Tải bản đầy đủ (.pdf) (146 trang)

Cải cách kinh tế ở Ấn Độ và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 146 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ
- - -    - - -


TRẦN THÙY PHƯƠNG



CẢI CÁCH KINH TẾ Ở ẤN ĐỘ
VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
ĐỐI VỚI VIỆT NAM




LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ











HÀ NỘI - 2005








ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ
- - -  - - -


TRẦN THÙY PHƯƠNG



CẢI CÁCH KINH TẾ Ở ẤN ĐỘ
VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI
VIỆT NAM



LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Chuyên ngành : Kinh tế chính trị
Mã số : 5.02.01






Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS ĐỖ ĐỨC ĐỊNH






Hà Nội - 2005



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ADB
Asian Development Bank - Ngân hàng Phát triển Châu Á
AFTA
ASEAN Free Trade Area - Khu vực thương mại tự do
ASEAN
ASEAN
Association of SouthEast Asian Nations - Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á
BIMST-EC
Bangladesh, India, Myanma, SriLanka, Thailand - Economic
Cooperation - Tổ chức hợp tác kinh tế vùng vịnh Bengal
DAEs
Dynamic Asian Economies - Các nền kinh tế năng động ở
Châu Á
EOUs
Export Oriented Units - Các đơn vị hướng về xuất khẩu
EPIPs

Export Promotion Industrial Parks - Các khu công nghiệp xúc
tiến xuất khẩu
EPZs
Export Proccessing Zones - Khu chế xuất
EU
European Union - Liên minh Châu Âu
FDI
Foreign Direct Investment - Đầu tư trực tiếp nước ngoài
FTA
Free Trade Agreement - Hiệp định thương mại tự do
FTZs
Free Trade Zones - Các khu vực thương mại tự do
GDP
Gross Domestic Product - Tổng sản phẩm quốc nội
IT
Information Technology - Công nghệ thông tin
NAFTA
North America Free Trade Agreement - Hiệp định thương mại
tự do Bắc Mỹ
NASSCOM
National Association of Software and Service Companies -
Hiệp hội Quốc gia các công ty dịch vụ phần mềm Ấn Độ
NIEs
Newly Industrialized Economies - Những nền kinh tế mới
công nghiệp hóa
R&D
Research and Development - Nghiên cứu và phát triển
SAARC
South Asia Association for Regional Cooperation - Hiệp hội
hợp tác khu vực Nam Á

SEZs
Special Economic Zones - Các đặc khu kinh tế
STP
Software Technology Park - Khu công nghệ phần mềm
TNC
Transnational Company - Công ty xuyên quốc gia
UNCTAD
United Nations Conference on Trade and Development - Hội
nghị Liên Hợp Quốc về thương mại và phát triển.
WB
World Bank - Ngân hàng Thế giới
WTO
World Trade Organization - Tổ chức Thương mại Thế giới
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
TMĐT
Thương mại điện tử
XTTM
Xúc tiến thương mại


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU
1
CHƯƠNG 1: NHỮNG TIỀN ĐỀ CƠ BẢN CỦA CẢI
CÁCH KINH TẾ Ở ẤN ĐỘ
5
1.1.
Quá trình hình thành quan điểm phát triển ở các nƣớc

đang phát triển - Cơ sở lý luận cho cải cách kinh tế Ấn Độ
5
1.1.1.
Sơ lược quá trình hình thành
5
1.1.2.
Các tư tưởng và lý thuyết kinh tế liên quan đến cải cách kinh
tế ở Ấn Độ
6
1.1.3.
Quá trình lựa chọn lý thuyết phát triển của Ấn Độ
16
1.2.
Cơ sở thực tiễn của quá trình cải cách kinh tế ở Ấn Độ
18
1.2.1.
Tình hình kinh tế trong nước trước cải cách
18
1.2.2.
Tình hình kinh tế quốc tế thúc đẩy Ấn Độ tiến hành cải cách
27
1.3
Sự cần thiết phải tiến hành công cuộc cải cách kinh tế -
quá trình chuyển hƣớng sang quan điểm tự do hóa và mở
cửa nền kinh tế ở Ấn Độ
32

 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
36
CHƯƠNG 2: TIẾN TRÌNH CẢI CÁCH KINH TẾ Ở ẤN

ĐỘ
38
2.1.
Nội dung cơ bản của tiến trình cải cách kinh tế ở Ấn Độ
38
2.1.1.
Cải cách chế độ sở hữu và phương thức điều tiết nền kinh tế
38
2.1.2.
Quá trình lựa chọn cơ cấu ngành
41
2.1.3.
Cải cách chính sách kinh tế đối ngoại
62
2.2.
Đánh giá tiến trình cải cách kinh tế ở Ấn Độ
77
2.2.1.
Những thành tựu tăng trưởng trong bối cảnh hội nhập quốc tế
77
2.2.2.
Tổng quát về sự lựa chọn chính sách, chiến lược và triển
vọng phát triển kinh tế Ấn Độ
81

 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2
86
CHƯƠNG 3: VẬN DỤNG NHỮNG KINH NGHIỆM
CỦA ẤN ĐỘ ĐỂ GÓP PHẦN ĐẨY NHANH CÔNG
CUỘC ĐỔI MỚI NỀN KINH TẾ Ở VIỆT NAM

91
3.1.
Khái quát về quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam
91
3.1.1.
Đổi mới chế độ sở hữu và thành phần kinh tế
91
3.1.2.
Đổi mới cơ chế, chính sách kinh tế
93
3.1.3.
Quá trình phát triển các ngành sản xuất
95
3.1.4.
Hoạt động xuất nhập khẩu và hội nhập kinh tế quốc tế
98
3.1.5.
Hoạt động đầu tư nước ngoài
100
3.2.
Những kinh nghiệm mà Việt Nam có thể tham khảo từ
công cuộc cải cách kinh tế Ấn Độ
101
3.2.1.
Kinh nghiệm về cải cách ngoại thương trong quá trình thực
hiện công nghiệp hóa đất nước
101
3.2.2.
Kinh nghiệm phát triển công nghệ phần mềm hướng vào
xuất khẩu

104
3.2.3.
Kinh nghiệm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
106
3.3.
Định hƣớng vận dụng những bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam
108
3.3.1.
Định hướng chiến lược phát triển ngoại thương Việt Nam
trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
109
3.3.2.
Định hướng phát triển công nghệ phần mềm trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
115
3.3.3.
Định hướng cho hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
119

