1
MỞ ĐẦU
Cơ cấu kinh tế là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế. Cơ cấu kinh tế hợp
lý có tính chất quyết định tới sự phát triển bền vững của nền kinh tế, quyết định đến
tăng trưởng kinh tế trong hiện tại và tương lai. Sự khủng hoảng kinh tế ở một số
nước trên thế giới và trong khu vực có nhiều nguyên nhân, song có một nguyên
nhân chung khá quan trọng bắt nguồn từ chính sách cơ cấu. Do đó vấn đề chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế là hết sức cần thiết trong quá trình công nghiệp hoá- hiện
đại hoá của bất cứ quốc gia nào nếu không muốn đứng vào danh sách các nước
nghèo nhất thế giới.
Qua hơn 10 năm đổi mới, chúng ta đánh giá cao kết quả của quá trình chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt nam nói chung và của tỉnh Hà nam nói riêng, song
cũng phải thừa nhận rằng chúng ta chưa khai thác được hết các nguồn lợi thế đó vì
vậy hàng loạt các giải pháp của chính phủ được đưa ra nhằm định dạng lại cơ cấu
ngành kinh tế một cách hợp lý cho từng ngành, từng địa phương.
Với Hà nam, một tỉnh nghèo lại mới được tái lập, nguồn lực tự nhiên và kinh
tế xã hội thay đổi nên cơ cấu kinh tế cũ cần phải được điều chỉnh cho phù hợp với
tình hình hiện nay, việc định hướng cho quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
là hết sức cần thiết đối với tỉnh. Đó cũng chính là cơ sở để chúng tôi lựa chọn tỉnh
Hà nam làm đối tượng nghiên cứu.
Cơ cấu kinh tế là một phạm trù rộng, với khả năng cho phép chúng tôi chỉ tập
trung đi sâu nghiên cứu về cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Hà nam. Thông qua việc
thu thập, xử lý và phân tích số liệu thực tiễn, kết hợp với những kiến thức lý luận đã
được học và được đọc, chúng tôi mong muốn đưa ra định hướng và một số giải
pháp cho vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Hà nam. Đó cũng chính
là lý do ra đời đề tài “ Định hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Hà
Nam trong giai đoạn 2001 - 2010 “. Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung
chính sẽ được trình bầy trong 3 chương:
Chương I: Sự cần thiết khách quan của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh
tế nước ta nói chung và tỉnh Hà Nam nói riêng.
Trong chương này chúng tôi sẽ trình bày những lý luận cơ bản về cơ cấu ngành
kinh tế, vai trò của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đối với phát triển kinh tế và từ
đó nhấn mạnh sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nước ta nói chung
và tỉnh Hà Nam nói riêng.
2
Chương II: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Hà
Nam đoạn 1995 - 1999.
Để nghiên cứu quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Hà Nam
thời gian qua, trước hết chúng tôi đề cập sơ qua một vài nét về đặc điểm tự nhiên,
kinh tế xã hội của tỉnh, tiếp đó là phần thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
nói chung và chuyển dịch trong nội bộ từng ngành của tỉnh Hà Nam giai đoạn
1995-1999, cuối cùng là phần đánh giá những kết quả đã đạt được và những mặt
hạn chế của quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tỉnh Hà Nam giai đoạn
1995-1999.
Chương III: Định hướng và một số giải pháp chủ yếu chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế của Hà Nam giai đoạn 2001 - 2010.
Chương này sẽ tập trung vào hai phần lớn:
Một là đưa ra phương hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế cho tỉnh Hà
Nam giai đoạn 2001-2010.
Hai là hệ những giải pháp nhằm đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế của tỉnh giai đoạn 2001-2010.
3
CHƯƠNG I
SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN CỦA CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU
NGÀNH KINH TẾ NƯỚC TA NÓI CHUNG
VÀ TỈNH HÀ NAM NÓI RIÊNG
I. LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ
1. Cơ cấu ngành kinh tế
Cơ cấu kinh tế được hình thành một cách khách quan do sự phát triển của lực
lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. Cơ cấu kinh tế luôn luôn biến đổi theo
hướng ngày càng hoàn thiện và việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế là một quá trình. Có
hai dạng cơ cấu kinh tế là cơ cấu kinh tế đóng và cơ cấu kinh tế mở trong đó cơ cấu
kinh tế mở được vận dụng rộng rãi ở các nước vì những ưu điểm của nó
Ba bộ phận cơ bản hợp thành cơ cấu kinh tế là cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu
lãnh thổ và cơ cấu thành phần kinh tế. Nếu cơ cấu ngành kinh tế hình thành từ quá
trình phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất thì cơ cấu kinh tế lãnh
thổ lại được hình thành chủ yếu từ việc bố trí sản xuất theo không gian địa lý, cơ
cấu thành phần kinh tế hình thành dựa trên chế độ sở hữu. Trong cơ cấu kinh tế, cơ
cấu ngành kinh tế giữ vai trò quyết định, vì vậy đề tài chỉ tập trung nghiên cứu cơ
cấu ngành kinh tế mà rõ hơn là chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
Cơ cấu ngành kinh tế là tổng hợp các ngành kinh tế được hình thành và mối
quan hệ của các ngành đó với nhau biểu thị bằng vị trí, sự tác động qua lại và tỷ
trọng của mỗi ngành trong nền kinh tế quốc dân.
Từ các góc độ kác nhau cơ cấu ngành kinh tế được đánh giá thông qua các chỉ
tiêu như: Cơ cấu ngành theo giá trị sản lượng, cơ cấu ngành theo sản phẩm cuối
cùng, cơ cấu ngành theo quy mô vốn đầu tư và cơ cấu ngành theo lao động. Các chỉ
tiêu phản ánh cơ cấu ngành chỉ mang tính thời điểm vì cơ cấu ngành luôn luôn biến
đổi để phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã
hội và đó là quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
2. Một số lý thuyết về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Lý thuyết phân kỳ phát triển của Rostow.
Rostow cho rằng quá trình phát triển kinh tế của bất cứ quốc gia nào cũng trải
qua năm giai đoạn: Xã hội truyền thống -> Chuẩn bị cất cánh ->Cất cánh ->Trưởng
thành -> Tiêu dùng cao. Có thể nói rằng lý thuyết phân kỳ phát triển kinh tế rất có ý
4
nghĩa đối với vấn đề chuyển dịch cơ cấu trong quá trình công nghiệp hoá ở những
nước đang phát triển hiện nay. Nó đặt ra nhiệm vụ mà những nước này cần phải
thực hiện để chuẩn bị những tiền đề cần thiết cho việc chuyển nền kinh tế của nước
mình sang giai đoạn cất cánh.
Lý thuyết nhị nguyên.
Trong lý thuyết này, A.Lewis nhận định để có thể thúc đẩy phát triển kinh tế
của những nước chậm phát triển cần bằng mọi cách mở rộng khu vực sản xuất công
nghiệp hiện đại mà không cần quan tâm đến khu vực nông nghiệp truyền thống vì tự
nó sẽ rút lao động từ khu vực nông nghiệp sang và biến nền sản xuất xã hội từ trạng
thái nhị nguyên sang nền kinh tế công nghiệp phát triển.. Có thể nói rằng lý thuyết
nhị nguyên đã gây được ấn tượng mạnh mẽ đối với các quốc gia chậm phát triển
muốn đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá và trên thực tế các chính sách công
nghiệp hoá và cơ cấu kinh tế của các nước này đã ít nhiều chịu ảnh hưởng của lý
thuyết nhị nguyên.
Lý thuyết cân đối liên ngành
Theo lý thuyết này, tất cả các ngành kinh tế có liên quan mật thiết đến nhau
trong chu trình “đầu ra” của ngành này là “đầu vào“ của ngành kia vì vậy phải phát
triển cân đối các ngành. Tuy nhiên, lý thuyết này cũng bộc lộ những yếu điểm lớn
đó là đưa nền kinh tế đến chỗ khép kín, tách biệt hẳn với thế giới bên ngoài và nước
đang phát triển thì không có điều kiện để vận dụng những lý thuyết trên.
Lý thuyết cơ cấu ngành không cân đối hay “cực tăng trưởng”
Lý thuyết này cho rằng nên duy trì một cơ cấu không cân đối vì nó sẽ gây nên
áp lực kích thích đầu tư, hơn nữa nó sẽ khắc phục được tình trạng khan hiếm nguồn
lực khi chỉ phải tập trung nguồn lực cho một số ngành nhất định. Với những ưu
điểm của mình lý thuyết đã được áp dụng rộng rãi ở những nước chậm phát triển từ
đầu thập niên 80 trở lại đây.
