Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Tỉnh Điện Biên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (874.7 KB, 113 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ


BÙI THANH TUẤN











CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ
TỈNH ĐIỆN BIÊN








LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ













Hà Nội - 2011


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ


BÙI THANH TUẤN












CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ TỈNH
ĐIỆN BIÊN



Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 603101


LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM THỊ HỒNG ĐIỆP


















Hà Nội - 2011


MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC HÌNH VẼ
Mở đầu
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ
VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ
1.1. Cơ cấu ngành kinh tế

1.1.1. khái niệm
1.1.2. Phân loại cơ cấu kinh tế
1.2. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và những nhân tố ảnh
hưởng đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
1.2.1. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
1.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng tới chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế
1.3. Một số mô hình lý thuyết vế chuyển dịch cơ cấu kinh tế
1.3.1. Phương thức thực hiện chuyển dịch cơ cấu ngành - Mô hình
Rostow
1.3.2. Mô hình hai khu vực của Arthus Lewis
1.3.3. Mô hình hai khu vực của trường phái Tân cổ điển

1.3.4. Mô hình hai khu vực của Harry T. Oshima
1.4. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Lai Châu và bài học kinh
nghiệm cho tỉnh Điện Biên
1.4.1. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh Lai Châu
1.4.2. Bài học kinh nghiệm cho tỉnh Điên Biên
Chương 2. THỰC TRẠNG CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ TỈNH
ĐIỆN BIÊN TỪ NĂM 2003 ĐẾN NĂM 2010
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế- xã hội ảnh hưởng tới cơ cấu kinh

i
ii
1


6
6
6
6

8
9

15
23


23
25
26
26

29
29
34

36




tế ở tỉnh Điện Biên
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Điện Biên
2.1.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế của tỉnh Điện Biên
2.2. Tổng quan quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh
Điện Biên
2.2.1. Tóm lược quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế giai
đoạn 1986-2003
2.2.2. Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế giai đoạn
2003-2010
2.2.3. Cơ cấu lao động phân theo ngành kinh tế

2.2.4. Cơ cấu hàng xuất khẩu
2.2.5. Đánh giá sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở tỉnh Điện Biên
2.3. Nguyên nhân chủ yếu của những thành tựu và hạn chế trong
quá trình chuyên dịch cơ cấu ngành kinh tế giai đoạn 2003- 2010
2.3.1. Nguyên nhân của những thành tựu chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế
2.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong quá trình chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế
Chương 3. NHỮNG QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
THÚC ĐẨY QUÁ TRÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH
KINH TẾ Ở TỈNH ĐIỆN BIÊN ĐẾN NĂM 2015
3.1. Bối cảnh tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở

tỉnh Điện Biên
3.1.1. Bối cảnh quốc tế và trong nước
3.1.2. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Việt Nam
trong thời gian tới
36
36

39

43

43


45
60
65
66


71

71

72


77

77
77

83


3.2. Quan điểm và mục tiêu về chuyển dich cơ cấu ngành kinh tế
đến 2015 ở tỉnh Điện Biên
3.2.1. Quan điểm về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

3.2.2. Mục tiêu phát triển
3.3. Một số giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở
tỉnh Điện Biên
3.3.1. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội
3.3.2. Tăng cường huy động và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư
3.3.3. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
3.3.4. Phát triển hạ tầng kinh tế kỹ thuật
3.3.5. Giải pháp phát triển ngành
KẾT LUẬN CHUNG





84
84
89

90
90
91
95
96
97
102



















i
DANH MỤC BẢNG
Tên bảng
Bảng 1.1: Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế tỉnh Lai Châu 2004-2010
Bảng 1.2: Lao động đang làm việc phân theo ngành kinh tế
tỉnh Lai Châu 2004 - 2008
Bảng 1.3: Giá trị hàng xuất khẩu tỉnh Lai Châu 2004 - 2008

Bảng 2.1: Cơ cấu GDP phân theo ngành kinh tế tỉnh Điện
Biên 2004-2010
Bảng 2.2: Tỷ trọng vốn đầu tư theo ngành kinh tế tỉnh Điện
Biên 2005 - 2009
Bảng 2.3: Cơ cấu giá trị sản xuất trong nội bộ ngành nông,
lâm, thủy sản tỉnh Điên Biên
Bảng 2.4: Cơ cấu giá trị sản xuất ngành trồng trọt, chăn nuôi
và dịch vụ tỉnh Điện Biên 2003 - 2009
Bảng 2.5: Cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp tỉnh Điện Biên
2004- 2009
Bảng 2.6: Hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh Điện Biên
2005 - 2009

Bảng 2.7: Lao động và cơ cấu lao động phân theo ngành kinh tế
Bảng 2.8: Cơ cấu lao động và cơ cấu GDP tỉnh Điện Biên
phân theo ngành kinh tế
Bảng 2.9: Lao động và cơ cấu lao động theo phân ngành
trong nội bộ ngành công nghiệp
Bảng 2.10: Giá trị hàng hóa xuất khẩu trên địa bàn tỉnh Điện
Biên 2005 - 2009
Bảng 2.11: Tỷ trọng vốn đầu tư và GDP của ngành nông,
lâm, thủy sản tỉnh Điện Biên 2005 - 2009


Trang

31

32
33

46

47

48

49


54

59
60

62
64

66



69







ii
DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 1.1. Cơ cấu GDP phân theo ngành kinh tế tỉnh
Lai Châu 2004-2010

