Úc có năm NS bắt đầu vào ngày 1/7 năm trước và kết thúc vào ngày

7

30/6 năm sau; Mỹ có năm NS bắt đầu vào ngày 1/10 năm trước và kết thúc
vào ngày 30/9 năm sau.
Việc quy định năm NS hoàn toàn là ý định chủ quan của Nhà nước.
Tuy nhiên, ý định này cũng bắt nguồn từ những yếu tố tác động khác nhau,
trong đó có hai yếu tố cơ bản là:
- Đặc điểm hoạt động của nền kinh tế có liên quan đến nguồn thu của
NSNN: chế độ kế toán, thống kê; tính thời vụ của sản xuất nông nghiệp.
- Đặc điểm hoạt động của cơ quan lập pháp: các kỳ họp của Quốc Hội
để phê chuẩn NSNN.
Ở Việt Nam, năm NS bắt đầu từ ngày 1/1 và kết thúc vào ngày 31/12
hàng năm. Điều này phù hợp với các kỳ họp của Quốc Hội.
1.1.2. Vai trò của Ngân sách nhà nƣớc
1.1.2.1. Công cụ huy động nguồn tài chính để đảm bảo các nhu
cầu chỉ tiêu của nhà nƣớc
Đây là vai trò lịch sử của NSNN mà trong cơ chế nào và trong thời đại
nào NSNN cũng phải thực hiện. Vai trò này của NSNN được xác định trên
cơ sở bản chất kinh tế của NSNN. Sự hoạt động của nhà nước trong các lĩnh
vực chính trị, kinh tế xã hội luôn đòi hỏi phải có các nguồn tài chính để chi

tiêu cho những mục đích xác định. Các nhu cầu chi tiêu của nhà nước phải
được thỏa mãn từ các nguồn thu bằng hình thức thuế và thu ngoài thuế.
Việc huy động nguồn thu vào tay nhà nước để đảm bảo các yêu cầu
chi tiêu cần thiết phải chú ý đến ba vấn đề:
- Mức động viên vào NSNN đối với các thành viên trong xã hội qua
thuế và các khoản thu khác có liên quan phải hợp lý. Mức động viên cao hay
thấp đều có tác dụng tiêu cực.
- Tỉ lệ động viên vào NSNN đối với tổng sản phẩm quốc nội (GDP)

8

vừa đảm bảo hợp lý với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, vừa đảm bảo
cho đơn vị cơ sở có điều kiện tích tụ vốn để tái sản xuất mở rộng.
- Các công cụ kinh tế được sử dụng tạo nguồn thu cho NSNN và thực
hiện các khoản chi tiêu của NSNN.
1.1.2.2. Công cụ điều tiết vĩ mô nền KT-XH của nhà nƣớc
Khi đề cập đến các công cụ tài chính trong quản lý và điều tiết vĩ mô
nền kinh tế - xã hội (KT-XH), nhà nước không thể không sử dụng một công
cụ rất quan trọng đó là NSNN. Bởi lẽ, phạm vi phát huy vai trò của NSNN
rất rộng và trên một mức độ lớn, nó tương đồng với phạm vi phát huy chức
năng và nhiệm vụ của nhà nước trên mọi lĩnh vực của đời sống KT-XH. Hay
nói cách khác, do cơ chế thị trường cần thiết phải có sự điều chỉnh vĩ mô từ
phía nhà nước. Song, nhà nước cũng chỉ có thể thực hiện điều chỉnh thành
công khi có nguồn tài chính đảm bảo, tức là khi sử dụng triệt để và có hiệu
quả công cụ NSNN. Vai trò điều tiết vĩ mô nền KT-XH của NSNN có thể
được khái quát hóa trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội và thị trường như sau:
Về mặt kinh tế
NSNN có vai trò rất quan trọng trong việc định hướng hình thành cơ
cấu kinh tế mới, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh và chống độc
quyền.

NSNN cung cấp nguồn kinh phí để nhà nước đầu tư cho cơ sở kết cấu
hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp thuộc các ngành then chốt, để trên cơ
sở đó tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển của
các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
Việc hình thành các doanh nghiệp nhà nước cũng là một trong những
biện pháp căn bản để chống độc quyền và giữ cho thị trường khỏi rơi vào
tình trạng cạnh tranh không hoàn hảo.

