Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Chuyển giao công nghệ ở Việt Nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 123 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ
*****


HOÀNG VĂN CƯƠNG

CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ Ở
VIỆT NAM THỰC TRẠNG VÀ GIẢI
PHÁP


LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ





HÀ NỘI - 2005
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ
*****




HOÀNG VĂN CƯƠNG




CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ Ở
VIỆT NAM THỰC TRẠNG VÀ
GIẢI PHÁP

CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
MÃ SỐ: 5.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ





NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. LÊ DANH TỐN





HÀ NỘI - 2005





-1-
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bước vào thế kỷ XXI, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại

tiếp tục phát triển với nhịp độ ngày càng nhanh, tạo ra những thành tựu mang
tính đột phá, làm thay đổi nhanh chóng, sâu sắc mọi mặt đời sống xã hội loài
người. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng lớn trong quá trình phát triển lực
lượng sản xuất. Vì vậy, đối với những nước chậm phát triển, muốn tiến kịp
những nước phát triển phải nhanh chóng nâng cao năng lực khoa học và trình
độ công nghệ, nắm bắt và làm chủ các tri thức mới để rút ngắn quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, đi tắt vào kinh tế tri thức.
Sau gần 20 năm đổi mới, nước ta đã giành được những thành tựu to lớn
và rất quan trọng làm cho thế và lực của đất nước mạnh lên nhiều. Cùng với
quá trình phát triển đất nước, khoa học và công nghệ nước ta đã có những
bước tiến tích cực, lực lượng cán bộ khoa học và công nghệ đã trưởng thành
một bước và có nhiều cố gắng thích nghi với cơ chế mới, có khả năng tiếp
thu, làm chủ được tri thức, công nghệ hiện đại trên một số ngành và lĩnh vực
kinh tế. Tuy nhiên, đứng trước bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế
quốc tế, nền khoa học và công nghệ nước ta còn có khoảng cách khá xa so với
các nước phát triển, chưa tạo ra được những năng lực khoa học và công nghệ
cần thiết để thực sự trở thành nền tảng và động lực cho tiến trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác
định phương hướng phát triển khoa học và công nghệ của nước ta đến năm
2010 là: “Việc đổi mới công nghệ sẽ hướng vào chuyển giao công nghệ, tiếp
thu, làm chủ công nghệ mới; đặc biệt lựa chọn những công nghệ cơ bản, có
vai trò quyết định đối với nâng cao trình độ công nghệ của nhiều ngành, tạo
ra bước nhảy vọt về chất lượng và hiệu quả phát triển của nền kinh tế ”.
Chuyển giao công nghệ là một khái niệm mới xuất hiện trong mấy thập
niên gần đây, nhưng đã nhanh chóng trở thành vấn đề thời sự, được nhiều nhà
nghiên cứu quan tâm, có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế trên




-2-
toàn cầu, đặc biệt là đối với những nước đang tiến hành công nghiệp hoá,
hiện đại hoá như Việt Nam. Việc nghiên cứu, hoạch định chính sách, chiến
lược làm như thế nào để nâng cao hiệu quả trong việc tiếp nhận và ứng dụng
công nghệ tiên tiến nước ngoài vào sản xuất trong nước cũng như việc triển
khai đưa công nghệ trong nước vào thực tiễn sản xuất ở từng ngành, từng lĩnh
vực và từng khâu trong quy trình hoạt động sản xuất được coi là khâu then
chốt bảo đảm phát triển nhanh và bền vững.
Với những yêu cầu đặt ra cả về lý luận và thực tiễn như trên, việc tìm
hiểu và nghiên cứu về vấn đề: “Chuyển giao công nghệ ở Việt Nam - Thực
trạng và giải pháp” là hết sức cần thiết và tôi chọn đó làm đề tài Luận văn
tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Chuyển giao công nghệ là một vấn đề được nhiều nhà hoạch định chính
sách, nhiều cơ quan và các nhà kinh tế trong nước và quốc tế quan tâm. Trong
những năm gần đây đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề
chuyển giao công nghệ, cụ thể như:
- Bộ Khoa học và Công nghệ, Trung tâm Thông tin khoa học và công
nghệ quốc gia: “Khoa học công nghệ thế giới – Xu thế và chính sách những
năm đầu thế kỷ XXI”, Hà Nội, 2003.
- GS.TS. Vũ Đình Cự (chủ biên): “Khoa học và công nghệ hướng tới
thế kỷ XXI - Định hướng và chính sách”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2000.
- TS. Lê Văn Hoan: “Chuyển giao công nghệ trong nền kinh tế thị
trường vào Việt Nam”, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1995.
- PGS.TS. Đàm Văn Nhuệ và TS. Nguyễn Đình Quang: “Lựa chọn
công nghệ thích hợp ở các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam”, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 1998.
- TS. Đặng Kim Nhung: “Chuyển giao công nghệ trong kinh tế thị
trường và vận dụng vào Việt Nam”, Nxb. Nông nghiệp, 1994.




-3-
- TS. Nguyễn Văn Phúc: “Chuyển giao công nghệ và quản lý công
nghệ”, Nxb. Khoa học – Kỹ thuật, Hà Nội, 1998.

- TS. Nguyễn Văn Phúc (chủ biên): “Quản lý đổi mới công nghệ”,
Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2002.
Ngoài ra còn có các bài viết đăng trên các báo, tạp chí.
Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến nhiều vấn đề lý luận và
thực tiễn quan trọng về chuyển giao công nghệ ở Việt Nam, nhưng về cơ bản,
các giải pháp đưa ra nhằm thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ ở Việt
Nam được xem xét trong khuôn khổ tiến trình phát triển khoa học và công
nghệ hoặc trong những giải pháp tăng trưởng và phát triển kinh tế chung của
đất nước. Do mục đích, đối tượng, phạm vi và thời điểm nghiên cứu khác
nhau, đặc biệt là trong quá trình toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập của Việt
Nam thì việc nghiên cứu vấn đề chuyển giao công nghệ cả về thực trạng lẫn
giải pháp là rất cần thiết.
Chuyển giao công nghệ luôn là một vấn đề mới cả về lý luận và thực
tiễn. Đó là một ẩn số cho các quốc gia chậm phát triển tiến kịp tới sự phát
triển kinh tế của các quốc gia phát triển khác.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu của Luận văn là đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt
động chuyển giao công nghệ trong thời gian tới. Để thực hiện được mục tiêu
này, tác giả đã đề ra nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là:
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn chuyển giao công nghệ;
- Đánh giá thực trạng hoạt động chuyển giao công nghệ ở Việt Nam từ
năm 1996 đến nay;
- Trên cơ sở các phân tích trên, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm

thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ ở Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động chuyển giao công nghệ ở Việt Nam
* Phạm vi nghiên cứu:



-4-
- Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động chuyển giao
công nghệ ở Việt Nam từ năm 1996 đến nay, đây được coi là mốc thời gian
mà nhiều chuyên gia đánh giá là mở đầu thời kỳ hoạt động chuyển giao công
nghệ có hệ thống.
- Về không gian: Chuyển giao công nghệ ở Việt Nam
- Về nội dung: Vấn đề đặt ra được đề cập từ hai góc độ: Chuyển giao
công nghệ tiên tiến, hiện đại của nước ngoài vào Việt Nam; chuyển giao công
nghệ ngay từ các kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ của Việt Nam
vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm phát triển kinh tế – xã hội, nâng
cao chất lượng cuộc sống xã hội cho nhân dân.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để làm rõ những nội dung cơ bản đã đặt ra của Luận văn, trong quá
trình nghiên cứu tác giả sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử. Ngoài ra còn sử dụng một số phương pháp: phương pháp kết hợp
phân tích với tổng hợp, phương pháp thống kê, so sánh, phân tích dự báo…
trong quá trình nghiên cứu.
6. Dự kiến những đóng góp mới của Luận văn
- Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận cơ bản về chuyển giao công nghệ.
- Phân tích hoạt động chuyển giao công nghệ của một số nước và rút ra bài
học kinh nghiệm cho Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động chuyển giao công nghệ ở Việt
Nam từ năm 1996 đến nay để từ đó thấy được những mặt còn tồn tại và hạn

chế trong quá trình chuyển giao công nghệ trong thời gian qua.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy hoạt động chuyển giao
công nghệ ở Việt Nam trong thời gian tới.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung chính của Luận văn gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung và kinh nghiệm quốc tế về
chuyển giao công nghệ



-5-
Chương 2: Thực trạng hoạt động chuyển giao công nghệ ở Việt Nam
trong thời gian qua
Chương 3: Quan điểm định hướng và những giải pháp chủ yếu
nhằm thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ ở Việt Nam trong thời
gian tới
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÀ KINH
NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ
1.1. Lý luận chung về chuyển giao công nghệ
1.1.1. Khái niệm
1.1.1.1. Công nghệ
Công nghệ là một yếu tố tạo ra quá trình sản xuất hàng hóa và cung cấp
dịch vụ. Nó liên kết các yếu tố khác của quá trình sản xuất kinh doanh theo một
lôgíc về mặt kỹ thuật. Thiếu yếu tố này, không thể có bất kỳ quá trình sản xuất –
kinh doanh nào. Ngay trong quá trình cung cấp dịch vụ thuộc các lĩnh vực phi
vật chất, thậm chí trong các hoạt động công cộng, người ta cũng nói tới công
nghệ – công nghệ triển khai, cung cấp các dịch vụ và tiến hành các hoạt động.
Công nghệ được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau, dựa trên những
căn cứ khác nhau, những cách tiếp cận khác nhau.

Theo nghĩa hẹp ban đầu, công nghệ chỉ dùng trong sản xuất và được
hiểu là “phương pháp công nghệ”, tức là những phương pháp sản xuất sản
phẩm, được mô tả qua những quy trình được trình bày dưới các hình thức
bản vẽ, sơ đồ, biểu, bảng. Một khái niệm khác cũng được dùng trong mối
quan hệ với công nghệ là khái niệm kỹ thuật – bao gồm toàn bộ các phương
tiện kỹ thuật như máy móc, thiết bị, dụng cụ sản xuất… phục vụ cho sản xuất.
Như vậy, khái niệm công nghệ hiểu theo nghĩa hẹp này được định nghĩa hoàn
toàn độc lập với khái niệm kỹ thuật (theo nghĩa là các phương tiện kỹ thuật).
Tuy rằng các phương pháp này cũng luôn được gắn với những thiết bị, công
cụ nhất định, thậm chí có cả những thiết bị đặc trưng gắn với từng chuyển
giao công nghệ, nhưng chúng thường không được coi là bộ phận hợp thành
của công nghệ. Về sau, khái niệm công nghệ được sử dụng trong cả lĩnh vực
cung cấp hàng hóa, dịch vụ và gần đây cả trong quản lý.



-6-
Cùng với sự phát triển của quá trình chuyển giao công nghệ, khái niệm
công nghệ đã được mở rộng: Công nghệ là tập hợp của tất cả các phương
pháp sản xuất, cung cấp sản phẩm và dịch vụ cũng như những phương tiện kỹ
thuật cần thiết để thực hiện phương pháp đó. Công nghệ không chỉ bị giới
hạn trong quá trình sản xuất, mà bao gồm cả những hoạt động nằm ngoài quá
trình sản xuất trực tiếp (trong các quá trình chuẩn bị sản xuất và trong phân
phối, lưu thông hàng hóa…). Với định nghĩa này, cả hai khái niệm “ công
nghệ ” và “kỹ thuật” theo nghĩa hẹp đã được liên kết lại với nhau. Người ta
xem phương pháp và quy trình công nghệ là yếu tố “phần mềm” của công
nghệ, còn thiết bị, máy móc và các công cụ sản xuất là “phần cứng” của công
nghệ.
Từ sau 1980, đặc biệt từ sau thập kỷ 90, khái niệm công nghệ được mở
rộng hơn. Nó được định nghĩa như tổng thể của các phương pháp, quy trình,

máy móc, thiết bị cần dùng để sản xuất sản phẩm và cung cấp dịch vụ, các
kiến thức, hiểu biết, kỹ năng, thông tin cũng như các phương thức tổ chức mà
con người cần áp dụng để sử dụng những phương pháp, phương tiện đó.
Theo định nghĩa này, công nghệ được chia thành 4 yếu tố: Phần cứng (các
phương tiện kỹ thuật như máy móc, thiết bị, công cụ sản xuất…); phần mềm
(các phương pháp, quy trình sản xuất và cung cấp sản phẩm, dịch vụ); phần tổ
chức (kết cấu hệ thống sản xuất và quản lý sản xuất, cơ chế vận hành của hệ
thống đó); và phần con người (kể cả các kỹ năng, kỹ xảo, kiến thức, thông tin
mà người lao động và cán bộ quản lý các cấp cần có để sử dụng được công
nghệ).
Gần đây, một số tác giả còn coi công nghệ phải bao gồm cả năng lực
tiềm tàng của tổ chức sản xuất – kinh doanh và dịch vụ trong việc sản xuất và
cung cấp sản phẩm/dịch vụ cho xã hội. “ Công nghệ là tổng hợp những năng
lực nội tại, cở sở vật chất, kỹ năng, hiểu biết và tổ chức cần thiết để có thể tạo
ra được những sản phẩm hoặc dịch vụ có ích cho xã hội ”.
Công nghệ là một khái niệm động, thay đổi cùng với sự phát triển của
tiến bộ khoa học – công nghệ, điều kiện kinh doanh và yêu cầu của quản lý. Hiện
nó đã bao hàm một nội dung rất rộng và sau này có thể được tiếp tục mở rộng.



-7-
Công nghệ là một hàng hóa được mua bán trên thị trường công nghệ.
Thị trường công nghệ là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, trao đổi công
nghệ. Việc mua bán công nghệ thông qua con đường đầu tư nước ngoài là
một trong những kênh phổ biến. Bên cạnh đó còn có những kênh khác như
tiến hành mua bán trực tiếp giữa các công ty với nhau, hoặc có thể phổ biến
công nghệ không thông qua con đường thương mại. Để cho việc chuyển giao
công nghệ được hiệu quả cần nắm được thuộc tính cơ bản của công nghệ. Các
thuộc tính này quy định và ảnh hưởng trực tiếp tới việc mua, bán, trao đổi và