Hình 2.1. Cơ cấu GDP phân theo ngành kinh tế tỉnh
Điện Biên 1985-2003
Hình 2.2. Cơ cấu GDP phân theo ngành kinh tế tỉnh
Điện Biên 2004-2010


31

44

46






















1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Cơ cấu kinh tế hay cấu trúc của nền kinh tế là yếu tố ảnh hưởng quyết
định đến sự tăng trưởng nhanh và bền vững của một nền kinh tế. Cơ cấu kinh

tế luôn vận động hay chuyển dịch và chịu tác động của các yếu tố kinh tế - xã
hội. Xu hướng vận động cơ cấu kinh tế mà nước ta hướng tới là một cơ cấu
kinh tế của một nước công nghiệp, tức có tỷ trọng ngành công nghiệp trong
cơ cấu ngành kinh tế là chiếm ưu thế. Một cơ cấu kinh tế hợp lí phù hợp với
giai đoạn, điều kiện kinh tế, xã hội cụ thể sẽ phát huy hiệu quả tối đa các
nguồn lực hiện có thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Xét trên
bình diện tổng thể đó thì chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đã được nghiên
cứu tương đối toàn diện, đầy đủ. Tuy nhiên, khi mà ranh giới hay sự tách biệt
giữa các thị trường địa phương, thị trường dân tộc vẫn còn lớn thì mỗi vùng
đều có cơ cấu kinh tế riêng. Hơn nữa, mỗi cấu trúc riêng đó lại phụ thuộc vào
các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của các vùng đó. Xét ở phương diện đó,
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế vẫn còn nhiều vấn đề cần được nghiên cứu

cụ thể hơn.
Điện Biên là một tỉnh miền núi thuộc khu vực Tây Bắc điều kiện kinh
tế, xã hội còn rất nhiều khó khăn. Điện Biên không có nhiều điều kiện thuận
lợi để phát triển kinh tế như một số tỉnh khác trong cả nước. Nhưng Điện Biên
cũng có những điều kiện riêng nếu phát huy hiệu quả có thể thoát khỏi tình
trạng khó khăn trở thành một tỉnh có kinh tế phát triển.
Vậy tại sao tỉnh Điện Biên cần chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế? Mô
hình cơ cấu ngành kinh tế như thể nào để phát huy được các điều kiện, tiềm
năng của Điện Biên? Những yếu tố gì tác động đến chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế của tỉnh Điện Biên? Cơ cấu ngành kinh tế của Điện Biên có điểm khác
biệt gì so với mục tiêu cơ cấu ngành kinh tế tổng thể của đất nước là ngành



2
công nghiệp chiếm ưu thế hơn hẳn các ngành khác không? Và Điện Biên cần
đưa ra những quan điểm, biện pháp gì để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế tới sự hợp lí đó?
Trên cơ sở những lí do đã phân tích ở trên, tác giả lựa chọn vấn đề
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tỉnh Điện Biên làm đề tài luận văn thạc sỹ
chuyên ngành kinh tế chính trị.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế nói riêng đã có nhiều tác giả và nhiều công trình nghiên cứu như:
- Đỗ Hoài Nam “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và phát triển những

ngành trọng điểm, mũi nhọn ở Việt Nam” Nxb Khoa học-xã hội Hà Nội 1996.
Tác giả đã trình bày những vấn đề lí luận chung về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
và cơ cấu ngành kinh tế trên cơ sở đó soi xét nền kinh tế Việt Nam. Nghiên
cứu mối quan hệ giữa cơ cấu ngành kinh tế với có cấu vùng kinh tế gắn
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành với phát triển các vùng kinh tế trọng điểm
của Việt Nam.
- Bùi Tất Thắng “Những nhân tố ảnh hưởng đến sự chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hóa ở Việt Nam” Nxb Khoa học-xã
hội Hà Nội 1997. Tác giả tập trung nghiên cứu các nhân tố tác động đến
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa
nền kinh tế quốc dân. Đặc biệt nhấn mạnh đến nhân tố khoa học công nghệ.
- Lê Du Phong-Nguyễn Thành Độ “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong

điều kiện hội nhập khu vực và thế giới” Nxb Chính trị quốc gia 1999. Tác giả
nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong điều kiện hội nhập kinh tế thế
giới.
- Bùi Tất Thắng “Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam” Nxb
Khoa học xã hội Hà Nội 2006. Tác giả tập trung phân tích những vấn đề lí


3
luận và thực tiện về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam trong bối
cảnh mới về kinh tế quốc tế và trong nước, từ đó đưa ra những giải pháp cơ
bản nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại.
Tóm lại, các tác giả đã tập trung nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu ngành

kinh tế trong điều kiện kinh tế xã hội mới; phân tích những nhân tố tác động
đến quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế; phân tích sư tương tác giữa cơ
cấu ngành kinh tế và phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn ở Việt Nam. Mỗi
tác giả nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở một góc độ khác nhau
và đây là nguồn tư liệu quan trọng làm tài liệu tham khảo cho luận văn. Tuy
nhiên, chưa có công trình nghiên cứu nào đặt vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế trong điều kiện cụ thể của tỉnh Điện Biên- một tỉnh đặc thù miên núi
vừa tách tỉnh còn nhiếu khó khăn. Vì vậy, tác giả chọn vấn đề chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế ở Điện Biên làm đề tài nghiên cứu của mình.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh Điện
Biên giai đoạn 2003-2010 từ đó đề xuất phương hướng, giải pháp thúc đẩy

chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế sao cho khai thác hiệu quả tối đa các nguồn
lực kinh tế tạo mức tăng trưởng cao và bền vững.
- Để đạt được mục đích nghiên cứu đề ra, luận văn thực hiện các nhiệm
vụ cụ thể sau:
+ Hệ thống hóa một số vấn đề lí luận về cơ cấu ngành kinh tế và
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
+ Phân tích thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh Điện
Biên giai đoạn 2003-2010, đánh giá thành tựu và hạn chế về chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế; chỉ ra nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế đó để
sự điều chỉnh thích hợp.