 KẾT LUẬN CHƢƠNG 3
123
KẾT LUẬN
127
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
130








1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Nước cộng hòa Ấn Độ là một trong những cái nôi của nền văn minh
nhân loại, có diện tích gần 3,3 triệu km
2
, trải rộng trên phần lớn tiểu lục địa
Nam Á; có dân số hơn một tỷ người, dự kiến đến năm 2020 sẽ đạt gần 1,2 tỷ.
Với tốc độ tăng dân số như hiện nay thì sau 50 năm nữa, Ấn Độ sẽ trở thành
quốc gia có dân số đông nhất thế giới với khoảng 1,5 tỷ người, vượt qua cả
Trung Quốc. Ấn Độ có 28 bang và 7 vùng lãnh thổ [48] với nhiều dân tộc, tôn
giáo, ngôn ngữ, giai cấp.
Khi giành được độc lập cách đây 50 năm, những người lãnh đạo đã đặt
nhiệm vụ là phải xây dựng đất nước thành một quốc gia độc lập và thịnh
vượng trên cơ sở tự lực tự cường. Trước khi tiến hành công cuộc cải cách
năm 1991, Ấn Độ lần lượt tiến hành 7 kế hoạch 5 năm (từ 1951 đến 1990);
với những ưu tiên chiến lược về khoa học kỹ thuật, nông nghiệp, công nghiệp,
hạ tầng cơ sở cho quá trình công nghiệp hóa phụ thuộc vào từng kế hoạch
khác nhau.
Sau một chặng đường dài phát triển nền kinh tế độc lập theo mô hình
công nghiệp hóa tự lực tự cường, Ấn Độ đã đạt được nhiều thành tựu nhất
định nhưng cũng gặp không ít khó khăn. Đặc biệt đến cuối những năm 80 và
đầu những năm 90, nền kinh tế đã rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng, dẫn đến
mức tăng trưởng GDP sụt giảm, nhiều ngành công nghiệp gặp khó khăn, lạm
phát tăng cao, đời sống nhân dân giảm sút. Có thể nói rằng, trước năm 1990,
Ấn Độ đã rất cố gắng thực hiện những biện pháp điều chỉnh nhằm vực dậy

nền kinh tế nhưng vẫn chưa đạt được những kết quả mong muốn.
Vì thế tháng 7 năm 1991, Chính phủ Ấn Độ thực hiện một bước chuyển
biến lớn trong đường lối phát triển kinh tế xã hội, tiến hành cải cách toàn diện
nền kinh tế; điều chỉnh nền kinh tế vĩ mô và cơ cấu kinh tế từ tập trung, quan



2
liêu, bao cấp, đóng cửa sang tự do hóa và mở cửa, phát triển năng động, nâng
cao khả năng cạnh tranh, từng bước hội nhập khu vực và quốc tế. Ấn Độ
chính thức công bố cải cách kinh tế năm 1991, đánh dấu sự chuyển hướng
theo chiến lược tự do hóa và hướng ngoại. Quá trình này diễn ra tuy chậm
nhưng đã đạt một số thành công và mô hình Ấn Độ đã thu hút rất nhiều sự
quan tâm của quốc tế.
Việc nghiên cứu Ấn Độ - một quốc gia đang trong quá trình cải cách và
đang dành được sự chú ý của quốc tế về khả năng kinh tế - có ý nghĩa rất
quan trọng. Những gì Ấn Độ đã làm được và chưa làm được, những gì Ấn Độ
đã thành công và chưa thành công trong cải cách kinh tế là một kinh nghiệm
bổ ích cho Việt Nam tham khảo trong thời kỳ đổi mới và phát triển kinh tế đất
nước. Hơn nữa, ngoài mục tiêu tìm hiểu và học hỏi thì nghiên cứu Ấn Độ để
phát triển quan hệ hợp tác cũng là một mục đích quan trọng mà Việt Nam
hướng tới trong tương lai.
2. Tình hình nghiên cứu
Các tạp chí quốc tế đã có nhiều bài viết về kinh tế Ấn Độ, đó là:
Nirviker Singh (10/2002),“Miracles and Reform in India: Policy
Reflections”, ASIAN survey, No 5.
Rafiq Dossani (2002), “Creating an Environment for Venture Capital in
India”, World Development, Vol 30, No 2.
Ở Việt Nam, cũng có một số bài nghiên cứu về kinh tế Ấn Độ đăng trên
các báo, các tạp chí. Có thể điểm ra một số bài viết như:

Thông tấn xã Việt Nam (2004), “Ấn Độ - Mục tiêu trở thành cường
quốc”, Tài liệu tham khảo số 3.
Trần Khánh và Võ Xuân Vinh (2004), “Việt Nam trong chính sách
Hướng Đông của Ấn Độ”, Báo Nhân Dân, số 17974, trang 4.



3
Thạch Văn Rong (3/2004) “Những thành tựu mới về tăng trưởng kinh
tế Ấn Độ”, Tạp chí Ngoại thương, số 9, trang 27…
Do giới hạn trong phạm vi một bài báo nên những bài viết đó mới chỉ
đề cập đến một hoặc một vài khía cạnh nào đó của kinh tế Ấn Độ. Bên cạnh
các bài viết ấy, còn có những công trình nghiên cứu hệ thống về kinh tế Ấn
Độ. Tiêu biểu là cuốn “50 năm kinh tế Ấn Độ” của PGS.TS Đỗ Đức Định,
xuất bản năm 1999 tại Nhà xuất bản Thế giới. Nhìn chung ở Việt Nam, số
lượng công trình nghiên cứu sâu về kinh tế Ấn Độ chưa nhiều. Hơn nữa,
nghiên cứu về cải cách kinh tế ở Ấn Độ để rút kinh nghiệm cho Việt Nam
trong quá trình đổi mới và phát triển kinh tế thì chưa có công trình nào tiến
hành thực hiện một cách đầy đủ. Do đó, luận văn sẽ tập trung nghiên cứu toàn
diện “Cải cách kinh tế ở Ấn Độ và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam”
bởi đây là một đề tài mới và không bị trùng lặp với công trình nào khác.
3. Mục đích nghiên cứu
Xuất phát từ sự cần thiết và tình hình nghiên cứu như trên, mục tiêu của
luận văn chú trọng vào những điểm chính sau:
Hệ thống hóa cơ sở lý luận về phát triển kinh tế và cơ sở thực tiễn đòi
hỏi Ấn Độ phải tiến hành cải cách kinh tế.
Tổng hợp và phân tích những nội dung cơ bản của quá trình cải cách
kinh tế Ấn Độ; từ đó, đánh giá những thành công và hạn chế của hơn
10 năm cải cách.
Rút ra những bài học kinh nghiệm có thể tham khảo cho Việt Nam

trong quá trình đổi mới, phát triển kinh tế và trong quan hệ hợp tác Việt
Nam - Ấn Độ.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Quá trình cải cách kinh tế ở Ấn Độ



