Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

Nâng cao khả năng cạnh tranh của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 124 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ







ĐẶNG CÔNG HOÀN





Nâng cao khả năng cạnh tranh của hệ thống
ngân hàng thương mại Việt Nam trong tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế



LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ











HÀ NỘI, 2004


1
MỤC LỤC

TRANG

LỜI NÓI ĐẦU
1


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CẠNH
TRANH CỦA HỆ THỐNG NHTM ………….…………………



6
1.1.
Một số vấn đề về Hội nhập kinh tế quốc tế……………………….
6
1.1.1
Quan niệm cơ bản về toàn cầu hoá và HNKTQT………… … ….
6
1.1.2
Vai trò của hệ thống Ngân hàng trong
HNKTQT…………………

8
1.2
Cạnh tranh và các yếu tố tác động tới khả năng cạnh tranh……
15
1.2.1
Lý luận cơ bản về cạnh tranh và cạnh tranh ngân hàng……………
15
1.2.2.
Tiền đề cơ bản tạo thành cơ chế cạnh tranh trong lĩnh vực hoạt
động của
NHTM.….………………………………………………………
20
1.2.3
Nhận diện đối thủ cạnh tranh của
NHTM…………………….……
23
1.3
Kinh nghiệm quốc tề về nâng cao khả năng cạnh tranh………
27
1.3.1
Tổng quan về những tác động của HNKTQT……………………
27
1.3.2
Kinh nghiệm của một số nước……………………………………
30
1.3.3.
Một số bài học rút ra cho Việt Nam……………………………….
34



Chưong 2
THỰC TRẠNG KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA HỆ
THỐNG NHTM VIỆT NAM……………………………… ….…


35
2.1.
Khái quát quá trình hình thành và phát triển……………….…
35
2.1.1.
Những mốc lịch sử quan
trọng………………………………… …
35
2.1.2
Vai trò vị trí của các NHTM trong hệ thống tài chính………………
38
2.2
Thực trạng khả năng cạnh tranh của các NHTM Việt Nam……
42
2.2.1.
Khả năng cạnh tranh về mặt tài chính……………………………
43
2.2.2.
Đánh giá năng lực cạnh tranh sản phẩm dịch vụ……………………
53
2.2.3.
Khả năng cạnh tranh của Công nghệ và lao động…………………
57
2.2.4
Năng lực quản trị điều hành…………………………………………

61
2.2.5
Khả năng giám sát và điều tiết ……………………………… ….…
63
2.2.6
Cơ sở hạ tầng-mạng
64

2
lưới…………………………………………
2.2.7
Hiệu quả hoạt động chung của hệ thống……………………………
65
2.3.
Phân tích nguyên nhân khả năng cạnh tranh yếu và các giải pháp đã
thực hiện………………………………………………….

67
2.3.1.
Nguyên nhân nặng lực cạnh tranh
yếu……………………… ……
67
2.3.1.1
Môi trường kinh doanh còn nhiều khiếm khuyết……………….……
67
2.3.1.2
Sự can thiệp của chính
phủ….…………………………………………
68
2.3.1.3

Phối hợp giữa NHNN và Bộ tài chính……………………………….…
69
2.3.1.4
Tính chất thiếu đồng bộ của hệ thống tài
chính……………….……….
71
2.3.1.5
Môi trường pháp lý thể chế còn bất
cập………………………… …….
72
2.3.1.6
Cơ sở hạ tầng công nghệ chậm cải
thiện…………………………….….
74
2.3.1.7
Năng lực giám sát điều tiết còn bất cập………………………… ….…
74
2.3.2
Đánh giá tác động của hệ giải pháp đã thực hiện………… ………
75
2.3.2.1
Cơ cấu lại và lành mạnh hoá hệ thống NHTM………………… ……
76
2.3.2.2
Giảm bớt sự can thiệp của nhà
nước……………………………….…
79
2.3.3.3
Tạo sân chơi bình đẳng hơn cho các NHTM…………………….….…
80

2.3.2.4
Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý……………………………………………
81
2.3.2.5
Phát triển nguồn nhân lực…………………………………….……….…
82
2.3.2.6
Các chính sách vĩ mô khác………………………………………………
83


Chương 3.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC
CẠNH TRANH CỦA HỆ THỐNG NHTM ……………………