Với Hà nam, một tỉnh mới được tách lập lại, nền kinh tế kém phát triển, nguồn
lực hạn hẹp nhất là nguồn lực về vốn. Vì vậy, Hà nam nên áp dụng mô hình “cực
tăng trưởng” cho quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của mình, tập trung
vào một vài ngành, lĩnh vực đầu tầu lôi kéo toàn bộ nền kinh tế của tỉnh phát triển.
3. Những nhân tố ảnh hưởng tới quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế chịu tác động của nhiều nhân tố, do đó việc
phân tích các nhân tố này sẽ cho phép tìm ra một cơ cấu ngành hợp lý. Có hai nhóm
nhân tố chính ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế :
5
Nhóm nhân tố địa lý, tự nhiên: vị trí địa lý, khí hậu, đất đai, tài nguyên.
Nhóm những nhân tố trên ảnh hưởng lớn tới việc hình thành cơ cấu kinh tế.
Bởi vì nguyên tắc của chuyển dịch cơ cấu kinh tế là phải tạo ra được một cơ cấu
kinh tế hợp lý trên cơ sở sử dụng được hiệu quả mọi lợi thế so sánh. Với mỗi đặc
điểm khác nhau về vị trí địa lý, khí hậu, đất đai, tài nguyên thì sẽ có một cách lựa
chọn cơ cấu kinh tế khác nhau. Ví dụ như tỉnh Hà Nam có nguồn tài nguyên đá vôi
rất phong phú, vì vậy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Hà Nam sẽ theo hướng tập trung
phát triển công nghiệp khai thác và sản xuất vật liệu xây dựng để tận dụng được lợi
thế về nguồn tài nguyên này.
Nhóm nhân tố kinh tế, xã hội: dân số và nguồn lao động, truyền thống lịch sử,
thị trường, khoa học công nghệ, kết cấu hạ tầng, cơ chế chính sách
Cũng như nhân tố địa lý tự nhiên, nhóm nhân tố này cũng tác động trực tiếp tới
việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Với nguồn lao động dồi dào,
nhân công rẻ sẽ thúc đẩy phát triển các ngành thu hút được nhiều lao động, vốn đầu
tư ít; cầu và cạnh tranh trên thị trường ảnh hưởng trực tiếp tới việc hình thành cơ
cấu ngành kinh tế; ngoài ra kết cấu hạ tầng phát triển, an ninh chính trị ổn định, cơ
chế chính sách thông thoáng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển dịch cơ
cấu ngành theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá.
II. SỰ CẦN THIẾT PHẢI CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ CỦA
NƯỚC TA NÓI CHUNG VÀ TỈNH HÀ NAM NÓI RIÊNG.
1. Vai trò của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đối với phát triển kinh tế.
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là một nội dung quan trọng của quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nếu xác định được phương hướng và giải
pháp chuyển dịch đúng sẽ đảm bảo hiệu quả kinh tế xã hội cao trong sự phát triển.
Có thể khẳng định rằng, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế có một vai trò quan trọng
đối với sự phát triển kinh tế vì:
Thứ nhất, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nhằm khai thác và sử dụng có hiệu
quả các yếu tố lợi thế của nền kinh tế, vùng hoặc địa phương. Các yếu tố đó là
nguồn lực tài nguyên, lao động... yếu tố lợi thế so sánh như chi phí sản xuất.
Thông qua quá trình tổ chức khai thác có hiệu quả các yếu tố lợi thế, trong quá
trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế sẽ tìm ra các ngành mũi nhọn tạo khả năng
tăng trưởng mạnh cho đất nước, vùng hoặc địa phương đồng thời giải quyết mối
quan hệ bền vững giữa tăng trưởng kinh tế với bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, với
phát triển nguồn nhân lực.
6
Thứ hai, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Trước hết chuyển dịch cơ cấu ngành nhằm nâng cao vai trò và thiết lập mối
quan hệ chặt chẽ giữa các ngành với nhau, tạo đà cho các ngành cùng nhau tăng
trưởng và phát triển.
Chuyển dịch cơ cấu ngành giúp các ngành có điều kiện tiếp thu trình độ khoa
học công nghệ, thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Mặt khác chuyển dịch cơ cấu ngành sẽ nâng cao tính hiệu quả và mở rộng quá
trình hợp tác kinh tế giữa các vùng trong nước cũng như quốc tế.
Thứ ba, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tạo ra sự thay đổi trong cơ cấu xã hội.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế không chỉ có tác động đến thay đổi
cơ cấu dân cư mà còn tạo điều kiện nâng cao trình độ người lao động và mức sống
dân cư, từ đó cũng làm thay đổi cơ cấu tiêu dùng của dân cư.
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam, cơ cấu kinh tế
chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông
nghiệp. Việc phát triển mạnh các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động như
dệt may, da giày, điện, điện tử... đã thu hút một lực lượng lớn lao động từ khu vực
nông nghiệp và nông thôn. Bên cạnh đó, mức thu nhập của dân cư ở khu vực thành
thị thường cao hơn ở nông thôn dẫn tới một bộ phận dân cư di chuyển từ nông thôn
ra thành thị làm thay đổi cơ cấu dân cư.
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đối với khu vực nông nghiệp và
nông thôn, việc chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng phát triển các ngành đem
lại hiệu quả kinh tế cao, phát triển các lĩnh vực phi nông nghiệp, gắn chặt với quá
trình xây dựng nông thôn làm cho thu nhập và đời sống của người lao động trong
khu vực này được cải thiện, do đó cơ cấu tiêu dùng của người dân cũng thay đổi.
Nếu trước đây người dân chỉ tiêu dùng những hàng hoá thông thường thì ngày nay
khi thu nhập tăng lên người ta sẽ chuyển sang tiêu dùng hàng hoá xa xỉ, hàng hoá
thứ cấp.
Như vậy, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế có vai trò hết sức quan trong đối
với quá trình phát triền kinh tế xã hội mỗi quốc gia.Vì vậy, vấn đề chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế là một yêu cầu bức thiết để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
7
2. Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
Có nhiều nguyên nhân khiến phải đặt vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế,
trong đó có ba nguyên nhân chủ yếu:
Thứ nhất, khái niệm “Cơ cấu ngành” là một khái niệm “động”. Không có một
khuôn mẫu cơ cấu ngành chung, ổn định cho mọi thời kỳ phát triển. Cơ cấu ngành
được hình thành dựa trên sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao
động xã hội cùng với tiến bộ khoa học công nghệ. Vì phân công lao động xã hội
luôn thay đổi, khoa học công nghệ tiến bộ không ngừng do đó cơ cấu ngành kinh tế
luôn nằm trong tình trạng phải biến đổi để có thể phù hợp với quá trình phát triển và
tạo ra được một cơ cấu ngành hợp lý. Đó là một cơ cấu ngành phải tạo ra sự ổn
định, tăng trưởng và phát triển cho nền kinh tế xã hội.
Thứ hai, kinh nghiệm thành công của một số nước trong việc lựa chọn cơ cấu
ngành hợp lý.
Nổi bật là trường hợp của Nhật Bản, là nước thành công trong việc lựa chọn
chiến lược phát triển hướng nội, vì vậy nền kinh tế đạt được sự phát triển thần kỳ và
đã trở thành một nước công nghiệp phát triển.
Một điển hình thành công nữa trong việc chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là
trường hợp của các nước NIC và ASEAN với việc thực thi chiến lược hướng ngoại.
Đài Loan thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tập trung phát triển
nông nghiệp bằng con đường hiện đại hoá, thâm canh hoá, hoá học hoá, đồng thời
phát triển các ngành công nghiệp điện, điện tử, hàng tiêu dùng thông thường và
hàng tiêu dùng cao cấp do đó Đài Loan đã phát triển đều cả về công nghiệp và nông
nghiệp.
Singapore có sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đặc biệt mạnh dạn. Lúc đầu,
kinh tế Singapore chủ yếu dựa vào thương mại quốc tế và dịch vụ. Khoảng 15 năm
trở lại đây nhà nước Singapore quyết định xây dựng những ngành sản xuất tạo nên
sức mạnh kinh tế của mình. Các ngành công nghiệp có chất lượng cao như công
nghiệp điện tử, dụng cụ y tế, hoá dầu, vận tải biển, du lịch được đưa vào cơ cấu
kinh tế. Bên cạnh đó, ngành dịch vụ cũng được đầu tư phát triển và có một vị trí
quan trọng trong cơ cấu kinh tế của Singapore.