4
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung vào những chính sách cải
cách kinh tế Ấn Độ cũng như những thành tựu và hạn chế của Ấn Độ trong
quá trình cải cách. Từ đó, luận văn sẽ đề cập đến những vấn đề mà Việt Nam
có thể tham khảo từ công cuộc cải cách kinh tế ở Ấn Độ.
Về phạm vi thời gian, luận văn chủ yếu tập trung vào thời kỳ cải cách
từ 1991 đến nay. Tuy nhiên, luận văn cũng đề cập đến giai đoạn trước cải
cách bởi nó là cơ sở để đánh giá đầy đủ hơn quá trình phát triển kinh tế của
Ấn Độ.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng những phương pháp nghiên cứu như phương pháp
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; phương pháp phân tích, diễn dịch, tổng
hợp, thống kê, so sánh.
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn
Đưa ra những đánh giá hệ thống về công cuộc cải cách kinh tế ở Ấn
Độ.
Đề xuất một số ý kiến tham khảo cho Việt Nam trong quá trình đổi mới
và phát triển nền kinh tế
Góp phần nghiên cứu quá trình thúc đẩy giao lưu hợp tác giữa Việt
Nam và Ấn Độ.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và danh mục Tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn được sắp xếp thành 3 chương.

Chƣơng 1: Những tiền đề cơ bản của cải cách kinh tế ở Ấn Độ
Chƣơng 2: Tiến trình cải cách kinh tế ở Ấn Độ
Chƣơng 3: Vận dụng những kinh nghiệm của Ấn Độ để góp phần đẩy
nhanh công cuộc đổi mới nền kinh tế ở Việt Nam
CHƯƠNG 1: NHỮNG TIỀN ĐỀ CƠ BẢN



5
CỦA CẢI CÁCH KINH TẾ Ở ẤN ĐỘ

1.1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN Ở CÁC NƢỚC
ĐANG PHÁT TRIỂN - CƠ SỞ LÝ LUẬN CHO CẢI CÁCH KINH TẾ ẤN ĐỘ
1.1.1. Sơ lƣợc quá trình hình thành
Quá trình nghiên cứu các quan điểm phát triển hình thành cùng với sự
ra đời và phát triển của rất nhiều nhà nước độc lập ở Châu Á, Châu Phi và
Châu Mỹ La Tinh từ những năm 1950; khi phần lớn các nước này được giải
phóng khỏi chế độ thực dân cũ và bắt đầu sự nghiệp xây dựng nền kinh tế độc
lập, tự chủ của mình. Nhận thấy không thể dựa mãi vào những lý thuyết kinh
tế truyền thống của các nước Phương Tây, nhiều nhà kinh tế học của các nước
“thế giới thứ ba” đã đi sâu nghiên cứu để tìm ra các quan điểm phát triển
riêng của mình. Song bởi đây lại là một vấn đề mang tính chất quốc tế, nên đã
có rất nhiều nhà kinh tế học Phương Tây tham gia quá trình nghiên cứu này.
Đó chính là nguyên nhân dẫn tới sự hình thành các quan điểm phát triển ở các
nước đang phát triển.
Lúc đầu, những quan điểm này chịu ảnh hưởng lớn bởi lý thuyết của
những nhà kinh tế học cổ điển như Adam Smith, David Ricardo…và cả các
quan điểm kinh tế xã hội của học thuyết Marx. Về sau, chúng được mở rộng
và bổ sung thêm những vấn đề thực tế của các nước đang phát triển. Từ sau
chiến tranh thế giới thứ II đến những năm 1980, các trường phái chính của

kinh tế học phát triển tập trung vào hai loại lý thuyết chủ yếu nối tiếp nhau, đó
là “Chủ nghĩa Cấu trúc” và “Thuyết Tự do mới”. Các lý thuyết này một phần
vẫn chịu ảnh hưởng từ những lý thuyết kinh điển như “Tự do cạnh tranh” và
“Lợi thế so sánh”; song bên cạnh đó, chúng đã được bổ sung thêm các quan
điểm mới cho phù hợp với tình hình thực tế. Lý thuyết “Lợi thế so sánh” thì
được bổ sung thêm những yếu tố mới về tiềm lực khoa học công nghệ; những
yếu tố liên quan đến nội lực và ngoại lực của các nước đang phát triển trong



6
đó tiêu biểu là quan điểm “tự lực cánh sinh” và “độc lập dân tộc”, đề cao vai
trò dân tộc ở các nước đang phát triển, hạn chế ảnh hưởng của tư bản nước
ngoài. Điểm nổi bật của chủ nghĩa “Tự do cạnh tranh” là việc đề cao sức
mạnh tuyệt đối từ “bàn tay vô hình” của thị trường đã nhường chỗ cho những
tư duy của trường phái Tự do mới về điều chỉnh cân đối giữa Nhà nước và thị
trường. Chủ nghĩa Cấu trúc và Thuyết Tự do mới có ảnh hưởng chi phối tới
quá trình phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là quá trình công nghiệp hóa ở các
nước đang phát triển.
Từ những năm 1980, khi những cuộc khủng hoảng về cơ cấu và khủng
hoảng tài chính tiền tệ nổ ra ngày càng nhiều, đã có đánh giá lại về quan điểm
lý thuyết và về chiến lược phát triển ở hầu hết các nước đang phát triển.
Những quan điểm về chính sách phát triển càng ngày càng thay đổi mạnh mẽ,
thể hiện qua các cuộc cải cách và chuyển đổi kinh tế xã hội ở các nước đang
phát triển tại Châu Á, Châu Phi.
Đến những năm 1990, các lý thuyết trên đây một lần nữa lại phải điều
chỉnh bởi quá trình toàn cầu hóa ngày càng trở nên sâu rộng cùng với sự luân
chuyển mạnh của các dòng vốn, của thương mại quốc tế; sự tiến bộ nhanh
chóng của công nghệ thông tin, của kinh tế tri thức và bởi những diễn biến
thất thường của kinh tế thế giới. Sự điều chỉnh này đã tác động mạnh đến các