4
+ Đề xuất phương hướng, giải pháp từng bước xây dựng cơ cấu ngành
kinh tế phù hợp với tỉnh Điện Biên trong thời gian tới tạo cơ sơ cho tăng
trưởng bền vững đưa tỉnh ra khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn.
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế.
- Phạm vi nghiên cứu
+ Về không gian: đề tài nghiên cứu các nội dung cơ bản của chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh Điện Biên
+ Về thời gian: trong giai đoạn 2003-2010 hướng tới năm 2015
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, đề tài sử dụng kết hợp các phương pháp sau:
- Phương pháp trừu tượng hóa khoa học là phương pháp loại bỏ khỏi quá
trình và hiện tượng được nghiên cứu những cái đơn nhất, ngẫu nhiên và tạm thời,
hoặc tạm gác lại những nhân tố nào đó để tách ra những quá trình và hiện tượng
vững chắc, ổn định, điển hình trong các quá trình và hiện tượng đó, nhờ vậy mà
nắm được bản chất của quá trình và hiện tượng đó. Ví dụ khi nghiên cứu các nhân
tố ảnh hưởng tới quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tác giả chỉ đề cập tới
những nhân tố cơ bản nhất (không phân tích tác động của tất cả các nhân tố) loại bỏ
những nhân tố ít tác động, những nhân tố mang tính chất tạm thời.
- Phương pháp lôgic kết hợp với phương pháp lịch sử là phương pháp
căn cứ vào tiến trình lịch sử kết hợp với tư duy và suy luận lôgic để vạch ra

những quy luật tác động chi phối. Ví dụ khi đánh giá xu hướng chuyển dịch
cơ cấu GDP qua các năm tác giả căn cứ vào số liệu thống kê qua các năm, các
sự kiện tác động tới xu hướng đó để phân tích để đưa ra kết luận về xu hướng
chuyển dịch đó là do cái gì chi phối chủ yếu.


5
- Phương pháp phân tích: trên cơ sở những số liệu thống kê, tài liệu về
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tác giả phân tích, đánh giá xu hướng chuyển dịch
cơ cấu ngành kinh tế qua các năm và trả lời tại sao nó lại chuyển dịch như thế.
- Phương pháp so sánh được sử dụng để so sánh tốc độ tăng tỷ trọng
trong GDP của các ngành kinh tế qua các năm…

- Ngoài ra luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khác
như phương pháp tổng hợp…
6. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
- Phân tích, tổng hợp, đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế ở tỉnh Điện Biên trong giai đoạn 2003- 2010, chỉ ra những mặt được
và mặt hạn chế và nguyên nhân của những thành tưu và hạn chế đó.
- Trên cơ sở những đánh giá trên và bối cảnh về kinh tế đề xuất quan
điểm và những giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế một cách
hợp lí phát huy tối đa tiềm năng của tỉnh thúc đẩy tăng trưởng kinh tế một
cách bền vững.
7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham

khảo, luận văn gồm ba chương:
- Chương 1: Cơ sở lí luận về cơ cấu ngành kinh tế và chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế
- Chương 2: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tỉnh Điện
Biên từ năm 2003 đến 2010
- Chương 3: Những quan điểm và giải pháp chủ yếu thúc đẩy quá trình
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh Điện Biên đến năm 2015






6
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ VÀ CHUYỂN
DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ
1.1. Cơ cấu ngành kinh tế
1.1.1. Khái niệm
- Cơ cấu là một khái niệm mà triết học duy vật biện chứng dùng để chỉ
cách thức tổ chức bên trong của một hệ thống, biểu hiện sự thống nhất của các
mối quan hệ qua lại vững chắc giữa các bộ phận của nó. Trong khi chỉ rõ mối
quan hệ biện chứng giữa bộ phận và toàn thể, nó biểu hiện ra như một thuộc
tính của sự vật, hiện tượng, và biến đổi cùng với sự biến đổi của sự vật, hiện
tượng. Như vậy, có thể thấy có rất nhiều trình độ, nhiều kiểu tổ chức cơ cấu

của các khách thể và các hệ thống.
Cũng như vậy, đối với nền kinh tế quốc dân, khi xem nó là một hệ
thống phức tạp thì có thể thấy rất nhiều các bộ phận và các kiểu cơ cấu hợp
thành chúng, tùy theo cách mà chúng ta tiếp cận khi nghiên cứu hệ thống ấy.
Đặc biệt, sự vân động và phát triển của nền kinh tế theo thời gian bao hàm
trong đó sự thay đổi bản thân các bộ phận cũng như sự thay đổi của các kiểu
cơ cấu. Vì vậy, có thể thấy rằng, " cơ cấu của một nền kinh tế quốc dân là
tổng thể về mối quan hệ về chất lượng và số lượng giữa các bộ phận cấu
thành đó trong một thời gian và trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhất
định".[ 29]
1.1.2. Phân loại cơ cấu kinh tế
Mỗi loại cơ cấu phản ánh những nét đặc trưng của các bộ phận cấu thành

cơ cấu đó và các cách mà chúng tác động qua lại với nhau trong quá trình phát
triển của nền kinh tế quốc dân. Cơ cấu kinh tế của một nước được xác định
theo nhiều tiêu thức, trong đó có ba tiêu thức chủ yếu: cơ cấu kinh tế ngành
(công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ) cơ cấu kinh tế vùng và cơ cấu thành