86
3.1
Những cam kết căn bản về
HNKTQT…………………………
86
3.2
Cơ hội và thách thức ……………………………………………
89
3.2.1
Cơ hội……………………………………………………………….
89
3.2.2
Những thách thức cơ bản……………………………………………

92
3.2.3
Hệ quan điểm về sự tất yếu của HNKTQT………………………….
96
3.3
Các giải pháp……………………………………………………….
99
3.3.1
Giải phát từ phía chính phủ và ngân hàng nhà
nước………………
100
3.3.2
Giải pháp nội bộ các
104

3
NHTM………………………………………


KẾT LUẬN

110

TÀI LIỆU THAM KHẢO
111





























4
THUẬT NGỮ VÀ MỘT SỐ TỪ VIẾT TẮT


ADB
AFTA
APEC

ASEAN
DNNN
GDP
GATS
IMF
HNKTQT
NHTW
NHNN
NHTM
NHTMQD
SME
TCTD
TTCK
WB
WTO
WEF
UNDP
UNCTAD
USD
Ngân hàng Phát triển Châu á
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
Tổ chức kinh tế châu á-Thái bình Dương
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam á
Doanh nghiệp Nhà nước
Thu nhập Quốc dân
Hiệp định chung về thuế quan và mẫu dịch
Quỹ tiền tệ quốc tế
Hội nhập Kinh tế quốc tế
Ngân hàng trung ương
Ngân hàng Nhà nước

Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại quốc doanh
Doanh nghiệp vừa và nhỏ
Tổ chức tín dụng
Thị trường chứng khoán
Ngân hàng Thế giới
Tổ chức thương mại thế giới
Diễn đàn Kinh tế thế giới
Chương trình Phát triển Liên hợp Quốc
Hội nghị liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển
Đồng đôla Mỹ









1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Gần 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới, nền kinh tế đất nước đang
từng bước phát triển theo hướng thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Nền
kinh tế đang từng bước được mở cửa, đa dạng và đa phương hoá các quan hệ
kinh tế, hướng ra thị trường bên ngoài theo một tư duy từ “rộng mở” đến “là
bạn”, từ đa dạng hoá, đa phương hoá đến là “đối tác tin cậy”. Trong bối cảnh
hiện nay,toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra mãnh mẽ, theo đó các nền kinh tế

quốc gia ngày càng phụ thuộc vào nhau gắn kết thống nhất với các thể chế kinh
tế khu vực và thế giới. Xu thế khách quan của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế
quốc tế vận hành theo hướng tự do hoá đòi hỏi nền kinh tế nước ta phải tiếp tục
quá trình đổi mới để phù hợp với yêu cầu hội nhập. Với đặc điểm là một nền
kinh tế đi sau, có điểm xuất phát thấp nên hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta
là một quá trình mới mẻ và khó khăn. Để từng bước hoà nhập theo xu thế kinh
tế quốc tế, nhiệm vụ của chúng ta là phải xác định được vị thế kinh tế của nước
ta nhằm có những chính sách hội nhập thích hợp và giảm thiểu những thương
tổn có thể xảy ra đối với nền kinh tế trong quá trình toàn cầu hoá kinh tế.
Tiền tệ-Ngân hàng là một lĩnh vực hết sức nhạy cảm đối với nền kinh tế
quốc dân. Với tư cách là những doanh nghiệp "đặc biệt", hoạt động của hệ
thống ngân hàng thương mại liên quan hết thảy đến các chủ thể trong nền kinh
tế. Một hệ thống ngân hàng-tài chính hoạt động có hiệu qủa sẽ thực hiện tốt
chức năng trung gian tài chính trong việc dẫn vốn từ những người có vốn đến
với những người có nhu cầu về vốn. Quan niệm mới về chiến lược phát triển
kinh tế trong hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi chúng ta phải có những bước đổi
mới một cách căn bản trong lĩnh vực ngân hàng-tài chính-tiền tệ nhằm tạo điều
kiện ổn định cho sự phát triển các lĩnh vực khác. Không thể nói đến một nền
kinh tế mạnh với hệ thống NHTM yếu kém và ngược lại. Trong quá trình phát
triển kinh tế và đặc biệt là khi tham gia vào tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế,
đã có khá nhiều quốc gia đang phát triển từng phải trả giá chính từ sự yếu kém