nước, đặc biệt là các nước đang phát triển. Từ đó, tư duy kinh tế của các nước
đang phát triển được bổ sung thêm những quan điểm mới về liên kết và hội
nhập kinh tế quốc tế.
1.1.2. Các tƣ tƣởng và lý thuyết kinh tế liên quan đến cải cách kinh tế ở
Ấn Độ
1.1.2.1. Chủ nghĩa Cấu trúc
Trong số những lý thuyết luận giải về hiện tượng kinh tế ở các nước
đang phát triển để đưa ra khuyến nghị về chính sách, chủ nghĩa Cấu trúc nổi



7
bật lên bởi tính độc đáo và ảnh hưởng lâu dài của nó. Khái niệm “Chủ nghĩa
Cấu trúc” hay “Cấu trúc luận” xuất hiện vào cuối những năm 40 và đầu những
năm 50 của thế kỷ 20 để mô tả tư tưởng của một nhóm những nhà khoa học
xã hội trong Ủy ban Kinh tế Liên Hợp Quốc về Mỹ La Tinh (ECLA) do nhà
kinh tế học nổi tiếng người Argentina là Raul Prebisch đứng đầu [11].
Các tác giả của Chủ nghĩa Cấu trúc đã tập trung phân tích những vấn đề
kinh tế của các nước đang phát triển với mục đích:
Xác định vị trí của các khu vực ngoại vi trong mối liên hệ với những
trung tâm tư bản lớn ở Bắc Mỹ và Tây Âu trong nền kinh tế quốc tế.
Bàn và tìm giải pháp khắc phục tình trạng không đồng nhất giữa các
nền kinh tế đang phát triển do sự phát triển không đều giữa các quốc
gia trong khu vực và giữa các thành phần kinh tế khác nhau trong mỗi
quốc gia.
Cuối những năm 40 đến đầu những năm 60 của thế kỷ XX, các nhà
nghiên cứu của Chủ nghĩa Cấu trúc đã tập trung bàn về mối quan hệ của các
cơ cấu kinh tế - xã hội và sự phát triển kinh tế được xem như sự thay đổi liên
quan đến các cơ cấu đó. Các cơ cấu kinh tế được xem xét trong lý thuyết này
bao gồm: +)Cơ cấu giữa các ngành: nông nghiệp, khai khoáng, chế tạo, dịch

vụ; +)Cơ cấu kinh tế đối ngoại liên quan đến xuất khẩu, nhập khẩu, đầu tư
nước ngoài; +)Cơ cấu năng suất được tính theo năng suất trong các ngành
kinh tế khác nhau; +)Cơ cấu doanh nghiệp được nghiên cứu thông qua các mô
hình và quy mô xí nghiệp; +)Cơ cấu xã hội được nghiên cứu gắn với sở hữu
và kiểm soát tài nguyên, chẳng hạn quyền kiểm soát và sở hữu đất đai.
Các nhà Cấu trúc luận chú trọng vào việc nghiên cứu những đặc điểm
cơ cấu kinh tế cốt lõi nhất, những vấn đề kinh tế, xã hội quan trọng và thiết
thực nhất của các quốc gia chậm phát triển. Do vậy, Cấu trúc luận đã ngày
càng thu hút được sự tham gia rộng rãi của các nhà khoa học xã hội, đặc biệt



8
là các nhà kinh tế học. Vì lẽ đó mà nhiều học giả đã coi Chủ nghĩa Cấu trúc
là một môn khoa học về kinh tế học phát triển.
Cấu trúc luận ra đời sau cuộc đại khủng hoảng những năm 1930, khi
con người đã mất niềm tin vào thị trường tự do truyền thống - hệ thống đã đẩy
thế giới vào cuộc đại khủng hoảng và suy thoái. Những học giả đứng đầu của
Cấu trúc luận đã phê phán lý thuyết kinh tế lúc đó chỉ bàn về sự phát triển ở
những nước công nghiệp phát triển; còn hầu như không quan tâm tới các nước
đang phát triển, không tập trung giải quyết những khó khăn của các nước này,
vì thế không thích hợp cho các nước nghèo. Chỉ có Cấu trúc luận là thực sự
muốn tìm giải pháp cho những vấn đề nan giải của các quốc gia đang phát
triển; do vậy, đã trở thành lý thuyết chính thống của các nước đang phát triển.
Cấu trúc luận ra đời vào lúc những tư tưởng của Keynes về vai trò
trung tâm của Nhà nước trong quản lý kinh tế để khắc phục “những cản trở cơ
cấu” đối với tăng trưởng kinh tế đã được thừa nhận. Do đó, phần nào nó chịu
ảnh hưởng của học thuyết Keynes là đề cao vai trò của Chính phủ trong việc
đề xướng và thực hiện các chương trình, các kế hoạch kinh tế nhằm khắc
phục những thái quá và thất bại của thị trường tự do.

Theo quan điểm của Trường phái Cấu trúc luận, Chính phủ các nước
đang phát triển có vai trò trung tâm trong việc khắc phục tình trạng lạc hậu
kinh tế, đóng vai trò tích cực với quá trình công nghiệp hóa, đặc biệt là trong
việc tăng qui mô tích lũy tư bản để phục vụ phát triển kinh tế. Trong lĩnh vực
kinh tế đối ngoại, vào những năm 1950-1960, Cấu trúc luận nhấn mạnh đến
vai trò quan trọng của Nhà nước với bảo hộ công nghiệp trong nước và xây
dựng cơ sở hạ tầng, chống lại sự xâm nhập và cạnh tranh của tư bản nước
ngoài.
Trong những năm 1950-1960, Chính phủ nhiều nước đang phát triển đã
vận dụng lý thuyết này để xây dựng một chiến lược khá phổ biến lúc ấy là