Như vậy, từ kinh nghiệm của các nước phát triển hiện nay, kể cả những nước
láng giềng mà trước đây có điểm xuất phát tương tự đã cho ta bài học bổ ích và từ
đó thấy được sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
8
Thứ ba, yêu cầu phát triển nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đòi hỏi phải thay đổi cơ cấu ngành kinh tế để tạo ra động lực cho tăng trưởng.
Các nước đang phát triển, phải thay đổi căn bản cơ cấu Công nghiệp và Nông
nghiệp, trong đó vai trò của Công nghiệp được tăng cường, giảm mạnh tỷ trong
Nông nghiệp trong cơ cấu GDP. Do đó vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một đòi hỏi cấp thiết phải đặt ra.
Đối với Hà Nam, một tỉnh mới được tái lập vào năm 1997, xuất phát điểm về
kinh tế rất thấp. Về cơ bản, Hà Nam vẫn là một tỉnh thuần nông với những khó khăn
của địa bàn vùng chiêm trũng, công nghiệp địa phương lạc hậu, nhỏ bé, thương mại
xuất khẩu, du lịch, dịch vụ chưa phát triển. Kết cấu hạ tầng ở thị xã Phủ Lý bị chiến
tranh tàn phá nhiều lần và chưa được đầu tư xây dựng, vì vậy, gần như phải xây
dựng từ đầu. Trong khi đó, nguồn thu ngân sách rất hạn hẹp, chưa có thu chủ lực,
đời sống nhân dân còn ở mức thấp so với vùng Đồng bằng Sông Hồng và với cả
nước.
Những khó khăn đó đặt ra cho Đảng bộ và nhân dân tỉnh một nhiệm vụ nặng
nề, phải tìm ra hướng để khắc phục khó khăn, đưa nền kinh tế của tỉnh tiến lên
ngang tầm so với các tỉnh khác. Một trong những hướng giải quyết đó là phải thực
hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế của tỉnh, cụ thể là phải tập trung phát
triển ngành Công nghiệp của tỉnh thành ngành mũi nhọn, làm đòn bẩy cho tăng
trưởng và phát triển kinh tế. Muốn vậy, tỉnh Hà Nam phải thực hiện chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá tăng tỷ trọng ngành
Công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng Nông nghiệp trong cơ cấu GDP.
Như vậy, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là cần thiết đối với tỉnh Hà Nam.
Chỉ có chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế mới tạo ra cho Hà Nam một cơ cấu kinh tế
hợp lý, mới sử dụng hết tiềm năng về tài nguyên và nhân lực của tỉnh, đưa nền kinh
tế của tỉnh hội nhập với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
CHƯƠNG II
9
THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ
CỦA TỈNH HÀ NAM GIAI ĐOẠN 1995- 1999
I. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ XÃ HỘI CỦA TỈNH HÀ NAM ẢNH
HƯỞNG ĐẾN VIỆC HÌNH THÀNH VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH
KINH TẾ.
Đặc điểm tự nhiên kinh tế xã hội là những nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới cơ
cấu nền kinh tế nói chung và cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Hà Nam nói riêng.
Chính vì vậy để nghiên cứu cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Hà Nam thì trước hết phải
xem xét những thuận lợi và khó khăn do đặc điểm tự nhiên kinh tế xã hội đem lại.
1- Điều kiện tự nhiên.
Về vị trí địa lý, Hà Nam là một tỉnh thuộc đồng bằng Bắc bộ, cách thủ đô Hà
nội gần 60 km về phía nam, tương lai sẽ trở thành thành phố vệ tinh của thủ đô.
Tỉnh Hà nam có thuận lợi lớn vì nằm trên tuyến giao thông chính quốc lộ 1A và
đường sắt xuyên Bắc- Nam. Trong tương lai khi tuyến hành lang kinh tế đường 21
nối Sơn Tây- Hoà Lạc- Xuân Mai hình thành, cầu Yên Lệnh thông sang Hưng Yên,
tuyến xa lộ Bắc Nam được xây dựng sẽ càng tạo nhiều khả năng giao lưu hợp tác
giữa Hà nam và các trung tâm kinh tế lớn trong cả nước. Không chỉ có lợi thế về
tuyến đường bộ, đường sắt, tỉnh Hà nam còn có một hệ thống đường thuỷ vô cùng
tiện lợi. Các con sông lớn chảy qua tỉnh bao gồm sông Hồng, sông Đáy, sông Châu
và sông Nhuệ không những tạo thuận lợi cho giao thông đường thuỷ mà còn đắc lực
phục vụ tưới tiêu thuỷ lợi cho phát triển nông nghiệp.
Tỉnh Hà nam nằm giáp với các tỉnh Hà Tây ở phía Bắc, Hưng Yên, Thái Bình
ở phía Đông, Nam Định ỏ phía Đông Nam, Ninh Bình ở phía Nam và Hoà Bình ở
phía Tây. Nhìn chung các tỉnh này có cầu rất lớn về xi măng, đá, vật liệu xây
dựng,... mà không có điều kiện sản xuất. Hà nam có thể đáp ứng và tận dụng thị
trường rộng lớn này để đẩy mạnh phát triển công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng
của tỉnh nhà.
Hà nam nằm tiếp giáp với vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ Hà Nội- Hải
Phòng- Quảng Ninh. Tình hình đó đã đặt Hà nam vào vị trí đối đầu và cạnh tranh
gay gắt, đòi hỏi tỉnh phải đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế để
phát triển kinh tế sánh ngang với các tỉnh khác trong khu vực.
Về Địa hình, khí hậu, thuỷ văn, Tỉnh Hà nam có quy mô tương đối nhỏ với
diện tích đất tự nhiên là 84.000 ha, có 6 đơn vị hành chính gồm 5 huyện là Kim
10
Bảng, Duy Tiên, Thanh Liêm, Lý Nhân, Bình Lục và một thị xã Phủ Lý với 114 xã,
phường, thị trấn.
Về cấu tạo địa hình, tỉnh Hà nam được chia thành hai vùng chính, vùng đồi núi
phía Tây có nhiều đá vôi đầy tiềm năng phát triển công nghiệp vật liệu xây dựng và
công nghiệp hoá chất, bên cạnh đó vùng đồng bằng ven sông Hồng và sông Châu có
đất đai màu mỡ thích hợp với phát triển nền nông nghiệp đa dạng, phong phú, tạo
điều kiện cho công nghiệp phát triển.
Cũng như các tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng, Hà nam có đặc điểm khí hậu
nhiệt đới gió mùa.. Lượng mưa trung bình mỗi năm từ 1.700 đến 2.200 mm. Nhiệt
độ trung bình năm là 23 độ C, độ ẩm tương đối là 84%. Đây là điều kiện thuận lợi
cho phát triển các cây lương thực ngắn ngày cũng như dài ngày.
Hà nam có một quỹ đất khá đa dạng, là tiềm năng để phát triển sản xuất nông
nghiệp cũng như để mở rộng các cơ sở sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh. Với
hệ thống bốn con sông chảy qua làm cho đất đai thêm màu mỡ và tạo một nguồn
nước dồi dào cho phát triển nông nghiệp, công nghiệp và phục vụ đời sống dân cư.
Như vậy, với nguồn đất có độ phì trung bình, hai loại địa hình là đồng bằng và
đồi núi tạo cho Hà nam có thể bố trí được nhiều loại cây trồng thuộc nhóm cây
lương thực, cây thực phẩm, cây công nghiệp, cây ăn quả, cây rừng đa tác dụng với
hệ thống canh tác có tưới hoặc không tưới. Đây là điều kiện tốt để Hà nam có thể
chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá phục vụ thị
trường trong nước nhất là khu đô thị, khu công nghiệp và xuất khẩu. Vùng đồi và
ven quốc lộ tương đối thuận lợi cho bố trí phát triển công nghiệp, nhất là công
nghiệp vật liệu xây dựng, chế biến thực phẩm, gia công xuất khẩu.
Về Tài nguyên, tài nguyên khoáng sản đặc biệt là nguồn đá vôi, sét được phân
bố tập trung ở phía Tây sông Đáy thuộc hai huyện Kim Bảng và Thanh Liêm rất
thuận lợi cho việc phát triển sản xuất vật liệu xây dựng, nhất là xi măng, đá, gạch.
Đá vôi có hàm lượng canxi từ 95-100% và đôlômit 0-5% dùng để sản xuất xi
măng và sản xuất bột nhẹ, còn đá vôi có hàm lượng ngược lại canxi từ 0-5% và
đôlômit từ 95-100% dùng làm đá xây dựng, vật liệu độn hoặc để sản xuất hoá chất
manhê. Ngoài ra đá vôi còn là nguyên liệu để sản xuất ra đất đèn dùng trong công
nghiệp khí hàn, công nghiệp tổng hợp hữu cơ, sản xuất sợi vinylon.