2
của hệ thống Ngân hàng. Thậm chí, sự yếu kém của hệ thống Ngân hàng đã dẫn
đến những cuộc khủng hoảng kinh tế quốc gia và khu vực như khủng hoảng
Kinh tế châu á, khủng hoảng kinh tế Mỹ Latinh
Theo lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, dự định năm 2005 chúng ta sẽ
chính thức gia nhập WTO trong đó, lĩnh vực Tài chính Ngân hàng phải có
những biến đổi cơ bản nhằm hỗ trợ tích cực và hiệu quả cho nền kinh tế khi gia
nhập WTO. Còn theo hiệp định thương mại Việt Mỹ (năm 2000) cũng đã xác

định lộ trình tham gia thị trường Việt Nam của các Ngân hàng Mỹ: Trong thời
gian 9 năm (đến năm 2009) sẽ cho phép thành lập các Ngân hàng có 100% vốn
của Mỹ và thực hiện hoạt động huy động vốn không hạn chế tại nước ta.
Đứng trước những thực tế đặt ra của lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế của
nền kinh tế Việt Nam, một yêu cầu cấp thiết là phải năng cao khả năng cạnh
tranh của hệ thống ngân hàng nhằm vừa hỗ trợ hiệu quả cho các doanh nghiệp
trong nền kinh tế vươn ra bên ngoài vừa làm cơ sở đảm bảo sự độc lập tương
đối của nền kinh tế đất nước. Các ngân hàng cần phải có những sự đột phá
trong việc tái cơ cấu về vốn, tổ chức, lĩnh vực kinh doanh, quan điểm kinh
doanh nhằm nâng cao sức cạnh tranh khi có sự tham gia của các ngân hàng
nước ngoài mạnh hơn hẳn về tiềm lực tài chính và công nghệ. Hệ thống NHTM
Việt Nam dù đã có nhiều sự đổi mới nhưng hiện tại vẫn còn nhiều bất cập, khả
năng cạnh tranh chưa cao và còn tồn tại nhiều vấn đề cần phải được xử lý dứt
điểm.
Trước thực trạng đó, tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài “Nâng cao khả năng
cạnh tranh của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trong tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế” làm luận văn thạc sĩ và triển khai nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu.
Nghiên cứu nhằm tìm ra những giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh
của một ngành kinh tế đặc biệt như ngành ngân hàng là một vấn đề khó. Trên
thế giới đã có những công trình nghiên cứu của các học giả các nước liên quan
tới việc đánh giá lợi thế, bất lợi thế, các chiến lược đang sử dụng của hệ thống
ngân hàng thương mại của các nền kinh tế đang nổi trong tiến trình hội nhập

3
kinh tế quốc tế như: Robert E. Litan, Paul Masson, Micheal Pomerleano
(2001), Open Door Foreign Particcipation in Financial Systems in Developing
Countries, Brookings Institution Press-washington, D.C; các công trình nghiên
cứu của: WB, IFM…Tuy nhiên các công trình của những học giả này là
nghiên cứu thực tế từ nước họ với cơ cấu kinh tế và điểm xuất phát không

giống với nước ta.
Ở trong nước trong thời gian vừa qua đã có một số công trình nghiên cứu
ít nhiều liên quan đến năng lực cạnh tranh của các Ngân hàng hàng thương mại.
Cụ thể là:
- Tập thể tác giả Vụ chiến lược Ngân hàng Nhà nước (2002): Chiến
lược hội nhập kinh tế quốc tế của hệ thống Ngân hàng Việt Nam.
- Nguyễn Thị Nhung (1999): Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu đánh giá kết
quả hoạt động kinh doanh của hệ thống Ngân hàng trong hội nhập
kinh tế quốc tế.
- Nguyễn Trọng Nghĩa (2003): Khó khăn và thách thức trong hội nhập
kinh tế quốc tế của hệ thống các Ngân hàng Việt Nam
Tuy nhiên hầu hết các nghiên cứu trên mới chỉ tập trung nghiên cứu,
phân tích đánh giá hệ thống ngân hàng chủ yếu dưới góc độ tự đổi mới của hệ
thống ngân hàng thương mại hoặc chỉ xem khả năng cạnh tranh hiện hành của
một số lĩnh vực của hệ thống hoặc một số ngân hàng nhất định mà chưa đề cập
một cách toàn diện các yếu tố tác động tới khả năng cạnh tranh của hệ thống
ngân hàng trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế cũng như lập luận cho một
sự lựa chọn chiến lược cạnh tranh cho hệ thống ngân hàng thương mại. Vì vậy,
cần thiết phải tiếp tục có những nghiên cứu hệ thống về năng lực cạnh tranh
hiện tại của toàn hệ thống, đánh giá chính xác điểm yếu, điểm mạnh, cơ hội và
thách thức hiện nay từ đó đề xuất ra những giải pháp nhằm nâng cao khả năng
cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam khi có sự tham gia ngày càng nhiều
của các ngân hàng và định chế nước ngoài theo lộ trình hội nhập đã được xác
lập.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài luận văn.