9
chiến lược công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu. Thực hiện chiến lược này,
Chính phủ của những nước đang phát triển trong đó có Ấn Độ, đã lập nên các
hàng rào thuế quan và phi thuế quan mang tính bảo hộ mậu dịch để đối phó
với sự cạnh tranh của hàng hóa nhập khẩu; kích thích sản xuất những hàng
hóa trong nước, từ những hàng hóa tiêu dùng đơn giản như giày dép, quần
áo…đến những loại hàng tiêu dùng lâu bền, phức tạp như phụ tùng, máy móc,
xe hơi…và cả những loại sản phẩm trung gian như thép và hóa chất. Chiến
lược này được Chính phủ hỗ trợ bằng việc khuyến khích các nhà đầu tư nước
ngoài đầu tư vào công nghiệp chế tạo, còn Chính phủ thì đầu tư cho xây dựng
cơ sở hạ tầng và hệ thống sản xuất năng lượng.
Tuy đã có đóng góp đáng kể về quan điểm lý thuyết và sự tăng trưởng
thực tiễn của nền kinh tế, song Cấu trúc luận đã bộc lộ những hạn chế. Quan
điểm “công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu” để thay đổi cơ cấu và đưa nền
kinh tế thoát khỏi những ảnh hưởng của hệ thống quốc tế đã trở nên khó thực
hiện. Lý do là quan hệ giữa những mặt hàng nhập khẩu đơn giản được thay
thế bởi sản xuất trong nước với những hàng hóa đòi hỏi vốn đầu tư lớn, công

nghệ cao đã trở nên ngày càng phức tạp, nhập khẩu cao hơn xuất khẩu, dẫn
đến mất cân bằng trong cán cân thanh toán. Do đó, tăng trưởng kinh tế không
cao, không xóa bỏ được tình trạng đói nghèo của nhân dân các nước đang
phát triển nói chung và nhân dân Ấn Độ nói riêng. Tình trạng này buộc Chính
phủ các nước đang phát triển trong đó có Ấn Độ phải chuyển sang chiến lược
phát triển kinh tế hướng về xuất khẩu, với cơ sở lý luận là lý thuyết về Sự phụ
thuộc và thuyết Tự do mới sau này.
1.1.2.2. Lý thuyết về Sự phụ thuộc và trƣờng phái Nhu cầu cơ bản
Các quan điểm phê phán lý thuyết Cấu trúc luận được phản ánh qua ba
trường phái chính là lý thuyết về Sự phụ thuộc (Theory of dependency), quan
điểm Nhu cầu cơ bản (Basic needs) và chủ nghĩa Tự do mới. Hai xu hướng



10
đầu phát sinh từ trong nhóm Cấu trúc luận, khuynh hướng thứ ba ra đời trong
năm 1960 với nội dung cơ bản là đòi hỏi xét lại vai trò của Nhà nước, đề cao
hơn vai trò của thị trường. Khuynh hướng thứ ba ngày càng phát triển mạnh
mẽ và dần có vai trò thay thế Cấu trúc luận; nội dung này sẽ được trình bày cụ
thể trong phần “Chủ nghĩa Tự do mới”.
Trong ba trường phái trên, lý thuyết về Sự phụ thuộc phản ánh sự thay
đổi mạnh mẽ nhất trong chính tư duy của Cấu trúc luận về kinh tế đối ngoại.
Nó quay lại phê phán sự thất bại của việc thực hiện chiến lược thay thế nhập
khẩu, coi đó là yếu tố tạo ra một nền kinh tế dân tộc độc lập mà không có
“giai cấp tư bản dân tộc” lãnh đạo sự phát triển. Do đó, dẫn đến tình trạng là
các công ty xuyên quốc gia nắm giữ hầu hết các lĩnh vực năng động trong nền
kinh tế, còn các nhà công nghiệp địa phương thì bị phụ thuộc vào tư bản nước
ngoài. Các học giả của lý thuyết về Sự phụ thuộc chủ trương mở rộng quan hệ
với bên ngoài để phát triển bên trong. Tư tưởng này của họ được áp dụng
rộng rãi ở các nước đang phát triển, nhất là các nước đang phát triển ở Châu

Á.
Trong trường phái Nhu cầu cơ bản, các nhà lý luận đã tập trung đi
sâu nghiên cứu việc làm ở các nước đang phát triển và đề nghị thực hiện
chiến lược “nhu cầu cơ bản”, nhấn mạnh vào việc đảm bảo mức sống tối
thiểu cho những người nghèo nhất trong xã hội. Theo họ, những nhu cầu cơ
bản của con người gồm có lương thực, quần áo, nhà ở và các dịch vụ cần thiết
như nguồn nước sạch, điều kiện vệ sinh, y tế, giáo dục, giao thông vận
tải…Các nhà nghiên cứu của trường phái Nhu cầu cơ bản cho rằng, tăng
trưởng kinh tế và thay đổi cơ cấu là quan trọng song chưa đủ, muốn phát triển
còn phải chú ý đến chính sách phân phối thu nhập cũng như mức sống của
người nghèo.



11
Lý thuyết về Sự phụ thuộc được coi là nhánh cấp tiến của trường phái
Cấu trúc luận. Nó chứa đựng một số quan điểm về quan hệ kinh tế quốc tế
gần với lý thuyết Tự do mới sau này. Khác với Cấu trúc luận, các nhà lý
thuyết về Sự phụ thuộc không còn coi sự phụ thuộc về kinh tế và chính trị vào
Phương Tây là nguyên nhân cơ bản của tình trạng yếu kém ở các nước thuộc
“thế giới thứ ba”; họ cũng từ bỏ ý định xây dựng một lý thuyết riêng về sự
chậm phát triển. Tư tưởng cơ bản của lý thuyết về Sự phụ thuộc là mối quan
hệ tương tác giữa các nước đang phát triển và nền kinh tế thế giới, coi đó là
yếu tố có ảnh hưởng quan trọng đến các nước thuộc “thế giới thứ ba”. Các
học giả của lý thuyết về Sự phụ thuộc đã bác bỏ sự đối lập truyền thống giữa
phụ thuộc và phát triển. Họ chấp nhận sự phụ thuộc và coi đó như một
phương pháp luận để phân tích tình hình của các nền kinh tế chậm phát triển
và đang phát triển. Đồng thời, họ cũng ủng hộ việc quan hệ kinh tế với bên
ngoài để tiếp nhận vốn, công nghệ tiên tiến và mở rộng thị trường, phục vụ sự
phát triển kinh tế trong nước.