9

Hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp trong những trường hợp
cần thiết đảm bảo cho sự ổn định về cơ cấu hoặc chuẩn bị chuyển đổi sang
cơ cấu mới, cao hơn.
Thông qua các khoản thuế và chính sách thuế sẽ đảm bảo thực hiện vai
trò định hướng đầu tư, kích thích hoặc hạn chế sản xuất kinh doanh.
Các nguồn vay nợ từ nước ngoài và trong nước sẽ tạo thêm nguồn vốn
cho nền kinh tế. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng các nguồn vốn vay nợ của nhà
nước cũng là một vấn đề cần phải xem xét thận trọng khi quyết định thực
hiện các biện pháp huy động tiền vay.
Về mặt xã hội
Đầu tư của NS để thực hiện các chính sách xã hội: chi Giáo dục - đào
tạo, y tế, kế hoạch hóa gia đình, văn hóa, thể thao, truyền thanh, chi bảo đảm
xã hội, sắp xếp lao động và việc làm, trợ giá mặt hàng
Thông qua thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp nhằm
điều tiết thu nhập để phân phối lại cho các đối tượng có thu nhập thấp.
Thông qua thuế gián thu nhằm hướng dẫn tiêu dùng hợp lý, tiết kiệm.
Tuy nhiên, vấn đề sử dụng công cụ NSNN để điều chỉnh các vấn đề xã hội
không đơn giản, đòi hỏi phải được nghiên cứu đầy đủ và phải có sự thống
nhất giữa chính sách và biện pháp. Chẳng hạn: Khi trợ giá điện, xăng dầu,
dịch vụ truyền hình thì những đối tượng được hưởng không phải là người

nghèo, mà chính là những người có thu nhập trung bình hoặc cao.
Về mặt thị trường
NSNN có vai trò quan trọng đối với việc thực hiện các chính sách về
ổn định giá cả, thị trường và chống lạm phát. Bằng công cụ thuế, phí, lệ phí,
vay và chính sách chi NSNN có thể điều chỉnh được giá cả, thị trường một
cách chủ động.

10

Một chính sách NS thắt chặt hay nới rộng đều có thể tác động mạnh
mẽ đến cung - cầu xã hội.
Việc huy động của NSNN dưới các hình thức thuế, phí, lệ phí, vay và
kể cả bảo hiểm xã hội trên tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và tổng sản phẩm
quốc dân (GNP) chiếm tỉ trọng cao thì sự cung ứng vốn đầu tư dài hạn, vốn
tiền tệ ngắn hạn của các nhà đầu tư và đầu tư của dân sẽ giảm, vốn tự đầu tư
sẽ khan hiếm hơn. Mặt khác, nó sẽ làm cho cầu về hàng hóa, dịch vụ của
dân cư giảm xuống, nhưng NSNN lại có điều kiện để tăng cầu với quy mô
lớn và chi cho đầu tư lớn sẽ kích thích tăng cung.
Ngược lại, nếu NSNN huy động trên GDP và GNP chiếm tỉ trọng thấp
thì nguồn tự đầu tư tăng lên, thúc đẩy tăng cung, đồng thời kích thích tăng
cầu về hàng hóa, dịch vụ, nhưng NS lại không có điều kiện để tăng cầu và
chi cho đầu tư.
Trên thị trường tài chính, nhà nước vay vốn với lãi suất cao sẽ có tác
động tăng cung ứng vốn từ phía các nhà đầu tư và tiết kiệm tiêu dùng để
dành cho tương lai, đồng thời làm giảm lượng cầu về vốn đầu tư của doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Ngược lại, khi lãi suất các khoản vay
của nhà nước giảm xuống dưới mức lợi tức bình quân toàn xã hội, các nhà
đầu tư sẽ tìm môi trường đầu tư vào sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ
mà không muốn cho nhà nước vay. Mặt khác, lãi suất các khoản vay của nhà
nước có vị trí quan trọng trên thị trường chứng khoán, có thể tham gia điều

tiết quan hệ cung cầu trên thị trường chứng khoán.
Vấn đề dự trữ nhà nước, trong cơ chế thị trường, nhà nước không thể
bắt buộc các doanh nghiệp bán hàng theo giá cả quy định, mà ngược lại, giá
cả là do thị trường quyết định, phụ thuộc vào quan hệ cung - cầu và các yếu
tố khác. Trong quá trình biến đổi của mình, sẽ có lúc giá cả lên cao, gây ra
những cơn sốt nhất thời và có lúc giá cả lại xuống quá thấp. Để bảo vệ