sử dụng công nghệ. Công nghệ có những thuộc tính sau đây:
Một là, công nghệ có tính hệ thống: Điều này có nghĩa là không thể
đánh giá công nghệ thông qua các thành phần riêng lẻ. Ví như mua được máy
móc hiện đại không có nghĩa là có được công nghệ hiện đại để sản xuất sản
phẩm mong muốn. Vì thế, các yếu tố cấu thành công nghệ có mối quan hệ
hữu cơ và đồng bộ để tạo ra sự gắn kết trong hệ thống. Từng yếu tố cũng
không phải là phép tính cộng giản đơn các thành phần của nó mà là các yếu tố
cấu thành của hệ thống, với các mối tương quan chặt chẽ về không gian và
thời gian, trình tự và điều kiện vận hành. Chỉ khi công nghệ được đổi mới, tức
là ít nhất có một giải pháp nào đó được thay thế bằng một giải pháp tốt hơn,
khiến toàn bộ hệ thống trở nên tiến bộ hơn sẽ đưa tới kết quả cao hơn, thể
hiện ở quy mô sản xuất, chất lượng sản phẩm và chi phí sản xuất.
Hai là, công nghệ có tính sinh thể: Đó là, cũng như các hàng hóa khác,
công nghệ cũng có tính chu kỳ sống (ra đời, tăng trưởng, chiếm lĩnh thị
trường, bão hòa, lỗi thời, tiêu vong) và chịu sự chi phối của phương án chiến
lược sản phẩm truyền thống, nên việc các bên nước ngoài chuyển giao các
công nghệ lỗi thời, sắp bị thay thế vào một thị trường mới (như ở Việt Nam)
cũng không nằm ngoài quy luật. Tuy nhiên, khác với các hàng hóa khác, công
nghệ chỉ có thể tồn tại và phát triển như một cơ thể sống, tức là phải được
cung cấp các yếu tố đầu vào, trong môi trường thuận lợi, thích nghi và phải
được bảo dưỡng, duy trì và hoàn thiện. Không nên xem công nghệ như một
sản phẩm “chết” vì như vậy nó sẽ trở thành một gánh nặng cho người sử
dụng.



-8-
Ba là, công nghệ có tính đặc thù về mục tiêu và địa điểm. Thật vậy, tuy
công nghệ là một khái niệm rất rộng và đụng chạm đến nhiều khía cạnh kỹ
thuật, kinh tế, tổ chức và xã hội, nhưng nó lại giải quyết các mục tiêu cụ thể.

Công nghệ nào thì sản phẩm ấy và mỗi công nghệ cho phép đạt được một loại
sản phẩm nhất định, với số lượng, chất lượng và một lượng vật tư tiêu hao
nhất định. Mặt khác, mỗi công nghệ chỉ thực sự vận hành tốt nếu có một môi
trường thích nghi và thuận lợi. Vì vậy, một công nghệ thực sự phù hợp với
quốc gia này lại không phát huy tác dụng ở quốc gia kia, vì khi thay đổi địa
điểm thì các yếu tố đầu vào và môi trường cũng thay đổi. Điều này cho thấy,
chuyển giao công nghệ không chỉ đơn giản là dịch chuyển công nghệ từ vị trí
địa lý này sang vị trí đại lý khác mà là cả một quá trình cải tiến, sửa đổi, thích
nghi hóa cho phù hợp với các điều kiện của môi trường mới. Từ đặc thù này
của công nghệ mà xuất hiện một khái niệm mới được nhiều người nhắc đến là
“công nghệ thích hợp”. Đó là sự phù hợp của công nghệ với các mục tiêu
kinh tế - xã hội, các điều kiện về lao động, trình độ quản lý, tài nguyên thiên
nhiên và hạ tầng kỹ thuật.
Bốn là, công nghệ có tính thông tin. Do công nghệ là một hệ thống kiến
thức về quy trình và kỹ thuật chế biến vật chất và thông tin nên bản thân công
nghệ có tính thông tin. Thông tin là một loại hàng hóa rất đặc biệt, cho nên
đánh giá, định giá, xử lý, xác định quyền sở hữu và bảo vệ nó là hết sức phức
tạp. Nó đòi hỏi sự can thiệp và bảo hộ không chỉ ở phạm vi quốc gia mà còn
cả phạm vi quốc tế.
1.1.1.2. Chuyển giao công nghệ
a) Định nghĩa
Chuyển giao công nghệ là loại hoạt động thực tiễn đã xuất hiện từ khá
lâu trong lĩnh vực ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ. Tuy nhiên, chỉ từ
những năm 70 của thế kỷ XX trở lại đây việc chuyển giao công nghệ và sử
dụng hiệu quả công nghệ được chuyển giao mới có ảnh hưởng quyết định đến
sự thịnh vượng, tốc độ và hiệu quả phát triển kinh tế – xã hội cũng như chất
lượng cuộc sống của nhiều nước trên thế giới.
Trước đây, chuyển giao công nghệ xảy ra như là kết quả của các hoạt
động nhằm chống chọi với thiên nhiên để sinh tồn, việc khai thác các nguồn




-9-
lợi từ tự nhiên được tiến hành một cách trực tiếp, rồi phát triển lên thành quy
mô giữa các lãnh thổ, các quốc gia và giao lưu với nhau bởi quan hệ chính trị,
kinh tế, thương mại, nhưng chuyển giao công nghệ chỉ là các hệ quả của quá
trình đó, được thực hiện một cách ngẫu nhiên và không được vật chất, tiền tệ
hóa dưới hình thức giao dịch đặc biệt. Ngày nay, chuyển giao công nghệ trở
thành một hoạt động có tính quy luật khách quan, công nghệ trở thành một
hàng hóa để trao đổi buôn bán, và các hoạt động chuyển giao công nghệ
thường được thực hiện với sự tham gia của những chủ thể như: các tổ chức,
cơ quan chính phủ hoặc phi chính phủ, doanh nghiệp, những tập thể hoặc cá
nhân những nhà khoa học, các tổ chức môi giới, tư vấn…
Mặc dù đã có những nghiên cứu về chuyển giao công nghệ nhưng hiện
nay vẫn còn có nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm chuyển giao công nghệ.
Theo quan điểm của ESCAP: Chuyển giao công nghệ là sự dịch chuyển
toàn bộ, hoặc một phần công nghệ từ nhóm người này sang nhóm người khác.
Theo quan điểm của UNDP: Chuyển giao công nghệ là việc đưa kiến
thức kỹ thuật ra khỏi ranh giới nơi sản sinh ra nó.
GS. Christopher Freemen cho rằng: “Chuyển giao công nghệ là tập hợp
các hoạt động thương mại và pháp lý nhằm làm cho bên nhận công nghệ có
được năng lực công nghệ như bên giao công nghệ, trong khi sử dụng công
nghệ đó vào một mục đích đã định”.
GS. TS. Shoichi Yamashita lại cho rằng: “Chuyển giao công nghệ là
một quá trình học tập trong đó tri thức về công nghệ được tích lũy một cách
liên tục vào những nguồn tài nguyên con người đang thu hút vào các hoạt
động sản xuất, một sự chuyển giao công nghệ thành công cuối cùng sẽ đưa tới
sự tích lũy tri thức sâu hơn và rộng hơn”.
Trên góc độ của doanh nghiệp, có thể hiểu: “Chuyển giao công nghệ là
hoạt động nhằm đưa công nghệ tiên tiến vào sản xuất thông qua việc áp dụng

một kết quả nghiên cứu khoa học vào sản xuất hoặc có thể là áp dụng một
công nghệ đã hoàn thiện từ doanh nghiệp này sang doanh nghiệp khác. Đó là
sự mua bán công nghệ và là quá trình đào tạo, huấn luyện để sử dụng công
nghệ được tiếp nhận”.