7
phần kinh tế. Trong các cơ cấu kinh tế nêu trên, cơ cấu ngành kinh tế là cơ cấu
có tầm quan trọng đặc biệt, thường được xem là cốt lõi của nền kinh tế.
- Cơ cấu ngành kinh tế
Là tương quan giữa các ngành trong tổng thể kinh tế, thể hiện mối quan
hệ hữu cơ và sự tác động qua lại cả về số lượng và chất lượng giữa các ngành

với nhau. Các mối quan hệ này được hình thành trong những điều kiện kinh tế
- xã hội nhất định, luôn luôn vận động và hướng vào những mục tiêu cụ thể.
Sự phát triển của nền sản xuất xã hội từ kinh tế tự nhiên tới kinh tế
hàng hóa cũng có nghĩa là xuất hiện của những ngành sản xuất độc lập nhau,
dựa trên những đối tượng sản xuất khác nhau. Sản xuất càng phát triển thì tập
hợp ngành kinh tế quốc dân càng trở lên phức tạp và đa dạng. Ở đây, cơ cấu
ngành kinh tế biểu hiện ra dưới các hình thức ngành lớn (ngành cấp I): nông
nghiệp, công nghiệp, dịch vụ; các phân ngành (ngành cấp II): chăn nuôi, trồng
trọt… trong nông nghiệp; cơ khí, luyện kim, năng lượng… trong công
nghiệp…; ngành cấp III (lúa, màu…) trong trồng trọt, v.v… Sự vận động của
các ngành kinh tế và mối liên hệ của nó vừa tuân theo những đặc điểm chung
của sự phát triển sản xuất xã hội, lại vừa mang những nét đặc thù của mỗi giai

đoạn và mỗi quốc gia và nhỏ hơn nữa là của mỗi vùng mỗi địa phương trong
một quốc gia.
Vì vậy, việc nghiên cứu loại hình cơ cấu này là nhằm tìm ra những
cách thức duy trì tính tỉ lệ hợp lý của chúng và những lĩnh vực cần ưu tiên tập
trung các nguồn lực có hạn của quốc gia trong mỗi thời kỳ nhằm thúc đẩy sự
phát triển toàn bộ nền kinh tế quốc dân một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất.
- Cơ cấu vùng kinh tế
Loại cơ cấu này phản ánh những mối liên hệ kinh tế giữa các vùng lãnh
thổ của một đất nước trong hoạt động kinh tế. Thường người ta phân tích
những thế mạnh hiện thực và tiềm năng của từng vùng để từ đó hình thành lên



8
tổng sơ đồ phân bố lực lượng sản xuất nhằm phát huy tới mức cao nhất sức
mạnh kinh tế của từng vùng và toàn bộ nền kinh tế. Ngoài các vấn đề kinh tế,
nó thường gợi ý về việc đẩy nhanh sự phát triển xã hội ở những vùng có điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển làm động lực cho cả nền kinh tế hoặc những
vùng nào đó bị lạc hậu trong mối tương quan với các vùng khác để nâng cao
mức độ đồng đều về phát triển kinh tế và xã hội của cả nước.
- Cơ cấu thành phần kinh tế
Loại cơ cấu này phản ánh mối quan hệ giữa con người với con người
trong quá trình sản xuất xã hội, trong đó nổi bật lên hàng đầu là quan hệ về sở
hữu đối với các tư liệu sản xuất. Xã hội loài người đã từng phát triển qua các
hình thái kinh tế - xã hội lần lượt từ thấp đến cao và trong mỗi hình thái kinh

tế - xã hội đều có các cơ cấu quan hệ sản xuất khác nhau.
Ở một số nước, những hình thức sở hữu cổ xưa không còn nữa; ở một
số nước khác, do những hoàn cảnh lịch sử khác, sự đan xen của nhiều loại
hình sở hữu cùng tồn tại. Các mối quan hệ này biểu hiện ra bên ngoài bề mặt
xã hội với tư cách là các thành phần kinh tế khác nhau. Do vậy, cơ cấu các
quan hệ sản xuất và cơ cấu các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân
được hiểu như nhau hay đồng nhất với nhau. Nghiên cứu cơ cấu các thành
phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân sẽ cho thấy xu hướng vận động của
từng thành phần kinh tế trong quá trình phát triển nền sản xuất xã hội.
Việc phân chia các loại cơ cấu kinh tế như trên không phải là cách phân
loại duy nhất, lại càng không phải có từng ấy loại cơ cấu kinh tế. Thực tế, tùy
theo mục đích nghiên cứu mà người ta có thể phân chia theo các cách khác nhau,

và trong mỗi loại cơ cấu này, đến lượt nó lại bao hàm nhiều kiểu cơ cấu khác
nữa. Đề tài văn chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề của cơ cấu ngành kinh tế.
1.2. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và những nhân tố ảnh
hƣởng đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế


9
1.2.1. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và ý nghĩa của nó
1.2.1.1.Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và ý nghĩa của nó
Khái niệm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Cơ cấu ngành kinh tế là một phạm trù động, nó luôn thay đổi theo từng
thời kỳ phát triển bởi các yếu tố hợp thành cơ cấu không cố định. Quá trình

thay đổi của cơ cấu ngành từ trạng thái này sang trạng thái khác ngày càng
hoàn thiện hơn, phù hợp với môi trường và điều kiện phát triển gọi là sự
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế không
chỉ là sự thay đổi về số lượng các ngành, tỷ trọng của mỗi ngành mà còn bao
gồm sự thay đổi về vị trí, tính chất mối quan hệ trong nội bộ cơ cấu ngành.
Việc chuyển dịch cơ cấu ngành phải dựa trên cơ sở một cơ cấu hiện có và nội
dung của sự chuyển dịch là cải tạo cơ cấu cũ, lạc hậu hoặc chưa phù hợp để
xây dựng cơ cấu mới tiên tiến, hoàn thiện và bổ sung cơ cấu cũ thành cơ cấu
mới hiện đại, phù hợp hơn.
Nghiên cứu cơ cấu ngành và xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành có ý
nghĩa quan trọng. Bởi vì, quá trình phát triển kinh tế cũng đồng thời là quá
trình làm thay đổi các loại cơ cấu kinh tế nêu trên, cả những quan hệ về tỷ lệ

về số lượng và chất lượng. Đặc biệt trong thời kỳ công nghiệp hóa với những
đảo lộn cách mạng về phương thức sản xuất, cũng đồng thời là quá trình có sự
thay đổi rất lớn về các loại cơ cấu, trước hết là cơ cấu ngành kinh tế. Sự thay
đổi của cơ cấu ngành kinh tế phản ánh trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất xã hội. Lực lượng sản xuất càng phát triển tạo điều kiện cho phân công
lao động xã hội trở nên sâu sắc. Sự phát triển của phân công lao động xã hội
đến lượt nó lại càng làm cho các mối quan hệ kinh tế thị trường càng được
củng cố và phát triển. Trạng thái cơ cấu ngành kinh tế là dấu hiệu phản ánh
trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Quá trình chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế là một quá trình diễn ra liên tục gắn với quá trình phát triển



10
kinh tế. Ngược lại nhịp độ phát triển, tích chất bền vững của quá trình tăng
trưởng lại phụ thuộc vào khả năng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành linh
hoạt, phù hợp với những điều kiện bên trong, bên ngoài và các lợi thế tương
đối của nền kinh tế.
Mối quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế với sự phát triển
chung của nền kinh tế có ý nghĩa hết sức quan trọng vì gắn với nó là cả môt
động thái phân bổ các nguồn lực hạn hẹp của một quốc gia trong những thời
điểm nhất định. Sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế cho biết tính hiệu quả
của việc phân bổ nguồn lực. Chính vì vậy, ngày nay kinh tế học phát triển coi
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là một trong những nội dung trụ cột phản
ánh mức độ phát triển của nền kinh tế. Sự khẳng định này là bước tiến rất

quan trọng trong nhận thức lý luận và tư duy chính sách kinh tế. Bởi vì, trên
thực tế cho thấy, có những quốc gia tuy đạt mức độ tăng trưởng kinh tế cao
nhưng cơ cấu của nền kinh tế lại ít có sự thay đổi, thậm chí có sự tách rời giữa
khu vực công nghiệp hiện đại với các khu vực nông nghiệp lạc hậu, và do đó,
khu vực nông nghiệp với đông đảo nông dân nghèo khổ vẫn không được chia
sẻ những thành quả của tăng trưởng kinh tế.
Sự thay đổi cơ cấu ngành kinh tế phản ánh mức độ thay đổi của phương
thức sản xuất theo hướng ngày càng hiện đại, những khu vực có năng suất lao
động cao, giá trị gia tăng lớn có tốc độ phát triển cao hơn và dần thay thế
những khu vực sản xuất, kinh doanh có năng suất lao động và giá trị gia tăng
thấp.
1.2.1.2. Những chỉ tiêu phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

Đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế những tiêu chí cơ
bản phản ánh sự chuyển dịch bao gồm:
+ Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế


11
Chỉ tiêu GDP được khoa học kinh tế hiện đại sử dụng như một trong
những thước đo khái quát nhât, phổ biến nhất để đo lường, đánh giá về tốc độ
tăng trưởng, trạng thái và xu hướng chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế.
Trong đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu
GDP giữa các ngành kinh tế là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất phản
ánh xu hướng vận động cơ cấu ngành kinh tế. Tỷ lệ phần trăm GDP của các

ngành cấp I (khu vực nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ) là tiêu chí đầu
tiên thường được dùng để đánh giá quá trình chuyển dịch của cơ cấu ngành
của nền kinh tế. Cùng với quá trình phát triển, tỷ lệ khu vực nông nghiệp có
xu hướng chung ngày càng giảm, còn tỷ lệ khu vực phi nông nghiệp có xu
hướng ngày càng tăng lên. Trong điều kiện khoa học công nghệ hiện đại, khu
vực dịch vụ đang trở thành khu vực chiếm tỷ trọng cao nhất, sau đó là công
nghiệp và cuối cùng là khu vực nông nghiệp.
Để đánh giá sát thực hơn sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, việc
phân tích cơ cấu các phân ngành (cấp II, cấp III…) có một ý nghĩa rất quan
trọng. Thông thường, cơ cấu phân ngành phản ánh sát thực hơn khía cạnh chất
lượng và mức độ hiện đại hóa của nền kinh tế. Ví dụ, trong khu vực công
nghiệp, những ngành công nghiệp chế biến đòi hỏi tay nghề kỹ thuật cao, vốn

lớn hay công nghệ hiện đại như cơ khí chế tạo, điện tử công nghiệp, dược
phẩm, hóa mỹ phẩm… chiếm tỷ trọng cao sẽ chứng tỏ nền kinh tế đạt mức độ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa cao hơn so với những lĩnh vực khai khoáng, sơ
chế nông sản, công nghiệp lắp ráp…
+ Cơ cấu lao động phân theo ngành kinh tế
Cơ cấu lao động làm việc trong các ngành kinh tế được coi là một chỉ
tiêu rất quan trọng để đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
Các nhà kinh tế học đánh giá rất cao chỉ tiêu cơ cấu lực lượng lao động đang
làm việc trong nền kinh tế, vì ở góc độ phân tích kinh tế vĩ mô, cơ cấu lao