11

quyền lợi của người tiêu dùng và kích thích sản xuất phát triển, nhà nước
cần phải theo dõi sự biến động của giá cả trên thị trường và phải có nguồn
dự trữ về hàng hóa và tài chính để điều chỉnh kịp thời. Ngưồn dự trữ này
được hình thành từ kinh phí cấp phát của NSNN. Do đó, sự thành công của
nhà nước trong điều chỉnh giá cả và thị trường thông qua công cụ dự trữ nhà
nước phụ thuộc vào kinh phí cấp phát của NSNN cho mục đích này.
Chống lạm phát là một nội dung quan trọng trong quá trình điều chỉnh
thị trường. Nguyên nhân gây ra và thúc đẩy lạm phát có nhiều và xuất phát
từ nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực thu, chi tài chính của Nhà nước.
Khi đồng vốn NS được sử dụng hợp lý và có hiệu quả thì tác dụng tích
cực của nó rất lớn, ngược lại sẽ gây ra bất ổn định trên thị trường, thúc đẩy
lạm phát tăng lên.
Phát hành thêm tiền để bù đắp thâm hụt NS là nguyên nhân trực tiếp
của tình trạng lạm phát gia tăng.
Mặt khác, NSNN có cân bằng hay không sẽ tác động sâu sắc đến sự
cân bằng của cán cân thanh toán quốc tế, bởi vì:
- Cân bằng của NS tác động trực tiếp đến sự cân bằng của cán cân
thương mại.
- Cân bằng của NS thực hiện được hay không nói lên khả năng trả nợ
đến hạn các khoản vay nước ngoài có thực hiện được hay không.
Hệ thống Ngân sách nhà nƣớc

Khái niệm hệ thống ngân sách nhà nước
Hệ thống NSNN là tổng thể các cấp NS, giữa chúng có mối quan hệ
hữu cơ với nhau đã được xác định bởi sự thống nhất về cơ sở kinh tế - chính
trị, bởi pháp chế và các nguyên tắc tổ chức của Nhà nước.

12

Các nước có nền kinh tế thị trường, hệ thống NSNN được tổ chức phù
hợp với hệ thống hành chính. Có hai mô hình tổ chức hệ thống hành chính
đó là: Mô hình nhà nước liên bang; Mô hình nhà nước thống nhất hay phi
liên bang.
Xuất phát từ đó cũng tồn tại hai mô hình tổ chức hệ thống NSNN. Ở
các nước có mô hình tổ chức hành chính theo thể chế nhà nước liên bang
như: Mỹ, Đức, Canada, Thụy Sĩ, Malaysia, hệ thống NSNN được tổ chức
theo 3 cấp: NS liên bang; NS bang; NS địa phương.
Hệ thống NSNN ở các nước có mô hình tổ chức hành chính theo thể
chế nhà nước thống nhất hay phi liên bang như: Anh, Pháp, Ý, Nhật, bao
gồm 2 cấp NS: NS trung ương; NS địa phương.
Những nguyên tắc quản lý ngân sách nhà nước
NSNN ở các nước có nền kinh tế thị trường được xây dựng trên cơ sở
các nguyên tắc khá chặt chẽ, trong đó nổi bật lên những nguyên tắc cơ bản
sau:
Thứ nhất, là nguyên tắc thống nhất: Nhà nước chỉ có một NS tập hợp
tất cả các khoản thu và các khoản chi. Sự thống nhất của NS còn thể hiện
trong sự thống nhất về hệ thống NS, về các báo biểu, mẫu biểu tài chính.
Nguyên tắc thống nhất đảm bảo cho yêu cầu kiểm tra từ phía nghị viện đối
với hoạt động tài chính của chính phủ.
Thứ hai, là nguyên tắc về sự đầy đủ và toàn bộ của NSNN: Nguyên tắc
này được đưa ra nhằm chống lại tình trạng để ngoài NS các khoản thu hoặc
chi thuộc NSNN, dẫn đến tình trạng lãng phí trong quá trình chi tiêu của

chính phủ.
Thứ ba, là nguyên tắc trung thực: Tính trung thực đòi hỏi phải thể hiện
chính xác trong NS các nghiệp vụ tài chính của chính phủ; tính chất của mỗi