Thực tế cho thấy, nhiều nước đang phát triển lúc bấy giờ, trong đó có
Ấn Độ, đã ủng hộ lý thuyết về Sự phụ thuộc và coi trọng mối quan hệ giữa
các nền kinh tế trên thế giới. Cũng như các quốc gia đang phát triển khác, Ấn
Độ có nhiều hạn chế, nên không có đủ khả năng thực hiện các kế hoạch phát
triển mang tính “tự lực cánh sinh”, theo nghĩa hẹp là tự mình làm lấy mọi thứ
như lúc đầu họ mong muốn khi tiến hành chiến lược Công nghiệp hóa thay
thế nhập khẩu. Đó cũng là lý do mà Ấn Độ đã cổ vũ cho trường phái lý luận
mới sau này là chủ nghĩa Tự do mới, khi trường phái này đưa ra sự cần thiết
phải mở rộng các quan hệ kinh tế quốc tế thông qua phát triển mạnh mẽ mậu
dịch quốc tế và hạn chế sự can thiệp của Nhà nước trong nền kinh tế thị
trường.
1.1.2.3. Chủ nghĩa Tự do mới



12
Khác với Cấu trúc luận nhấn mạnh tới các vấn đề mang tính đặc thù
của các nước đang phát triển, chủ nghĩa Tự do mới cổ vũ cho những quy luật
phổ biến của phát triển kinh tế. Chủ nghĩa Tự do mới là một trào lưu tư tưởng
tạo nên làn sóng kinh tế đối với các nước đang phát triển, một bước ngoặt
quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế ở các nước Châu Á, Châu Phi,
Châu Mỹ La Tinh. Chính thất bại của mô hình phát triển hướng nội (công
nghiệp hóa thay thế nhập khẩu) dựa trên cơ sở các tư tưởng của Cấu trúc luận
và phân nhánh của nó, đã làm nảy sinh một đường lối kinh tế mới. Các học
giả của chủ nghĩa Tự do mới bác bỏ quan điểm của Cấu trúc luận cho rằng
phải phát triển một lý thuyết kinh tế riêng cho các nước thuộc “thế giới thứ
ba”. Theo các học giả Tự do mới, những nguyên lý phổ biến của sự phát triển
kinh tế là giống nhau, đều có thể được áp dụng rộng rãi ở những nước phát
triển và đang phát triển.
Tư tưởng chính mà thuyết Tự do mới đưa ra là sai lệch giá cả sẽ dẫn

đến tính phi hiệu quả; sự can thiệp quá sâu và trực tiếp của Nhà nước vào
nền kinh tế, nhất là những biện pháp can thiệp bằng chính sách Thay thế
nhập khẩu là yếu tố gây ra sự sai lệch về giá cả ấy. Vì thế, trong nền kinh tế
thị trường, không cần thiết phải có một sự can thiệp như vậy. Thay vào đó,
cần thực hiện tự do hóa mậu dịch thông qua việc giảm bớt các chính sách và
biện pháp bảo hộ thuế quan và phi thuế quan. Làm như vậy sẽ nâng cao được
hiệu quả của nền kinh tế.
Nguyên nhân khiến Tự do mới phê phán sự can thiệp quá sâu của Nhà
nước vào nền kinh tế là vì những nhà hoạch định chính sách bị hạn chế do
thiếu thông tin, không sát với thực tế, không có công cụ làm đòn bẩy cho việc
thực thi kế hoạch. Không những thế, có thể các quan chức còn lợi dụng hạn
ngạch, giấy phép để tư lợi cá nhân, tham ô, nhận hối lộ…Hơn nữa, Nhà nước
can thiệp sâu vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp gây ra chi tiêu



13
quá mức, vay nợ và in tiền nhiều, gây lạm phát trầm trọng. Các công ty, xí
nghiệp của Nhà nước hầu hết được bao cấp nên hoạt động không hiệu quả,
năng suất và chất lượng rất thấp.
Theo thuyết Tự do mới, bảo hộ mậu dịch sẽ dẫn đến sự phi hiệu quả, vì
bảo hộ mậu dịch giúp các công ty được bảo vệ, tránh sự cạnh tranh quốc tế.
Do đó, họ không cần cắt giảm chi phí và tăng sản lượng như ở những quốc
gia khác có thị trường mở; dẫn đến tăng đầu tư, gây lãng phí không cần thiết.
Điều tai hại là những sản phẩm do các công ty được bảo hộ làm ra dù chất
lượng kém vẫn có thị trường tiêu thụ và họ không lo sự lãng phí sẽ đe dọa
hoạt động kinh doanh của công ty. Đây chính là nguyên nhân sâu xa của tình
trạng chất lượng hàng hóa thấp, chi phí sản xuất cao - đặc trưng của nhiều nền
kinh tế thay thế nhập khẩu ở các nước đang phát triển.
Bên cạnh đó, chiến lược Thay thế nhập khẩu không những là phi hiệu

quả mà còn gây bất lợi cho nông nghiệp và cán cân thanh toán; lý do là chính
sách bảo hộ hàng công nghiệp cao hơn nông phẩm đã gây tổn hại cho sản xuất
nông nghiệp và nông dân. Hơn nữa, chính sách Thay thế nhập khẩu đã không
khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nguồn thu ngoại tệ; trong khi những đòi hỏi
về nguyên liệu công nghệ cao để phát triển công nghiệp trong nước gia tăng,
dẫn đến khối lượng và giá trị nhập khẩu tích tụ ngày càng lớn, gây khan hiếm
ngoại tệ trầm trọng, cán cân thanh toán thiếu hụt, dự trữ quốc gia suy giảm,
phải tăng vay nợ của Phương Tây.
Từ những luận điểm trên, chủ nghĩa Tự do mới với tư cách là một lý
thuyết phát triển chính thống, đã có ảnh hưởng ngày càng lớn; trở thành cơ sở
lý luận cho chính sách kinh tế ở các nước đang phát triển trong những năm
70-80 của thế kỷ XX. Các học giả Tự do mới đã đề cao quan hệ trao đổi trên
thị trường thế giới và cho rằng, thị trường thế giới hoạt động tốt sẽ giúp các