Nguồn sét Hà nam được kiến tạo từ hai nguồn gốc là gốc trầm tích và gốc
phong hoá. Sét gốc phong hoá là loại sét tốt, được dùng làm phụ liệu cho sản xuất xi
măng trong tỉnh. Sét gốc trầm tích dùng làm nguyên liệu sản xuất gạch ngói.
11
Như vậy, Hà nam có nguồn đá vôi và sét đủ khả năng cho công nghiệp sản
xuất xi măng với trữ lượng 3-5 triệu tấn/ năm trong nhiều năm. Chất lượng đá vôi
và sét khá tốt lại phân bố gần trục giao thông, dễ khai thác, gần nơi tiêu thụ lớn.
Ngoài ra, Hà nam còn có nguồn than bùn được phát hiện tại Tam Chúc, thuộc
huyện Kim Bảng, có thể dùng làm nguyên liệu sản xuất phân hữu cơ vi sinh.
Về Tài nguyên du lịch, Hà nam là một tỉnh có tài nguyên du lịch khá phong
phú, cả về tài nguyên du lịch thiên nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn. Hà nam có
các di vật khảo cổ như trống đồng, công cụ bằng đồng, các tác phẩm nghệ thuật,
điêu khắc mang dấu ấn của thời đại lịch sử. Hà nam có đền Trần Thương ở Lý Nhân
thờ Đức Thánh Trần, đình thờ Lê Đại Hành ở Thanh Liêm, đền Lảnh ở Duy Tiên,
chùa Bà Đanh, Ngũ Động Sơn ở Kim Bảng, chùa Tiên, Kẽm Trống ở Thanh Liêm,
đền thờ Nguyễn Khuyến ở Bình Lục, vườn tưởng niệm nhà văn Nam Cao ở Lý
Nhân,..Hơn nữa, Hà nam là một vùng quê giàu các lễ hội dân gian tuyền thống, với
56 lễ hội được tổ chức trong năm trong đó có 20 lễ hội mang di tích lịch sử, 16 lễ
hội mang tính tín ngưỡng và 20 lễ hội mang tính lễ tục dân gian.
Các nguồn tài nguyên du lịch của Hà nam được phân bố tương đối tập trung lại
nằm trong khu vực nối với các vùng phụ cận như chùa Hương, Hoa Lư, Tam Cốc
Bích Động, rừng quốc gia Cúc Phương, Hải Phòng, Quảng Ninh,...đây là một điểm
thuận lợi để hình thành những cụm du lịch lớn có sức thu hút khách cao.
Tóm lại, Hà nam có một điều kiện khá thuận lợi cả về vị trí địa lý, địa hình,
thuỷ văn và tài nguyên để có thể đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh
tế của tỉnh theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
2- Đặc điểm kinh tế- xã hội.
Hà nam là một tỉnh mới được thành lập và đi vào hoạt động từ ngày
01/01/1997. Với khoảng thời gian ngắn lại phải trải qua nhiều khó khăn thử thách
do mới chia tách, nhưng tỉnh đã nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi nghị quyết của
Đảng bộ tỉnh về những nhiệm vụ trọng tâm trước mắt, tập trung khắc phục những
khó khăn to lớn của một tỉnh mới chia tách, góp phần làm cho tình hình kinh tế -xã
hội của tỉnh có những chuyển biến tiến bộ trên một số mặt và đang đi vào thế ổn
định. Nền kinh tế tăng trưởng khá, GDP giao thời tách tỉnh 1996-1998 tăng bình
quân 7,4%/năm ( cả nước tăng 8,5%/ năm trong cùng thời kỳ). Hiện nay, tốc độ
tăng trưởng GDP của Hà Nam là 14,34% và dự kiến năm 2000 là 10,85%.
GDP/người đã đạt 2.685 nghìn đồng/ người và dự kiến đến năm 2000 đạt 3.000
nghìn đồng/ người theo giá so sánh năm 1994.
12
Do nền kinh tế tăng trưởng khá, thực hiện tốt các chương trình xoá đói giảm
nghèo, khuyến khích cá nhân và gia đình sản xuất kinh doanh giỏi nên đời sống của
các tầng lớp dân cư ngày càng được cải thiện. Tỷ lệ hộ đói nghèo giảm chỉ còn 11%
năm 1999. Các chương trình văn hoá, giáo dục, y tế được triển khai góp phần quan
trọng thúc đẩy các mặt hoạt động xã hội phát triển lành mạnh. Hà nam là một tỉnh
dẫn đầu về phổ cập giáo dục tiểu học, các cơ sở y tế được nâng cấp, y tá, bác sỹ
được bổ sung, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững và tăng
cường, các tệ nạn xã hội ngày càng giảm.
Tuy nhiên nền kinh tế Hà nam vẫn còn mang tính thuần nông, nông nghiệp
chiếm 44% GDP, công nghiệp địa phương nhỏ bé, thương mại dịch vụ phát triển
chậm, thu ngân sách mới đáp ứng được 40% chi, chưa có đầu tư nước ngoài. Điều
đó đặt ra cho Hà nam một thách thức đòi hỏi tỉnh phải nhanh chóng chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế để có thể phát triển ngang với các tỉnh khác trong khu vực.
Về dân số và nguồn nhân lực, nguồn nhân lực được xem như là một lợi thế
phát triển quan trọng. Quy mô và tốc độ tăng của nguồn nhân lực phụ thuộc vào quy
mô và tốc độ tăng dân số. Theo số liệu điều tra gần đây nhất, dân số Hà nam năm
1999 đã là 791.614 người, trong đó dân số ở tuổi lao động là 426.673 người, chiếm
53,9% dân số toàn tỉnh. Số lao động ở khu vực nông thôn là 380.890 người, chiếm
89,27% và ở thành thị là 45.783 người, chỉ chiếm 10,73%. Là một tỉnh mà thu nhập
còn nặng về nông nghiệp, cơ sở vật chất yếu kém, với nguồn lao động như trên
đang gây sức ép về việc làm và cải thiện đời sống. Mặt khác, lao động nông nghiệp
có 287.253 người chiếm xấp xỉ 70%, lao động công nghiệp và dịch vụ có 126.087
người chiếm 30%, trong đó số được đào tạo ngành nghề là 58.008 người, chiếm
13,5%, như vậy số lao động ở nông thôn thiếu việc làm đang đi đến các khu vực
khác làm dịch vụ là rất lớn, chiếm gần 20% lao động nông thôn. Ở nông thôn, thời
gian nhàn rỗi còn nhiều mà cơ hội gia tăng việc làm ở khu vực nông nghiệp hầu như
không đáng kể, có chăng chỉ là rải rác ở những nơi có ngành nghề tiểu thủ công
nghiệp, với tay nghề gia truyền là chính, không được đào tạo cơ bản. Hơn nữa, lao
động trong nông nghiệp với trình độ trang bị kỹ thuật còn lạc hậu, người lao động
sử dụng cơ bắp và sức súc vật kéo là chính. Tất cả những điều đã đề cập ở trên cho
thấy trình độ lao động của tỉnh nói chung còn thấp, và thực tế Hà nam có nguồn lao
động khá dồi dào nhưng lao động phổ thông chưa được đào tạo nghề là phổ biến và
thiếu lao động được đào tạo kỹ thuật, nhất là lao động có kỹ thuật cao.
Trong thời gian tới để chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, Hà nam phải nhanh chóng đào tạo đồng bộ, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực.
13
Về cơ sở vật chất, trình độ khoa học công nghệ, cơ sở vật chất kỹ thuật nhìn
chung còn yếu kém, các trang thiết bị cũ và lạc hậu do đó khả năng áp dụng kỹ
thuật tiên tiến vào sản xuất công nghiệp, nông nghiệp là rất hạn chế.
Kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ, hệ thống đường giao thông, đường sắt, đường
bộ được xây dựng từ lâu đến nay qua sử dụng lâu dài chưa được đầu tư nâng cấp
kịp thời nên chất lượng thấp, không đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế xã hội.
Hiện nay, hệ thống thuỷ lợi, đường giao thông liên huyện liên xã đang được đầu tư
nâng cấp, quá trình điện khí hoá nông thôn đang được đẩy mạnh.
II. THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ CỦA TỈNH HÀ
NAM GIAI ĐOẠN 1995-1999.
1- Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Hà nam giai đoạn 1995-1999.
Kinh tế Hà nam sau 3 năm tái lập đã có sự chuyển biến rõ nét. Tốc độ tăng
trưởng kinh tế bình quân mỗi năm thời kỳ 1995-1999 là 10,71%, cao hơn tốc độ
tăng bình quân của cả nước(7,74%). Các số liệu dưới đây chứng tỏ điều đó.