-10-
Bộ Khoa học và Công nghệ xác định rằng: “Chuyển giao công nghệ là
một hoặc tập hợp nhiều hoạt động được tiến hành bởi hai bên – bên giao và
bên nhận, trong đó hai bên phối hợp hành vi pháp lý và các hành động thực
tiễn mà mục đích và kết quả là bên giao cung cấp để thực hiện một mục tiêu
xác định”.
Các quan niệm trên tuy khác biệt về nội dung cụ thể và cách tiếp cận
nhưng có những điểm chung sau đây:
- Thứ nhất, Hoạt động chuyển giao công nghệ có hai bên tham gia và
có yếu tố quyết định là công nghệ mới;
- Thứ hai, Hoạt động chuyển giao công nghệ không chỉ bao gồm chuyển
nhượng phương tiện vật chất, kỹ thuật hữu hình mà điều quan trọng hơn là phải
đào tạo, huấn luyện để người lao động nắm giữ, sử dụng thành thạo công nghệ
được chuyển giao và cải tiến công nghệ đó thích nghi với điều kiện thực tế.
Như vậy, Chuyển giao công nghệ được xem là một lĩnh vực hoạt động
nhằm đưa những công nghệ từ nơi có nhu cầu chuyển giao công nghệ đến nơi
có nhu cầu tiếp nhận công nghệ một cách hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của các
bên tham gia.
b) Nội dung của chuyển giao công nghệ
Thực tế, trong nhiều thập kỷ qua, những hoạt động chuyển giao công
nghệ ở các mức độ khác nhau đã xuất hiện. Nó được phát triển theo thời gian
cả về chiều rộng lẫn chiều sâu trong nội bộ các quốc gia và giữa các quốc gia
với nhau thông qua mua bán thương mại, chiến tranh chinh phục và di cư.

Chúng ta có thể xác định nội dung của chuyển giao công nghệ bao gồm:
- Chuyển giao phần cứng sản xuất: bao hàm toàn bộ kiến thức được sử
dụng trong sản xuất, thông thường gồm các vật liệu, sản phẩm hay máy móc
thiết bị.
- Chuyển giao phần cứng tổ chức: gồm các thiết bị và phương tiện
được dùng trong các hoạt động phi sản xuất ở trong và ngoài xí nghiệp.
- Chuyển giao tài liệu sản xuất: thường bao gồm 4 loại: Patent; các bí
quyết thiết kế, kế hoạch; các cẩm nang vận hành; các tiêu chuẩn sản xuất.
- Chuyển giao tài liệu tổ chức: đó là tài liệu dùng cho quản ký, bao
gồm các nguyên tắc để vận hành xí nghiệp, quản lý chất lượng, quản lý nhân
sự, kiểm soát tài chính.



-11-
- Chuyển giao các kỹ năng sản xuất: đó là các kinh nghiệm và kỹ năng
được tích lũy và sử dụng trong quy trình sản xuất đó.
Trong nội dung của chuyển giao công nghệ ta cần lưu ý tới hai điểm
mấu chốt đó là: các hình thức hàm chứa công nghệ và và các cấp độ chuyển
giao công nghệ.
Về hình thức hàm chứa công nghệ: có ba hình thức như sau:
- Thứ nhất, công nghệ được hàm chứa trong máy móc, thiết bị. Loại
công nghệ này có thể được chuyển giao thông qua nhiều kênh khác nhau như
thông qua hoạt động mậu dịch, xuất – nhập khẩu nhà máy, thỏa thuận về cấp
giấy phép, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
- Thứ hai, công nghệ được hàm chứa trong các tài liệu, văn bản dùng để
lưu trữ, phổ biến. Đây là loại thông tin về cách vận hành máy móc, thiết bị (hoạt
động của công nghệ) và phương thức điều hành các hoạt động của doanh nghiệp.
- Thứ ba, công nghệ được hàm chứa trong chính con người (các chuyên
gia kỹ thuật, nhà quản trị doanh nghiệp, người quản lý công nghệ…)

Về các cấp độ chuyển giao công nghệ: có ba cấp độ:
- Chuyển giao công nghệ sản xuất (cấp độ tác nghiệp);
- Chuyển giao công nghệ điều hành (cấp độ quản lý và kỹ thuật bậc trung);
- Chuyển giao bí quyết quản lý (cấp độ điều hành toàn bộ, quản lý cao
cấp và bộ máy nghiên cứu và phát triển).
c) Đối tƣợng chuyển giao công nghệ
Các đối tượng chuyển giao công nghệ bao gồm:
* Các đối tượng sở hữu công nghiệp có hoặc không kèm theo máy
móc, thiết bị mà pháp luật cho phép chuyển giao
Sở hữu công nghiệp bao gồm: Sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng
công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, tên gọi xuất xứ hàng hóa và các đối tượng
khác do luật định.
Trong đó, sáng chế là giải pháp kỹ thuật mới so với trình độ thế giới, có
trình độ sáng tạo, có khả năng áp dụng trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Giải pháp hữu ích là giải pháp kỹ thuật mới so với trình độ kỹ thuật
trên thế giới, có khả năng áp dụng trong các lĩnh vực kinh tế – xã hội.
Kiểu dáng công nghiệp là hình dáng bên ngoài của sản phẩm, được thể
hiện bằng đường nét, hình khối, màu sắc hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, có



-12-
tính đổi mới đối với thế giới và dùng làm mẫu để chế tạo sản phẩm công
nghiệp hoặc thủ công nghiệp.
Nhãn hiệu hàng hóa là những dấu hiệu để phân biệt hàng hóa, dịch vụ
cùng loại của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác nhau. Nhãn hiệu hàng hóa
có thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc sự kết hợp các yếu tố đó được thể hiện bằng
một hoặc nhiều màu sắc.
Tên gọi xuất xứ hàng hóa là tên địa lý của nước, địa phương dùng để chỉ
xuất xứ mặt hàng từ nước, địa phương đó với điều kiện những mặt hàng này có

các tính chất, chất lượng đặc thù dựa trên các điều kiện địa lý độc đáo và ưu việt,
bao gồm các yếu tố tự nhiên, con người hoặc kết hợp cả hai yếu tố đó.
Quyền sở hữu đối với sở hữu công nghiệp có thể được xác lập bằng
văn bằng bảo hộ do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước cấp, nếu chủ sở
hữu đệ trình hồ sơ yêu cầu.
* Bí quyết, kiến thức kỹ thuật về công nghệ dưới dạng phương án công
nghệ, các giải pháp kỹ thuật, quy trình công nghệ, phần mềm máy tính, tài
liệu thiết kế, công thức, thông số kỹ thuật, bản vẽ, sơ đồ kỹ thuật có hoặc
không kèm theo máy móc, thiết bị.
Bí quyết là những kinh nghiệm, kiến thức, thông tin kỹ thuật quan trọng,
mang tính chất bí mật được tích lũy, khám phá trong quá trình nghiên cứu, sản
xuất, kinh doanh, có khả năng tạo ra những dịch vụ, sản phẩm có chất lượng cao,
đem lại hiệu quả kinh tế lớn, có khả năng tạo ra lợi thế cạnh tranh trên thị
trường.
* Các giải pháp hợp lý hóa sản xuất, đổi mới công nghệ.
* Các hình thức dịch vụ kỹ thuật hỗ trợ chuyển giao công nghệ như:
- Hỗ trợ lựa chọn công nghệ, hướng dẫn lắp đặt thiết bị, vận hành thử dây
chuyền…
- Tư vấn quản lý công nghệ, quản lý kinh doanh, hướng dẫn thực hiện quy
trình công nghệ được chuyển giao;
- Đào tạo, huấn luyện, nâng cao trình độ chuyên môn và quản lý của công
nhân, cán bộ kỹ thuật và cán bộ quản lý để nắm vững công nghệ được chuyển
giao.