13

khoản thu, chi; sự phù hợp giữa dự toán đã phê chuẩn và thực tế chấp hành.
Nghiêm trị mọi hành vi man trá trong hạch toán thu - chi NSNN.
Thứ tư, là nguyên tắc công khai: Chính phủ phải công bố công khai
trên báo chí và các phương tiện thông tin khác về NSNN, bao gồm: nội dung
khối lượng các khoản thu, chi chủ yếu.
Tuy nhiên, trên thực tế, ở mỗi nước và trong từng giai đoạn, vì lợi ích
giai cấp và vì các lý do khác, nhiều khi những nguyên tắc cơ bản cũng bị vi
phạm hoặc chỉ được chấp nhận một cách hình thức. Đó cũng là nguyên nhân
diễn ra các cuộc đấu tranh gay gắt giữa nghị viện và chính phủ, giữa nhân
dân và nhà nước.
Ở Việt Nam, NSNN được quản lý thống nhất theo nguyên tắc tập
trung dân chủ, công khai có phân công trách nhiệm gắn với quyền hạn, phân
cấp quản lý giữa các ngành, các cấp. Quốc Hội quyết định dự toán NSNN,
phân bố NSNN; phê chuẩn quyết toán NSNN.
1.2. Nội dung quản lý, sử dụng ngân sách nhà nƣớc
1.2.1. Quá trình hình thành và phát triển
Ở Việt Nam, NSNN xuất hiện và tồn tại từ lâu, song các hoạt động
của nó chỉ nhằm phục vụ chủ yếu cho nhu cầu hưởng thụ của vua chúa và
nuôi dưỡng quân đội.
Sau khi cách mạng tháng 8 thành công, Nhà nước ta đã thực hiện
quyền lực về NSNN và đã có những chính sách mang tính chất cách mạng
triệt để, làm nức lòng dân, như sắc lệnh về việc bãi bỏ thuế thân, hình thành
hệ thống thuế mới với quan điểm giảm bớt gánh nặng thuế khóa cho dân
nghèo. Tiếp theo đó là hàng loạt các biện pháp nhằm khẳng định quyền lực

về tài chính và củng cố NS của nhà nước Việt Nam, như phát hành tiền kim
khí (ngày 1/12/1946) và giấy bạc Việt Nam (ngày 3/2/1946); đặt ra "Quỹ

14

độc lập" nhằm huy động vốn cho NSNN. Nói chung, trong giai đoạn kháng
chiến (1946 - 1954) mọi vấn đề huy động và chi tiêu của NSNN đều nhằm
mục đích phục vụ kháng chiến thắng lợi.
Đến năm 1967 chế độ phân cấp quản lý NS ra đời. Hệ thống NSNN
bao gồm: NS trung ương và NS địa phương các tỉnh, thành phố ở miền Bắc
.

Năm 1978, chính phủ ra quyết định số 108/CP, NS địa phương được
phân thành hai cấp: NS tỉnh, thành phố; NS huyện, Quận, thị xã trực thuộc
tỉnh.
Với Nghị quyết 138/HĐBT ngày 19/11/1993, NS xã được tổng hợp
vào NSNN và hệ thống NSNN bao gồm 4 cấp: NS trung ương; NS tỉnh,
thành phố; NS huyện (quận, thị xã); NS xã (phường, thị trấn)
Trong giai đoạn nền kinh tế nước ta chuyển mình sang cơ chế mới, có
lúc NS huyện được thí điểm chuyển sang cấp dự toán. Và từ đây việc tìm
kiếm một phương án phân cấp phù hợp với tình hình thực tế mới, đáp ứng
được yêu cầu của chính quyền nhà nước các cấp bắt đầu được đặt ra. Đã có
nhiều phương án được đề xuất
.
Mỗi phương án đều có ưu, nhược điểm riêng
của nó. Sau nhiều lần thảo luận, cuối cùng trong kỳ họp Quốc Hội thứ 9,
khóa IX từ ngày 02/03/1996 đến ngày 20/3/1996) đã thông qua Luật NSNN
ngày 20/3/1996
.
Luật này có hiệu lực thi hành từ năm NS 1997 và được sửa

đổi vào kỳ họp thứ hai, Quốc Hội khoá XI từ 12/11/ đến 16/12/2002. Theo
luật NSNN, hệ thống NS ở nước ta bao gồm 4 cấp: NS trung ương, NS cấp
tỉnh, NS cấp huyện và NS cấp xã. Điều này có thể được khái quát hóa bằng
sơ đồ sau:

15


Nguồn UBND tỉnh Lâm Đồng
Quan hệ giữa NS các cấp được thực hiện theo các nguyên tắc sau
- NS trung ương và NS mỗi cấp chính quyền địa phương được phân
định nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể; thực hiện phân chia theo tỷ lệ phần
trăm (%) đối với các khoản thu phân chia giữa NS các cấp NS;
- Thực hiện việc bổ sung từ NS cấp trên cho NS cấp dưới để bảo đảm
công bằng, phát triển cân đối giữa các vùng, các địa phương, số bổ sung này
là khoản thu của NS cấp dưới;
- Tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu và số bổ sung cân đối
từ NS cấp trên cho NS cấp dưới, được ổn định từ 3 đến 5 năm gọi chung là
thời kỳ ổn định NS. Chính phủ trình Quốc hội quyết định thời kỳ ổn định
NS giữa NS trung ương và NS địa phương, ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình
HĐND cùng cấp quyết định thời kỳ ổn định NS giữa các cấp ở địa phương;
- Nhiệm vụ chi thuộc NS cấp nào do NS cấp đó bảo đảm; Trường hợp