Biểu 1. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Hà nam so với cả nước.
Đơn vị : %
Tốc độ tăng GDP 1995 1996 1997 1998 1999
Cả nước 9,94 9,34 8,80 5,80 4,80
Hà nam 20,0 4,0 9,15 9,06 11,34
Nguồn : Cục thống kê tỉnh Hà nam.
Như vậy trong 3 năm 1997, 1998, 1999 tốc độ tăng trưởng GDP của Hà nam
đều vượt cao hơn so với cả nước, nhất là vào năm 1999.
Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế thì GDP bình quân đầu người cũng tăng khá:
2,77% năm 1996 7,97% năm 1997, 7,82% năm 1998 và 10,02% năm 1999, bình quân
thời kỳ 1996-1999 mỗi năm tăng 7,1%, nếu tính giá thực tế thì GDP bình quân đầu
người thời kỳ 1995-1999 là 2223 nghìn đồng VN/ năm tương đương 158,8 USD.
Tuy GDP bình quân đầu người của Hà nam tăng qua các năm nhưng còn ở
mức thấp, chỉ bằng 60% so với cả nước và 57,7% so với vùng đồng bằng sông
Hồng. Hơn nữa tốc độ tăng trưởng kinh tế những năm qua cao, chủ yếu là do nhà
nước tập trung xây dựng khu trung tâm kinh tế chính trị của tỉnh mới, đồng thời từ
quý III năm 1998, công ty xi măng Bút Sơn đã đi vào sản xuất, giá trị tăng thêm của
công ty năm 1998 khoảng 24 tỷ đồng, năm 1999 khoảng 139 tỷ đồng. Nếu không
14
tính đến phần giá trị tăng thêm này thì tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 1998 và 1999
cuả tỉnh chỉ đạt khoảng 7% và 3,9%.
Trong thời gian qua, sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Hà nam
theo các hướng sau:
Đối với công nghiệp, đầu tư vào những ngành nghề có hiệu quả kinh tế cao, tạo
giá trị lớn, có thị trường tiêu thụ và đặc biệt là thị trường xuất khẩu. Ưu tiên những
ngành nghề khai thác được tiềm năng tài nguyên, tạo ra nguyên liệu và sản phẩm
phong phú, giải quyết được nhiều việc làm cho dân.
Đối với nông nghiệp, phát triển nông nghiệp trong khả năng cho phép đảm bảo
an toàn lương thực và tạo cơ sở nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến, phát
triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá.
Đối với dịch vụ, phát triển mạnh ngành thương mại, đẩy nhanh hoạt động xuất
khẩu của tỉnh, phát triển du lịch trên cơ sở khai thác đồng thời phát triển những loại
hình dịch vụ khác như tài chính ngân hàng, thông tin viễn thông, giao thông vận tải,..
Cải tạo và nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng, điện khí hoá nông thôn, thực
hiện kiên cố hoá kênh mương, nâng cấp hệ thống đường giao thông nông thôn,
những tuyến giao thông huyết mạch của tỉnh, xây dựng các trụ sở làm việc cho tỉnh
mới tách, nâng cấp hệ thống thông tin bưu điện,... nhằm thu hút đầu tư nước ngoài
vào phát triển kinh tế của tỉnh.
Xuất phát từ định hướng trên, trong thời gian qua cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh
Hà nam cũng có những chuyển biến tích cực và tiến bộ.
Thứ nhất trong cơ cấu ngành kinh tế theo GDP:
Biểu2. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo GDP
thời kỳ 1995- 1999.
Đơn vị : %.
Ngành 1995 1996 1997 1998 1999
Tổng GDP 100 100 100 100 100
1. Công nghiệp 16,26 18,83 19,11 20,06 25,54
2. Nông nghiệp 52,64 49,58 48,29 48,04 44,03
3. Dịch vụ 31,10 31,59 32,60 31,90 30,43
Nguồn : Cục thống kê tỉnh Hà nam.
Tỷ trọng ngành công nghiệp tăng đáng kể qua các năm từ 16,26% năm 1995
lên 25,54% năm 1999 và dự kiến đạt khoảng 26,7% vào năm 2000. Như vậy có thể
thấy rằng ngành công nghiệp ngày càng phát huy hơn nữa vai trò đầu tàu của mình
15
để thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá của tỉnh, nổi bật lên trong công nghiệp là sự
tăng nhanh của công nghiệp vật liệu xây dựng và công nghiệp chế biến lương thực,
thực phẩm. Tuy nhiên, với tỷ trọng 25,54% trong cơ cấu GDP thì công nghiệp vẫn
chiếm một tỷ trọng nhỏ và cần phải được nâng lên trong thời gian tới để giữ vị trí
chủ đạo trong nền kinh tế của tỉnh.
Tỷ trọng của ngành nông nghiệp giảm tương đối trong giai đoạn 1995-1999 từ
52,64% vào năm 1995 xuống còn 44,03% vào năm 1999, đây cũng là xu thế tất yếu
của quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá, tạo tiền đề cho việc phát triển các
ngành công nghiệp và dịch vụ. Tuy vậy, với tỷ trọng 44,03% thì nông nghiệp vẫn
chiếm tỷ trọng khá cao, gây trở ngại cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nền kinh tế của tỉnh.
Tỷ trọng các ngành dịch vụ trong cơ cấu GDP giai đoạn 1995-1999 có sự thay
đổi không đáng kể từ 31,1% năm 1995 xuống còn 30,43% năm 1999. Điều này
không có nghĩa là ngành này không tăng trưởng, trái lại GDP của ngành này liên tục
tăng mạnh qua các năm nhất là hoạt động thương mại và các dịch vụ vận tải, khách
sạn nhà hàng, bưu chính viễn thông,...Bởi vì cùng với sự đi lên của các ngành công
nghiệp thì các ngành thuộc khối dịch vụ cũng có bước phát triển theo và nó sẽ làm
thay đổi cơ cấu kinh tế của tỉnh.
Tóm lại, cơ cấu tổng sản phẩm trong tỉnh thời kỳ 1995-1999 có sự chuyển dịch
theo xu hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp.
Sau 5 năm tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ tăng 8,61% . Đây là xu hướng
tích cực cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy vậy, cơ cấu ngành kinh tế
của tỉnh Hà nam năm 1999 vẫn là cơ cấu Nông nghiệp- Công nghiệp- Dịch vụ.
Thứ hai, trong cơ cấu ngành kinh tế theo vốn đầu tư.
Vốn đầu tư xây dựng cơ bản thực hiện trên lãnh thổ tỉnh phần lớn là nguồn vốn
tín dụng, bình quân thời kỳ 1995-1999 là 59,2% tổng vốn đầu tư. Số vốn đầu tư từ
ngân sách nhà nước chiếm tỷ trọng rất nhỏ, bình quân cả thời kỳ 1995-1999 khoảng
20,8% tổng vốn đầu tư. Phần vốn do dân đóng góp chiếm 15,7%.
Việc huy động và sử dụng vốn qua các năm tương đối phù hợp với tình hình
phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Nguồn vốn từ ngân sách và nhân dân đóng góp
chủ yếu sử dụng vào việc cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới kết cấu hạ tầng, nhất là
giao thông vận tải, bưu điện thông tin, thuỷ lợi, các công trình phúc lợi công cộng,
trụ sở làm việc, các sở ban ngành...Nguồn vốn tín dụng chủ yếu đầu tư vào khu vực
sản xuất công nghiệp, xây dựng.
16
Vốn đầu tư là yếu tố hàng đầu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nó đảm bảo cho
khai thác lợi thế áp dụng khoa học kỹ thuật, đổi mới thiết bị công nghệ. Đi liền với
sự chuyển dịch cơ cấu ngành thì cơ cấu vốn đầu tư cũng có sự thay đổi tương ứng.
Biểu 3. Thực trạng cơ cấu vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh Hà nam
giai đoạn 1995-1999.
Đơn vị : %.
1995 1996 1997 1998 1999 Tỷ trọng BQ 95-99
Tổng vốn đầu tư 100 100 100 100 100 100
1.Công nghiệp 62,11 69,48 69,46 70,54 47,23 63,76
2.Nông nghiệp 4,95 4,75 6,57 10,65 21,33 9,65
3.Dịch vụ 32,94 25,77 23,97 18,81 31,44 26,59
Nguồn : Cục thống kê tỉnh Hà nam
Như vậy có thể thấy rằng trong giai đoạn 1995- 1999 vốn đầu tư chủ yếu tập
trung vào lĩnh vực công nghiệp, chiếm 63,76% tổng vốn đầu tư. Đó là vì Đảng bộ
và nhân dân trong tỉnh nhận thức rõ vai trò của công nghiệp đối với sự phát triển
kinh tế xã hội của toàn tỉnh . Trong công nghiệp, ngành công nghiệp chế biến nông
sản thực phẩm và công nghiệp vật liệu xây dựng được ưu tiên đầu tư lớn nhất rồi
đến các ngành công nghiệp khác .