14
quốc gia phân phối tốt nguồn lực của mình, khắc phục tình trạng trì trệ, cứng
nhắc của cấu trúc bên trong các nền kinh tế đang phát triển.
Quan điểm thường được các học giả Tự do mới đưa lên hàng đầu là
“sai lệch về giá sẽ dẫn đến không hiệu quả”. Theo họ, giá cả thị trường là yếu
tố quyết định sự phân phối nguồn lực, khi giá cả chệch khỏi mức thị trường tự
do, hay nói cách khác là bị sai lệch thì nền kinh tế sẽ không đạt hiệu quả. Đối
với các nước đang phát triển, giá thị trường tự do thích hợp là giá xác định
trên thị trường thế giới. Giá cả có thể bị sai lệch do độc quyền tư nhân, nhưng
trong phần lớn các trường hợp, sự sai lệch là do Chính phủ trực tiếp hoặc gián
tiếp gây ra, khi theo đuổi những mục tiêu kinh tế hoặc xã hội nào đó. Dù là do
tư nhân hay do Nhà nước, những sai lệch này đều cần phải điều chỉnh lại để
phù hợp với giá cả thị trường. Muốn vậy, rất cần các lực lượng thị trường hoạt
động trong quan hệ kinh tế quốc tế và cả trong quan hệ kinh tế của nội bộ

quốc gia.
Giá cả được đề cập trong cách tiếp cận của chủ nghĩa Tự do mới bao
gồm giá cả của các hoạt động thương mại trong một quốc gia (nội thương),
giá cả trong hoạt động ngoại thương, giá cả liên quan đến tỷ lệ lãi suất và tiền
lương, giá cả cơ sở hạ tầng và đầu vào cho sản xuất. Theo lý thuyết Tự do
mới, giá cả là yếu tố cốt lõi trong sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Trên cơ sở đó, thuyết Tự do mới cho rằng cả nhà sản xuất và người tiêu
dùng đều hoan nghênh sự kích thích bằng giá. Chẳng hạn giá cả sản xuất dành
cho nông dân tăng lên thì sản lượng nông nghiệp cũng sẽ theo đó tăng lên.
Hay tiền lương thấp sẽ khuyến khích các xí nghiệp sử dụng những kỹ thuật
sản xuất dùng nhiều lao động, nhờ đó việc làm tăng lên, thất nghiệp sẽ được
giảm bớt.
Bên cạnh chính sách giá cả thì mậu dịch tự do cũng là một lĩnh vực
được lý thuyết Tự do mới đề cao. Lý thuyết này khẳng định, các nước có thể



15
hưởng lợi nhờ thực hiện chuyên môn hóa và xuất khẩu những mặt hàng mà họ
có lợi thế so sánh; đổi lại, nên nhập khẩu những mặt hàng mà họ không có lợi
thế so sánh. Để đạt được sự chuyên môn hóa đó, cần phải có mậu dịch tự do
hoặc giảm thiểu những hạn chế đối với mậu dịch. Nếu thực hiện được lý
thuyết về lợi thế so sánh đi đôi với mậu dịch tự do, các nước sẽ có lợi nhờ vào
xuất khẩu và nhập khẩu không hạn chế. Mỗi quốc gia sẽ có điều kiện tập
trung mọi nguồn lực để cho ra đời những mặt hàng mà họ có lợi thế so sánh,
hạn chế những mặt hàng mà họ không đủ điều kiện sản xuất hoặc có thể nhập
rẻ hơn nhiều từ các quốc gia khác. Từ đó, có thể nhận thấy những khiếm
khuyết của việc thực hiện chính sách Thay thế nhập khẩu, do chúng cản trở
mậu dịch tự do một cách có chủ định nhằm bảo hộ, kích thích sản xuất hàng
hóa nội địa, trong khi những loại hàng này được sản xuất rẻ và tốt hơn ở nước

ngoài.
Những quan điểm trên đây của thuyết Tự do mới đã được thực hiện ở
nhiều quốc gia đang phát triển trong đó có Ấn Độ, thông qua những chính
sách do Ngân hàng thế giới (WB) và Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) soạn thảo.
Những chính sách này được gọi chung là “điều chỉnh cơ cấu” với ba hướng
cơ bản là: 1)Tự do hóa thị trường; 2)Tự do hóa mậu dịch, chuyển dịch nền
kinh tế theo hướng mở; 3)Hạn chế vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế
thông qua tư nhân hóa và cắt giảm chi tiêu Chính phủ.
Ba định hướng đó được thực hiện kết hợp với nhau để tạo ra một nền
kinh tế thị trường mở. Trên cơ sở đó, một loạt các biện pháp cụ thể đã được
áp dụng:
Để tự do hóa thị trường, người ta xóa bỏ kiểm soát giá, tự do hóa tài
chính, giảm can thiệp vào thị trường lao động.
Để tự do hóa mậu dịch, người ta xóa bỏ hạn ngạch nhập khẩu, giảm
thuế quan, áp dụng tỷ giá hối đoái thực tế.



16
Để giảm vai trò của Nhà nước, người ta thực hiện tư nhân hóa, cắt giảm
chi tiêu của Chính phủ, hạn chế sự can thiệp trực tiếp của Chính phủ vào hoạt
động của các công ty và vào hoạt động xuất nhập khẩu. Chính phủ chỉ tập
trung vào việc cung cấp các hàng hóa và dịch vụ công ích; phát triển cơ sở hạ
tầng kinh tế xã hội để tạo điều kiện thuận lợi cho môi trường kinh doanh; kích
thích các hoạt động kinh tế đối ngoại như xúc tiến thương mại, khuyến khích
thu hút đầu tư nước ngoài.
Thuyết Tự do mới là một xu hướng phát triển của lý thuyết cổ điển về
kinh tế thị trường tự do, đề cao vai trò của các lực lượng thị trường, khắc phục
những bất cân đối trong thời gian dài do quá thiên lệch vai trò của Nhà nước.
Nó khuyến khích áp dụng các chính sách kích thích sự phát triển của thị