12

động xã hội mới là chỉ tiêu phản ánh sát thực nhất mức độ thành công về mặt
kinh tế - xã hội của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bời vì, công
nghiệp hóa, hiểu theo nghĩa đầy đủ của nó, không phải chỉ đơn thuần là sự gia
tăng tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp trong GDP, mà còn là quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đời sống xã hội con người, trong đó cơ sở quan
trọng nhất là số lượng lao động đang làm việc trong lĩnh vực phi nông nghiệp
chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng lực lượng lao động đang làm việc
trong nền kinh tế.
So với cơ cấu GDP, cơ cấu lao động phân theo ngành kinh tế được các
nhà kinh tế học đánh giá cao là do chỉ tiêu này không chỉ phản ánh xác thực
hơn mức độ chuyển biến sang xã hội công nghiệp của một đất nước, mà nó
còn ít bị ảnh hưởng bởi các nhân tố ngoại lai hơn. Ở một số nền kinh tế, trong

khi tỷ trọng lao động phi nông nghiệp nhất là khu vực sản xuất công nghiệp
còn chiếm tỷ trọng nhỏ, nhưng trong cơ cấu GDP lại chiếm tỷ trọng lớn hơn
nhiều. Để giải thích cho hiện tượng này, các nhà kinh tế học đã chỉ ra tình
trạng méo mó về giá cả, nhất là trong những trường hợp có sự chênh lệch giá
cánh kéo lớn giữa sản phẩm công nghiệp và dịch vụ so với sản phẩm nông
nghiệp. Do đó, cơ cấu GDP giữa các ngành kinh tế đôi khi không phản ánh
đúng thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
+ Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu
Trong điều kiện của một nền kinh tế đang công nghiệp hóa, cơ cấu các
mặt hàng xuất khẩu cũng được xem như một tiêu chí quan trọng đánh giá mức
độ thành công của quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hầu hết các nước đã trải qua quá trình công

nghiệp hóa để trở thành một nước công nghiệp phát triển đều cơ bản trải qua
một mô hình chung trong cơ cấu sản xuất và cơ cấu hàng xuất khẩu là: từ chỗ
chủ yếu sản xuất và xuất khẩu hàng sơ chế sang các mặt hàng công nghiệp


13
chế biến, lúc đầu là các mặt hàng công nghiệp chế biến sử dụng nhiều lao
động, kỹ thuật thấp như lắp ráp, hàng dệt may, chế biến nông lâm thủy
sản…chuyển dần sang các loại sản phẩm sử dụng nhiều công nghệ kỹ thuật
cao như sản phẩm cơ khí chế tạo, điện tử, hóa chất.v.v… Chính vì vậy, sự
chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu, từ những mặt hàng sơ chế sang các mặt
hàng công nghiệp chế biến dựa trên cơ sở kỹ thuật công nghệ cao luôn được

xem như một trong những thước đo quan trọng đánh giá mức độ thành công
của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tóm lại, khi phân tích đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế, các nhà kinh tế học thường sử dụng các tiêu chí chủ yếu gồm cơ cấu
GDP phân theo ngành kinh tế, cơ cấu lao động phân theo ngành kinh tế và cơ
cấu hàng xuất khẩu để xem xét. Ngoài ra còn có tập hợp các tiêu chí bổ trợ
khác như quan hệ giữa khu vực sản xuất vật chất và khu vực phi sản xuất vật
chất; giữa khu vực nông nghiệp và khu vực phi nông nghiệp; những tiêu chí
về chuyển giao khoa học công nghệ, cơ cấu hàng nhập khẩu, sự nâng cấp chất
lượng lao động, cơ cấu doanh nghiệp gia nhập thị trường phân theo
ngànhv.v… Mỗi tiêu chí nêu trên đều hàm chứa một ý nghĩa kinh tế nhất định
trong quá trình phân tích chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Một nhóm tiêu chí khác

góp phần đánh giá tính hiệu quả của cơ cấu kinh tế với tư cách là kết quả của
cơ cấu phân bổ nguồn lực xã hội, trước hết là cơ cấu đầu tư. Đó là chỉ số về
tốc độ tăng trưởng kinh tế, năng suất lao động xã hội, chỉ số ICOR, mức tiêu
hao năng lượng trên một đơn vị GDP tạo ra, số chỗ việc làm mới được tạo ra,
tỷ lệ thất nghiệp, tốc độ giảm nghèo…. Những tiêu chí này vốn là những tiêu
chí tổng hợp phân tích tình hình phát triển kinh tế chung, nhưng ở chừng mực
nhất định, chúng góp phần đánh giá tính hiệu quả của cơ cấu ngành kinh tế
đang xây dựng.
1.2.1.3. Những tiêu chí đánh giá cơ cấu kinh tế hợp lí