Tỷ trọng vốn đầu tư cho nông nghiệp có tăng qua các năm, năm 1995 là
4,95%, năm 1999 tỷ trọng này tăng lên đến 21,33% điều đó cho thấy ngành nông
nghiệp cũng được quan tâm thoả đáng vì đại bộ phận người dân Hà nam có cuộc
sống gắn bó với sản xuất nông nghiệp. Trong nông nghiệp, phần lớn vốn đầu tư tập
trung cho việc kiên cố hoá kênh mương, đầu tư cho máy móc, cây con giống.
Tỷ trọng đầu tư cho dịch vụ bình quân giai đoạn 1995-1999 chỉ đạt 26,59%,
qua các năm tỷ trọng này dao động không nhiều và trong ngành dịch vụ, vốn đầu tư
chủ yếu tập trung cho ngành vận tải và thông tin liên lạc, tiếp đến là các lĩnh vực
văn hoá giáo dục, tài chính tín dụng, khách sạn nhà hàng,...
Tóm lại, trong những năm qua , đầu tư cho công nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ
trọng cao trong cơ cấu vốn đầu tư, nó cho thấy cơ cấu vốn đầu tư có sự thay đổi
đúng hướng phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, làm cho bộ mặt kinh
tế xã hội của tỉnh từ trung tâm thị xã Phủ Lý đến các địa phương ngày một khang
trang, đổi mới.
Thứ ba, trong cơ cấu ngành kinh tế theo lao động.
17
Biểu 4. Chuyển dịch cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế.
Đơn vị: %.
Ngành 1995 1996 1997 1998 1999
Tổng số 100 100 100 100 100
1.Công nghiệp 12,5 12,4 10,8 10,9 11,2
2.Nông nghiệp 79,9 79,7 81,2 81,2 80,8
3.Dịch vụ 7,6 7,9 8,0 7,9 8,0
Nguồn : Cục thống kê tỉnh Hà nam.
Theo các số liệu trên đây cho thấy trong mấy năm qua số lao động làm việc
trong khu vực công nghiệp của Hà nam không được ổn định. Tỷ lệ lao động trong
công nghiệp giảm thấp nhất vào những năm 1997-1998 và năm 1999 tiếp tục tăng
lên đạt 11,2%. Như vậy có thể khẳng định là công nghiệp Hà nam chưa thực sự phát
triển, tỷ lệ lao động trong công nghiệp còn rất thấp so với toàn bộ lao động làm việc
trong nền kinh tế của tỉnh.
Lao động trong ngành dịch vụ có tăng nhưng không đáng kể, từ 7,6% năm
1995 lên 8,0% vào năm 1999. Lao động trong ngành nông nghiệp vẫn chiếm tỷ lệ
cao là 80,8%. Điều đó cho thấy hai ngành công nghiệp và dịch vụ phát triển chưa
mạnh để có thể thu hút được lực lượng lao động dư thừa trong nông nghiệp sang
hoạt động trong hai ngành này. Quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra chậm
và lao động trong các ngành kinh tế chưa ổn định.
Tóm lại, trong giai đoạn 1995-1999 nền kinh tế Hà nam đã có bước chuyển
biến đáng kể, giá trị sản xuất của các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ đều
tăng qua các năm. Mặc dù tỷ trọng của nông nghiệp vẫn còn cao trong cơ cấu kinh
tế nhưng về cơ bản cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Hà nam đã có bước chuyển dịch
đúng hướng. Trong nội bộ các ngành thì vị trí của ngành công nghiệp và dịch vụ
ngày càng được khẳng định, tuy nhiên ngành nông nghiệp vẫn chiếm một tỷ trọng
lớn vì trước mắt nó là ngành nuôi sống phần lớn dân cư. Cùng với sự chuyển dịch
cơ cấu chung, từng ngành cũng có sự chuyển dịch trong nội bộ. Để nghiên cứu rõ
hơn về quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Hà nam có thể xem xét
thực trạng chuyển dịch cơ cấu trong từng ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ
giai đoạn 1995-1999.
2. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu một số ngành Công nghiệp, Nông nghiệp,
Dịch vụ giai đoạn 1995-1999.
a. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành Công nghiệp.
18
Trong giai đoạn 1995-1999, cùng với sự phát triển kinh tế chung của tỉnh,
công nghiệp Hà nam đã có bước phát triển đáng mừng. Xét từ khía cạnh phân ngành
công nghiệp thì thấy cơ cấu sản xuất công nghiệp đã có sự chuyển đổi nhất định.
Biểu 5. Cơ cấu phân ngành trong công nghiệp.
Đơn vị : %.
1995 1996 1997 1998 1999
Công nghiệp 100 100 100 100 100
1.Vật liệu xây dựng 39,66 41,73 43,73 48,35 60,7
2.Chế biến LT- TP 13,36 15,5 15,75 15,42 16,0
3.Dệt may, da giày 18,76 18,27 16,69 17,5 14,8
4.Cơ kim khí,điện tử 7,01 2,99 2,91 4,03 3,12
5.Hoá chất,phân bón 1,27 1,53 1,37 1,14 0,06
6.CN khác 19,94 19,98 19,55 13,56 5,32
Nguồn: Cục thống kê tỉnh Hà nam.
Chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh Hà nam
là công nghiệp Vật liệu xây dựng. Trong những năm qua Hà nam đã biết tận dụng
lợi thế về tài nguyên đa dạng và phong phú của tỉnh nhà là đất sét và đá vôi để đẩy
mạnh phát triển công nghiệp vật liệu xây dựng. Vì vậy đã đưa được giá trị của
ngành này tăng liên tục qua các năm nhất là vào những năm 1998, 1999 khi mà
công ty xi măng Bút Sơn được đưa vào hoạt động.Vị trí của ngành vật liệu xây
dựng được khẳng định nhờ tỷ trọng của ngành này trong cơ cấu giá trị sản xuất công
nghiệp liên tục tăng từ 39,66% năm 1995 lên 60,7% vào năm 1999.
Cùng với ngành công nghiệp vật liệu xây dựng, ngành chế biến lương thực,
thực phẩm, đồ uống cũng có giá trị tăng mạnh qua các năm, nâng tỷ trọng của
ngành này từ 13,36% năm 1995 lên 16% vào năm 1999. Hiện nay trên địa bàn tỉnh
Hà nam có 6 đơn vị doanh nghiệp quốc doanh hoạt động trong ngành chế biến thực
phẩm:Công ty chế biến thực phẩm Vĩnh Hà, Công ty Bia nước giải khát Phủ Lý, Xí
nghiệp thực phẩm công nghiệp Phủ Lý, Xí nghiệp bia Bình Hà, Xí nghiệp thực
phẩm xuất khẩu Duy Tiên. Trong tương lai, những doanh nghiệp này sẽ được mở
rộng cả về quy mô và số lượng để có thể đáp ứng xu hướng phát triển chung của
tỉnh cũng như quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
19
Các ngành công nghiệp dệt may, da giày, cơ khí điện tử, hoá chất phân bón
chưa được mở rộng sản xuất do đó giá trị tăng không đáng kể. Trong khi đó vào
những năm 1998,1999 ngành vật liệu xây dựng có giá trị tăng lớn vì vậy đã làm cho
tỷ trọng của những ngành này giảm xuống.
b. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành Nông nghiệp.
Trong những năm qua tuy tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu GDP giảm dần
nhưng sản xuất nông nghiệp vẫn đạt nhịp độ phát triển khá. Sản xuất nông nghiệp
có bước phát triển toàn diện theo hướng sản xuất hàng hoá, tăng giá trị trên một
diện tích, tăng thu nhập cho hộ nông dân. giá trị sản xuất nông nghiệp liên tục tăng
qua các năm. Tốc độ tăng bình quân thời kỳ 1995-1999 của ngành nông nghiệp đạt
4,26%, trong đó ngành trồng trọt tăng 4,96%, ngành chăn nuôi tăng 2,45%, dịch vụ
nông nghiệp tăng0,98%..
Cùng với tăng trưởng, cơ cấu ngành nông nghiệp cũng có những chuyển biến
nhất định.
Bảng 6. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp
giai đoạn 1995-1999.
Đơn vị : %.