trường tự do và mở cửa. Trong giai đoạn hiện nay, thuyết Tự do mới đang cổ
vũ cho chính sách phát triển tự do trong các lĩnh vực như thương mại, tài
chính, đầu tư, lao động mà tiêu biểu là tự do hóa thương mại.
1.1.3. Quá trình lựa chọn lý thuyết phát triển của Ấn Độ
Các dòng lý thuyết kế tiếp nhau về Cấu trúc luận, Tự do mới là những
cơ sở lý luận trực tiếp cho sự hình thành quan điểm, chính sách ở các nước
đang phát triển nói chung và Ấn Độ nói riêng. Chiến lược đó là sự lựa chọn
giữa bảo hộ hay tự do thương mại, giữa hướng nội hay hướng ngoại, giữa
thay thế nhập khẩu hay hướng vào xuất khẩu. Nó có vai trò vô cùng quan
trọng bởi nó chi phối toàn bộ hoạt động của một quốc gia thông qua sự điều
chỉnh các nguyên tắc, công cụ, biện pháp trong hệ thống chính sách. Trong
những năm 50-60, Cấu trúc luận nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của Nhà
nước trong bảo hộ công nghiệp nội địa và quan điểm đó đã phần lớn ảnh
hưởng đến sự lựa chọn chính sách thương mại chiến lược “thay thế nhập
khẩu” ở các nước đang phát triển. Ấn Độ đã chọn hướng đi này để phát triển
kinh tế đất nước ở giai đoạn sau khi giành độc lập vào năm 1947.



17
Song đến cuối những năm 60 đầu những năm 70, các mô hình thành
công trong tăng trưởng nhờ vào hoạt động xuất khẩu như Singapore, Hồng
Kông, Hàn Quốc…đã là cơ sở cho sự phát triển dòng lý thuyết Tự do mới là
tự do hóa thương mại. Theo thuyết Tự do mới, bảo hộ mậu dịch dẫn đến phi
hiệu quả, sự can thiệp của Nhà nước thông qua chính sách thay thế nhập khẩu
đã làm biến dạng thị trường và giá cả. Chỉ có tự do hóa thương mại với việc
giảm bớt các chính sách và biện pháp bảo hộ thuế quan cũng như phi thuế
quan mới có thể mang lại hiệu quả cho nền kinh tế. Như vậy, ưu thế của
thuyết Tự do mới là dựa trên những khía cạnh như:
Tận dụng hiệu quả các yếu tố sản xuất;

Chuyên môn hóa lao động theo điều kiện địa lý;
Mở rộng thị trường;
Kiểm soát và hạn chế độc quyền;
Nâng cao năng lực sản xuất;
Tạo quan hệ thiện chí và hợp tác giữa các quốc gia.
Có thể nói, đây là những cơ sở và căn cứ để chuyển hướng cho chiến
lược kinh tế của các nước đang phát triển từ hướng nội sang hướng ngoại, từ
thay thế nhập khẩu sang hướng vào xuất khẩu. Hơn nữa, trong điều kiện toàn
cầu hóa, sự chuyển hướng đó trở thành một xu thế tất yếu. Chiến lược ở các
quốc gia đang phát triển nhấn mạnh nhiều vào việc cơ cấu lại khả năng cung
ứng sản phẩm của nền kinh tế sao cho có sức cạnh tranh trên trường quốc tế.
Theo đó, họ chú trọng vào việc phải thay đổi chiến lược Thay thế nhập khẩu
bằng cách quay trở lại thị trường. Song nhất thiết cần có sự hỗ trợ của Nhà
nước để phát triển công nghệ; bởi nếu thiếu sự đổi mới trong công nghệ, thì sẽ
có nhiều rủi ro trong việc duy trì các cuộc cạnh tranh quốc tế. Chính Ấn Độ
đã đi theo hướng này trong phát triển công nghệ phần mềm và đã thành công.
Những năm gần đây, người ta càng nhận thức được rằng, cần phải làm rõ



18
phương pháp luận và thực tiễn của sự phân tách giữa hai chiến lược là công
nghiệp hóa thay thế nhập khẩu và công nghiệp hóa hướng vào xuất khẩu. Nếu
như trước đây, quan niệm chỉ áp dụng riêng công nghiệp hóa thay thế nhập
khẩu hoặc công nghiệp hóa hướng vào xuất khẩu thì nay đã cho rằng có thể
áp dụng được cả hai, hay ít nhất cũng không tuyệt đối hóa chúng với nhau.
Thực tiễn cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ 1997-1998 đã khiến các học giả
lớn thuộc trường phái Tự do hóa phải nhìn nhận lại những hạn chế của tự do
hóa quá mức. Giờ đây, họ chỉ ra rằng, phải coi trọng nội lực để khắc phục sự
mất cân bằng do hướng ngoại thái quá, song về căn bản vẫn duy trì quan điểm

nhấn mạnh vai trò trung tâm của cơ chế thị trường.
Phái Cấu trúc luận đã tranh thủ các thất bại nói trên trong quá trình thực
hiện chiến lược hướng vào xuất khẩu để phê phán thuyết Tự do mới. Tuy
nhiên, họ không thể duy trì hoàn toàn những tư duy cũ về thay thế nhập khẩu
trước đây, những tư duy đã bị các nước đang phát triển quay lưng lại để
hướng tới con đường cải cách và tự do hóa ngày nay. Từ đó, một hệ Tư tưởng
Cấu trúc luận mới đã hình thành, đề cao vai trò của Nhà nước cũng như
những hoạt động phát huy nội lực để thực hiện các chiến lược phát triển.
Những nhà Cấu trúc luận mới đã không còn tuyệt đối hóa tự lực tự cường,
song cũng tránh thiên lệch thái quá vào yếu tố bên ngoài như phái Tự do mới.
Xuất phát từ cách nhìn ấy, nhiều quan điểm đã không đối lập hoàn toàn giữa
hai chiến lược Thay thế nhập khẩu và Hướng vào xuất khẩu, và hướng vào
xuất khẩu vẫn là chủ đạo. Chính cải cách kinh tế Ấn Độ đã chịu ảnh hưởng
của quan điểm này. Một mặt, Ấn Độ vẫn nỗ lực cải cách hướng ngoại, khắc
phục những khiếm khuyết của nền kinh tế sau một thời gian dài đóng cửa;
mặt khác, vẫn chủ trương phát huy sức mạnh nội lực. Vì thế, cuộc cải cách ở
Ấn Độ mang một đặc trưng riêng, bởi nó vừa tìm kiếm các yếu tố bên ngoài
và lại chú ý đến cả các yếu tố bên trong.

×