-13-
* Máy, thiết bị, phương tiện kỹ thuật kèm theo 1 hoặc một só trong 4
đối tượng nêu trên.
1.1.2. Phân loại các hình thức chuyển giao công nghệ

Để có những giải pháp, những hướng tác động thích hợp và có hiệu quả
tới quá trình chuyển giao công nghệ, các hoạt động này cần được phân loại
theo những đặc điểm nhất định, thích hợp với những nhóm giải pháp nhất
định. Toàn bộ các quá trình chuyển giao công nghệ có thể phân loại theo các
cách khác nhau sau đây:
1.1.2.1. Phân loại theo chủ thể chuyển giao công nghệ
Sự phân loại này cho phép xác định được cơ chế chuyển giao thích
hợp. Theo đó, các quá trình chuyển giao công nghệ được phân chia thành:
- Chuyển giao công nghệ nội bộ doanh nghiệp (giữa cơ quan nghiên
cứu và thiết kế của công ty với các thành viên của nó ở trong một nước hay ở
nhiều nước): Trong trường hợp này, công nghệ do phòng nghiên cứu thiết kế
được chuyển giao cho các bộ phận triển khai khác hoặc cho các bộ phận khác
trong nội bộ công ty, tập đoàn và cuối cùng, chuyển giao tới các nhà máy sản
xuất. Đây là hình thức thường được áp dụng trong các doanh nghiệp có quy
mô lớn. Hình thức chuyển giao có thể là sự chuyển giao trên cơ sở hạch toán
nội bộ hoặc hạch toán kinh tế (có tính đến lỗ – lãi của các đơn vị có liên
quan). Nó có thể (nhưng không nhất thiết) là sự chuyển giao có tính bao cấp
giữa các đơn vị có liên quan.
- Chuyển giao công nghệ trong nước (giữa các công ty, các cơ quan
nghiên cứu và thiết kế trong nước): Đây là hình thức chuyển giao công nghệ
giữa các đối tác độc lập trong cùng một quốc gia. Các đối tác này có thể có quy
chế hoạt động khác nhau, nhưng đều là những chủ thể độc lập trên thị trường.
Việc chuyển giao công nghệ thường được thực hiện trên cơ sở hạch toán kinh tế.
Lợi ích của các bên được đảm bảo qua các hoạt động thương mại đơn thuần mà
công nghệ là đối tượng. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, do muốn thúc đẩy
quá trình đổi mới công nghệ, Nhà nước cũng có thể tài trợ cho việc chuyển giao
này (tài trợ trực tiếp cho các cơ quan chuyển giao hoặc cho bên tiếp nhận công
nghệ).




-14-
- Chuyển giao công nghệ quốc tế: Đây là hình thức chuyển giao công
nghệ giữa các đối tác có quốc tịch khác nhau, có địa điểm ở các quốc gia khác
nhau.
1.1.2.2. Phân loại theo nội dung công nghệ được chuyển giao
Cách phân chia này được dùng để xây dựng những “khuôn khổ chung
về nội dung” chuyển giao công nghệ. Theo đó người ta xác định:
- Công nghệ chế tạo: Chủ yếu chỉ sử dụng chuyển giao công nghệ về
các phương diện như thiết bị, công nghệ – vật liệu sản xuất với mục đích là
chế tạo sản phẩm.
- Công nghệ thiết kế: Đây là sự chuyển giao công nghệ về các phương
diện như đồ án thiết kế khai thác phát triển sản phẩm, ứng dụng công nghệ,
tài liệu thuyết minh công nghệ, số liệu tính toán và tư liệu ban đầu.
- Công nghệ quản lý: Chuyển giao công nghệ quản lý về các phương diện
như: Công nghệ quản lý đặc biệt mà xí nghiệp đã nghiên cứu và triển khai thành
công hoặc công nghệ quản lý về tài vụ, vật tư, nhân sự, tư vấn, marketing. Nó đề
cập tới các quy trình, cách thức tiến hành các hoạt động quản lý.
1.1.2.3. Phân loại theo tính chất của công nghệ
Cách phân chia này được sử dụng nhiều trong việc xác định quyền và
nghĩa vụ của mỗi bên tham gia quá trình chuyển giao công nghệ. Nó xuất phát từ
thực tế là tùy thuộc vào vị trí của mình trên thị trường nói chung cũng như thị
trường công nghệ riêng, một bên chuyển giao hoặc tiếp nhận công nghệ có thể
có lợi thế hơn hoặc bị sức ép nhiều hơn phía đối tác. Việc xác định rõ vị trí này
(và quan trọng hơn là xác định dúng lợi thế hoặc bất lợi thế của mình), có thể
giúp doanh nghiệp xác định được đúng đắn chiến lược của mình trong đàm phán
với đối tác về chuyển giao công nghệ. Người ta có thể phân biệt các trường hợp
bên nhận hoặc bên chuyển giao công nghệ có vị trí độc quyền, công nghệ được
chuyển giao là công nghệ đặc biệt hoặc gắn với thiết bị chuyên dùng, với trình
độ chuyên môn cao hoặc với nhãn hiệu hàng hóa của bên đối tác, việc chuyển

giao công nghệ gắn với hoạt động tư vấn công nghệ, bồi dưỡng, đào tạo nhân
viên có tính đặc trưng…
1.1.2.4. Phân loại theo tính chất của quá trình chuyển giao công nghệ



-15-
Cách phân loại này liên quan tới cách thức và con đường chuyển giao
công nghệ. Theo đó, các hoạt động chuyển giao công nghệ được phân chia
thành:
- Chuyển giao theo chiều dọc:
Đây là quá trình tri thức, lý luận cơ sở được chuyển giao từ các bộ
phận, tổ chức nghiên cứu, phát triển (nơi tạo ra công nghệ) sang các bộ phận,
tổ chức ứng dụng công nghệ đó. Trong quá trình này, cứ sau mỗi bước
chuyển giao, công nghệ lại được phát triển tiếp để trở nên hoàn thiện hơn, có
thể khai thác trên thực tế được hoặc có thể mở rộng giá trị sử dụng của nó. Có
hai quan niệm về chuyển giao công nghệ theo chiều dọc:
Thứ nhất, công nghệ chưa có trên thị trường: Chuyển giao công nghệ
chưa được triển khai (công nghệ vẫn trong sự quản lý của nơi nghiên cứu).
Bên nhận có được công nghệ hoàn toàn mới nếu triển khai thành công.
Thứ hai, Công nghệ đã có trên thị trường:
Chuyển giao từ Nghiên cứu Triển khai Sử dụng Thị trường
Bên nhận đễ dàng làm chủ công nghệ được chuyển giao.
Trong thực tế các chuyển giao công nghệ dọc chỉ chiếm khoảng 5% tổng
số chuyển giao công nghệ trên phạm vi thế giới do bên nhận công nghệ cần có
năng lực triển khai công nghệ ở trình độ cao (trong trường hợp công nghệ chưa
có trên thị trường) và chí phí chuyển giao cao (trong trường hợp thứ 2).
- Chuyển giao theo chiều ngang:
Đây là quá trình đưa công nghệ đã được phát triển hoàn chỉnh, đã được
khai thác và sử dụng tại một tổ chức hoặc khu vực nào đó (doanh nghiệp) sang

cho một tổ chức hoặc khu vực khác (doanh nghiệp) sử dụng. Về nguyên tắc,
trong quá trình chuyển giao công nghệ ngang đối với công nghệ, không cần có
những cải tiến, hoàn thiện thêm. Tuy nhiên, trên thực tế, ngay trong quá trình
này, việc “thích nghi hóa” cũng chính là quá trình cải tiến công nghệ được
chuyển giao.
Hình 1.1: Phân biệt chuyển giao công nghệ dọc và ngang




Chu trình của công nghệ Công nghệ chưa có ở thị trường Công nghệ đã có ở thị trường
Nghiên cứu
Triển khai
Sản xuất thử
Sản xuất hàng loạt
Phổ biến trên thị trường
Dọc
Dọc