1995 1996 1997 1998 1999
Ngành Nông nghiệp 100 100 100 100 100
-Trồng trọt 74,5 74,9 74,2 77,6 77,5
-Chăn nuôi 24,5 24,1 24,8 21,5 21,6
-Dịch vụ NN 1,0 1,0 1,0 0,9 0,9
Nguồn:Cục thống kê tỉnh Hà nam.
Trong cơ cấu ngành nông nghiệp, tỷ trọng ngành chăn nuôi tuy có giảm vào
năm 1998, nhưng về cơ bản ngành này vẫn đạt được tốc độ tăng trưởng khá và có
xu hướng tăng tỷ trọng vào những năm 1999, 2000 mặc dù sự chuyển dịch là rất
chậm. Giá trị của khu vực dịch vụ tăng lên hàng năm nhưng chưa đáng kể, nhất là
chưa tăng về tỷ trọng so với ngành nông nghiệp. Ngành trồng trọt vẫn chiếm một tỷ
trọng cao trong cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp. Để đánh giá được toàn diện hơn
ngành nông nghiệp cần đi sâu nghiên cứu sự chuyển dịch trong từng ngành cụ thể:
Ngành trồng trọt.
20
Trong giai đoạn 1995-1999 ngành trồng trọt của tỉnh Hà nam đã đạt được tốc
độ tăng trưởng khá, tăng bình quân 4,96%/ năm. Đạt được tốc độ như vậy là do cơ
cấu cây trồng của Hà nam đã có sự thay đổi phù hợp, biểu hiện là sự thay đổi cơ cấu
sử dụng đất.
Biểu 7. Thực trạng cơ cấu sử dụng đất trong ngành trồng trọt
giai đoạn 1995-1999.
Đơn vị: %.
1995 1996 1997 1998 1999
Tổng số 100 100 100 100 100
Cây lương thực 86,07 85,44 87,8 85,29 85,28
Cây thực phẩm 7,18 6,71 5,58 6,75 6,1
Cây ăn quả 1,88 1,89 2,06 2,89 3,55
Cây công nghiệp 3,56 3,71 3,39 3,64 4,07
Cây khác 1,31 2,25 1,17 1,43 1,0
Nguồn : Cục thống kê tỉnh Hà nam.
Như vậy, cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp đã có sự thay đổi theo hướng tăng
diện tích đất trồng cây ăn quả, cây công nghiệp và giảm diện tích trồng cây lương
thực. Cụ thể là diện tích cây ăn quả từ 1,88% năm 1995 tăng lên đến 3,55% năm
1999, diện tích cây công nghiệp tăng từ 3,56% năm 1995 lên 4,07% vào năm 1999.
Cây lương thực có diện tích giảm từ 86,07% năm 1995 xuống còn 85,28% vào năm
1999.
Tuy diện tích cây lương thực có giảm nhưng do địa phương tích cực đổi mới
cơ cấu giống và mùa vụ nên sản lượng và năng suất cây lương thực tăng khá, bình
quân thời kỳ 1996-1999 sản lượng lương thực bình quân đầu người đạt 481 kg/
năm, tăng 33,6% so với bình quân một năm thời kỳ 1991-1995; năng suất lúa bình
quân một vụ trong năm thời kỳ 1996-1999 là 46,1 tạ/ ha tăng 36% so với thời kỳ
1991-1995. Cụ thể:
21
Biu 8. Nng sut v sn lng cỏc cõy lng thc thi k 1995-1999
n v 1995 1996 1997 1998 1999
Tng sn lng LT
quy thúc
Tn 354.714 325.707 371.450 399.743 424.356
1. Lỳa
Nng sut
Tn
T/ha
318.814
44,02
287.665
40,53
343.336
46,62
363.431
48,89
383.453
51,1
2. Ngụ
Nng sut
Tn
T/ha
22.908
25,78
23.132
26,0
15.811
26,31
23.613
29,92
25.750
32,0
3. Khoai lang
Nng sut
Tn
T/ha
29.259
66,48
42.383
79,79
25.710
68,44
26.886
75,78
30.685
80,5
4. Sn
Nng sut
Tn
T/ha
7.952
86,43
915
30,0
9.560
104,1
8.852
100,0
12.989
136,5
Nguồn: Cục thống kê tỉnh Hà nam.
Cây ăn quả của Hà nam gồm có cam, quýt, bởi, nhãn vải, xoài. Diện tích trồng
cây ăn quả chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong diện tích đất trồng trọt, tuy vậy những năm
gần đây do nhận thức đợc hiệu quả kinh tế cao của việc trồng cây ăn quả gấp 3-4 lần
trồng lúa, gấp khoảng 2 lần trồng cây thực phẩm xét về mặt giá trị trên cùng một diện
tích đất nông nghiệp nên ngời dân đã cải tạo vờn tạp, quy hoạch các vùng trồng cây ăn
quả tập trung, khai thác vùng đất đồi, đất bãi ven sông để trồng cây ăn quả vì vậy diện
tích và sản lợng cây ăn quả tăng nhanh qua các năm, nhất là những cây nhãn, vải.
Cây công nghiệp cũng là loại cây đem lại giá trị kinh tế cao. Vì vậy trong thời
gian qua, nhân dân Hà nam đã mở rộng diện tích trồng cây công nghiệp đặc biệt là
cây lạc, cây đay và cây công nghiệp dài ngày là cây chè. Do đó đời sống của nhân dân
cũng đợc cải thiện hơn
Tóm lại, trong giai đoạn 1995-1999, Ngành trồng trọt của tỉnh Hà nam đã có sự
chuyển dịch theo hớng tăng diện tích các cây ăn quả, cây công nghiệp, giảm diện tích
cây lơng thực, đó là một hớng chuyển dịch tích cực để đẩy mạnh phát triển nông
nghiệp theo hớng sản xuất hàng hoá nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
của tỉnh nói chung.
22
Ngành Chăn nuôi.
Trong giai đoạn 1995-1999, cơ cấu vật nuôi của Hà nam chuyển dịch theo hớng
tập trung phát triển những con vật nuôi chính là bò và gia cầm. Đàn trâu giảm từ 10,9
nghìn con năm 1995 xuống còn 6,5 nghìn con năm 1999, do máy cày thay trâu làm
đất ngày càng nhiều vì vậy trâu đợc chuyển dần sang mục tiêu nuôi lấy thịt. Đàn bò
có số lợng tăng không đáng kể , từ 22,9 nghìn con năm 1995 tăng lên 24,9 nghìn con
vào năm 1999, một phần là do nhu cầu thực phẩm ngày càng tăng nên đàn bò giết thịt
ngày càng lớn.
Đàn lợn có tốc độ tăng trởng khá, từ 225,9 nghìn con năm 1995 đã tăng lên
268,2 nghìn con năm 1999, tăng bình quân 4,39%/ năm, tỷ lệ lợn nạc cao, sản lợng
thịt lợn xuất chuồng đạt 19.436 tấn vào năm 1999.
Cùng với phát triển gia súc, đàn gia cầm của tỉnh cũng đợc đầu t về giống, thay
đổi phơng thức nuôi thả nên có tốc độ tăng trởng lớn, bình quân thời kỳ 1995-1999 là
4,85%/ năm và tổng đàn gia cầm đạt 2.311,6 nghìn con vào năm 1999, trong đó chủ
yếu là đàn gà.
Biểu 9. Thực trạng chăn nuôi của tỉnh Hà nam thời kỳ 1995-1999.
n v 1995 1996 1997 1998 1999 Tc tng
BQ 95-99
1. n Trõu Nghỡn con 10,9 10,17 8,8 7,8 6.,5 -12,04 %
2. n Bũ ,, 22,9 23,8 23,9 23,3 24,9 2,16 %
3.n Ln
-S/lng lntht
,,
Tn
225,9
15.456
229,0
16.856
245,9
17.943
251,6
18.321
268,2
19.463
4,39 %
4. n gia cm Nghỡn con 1.934,5 1.788,3 1.966,7 2.033,4 2.311,6 4,85 %
Ngun :Cc thng kờ tnh H nam.
Túm li, ngnh chn nuụi ca tnh H nam ang c chỳ trng phỏt trin
chuyn i c cu sn xut nụng nghip, gúp phn vo chuyn i c cu ngnh
kinh t chung ca tnh .
c. Thc trng chuyn dch c cu ngnh Dch v.
Trong nhng nm gn õy, cựng vi s phỏt trin chung ca nn kinh t a
phng, ngnh dch v cng cú nhng bc phỏt trin nht nh. Giỏ tr gia tng
ca khu vc dch v thi k 1995-1999 tng khong 11%/nm.