14

Cơ cấu kinh tế hay cơ cấu ngành kinh tế cơ tính lịch sử, việc xác định
cơ cấu kinh tế như thế nào phụ thuộc vào nhiều yếu tố ở từng không gian và
thời gian xác định. Vì vậy, sẽ không có một cơ cấu kinh tế hợp lí chung cho
tất cả các nền kinh tế. Xét trên góc độ chung nhất, một cơ cấu kinh tế hợp lí
khi nó đáp ứng các tiêu chí cơ bản sau:
+ Phản ánh được và đúng quy luật khách quan
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình mang tính quy luật,
do đó con người phải nhận thức được quy luật khách quan đó để có những
chính sánh phù hợp nhằm xây dựng cơ cấu kinh tế phù hợp với quy luật khách
quan đó. Nhà nước với vai trò là người định hướng phải nhận thức được và
đúng đắn quy luật khách quan, trên cơ sở đó đưa ra được những chính sách
định hướng phù hợp thúc đẩy kinh tế phát triển. Ngược lại, nếu nhận thức của

nhà nước không đúng quy luật, do đó đưa ra chính sách không phù hợp sẽ kìm
hãm sự phát triển. Điều này đã được chứng minh qua thực tiễn xây dựng phát
triển kinh tế của Việt Nam. Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung việc xác định
mô hình kinh tế với mục tiêu "ưu tiên phát triển công nghiệp nặng" trong điều
kiện một nước nông nghiệp lạc hậu, thiếu lương thực trầm trọng, hầu như
không có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế. Do đó, nền kinh tế trở nên què quặt,
không cầm cự được trong thời gian dài, các ngành khác không phát triển được
do nguồn lực ít ỏi phân bổ ưu tiên cho công nghiệp nặng và bản thân ngành
công nghiệp nặng cũng không thể phát triển được do thiếu thị trường, mức
đầu tư chưa đạt quy mô hiệu quả, lao động không đáp ứng được….
+ Trình độ khoa học kỹ thuật phải không ngừng tiến bộ phù hợp với xu
thế phát triển của khoa học công nghệ

Quy luật chung là cơ cấu ngành kinh tế chuyển dịch từ những ngành có
giá trị gia tăng thấp, công nghệ lạc hậu sang những ngành có giá trị gia tăng
cao, công nghệ hiện đại hơn, năng suất lao động cao hơn. Và như vậy, cùng


15
với sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng tích cực hơn, hợp lí hơn
thì trình độ khoa học công nghệ phải không ngừng được nâng cao phù hợp
với xu thế phát triển chung của khoa học công nghệ nhằm tao ra năng suất lao
động cao hơn. Đó mới là thực chất của chuyển dich cơ cấu ngành kinh tế,
đúng quy luật phát triển.
+ Cho phép khai thác tối đa mọi tiềm năng của đất nước, của ngành,

của các thành phần kinh tế, của các xí nghiệp về cả chiều rộng lẫn chiều sâu
Cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu ngành kinh tế nói riêng đều mang
tính lịch sử, xác định cơ cấu kinh tế như thế nào phụ thuộc vào các điều kiện
đặc thù về không gian và thời gian, về các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội
của một quốc gia, yếu tố thời đại…Một cơ cấu kinh tế hợp lí phải phù hợp với
từng hoàn cảnh lịnh sử nhất định để khai thác tối đa mọi tiềm năng kinh tế
cho phát triển kinh tế và do đó không có một cơ cấu kinh tế hợp lí cho mọi
quốc gia và cho mọi thời đại.
+ Thực hiện tốt sự phân công và hợp tác quốc tế theo xu hướng sản
xuất và đời sống ngày càng được quốc tế hóa
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thể hiện sự phát triển của lực lượng sản
xuất, phân công và phân công lại lao động giữa các ngành, các lĩnh vực. Ngày nay,

khi quá trình toàn cầu hóa diễn ra trên phạm vi toàn thế giới, phân công lao động vượt
ra khỏi biên giới gia vươn ra phạm vi quốc tế hình thành chuỗi giá trị toàn cầu, các
quốc gia phải chủ động tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu và từng bước nâng cao vị
trí của mình trong chuỗi giá trị đó.
1.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng tới chuyển dịch cơ cấu ngành kinh
tế
Trong quá trình phát triển kinh tế của một đất nước các chủ thể kinh tế
luôn hành động theo hiệu quả kinh tế thiết thực. Ở một chừng mực nhất định
quy hoạch phát triển của Nhà nước có tác động đến cơ cấu đầu tư, nhưng kết


16

quả cuối cùng lại được thể hiện bằng cơ cấu trên các phương diện của nó. Cơ
cấu kinh tế luôn thay đổi theo chiều hướng hợp lý hơn, sự thay đổi đó chính là
sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nhìn chung chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
một nước thường phụ thuộc vào một số nhân tố sau:
1.2.2.1. Sự phát triển của thị trường
Thị trường có ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu ngành kinh tế. Bởi lẽ, tín hiệu của thị trường
sẽ dẫn dắt, hướng dẫn và điều tiết các hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt
động đầu tư, phân bổ các nguồn lực của xã hội vào các lĩnh vực khác nhau với
mức độ khác nhau của nền kinh tế. Mỗi doanh nghiệp phải hướng ra thị
trường, xuất phát từ thị trường thông qua cung cầu, giá cả để định ra chiến
lược, chính sách kinh doanh của mình.