-16-




1.1.2.5. Phân loại theo phương thức thanh toán và tính chất thương mại
Chuyển giao công nghệ và mua bán công nghệ không phải đồng nhất
nhau. Bởi thế người ta phân biệt hai hình thức:
- Chuyển giao công nghệ phi thương mại: Hình thức này bao gồm toàn

bộ chuyển giao công nghệ có tính học thuật, thông qua các phương thức như
hội nghị quốc tế, triển lãm thành tựu công nghệ và hội thảo chuyên đề, xuất
bản sách báo, trao đổi tư liệu, giảng dạy, khảo sát,…để tiếp thu nhanh thành
quả khoa học công nghệ của người khác. Đó là sự chuyển giao mang tính phi
mậu dịch. Trong loại chuyển giao công nghệ này, bên tiếp nhận không phải
trả chi phí chuyển nhượng.
- Chuyển giao công nghệ có tính thương mại: Nó bao gồm các hình
thức chuyển giao, trong đó công nghệ với tư cách là một loại hàng hóa đặc
biệt, được mua và bán trên thị trường. Bởi thế, quá trình chuyển giao có tính
mậu dịch và được tiến hành bằng phương thức mua bán công nghệ.
1.1.3. Điều kiện chuyển giao công nghệ
Việc chuyển giao công nghệ cho phép cả bên giao và bên nhận công
nghệ có được những lợi thế nhất định. Chính lợi ích này là động lực thúc đẩy
quá trình chuyển giao công nghệ diễn ra với tốc độ và quy mô ngày càng lớn
hơn. Tuy nhiên, cũng có nhiều trường hợp việc chuyển giao công nghệ không
đem lại lợi ích mong muốn. Bài học rút ra từ những thành công và thất bại là:
Để chuyển giao cũng như tiếp nhận thành công một công nghệ, cần đảm bảo
những điều kiện xuất phát từ bản thân công nghệ, bên cung cấp công nghệ và
bên tiếp nhận công nghệ. Ngoài ra, các điều kiện xuất phát từ chính sách của
Nhà nước từ phiá chuyển giao và phía tiếp nhận công nghệ cũng ảnh hưởng
mạnh mẽ tới việc chuyển giao công nghệ.
Xét một cách khái quát, những nhân tố sau đây sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới
quá trình chuyển giao – tiếp nhận công nghệ và thành công của quá trình này:
* Nhu cầu đổi mới, chuyển giao công nghệ và thị trường công nghệ
Ngang



-17-
Nhân tố đầu tiên và quan trọng nhất ảnh hưởng tới việc chuyển giao công

nghệ là nhu cầu đổi mới công nghệ. Nhu cầu này bắt nguồn từ thị trường và nhu
cầu về sản phẩm có liên quan đến công nghệ được xem xét. Khi có sự mất cân
đối trên thị trường về sản phẩm theo hướng nhu cầu không được đáp ứng, các
doanh nghiệp sẽ phản ứng bằng cách nâng cao năng lực sản xuất (nâng cao hệ số
tận dụng năng lực sản xuất, đầu tư theo chiều sâu nhằm đồng bộ hóa hoặc tăng
năng lực sản xuất trên cơ sở công nghệ đang được sử dụng). Nếu những biện
pháp này không đáp ứng được yêu cầu hoặc không giúp doanh nghiệp nâng cao
hiệu quả, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường (hoặc công nghệ truyền
thống đã được khai thác một cách triệt để) đã có những công nghệ mới có khả
năng thay thế công nghệ cũ, doanh nghiệp sẽ tính đến khả năng thay thế công
nghệ truyền thống, đang sử dụng bằng công nghệ mới hoặc cải tiến chúng.
Khi xuất hiện nhu cầu thay thế công nghệ đang được khai thác và sử dụng
bằng công nghệ mới, vấn đề mà doanh nghiệp phải cân nhắc là tự mình nghiên
cứu, thiết kế công nghệ mới hay mua/tiếp nhận công nghệ mới từ các cơ sở, các
doanh nghiệp khác. Cơ sở để doanh nghiệp quyết định vấn đề này là tương quan
giữa chi phí và lợi ích của doanh nghiệp trong từng trường hợp (tự nghiên cứu
hay nhận chuyển giao). Thông thường, vấn đề này hay xuất hiện trong các doanh
nghiệp lớn, đặc biệt là hướng công nghệ được doanh nghiệp đầu tư, nghiên cứu.
Thị trường công nghệ tác động tới tình hình chuyển giao công nghệ ở
chỗ, nếu có nhiều công nghệ mới đã được tạo ra và sẵn sàng chuyển giao với
chi phí có thể chấp nhận được, các doanh nghiệp có nhu cầu sẽ có điều kiện
thuận lợi trong việc tiếp nhận công nghệ mới và dễ dàng nhận chuyển giao
các công nghệ mình cần. Thiếu nguồn cung cấp hoặc các cơ sở chuyển giao
công nghệ với những điều kiện ngặt nghèo, khắt khe sẽ ảnh hưởng bất lợi tới
việc chuyển giao công nghệ. Thực tế ở các nước đang phát triển, kể cả Việt
Nam, cũng đã cho thấy rằng mặc dù có nhu cầu lớn về công nghệ đơn giản
cho phép chế biến các sản phẩm thô, sản phẩm nông sản sau thu hoạch với
chi phí thấp, điều kiện sử dụng không khắt khe…nhưng do không có cơ quan,
tổ chức nào nghiên cứu và sẵn sàng chuyển giao nên những công nghệ này
nằm trong tình trạng trì trệ từ hàng chục năm nay chưa được cải thiện đáng

kể.
* Động lực của hai bên cung ứng và tiếp nhận công nghệ



-18-
Động lực thúc đẩy người có công nghệ tìm cách chuyển giao công nghệ
này là thúc đẩy sự tiêu dùng rộng rãi một hoặc một số sản phẩm mới, tham
nhập thị trưởng mới hoặc mở rộng thị trường đã có, tăng thêm lợi nhuận từ
các hoạt động chuyển giao công nghệ. Động lực đó cũng có thể là giúp bên
chuyển giao cung cấp được (hoặc cung cấp thêm) các sản phẩm, vật tư,
nguyên liệu gắn với công nghệ mới, đẩy mạnh quá trình chuyển đổi công
nghệ của doanh nghiệp (chuyển giao công nghệ và các thiết bị liên quan để
thay thế chúng bằng một công nghệ mới hơn, tiên tiến hơn…).
Động lực thúc đẩy người sử dụng tiếp nhận công nghệ là thông qua nhập
công nghệ mà phát triển sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm, tiết
kiệm chi phí để giảm giá thành, tăng lợi nhuận, đổi mới hoặc đa dạng hóa sản
phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm, thay thế nguyên, vật liệu quý hiếm đang
sử dụng bằng những nguyên, vật liệu mới rẻ tiền, dễ kiếm hơn….
Nhận thức được tác động của nhân tố này, cả bên chuyển giao công
nghệ lẫn bên tiếp nhận công nghệ cần có ứng xử thích hợp trong toàn bộ quá
trình từ đàm phán, ký kết hợp đồng cho tới các hoạt động cụ thể triển khai
việc chuyển giao công nghệ. Nếu mỗi bên chỉ biết đến lợi ích của mình,
không chú ý và đảm bảo lợi ích của các đối tác thì sẽ không thể thực hiện
thành công việc chuyển giao công nghệ.
* Năng lực công nghệ thực tế của bên chuyển giao và bên tiếp nhận
công nghệ
Năng lực thực sự của hai bên chuyển giao/tiếp nhận công nghệ không chỉ
ảnh hưởng tới việc chuyển giao công nghệ, mà cả tới việc khai thác, sử dụng
công nghệ sau khi chuyển giao kết thúc. Nguồn lực có ý nghĩa quan trọng nhất là