23
Sự phát triển của khu vực dịch vụ đã tạo điều kiện thuận lợi và kích thích khu
vực sản xuất phát triển. Nhưng nhìn chung, hoạt động dịch vụ trên địa bàn còn nhỏ
bé cả về số tuyệt đối và tỷ trọng so với toàn bộ nền kinh tế địa phương. Số lượng lao
động trong khu vực dịch vụ chiếm tỷ lệ thấp, khoảng 8,0% năm 1999 trong tổng số
lao động đang làm việc. Tỷ lệ lao động chưa đáp ứng được yêu cầu xã hội và đời
sống nhân dân. Cân đối lao động trên địa bàn mới có 380 lao động dịch vụ / 1 vạn
dân, trong khi đó tỷ lệ bình quân cả nước là 630 lao động dịch vụ/ 1 vạn dân, khu
vực địa bàn kinh tế trọng điểm Bắc bộ là 2.300 lao động dịch vụ / 1 vạn dân.Thực tế
này cho thấy các ngành dịch vụ trên địa bàn tỉnh Hà nam chưa phát triển mạnh. Để
nghiên cứu rõ hơn về thực trạng chuyển dịch cơ cấu trong ngành dịch vụ, có thể
xem xét từng ngành cụ thể.
Ngành Thương mại.
Hoạt động thương mại bao gồm kinh doanh trong nước và xuất nhập khẩu.
Những năm gần đây, ngành thương mại cũng có nhịp độ phát triển khá nhanh. Nhịp
độ phát triển thời kỳ 1991-1995 khoảng 12,7%/ năm, thời kỳ 1996-1998 đạt 12,5%/
năm. Năm 1998, ngành thương mại đã đóng góp cho kinh tế địa phương khoảng
6,6% tổng GDP toàn tỉnh. Cơ cấu thành phần kinh tế tham gia hoạt động thương
mại đã có sự thay đổi đáng kể. Nếu trước đây quốc doanh thương mại chiếm lĩnh
hầu hết thị trường thì những năm gần đây tỷ trọng của quốc doanh thương mại đã
giảm xuống nhanh chóng từ 37,2% năm 1990 xuống còn 18,6% năm 1995 và 16,6%
năm 1998. Đặc biệt khu vực thương mại tập thể chưa phục hồi được, tỷ trọng chiếm
lĩnh thị trường giảm từ 6,8% năm 1990 xuống còn 0,7% năm 1995 và đến nay gần
như không có vai trò gì trên thị trường thương mại.Thương nghiệp cá thể và các
doanh nghiệp tư nhân phát triển ngày càng mạnh mẽ, đã trở thành lực lượng quan
trọng đáp ứng cầu về hàng hoá thiết yếu.
Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ trên địa bàn có xu hướng ngày càng
tăng và tăng nhanh: 725.407 triệu đồng năm 1996, 916.925 triệu đồng năm 1997,
1.215.422 triệu đồng năm 1998 và 1.275.513 triệu đồng năm 1999.
Hoạt động xuất nhập khẩu những năm đầu thập kỷ 90 gặp rất nhiều khó khăn
do bị mất thị trường truyền thống là các nước Đông Âu và Liên Xô (trước đây). Từ
năm 1997 đến nay, hoạt động xuất nhập khẩu đã có kết quả khá, thị trường mở rộng
cả ở các nước trong khu vực Đông Nam á và các khu vực khác trên thế giới. Giá trị
xuất khẩu tăng nhanh từ 7,397 triệu USD năm 1997 lên 16,633 triệu USD năm
1998 và 16,777 triệu USD vào năm 1999.
24
Biểu 10. Thực trạng xuất nhập khẩu của Hà nam năm 1995- 1999.
Đơn vị : nghìn USD.
1995 1996 1997 1998 1999
Tổng kim ngạch XNK 1.769 11.870 22.631 29.282
-Xuất khẩu 1.456 1.858 7.397 16.633 16.777
-Nhập khẩu 313 4.473 5.998 12.505
Nguồn: Cục thống kê tỉnh Hà nam.
Qua biểu có thể thấy rằng, những năm 1995, 1996 kim ngạch nhập khẩu của
Hà nam ở quy mô rất nhỏ do yêu cầu đầu tư cho công nghiệp và công nghiệp chế
biến nông sản hầu như không có gì. Tới những năm gần đây, kim ngạch nhập khẩu
bắt đầu tăng lên, chủ yếu là nhập khẩu nguyên liệu hàng may.
Về xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng, từ 1.456 nghìn USD năm
1995 tăng lên 16.777 nghìn USD năm 1999. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Hà
nam là nông sản thô chưa qua chế biến hoặc là hàng gia công vì vậy giá trị kinh tế
chưa cao. Đó là những thách thức của ngành thương mại. Trong thời gian tới ngành
thương mại phải xây dựng được các mặt hàng xuất khẩu chủ lực để thúc đẩy nền
kinh tế của tỉnh phát triển hơn.
Ngành Du lịch.
Tỉnh Hà nam có các tiềm năng du lịch tự nhiên như các hang động (Ngũ Động
Sơn, Khả Phong, Ba Sao,...), vị trí địa lý gần khu du lịch Hương Sơn ( Hà Tây), có
khả năng phát huy nguồn du lịch nhân văn với truyền thống anh hùng, quê hương
văn hiến do nhiều thời kỳ lịch sử tạo nên.
Hiện nay, khách du lịch quốc tế đến Hà nam chủ yếu bằng đường bộ từ Hà nội
hoặc từ các tỉnh phía Nam ra theo tuyến xuyên Việt với mục đích tham quan, tìm
kiếm cơ hội kinh doanh, quá cảnh. Số lượng khách du lịch đến địa phương nhỏ,
ngày lưu trú ít, doanh thu ngoại tệ thấp. Khách du lịch trong nước tới địa phương là
từ Hà nội và các tỉnh lân cận như Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình, Hưng Yên, Hà
Tây,...và cùng với khách quá cảnh đi tham quan chùa Hương, đa số các khách trong
nước đến tham gia các lễ hội truyền thống, tham quan đền chùa, hang động,...Số
lượng khách du lịch đến dịa phương những năm gần đây tăng khoảng 20 %/ năm.
Cụ thể:
25
Biểu 11. Hiện trạng khách du lịch đến Hà Nam thời kỳ 1996-1998.
Đơn vị: nghìn lượt người
Khách du lịch đến Hà nam 1996 1997 1998
-Khách quốc tế 2,217 1,747 1,8
-Khách nội địa 9,920 11,731 12,5
Nguồn: Cục thống kê tỉnh Hà nam
Trong hai năm 1997, 1998 Hình thức kinh doanh du lịch đã được mở rộng,
ngoài kinh doanh ăn uống còn các dịch vụ khác nên doanh thu tăng dần, từ 3,284 tỷ
đồng năm 1996 lên 5,5 tỷ đồng năm 1997 và đạt 6,2 tỷ đồng năm 1998.
Tóm lại, lượng khách du lịch và doanh thu tăng qua các năm cho thấy ngành
Du lịch của Hà nam đang bắt đầu đi vào thế ổn định và dần dần khởi sắc.
Các ngành Dịch vụ khác.
Trong hoạt động tài chính, ngân hàng, tỷ lệ động viên tài chính từ GDP vào
ngân sách của Hà nam thời kỳ 1996-1999 còn rất thấp, năm cao nhất là năm 1999
mới bằng 6,08%. Tình hình tài chính của tỉnh mất cân đối nghiêm trọng giữa thu
ngân sách từ kinh tế địa phương với chi ngân sách địa phương.Tài chính các doanh
nghiệp nhà nước ở địa phương đang gặp rất nhiều khó khăn, sản xuất kinh doanh
chậm phát triển, hiệu quả sản xuất thấp.
Trong lĩnh vực dịch vụ vận tải,Hà nam là một tỉnh có hệ thống giao thông thuận
tiện cả về đường bộ, đường sắt và đường sông. Trong những năm qua ngành vận tải
đã có những tiến bộ nhất định, giá trị gia tăng của ngành liên tục tăng, năm 1998
ngành vận tải chiếm 2,64% GDP của toàn tỉnh. Khối lượng hành khách và hàng hoá
vận chuyển tăng qua các năm. Cụ thể:
Biểu 12. Thực trạng dịch vụ vận tải Hà nam thời kỳ 1995-1999.
Đơn vị 1995 1996 1997 1998 1999
1Vận tải hàng hoá
-KlượngHH v/chuyển
-KlượngHH l/chuyển
nghìn tấn
nghìntấnkm
593
27.200
679
38.811
1.123
50.615
1.190
53.475
1.233,6
55.105
2Vận tải hành khách
-KlượngHK v/chuyển
-KlượngHK l/chuyển
nghìn người
nghìnng. km
482
37.700
595
43.614
785
52.348
810
53.493
710
45.171
Nguồn : Cục thống kê tỉnh Hà nam.