Độ lớn của dung lượng thị trường là một nhân tố rất có ý nghĩa trong
việc di chuyển các nguồn lực vào những lĩnh vực sản xuất khác nhau. Thông
thường dung lượng thị trường được quyết định bởi quy mô dân số và mức thu
nhập. Khi mức thu nhập của dân cư còn thấp, hầu hết nguồn thu nhập đó được
chi tiêu cho những mặt hàng thiết yếu như lương thực, thực phẩm… Đây là
những mặt hàng có hệ số cơ giãn thấp, nghĩa là nhu cầu tiêu dùng chúng ít
thay đổi khi thu nhập có sự thay đổi. Khi thu nhập của dân cư tăng lên, cơ cấu
tiêu dùng của dân cư cũng có sự thay đổi theo hướng tăng dần tỷ trọng chi
tiêu cho các mặt hàng cao cấp hơn và tỷ trọng chi tiêu cho các mặt hàng thiết
yếu có xu hướng giảm dần. Những loại hàng hóa cao cấp có hệ số co giãn cao
hơn ví dụ như xe hơi, thiết bị nghe nhìn, các dịch vụ vui chơi giải trí….Như
vậy, những dấu hiệu chuyển dịch cơ cấu cầu tiêu dùng trên thị trường có tác

động dẫn dắt hướng đầu tư kinh doanh của các nhà đầu tư và vì thế, tác động
không nhỏ tới sự hình thành cơ cấu ngành kinh tế.


17
Mức độ đồng bộ của các loại thị trường sẽ cho phép huy động hiệu quả,
di chuyển phân bổ các nguồn lực của xã hội vào các khu vực khác nhau của
nền kinh tế tốt hay không tốt và do đó tác động đến chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế.
1.2.2.2. Các nguồn lực
Các lợi thế về tự nhiên của đất nước cho phép có thể phát triển ngành
sản xuất nào một cách thuận lợi; quy mô dân số của quốc gia; trình độ nguồn

nhân lực; những điều kiện kinh tế, văn hóa của đất nước.
- Nguồn lực tự nhiên: Cơ cấu ngành kinh tế của một quốc gia được hình
thành như thế nào đều chịu ảnh hưởng sâu sắc của nguồn tài nguyên thiên
nhiên ban tặng. Quy mô đất đai, địa hình, khí hậu, nguồn nước … là điều kiện
tự nhiên của các loại hình sản xuất nông nghiệp khác nhau; những vùng rừng
mưa nhiệt đới ở Châu Á, Châu Mỹ Latinh… là điều kiện tốt để phát triển kinh
tế lâm nghiệp; những quốc gia có các mỏ khoáng sản có khả năng khai thác
kinh tế là điều kiện phát triển ngành công nghiệp khai mỏ…. Tóm lại, tài
nguyên thiên nhiên là cơ sở tự nhiên quan trọng để hình thành cơ cấu ngành
kinh tế của các nền kinh tế trên thế giới.
Tuy nhiên, tài nguyên thiên nhiên dù có phong phú đến đâu nếu khai
thác không hiệu quả thì cũng đến lúc cạn kiệt. Hơn nữa, một nền kinh tế chỉ

dựa vào khai thác tài nguyên để xuất khẩu dưới dạng sản phẩm thô mà không
có chính sách đúng đắn nhằm thúc đẩy áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ,
chuyển cơ cấu xuất khẩu và sản phẩm từ dạng sơ chế nguyên liệu sang những
ngành công nghiệp chế biến sâu thì cơ cấu ngành kinh tế sẽ trì trệ, lạc hậu
chậm chuyển đổi.
Như vậy, nhóm nhân tố đầu tiên tác động mạnh tới thiên hướng tự
nhiên của cơ cấu ngành kinh tế của một nền kinh tế là các nguồn tài nguyên
thiên nhiên được sử dụng của đất nước. Trong nhiều trường hợp chúng tạo


18
lên lợi thế tuyệt đối trong phân công lao động quốc tế của các nền kinh tế.

Song để thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa thì những nỗ lực chính sách hướng tới nâng cấp khoa học,
công nghệ và kỹ thuật nhằm chuyển chúng từ nơi cùng cấp sản phẩm thô
thành các sản phẩm của công nghiệp chế biến sẽ là một nội dung chủ chốt cần
lưu ý.
- Nguồn lực con người
Nguồn nhân lực khi được xem xét dưới góc độ là yếu tố đầu vào của
quá trình sản xuất, từ lâu đã được coi như một nhân tố có ý nghĩa quyết định
đối với quá trình sản xuất. Ở những thời điểm nhất định, việc phân bổ nguồn
lực này như thế nào có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc hình thành cơ cấu
ngành kinh tế của nền kinh tế. Để quyết định phân bổ nguồn nhân lực vào
những ngành sản xuất khác nhau như thế nào cần lưu ý các khía cạnh sau:

Thứ nhất, quy mô nguồn nhân lực
Quy mô nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quan trọng góp
phần hình thành cơ cấu ngành kinh tế. Để cho các hoạt động sản xuất kinh
doanh đạt được hiệu quả kinh tế theo quy mô trong những điều kiện về khoa
học công nghệ nhất định, cần phải có một lượng lao động thích hợp. Đối với
một số quốc gia, quy mô dân số và lao động nhỏ bé đã là một trong những
nguyên nhân khó phát triển ở một số lĩnh vực. Ngược lại, khá nhiều quốc gia
đang phát triển có hiện tượng "dư thừa" lao động. Vì vậy, hình thành một cơ
cấu ngành kinh tế "toàn dụng lao động" lại là một trong những ưu tiên hàng
đầu của họ. Ở góc độ kinh tế, quy mô nguồn nhân lực không chỉ phụ thuộc
vào quy mô dân cư đang sinh sống trên một vùng lãnh thổ hay đơn vị hành
chính nhất định, mà còn phụ thuộc vào độ cơ động của nguồn lao động, được

quy định bởi tình trạng giao thông và mức độ linh hoạt của thị trường lao
động.

×