vốn đầu tư và lao động có trình độ, có tay nghề thích hợp. Nhìn chung, một
doanh nghiệp có tiềm lực càng lớn và đồng bộ, càng có điều kiện thuận lợi để
chuyển giao hoặc tiếp nhận công nghệ, càng có điều kiện chủ động lựa chọn
công nghệ cần chuyển giao – tiếp nhận cũng như đối tác chuyển giao, hình thức
chuyển giao cũng như các điều kiện chuyển giao công nghệ.
Trong quan hệ chuyển giao, nếu thị trường công nghệ không có gì đặc
biệt, công nghệ và việc khai thác công nghệ không thuộc độc quyền của bên nào
thì bên nào có tiềm lực thấp hơn sẽ phụ thuộc vào bên có tiềm lực cao hơn, hoặc
chịu thiệt hơn so với bên có tiềm lực cao hơn. Nếu cả hai bên đều chỉ có tiềm lực



-19-
hạn chế, việc chuyển giao công nghệ sẽ gặp khó khăn, thậm chí không thực hiện
được. Ví dụ dễ quan sát thấy trong thực tiễn là: Nếu cả hai bên chuyển giao và
tiếp nhận công nghệ đều ít vốn, một bên không thể bán công nghệ theo phương
thức trả chậm, còn bên kia không có tiền để thanh toán ngay cho bên chuyển
giao thì việc chuyển giao công nghệ sẽ không thành. Ngược lại nếu cả hai bên
đều có nguồn lực tài chính dồi dào thì việc chuyển giao sẽ thuận lợi hơn.
* Điều kiện môi trường
Quy mô, phạm vi của hoạt động chuyển giao công nghệ có quan hệ mật
thiết với môi trường quốc tế, môi trường kinh doanh, quan hệ với chính sách
của Chính phủ, thể chế quản lý và điều kiện công kinh tế, văn hóa của các
nước. Môi trường tác động tới việc chuyển giao công nghệ qua các nội dung
chủ yếu sau:
- Cơ sở hạ tầng phát triển, có các thông số, cấu trúc và phương thức
vận hành thích hợp với công nghệ được chuyển giao thì việc chuyển giao có
thể được tiến hành một cách thuận lợi. Nhờ đó, sau khi chuyển giao, công
nghệ có thể được khai thác, phát huy tốt hơn, vốn đầu tư nhanh chóng được
thu hồi. Điều này càng kích thích các doanh nghiệp khác thực hiện việc

chuyển giao công nghệ tương tự.
- Tập quán, ý thức pháp luật của cộng đồng cũng ảnh hưởng mạnh mẽ
tới nhu cầu chuyển giao công nghệ. Nếu quyền tác giả bị xâm phạm, không
được bảo vệ, các bí quyết công nghệ có thể được chuyển giao, phổ biến bất
hợp pháp, nhu cầu chuyển giao công nghệ có thể lớn lên, nhưng lợi ích của
người nghiên cứu, thiết kế công nghệ không được đảm bảo. Điều này làm cho
các khoản đầu tư vào nghiên cứu để đổi mới công nghệ bị giảm đi và kết quả
sẽ có ít công nghệ được chuyển giao hơn. Thực tế ở các nước đang phát triển,
cụ thể như ở Việt Nam, cho thấy rằng: Khi bản quyền không được bảo vệ,
người ta chỉ đầu tư cho những công nghệ đòi hỏi ít vốn, thu hồi nhanh, ít rủi
ro. Chính điều này làm cho công nghệ mới thường là sự cải tiến không đáng
kể của những công nghệ đã biết và hiệu quả kinh tế cũng như các tác động,
tiến bộ kỹ thuật – công nghệ của chúng thường cũng không tăng lên đáng kể.
- Chính sách, chủ trương và các quy định cụ thể của Nhà nước có liên
quan tới việc chuyển giao công nghệ nói chung cũng như từng hình thức
chuyển giao công nghệ cụ thể mà thông thoáng, thuận lợi cho việc chuyển



-20-
giao công nghệ thì quá trình này có thể được triển khai, thực hiện một cách dễ
dàng. Ngược lại, nếu các chính sách, quy định này mà thiếu nhất quán, không
thuận lợi, thiếu đồng bộ, không được triển khai kịp thời thì hoạt động chuyển
giao công nghệ cũng sẽ gặp trắc trở, triển khai chậm và kém hiệu quả. Điều
kiện được các nhà đầu tư đánh giá cao nhất trong môi trường pháp lý chính là
sự đồng bộ và nhất quán trong chính sách cũng như giữa các chính sách với
việc triển khai chúng trong thực tế.
- Trình độ văn hóa chung, trình độ chuyên môn cũng như kỹ năng, kỹ
xảo của đội ngũ cán bộ, công nhân viên càng cao thì việc chuyển giao và tiếp
nhận công nghệ mới cũng càng thuận lợi có hiệu quả.

1.1.4. Tác động của hoạt động chuyển giao công nghệ
Cũng giống như mọi hoạt động khác, hoạt động chuyển giao công nghệ
cũng có tác dụng hai mặt là tích cực và rủi ro cho các bên liên quan. Các bên
liên quan tới hoạt động này bao gồm bên cung cấp công nghệ (gồm đối tác
cung cấp và nước có đối tác cung cấp công nghệ), bên tiếp nhận công nghệ
(gồm đối tác nhận và nước có đối tác nhận công nghệ).
1.1.4.1. Đối với bên cung cấp công nghệ
* Với đối tác cung cấp công nghệ
Chuyển giao công nghệ giữa hai công ty không phải là chuyển giao
một chiều, mà là sự vận động ở cả hai chiều. Nhà cung cấp cũng đưa ra sản
phẩm ra thị trường như bất kỳ những thương gia nào, nhưng chỉ có điều sản
phẩm của họ ở đây là công nghệ. Chính đặc thù này tạo cho họ một số thuận
lợi và khó khăn nhất định.
- Tác động tích cực: Tác động này thể hiện ở chỗ bên cung cấp công
nghệ có cơ hội để cải tiến và thích ứng công nghệ với môi trường hoạt động
mới; tăng thêm lợi nhuận mà không cần sản xuất do việc bán công nghệ, bán
các loại nguyên vật liệu đi kèm; tiếp cận nhanh chóng các thị trường mới mà
nước ngoài bảo hộ; cho phép tiết kiệm chi phí sản xuất nhờ tiếp cận và khai
thác các nguồn lực sẵn có tại địa phương như nguồn lao động rẻ và lành nghề,
nguồn tài nguyên thiên nhiên; xâm nhập lẫn nhau về công nghệ; tạo uy tín với
khách hàng, nâng cao hình ảnh của công ty trên thị trường…



-21-
Trong trường hợp công nghệ được chuyển giao từ các nước phát triển
sang các nước đang phát triển thì thực tế cho thấy năng lực đàm phán của các
nước đang phát triển trong lĩnh vực này thấp hơn so với các nước phát triển.
Bởi vậy, bên cung cấp công nghệ thường gặp những tình huống đàm phán
tương đối dễ dàng.