16

cần ban hành chính sách, chế độ mới làm tăng chỉ NS sau khi dự toán đã
được cấp có thẳm quyền quyết định thì phải có giải pháp bảo đảm nguồn tài
chính phù hợp với khả năng cân đối của NS từng cấp;
- Trong thời kỳ ổn định NS, các địa phương được sử dụng nguồn tăng
thu NS hàng năm, phần NS địa phương được hưởng để chi cho các nhiệm vụ

phát triển KT-XH trên địa bàn; sau mỗi thời kỳ ổn định NS, phải tăng khả
năng tự cân đối, phát triển NS địa phương, thực hiện giảm dần số bổ sung từ
NS cấp trên đối với địa phương nhận bổ sung từ NS cấp trên hoặc tăng tỷ lệ
phần trăm (%) điều tiết số thu nộp về NS cấp trên đối với những địa phương
có điều tiết về NS cấp trên;
- Trường hợp cơ quan quản lý Nhà nước cấp trên ủy quyền cho cơ
quan quản lý Nhà nước cấp dưới thực hiện nhiệm vụ chi thuộc chức năng
của mình, thì phải chuyển kinh phí từ NS cấp trên cho cấp dưới để thực hiện
nhiệm vụ đó;
- Ngoài việc bổ sung nguồn thu và ủy quyền thực hiện nhiệm vụ chi
như trên, không được dùng NS của cấp này để chi cho nhiệm vụ của cấp
khác.
- Ủy ban nhân dân (UBND) các cấp được sử dụng NS cấp mình để hỗ
trợ cho các đơn vị do cấp trên quản lý đóng trên địa bàn trong các trường
hợp:
+ Khi xảy ra thiên tai và các trường hợp cấp thiết khác mà địa phương
cần khẩn trương huy động lực lượng để bảo đảm ổn định tình hình KT-XH;
+ Các đơn vị do cấp trên quản lý khi thực hiện chức năng của mình,
kết hợp thực hiện một số nhiệm vụ theo yêu cầu của cấp dưới.
1.2.2. Vai trò của các cấp ngân sách ở Việt Nam

17

Vai trò của NS trung ương
NS trung ương được hợp thành từ các kế hoạch tài chính các ngành
kinh tế quốc dân và các dự toán kinh phí của Bộ, các cơ quan trực thuộc
chính phủ. NS trung ương phản ánh sự lãnh đạo tập trung kinh tế theo
ngành. Trong hệ thống NSNN, NS trung ương là khâu trung tâm và giữ vai
trò chủ đạo. NS trung ương có vai trò:
- Tác động có tính tổ chức và xác định phương hướng hoạt động đối

với các cấp trong toàn bộ hệ thống NS.
- NS trung ương tập trung phần lớn các nguồn thu và bảo đảm nhu cầu
chi để thực hiện các nhiệm vụ KT-XH, quản lý nhà nước có tính chất toàn
quốc.
- Thường xuyên điều hòa vốn cho các cấp NS địa phương nhằm tạo
điều kiện cho các cấp NS hoàn thành các mục tiêu KT-XH thống nhất của cả
nước.
Vai trò của NS địa phương
NS địa phương được hợp thành bởi các kế hoạch tài chính và dự toán
kinh phí của các ngành, các cơ quan trực thuộc các cấp chính quyền địa
phương. NS địa phương là công cụ tài chính của các cấp chính quyền tương
ứng và phục vụ việc thực hiện các nhiệm vụ KT-XH của các cấp chính
quyền đã được phân cấp quản lý. NS địa phương có vai trò:
- Bảo đảm các nguồn vốn để thỏa mãn nhu cầu phát triển kinh tế, quản
lý nhà nước và các hoạt động văn hóa, xã hội trong địa phương.
- Đảm bảo huy động, quản lý và giám đốc một phần vốn của NS trung
ương phát sinh trên địa bàn địa phương.
- Điều hòa vốn về NS Trung ương trong những trường hợp cần thiết
để cân đối hệ thống NS.

×