Trong một số trường hợp, song song với việc chuyển giao công nghệ,
bên cung cấp công nghệ có thể bán vật liệu, thiết bị và các phần cứng cho bên
tiếp nhận công nghệ. Ngoài ra, bên nhận có thể cần đến các dịch vụ liên quan
đến việc chuyển giao và vì vậy họ yêu cầu bên giao cung cấp các dịch vụ cho
nhiều lĩnh vực khác nhau liên quan đến việc chuyển giao công nghệ. Tuy
nhiên, cũng có trường hợp, bên chuyển giao công nghệ không chú ý đến lợi
ích không dự tính trước, những đề án đa dạng hóa sản phẩm, thực hiện các
hoạt động kinh doanh…
- Tác động tiêu cực: Bên cạnh những tác động tích cực trên đây, hoạt
động chuyển giao công nghệ cũng gây ra những bất lợi cho bên chuyển giao
công nghệ. Đó là tăng thêm tình trạng cạnh tranh, đặc biệt trong trường hợp
đối thủ cạnh tranh của bên cung cấp công nghệ lại mua lại công ty của bên
nhận công nghệ; gây tình trạnh cách ly với khách hàng trong trường hợp
người tiếp nhận sở tại làm chủ thị trường sản phẩm thì người cung cấp công
nghệ nước ngoài sẽ giảm mức độ tiếp xúc trực tiếp với khách hàng; làm mất
những nhân viên có kinh nghiệm và rủi ro khác liên quan đến hợp đồng như
không được trả tiền, chậm trễ trong sản xuất, bị tiết lộ bí mật, ngừng trả tiền
sau khi hết hạn hợp đồng…
* Với nước có đối tác cung cấp công nghệ
Những tác động tích cực đối với các nước này là tạo điều kiện giảm
nguy cơ nghèo đói của phía tiếp nhận. Các nước công nghiệp thừa nhận rằng
họ không thể duy trì việc giàu có của họ nếu bộ phận dân số thế giới sống
trong nghèo khổ. Tăng sức mua của bên tiếp nhận do đó làm tăng cơ hội bán
được hàng hóa.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực này, việc chuyển giao cũng
gây ra những rủi ro nhất định thể hiện ở việc mất vị trí dẫn đầu về kỹ thuật



-22-

của nước cung cấp, các vấn đề liên quan đến bảo vệ bí mật quân sự, bảo vệ
những lĩnh vực công nghệ cao như sản xuất máy bay…
1.1.4.2. Đối với bên tiếp nhận công nghệ
* Với đối tác nhận công nghệ
- Tác động tích cực: Tác động này thể hiện ở việc tiết kiệm được chi
phí cho nghiên cứu và triển khai; đạt được sự tiến bộ về thương mại và kỹ
thuật; tạo cơ hội cho việc đối thoại thường xuyên với người có kinh nghiệm
trong việc chuyển giao công nghệ; giúp bên tiếp nhận trao đổi các vấn đề
hàng ngày, có nguồn thông tin để giải quyết các vấn đề khác, được phổ biến
tình hình thực tế về những cải tiến và sáng kiến, các thị trường và xu hướng
phát triển. Trong không ít trường hợp, bên tiếp nhận có thể đạt được những
điều khoản có lợi cho việc tiếp nhận.
- Tác động tiêu cực: Những rủi ro có thể xảy ra đối với bên tiếp nhận
công nghệ như tình trạng lệ thuộc vào bên chuyển giao, không làm chủ được
công nghệ; có thể gặp phải những thất bại về kỹ thuật và thương mại; định giá
công nghệ sai thực tế và thường là cao hơn giá trị thực của công nghệ; các điều
khoản của hợp đồng có nhiều sơ hở,… Đây là những rủi ro trong trường hợp
thiếu sót của công nghệ nước ngoài hay là những đánh giá sai về thị trường cũng
như do thị trường thay đổi. Bên cạnh đó còn có những vấn đề liên quan đến bản
thân bên chuyển giao công nghệ. Chẳng hạn như chậm trễ về chuyển giao công
nghệ liên quan đến số lần công nghệ được chuyển giao và mức độ thành công
của các lần chuyển giao.
* Với nước có đối tác nhận công nghệ
Những tác động tích cực thể hiện ở việc tạo ra được nhiều công ăn việc
làm cho người lao động; tăng thu nhập ngoại tệ; sử dụng nguyên liệu địa
phương; tăng cường các hoạt động sản xuất thay thế nhập khẩu và đẩy mạnh
xuất khẩu.
Bên cạnh những mặt tích cực trên đây, hoạt động chuyển giao công
nghệ thường gây ra những rủi ro cho nước tiếp nhận, như tiếp nhận công nghệ
gây ô nhiễm môi trường, công nghệ đòi hỏi nhiều vốn, đòi hỏi trang bị và

nguyên vật liệu nước ngoài và tiêu thụ nhiều năng lượng; nhập khẩu trùng lặp
và không tránh khỏi các điều khoản bất lợi cho việc tiếp nhận công nghệ.
1.1.5. Tiêu chí đánh giá hoạt động chuyển giao công nghệ



-23-
Đánh giá công nghệ là một trong những hoạt động quan trọng được mọi
quốc gia, doanh nghiệp, đặc biệt là các bên nhận, có nhu cầu nhập công nghệ rất
quan tâm. Hoạt động này được tiến hành trong mọi giai đoạn từ khi công nghệ
xuất hiện, được giới thiệu, khi lập kế hoạch hoặc chiến lược phát triển công nghệ
(đánh giá tại thời điểm lựa chọn), khi tiếp nhận cũng như trong quá trính sử dụng
công nghệ (đánh giá định kỳ) cho mãi tới tận khi nó bị thay thế bằng một công
nghệ khác. Thậm chí, ngay từ khi mới xuất hiện ý tưởng về một công nghệ, mới
chuẩn bị nghiên cứu chi tiết để thiết kế ra công nghệ đó, hoặc là nhu cầu về nhập
một công nghệ đang chuẩn bị đưa ra thị trường, người ta cũng phải đánh giá sơ
bộ về chúng, từ đó xem xét có nên tiếp tục chi phí cho nó hay không.
Một hoạt động chuyển giao công nghệ thường được đánh giá trên 4 nội
dung cơ bản (mặt hoặc đặc tính của công nghệ) sau đây:
- Năng lực hoạt động của công nghệ;
- Trình độ kỹ thuật và công nghệ;
- Hiệu quả của công nghệ;
- Tác động môi trường và các ảnh hưởng kinh tế – xã hội khác.
Bốn nội dung này có liên quan mật thiết với nhau, tác động tới nhau
một cách tổng hợp. Chính vì vậy, bên cạnh việc đánh giá những nội dung trên
một cách riêng rẽ, người ta cũng phải đánh mối quan hệ qua lại giữa các nội
dung trên và tác động tổng hợp của chúng đối với công nghệ được xem xét,
đối với sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hoặc của ngành.
Tương ứng với các nội dung đánh giá hoạt động chuyển giao công
nghệ, các chỉ tiêu đánh giá có thể tập hợp thành 3 nhóm sau đây:

1.1.5.1. Các chỉ tiêu về năng lực hoạt động của công nghệ
Chỉ tiêu năng lực hoạt động của công nghệ phản ánh khả năng hoạt
động của công nghệ, là một thông số kỹ thuật (và kinh tế) của công nghệ bao
gồm các chỉ tiêu cụ thể như:
- Công suất;
- Thời gian hoạt động ổn định hoặc có khả năng hoạt động ổn định, có
hiệu quả của công nghệ;
- Chế độ bảo trì, bảo dưỡng;
- Các chỉ tiêu về điều kiện hoạt động của công nghệ (giới hạn về nhiệt
độ, độ ẩm, yêu cầu về môi trường làm việc…)

×