4
Trên cơ sở hệ thống hoá lý luận và thực tiễn về hoạt động của hệ thống
ngân hàng thương mại, khảo sát kinh nghiệm quốc tế về cạnh tranh của hệ
thống ngân hàng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, luận văn sẽ:

- Nhận diện các khía cạnh trong năng lực cạnh tranh của hệ thống ngân
hàng thương mại Việt Nam.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ
thống ngân hàng thương mại trong tiến trình hội nhập Kinh tế quốc tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Khả năng cạnh tranh và các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh
của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài chỉ tập trung vào nghiên cứu và đề ra giải pháp nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại dưới góc độ khả cạnh tranh
ngành và cạnh tranh doanh nghiệp.
- Về không gian: Luận văn chủ yếu nghiên cứu năng lực cạnh tranh của
các Ngân hàng thương mại cổ phần và Ngân hàng thương mại Nhà nước. Đồng
thời luận văn có khảo sát một số khía cạnh cạnh tranh của hệ thống ngân hàng
của các nền kinh tế thuộc thị trường đang nổi trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế.
- Về thời gian: Luận án chỉ xem xét thực trạng về năng lực cạnh tranh
của của hệ thống Ngân hàng thương mại trong giai doạn 1999-2003
5. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình phân tích, luận văn sử dụng lý thuyết kinh tế học, kết
hợp với phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm phương pháp
chủ yếu. Bên cạnh đó, trên cơ sở nghiên cứu mô hình cạnh tranh về lĩnh vực
dịch vụ của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) để xem xét các nhân tố trong nền
kinh tế ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của hệ thống ngân hàng thương mại.
Luận văn cũng sử dụng mô hình phân tích theo ma trận SWOT để đánh giá

5
năng lực cạnh tranh bên trong của các ngân hàng thương mại. Ngoài ra, luận
văn cũng sử dụng các phương pháp khác như: thống kê, tổng hợp, phân tích,

đối chiêú và so sánh, luận văn cũng sử dụng sơ đồ và bảng biểu đề trình bày
mội số nội dung lý luận và thực tiễn.
6. Dự kiến đóng góp mới của luận văn:
Với năng lực và thời gian có hạn, luận văn sẽ dự kiến chỉ đưa ra những
đóng góp mới chủ yếu sau:
- Về mặt lý luận: làm sáng tỏ và khẳng định những tác động tích cực của
việc thúc đẩy môi trường cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng đối với sự phát
triển kinh tế đất nước. Phân tích và hệ thống hoá lý luận về cạnh tranh để đánh
giá một số cơ hội và thách thức của hệ thống Ngân hàng thương mại nội địa
trong hội nhập kinh tế quốc tế.
- Về thực tiễn: Luận văn sẽ cố gắng nhận diện cụ thể năng lực cạnh tranh
của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, đánh giá điểm mạnh, điểm yếu,
cơ hội và thách thức của các ngân hàng thương mại, đề xuất một số quan điểm
lựa chọn chiến lược cạnh tranh trên cơ sở lựa chọn những lợi thế so sánh
- Đề xuất: một số giải pháp định hướng nhằm nâng cao khả năng cạnh
tranh của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong tiến trình HNKTQT
7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn sẽ được trình bày theo 3
chương.
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về cạnh tranh của hệ thống
Ngân hàng thương mại trong tiến trình Hội nhập kinh tế quốc tế
Chương 2: Thực trạng khả năng cạnh tranh của hệ thống ngân hàng
thương mại Việt Nam hiện nay
Chương 3: Một số giải pháp nhằm năng cao năng lực cạnh tranh của
hệ thống ngân hàng thương mại trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế

6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CẠNH
TRANH CỦA HỆ THỐNG NHTM TRONG TIẾN TRÌNH HNKTQT

1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HNKTQT.
1.1.1. Quan niệm cơ bản về toàn cầu hoá và HNKTQT
Đã từ nhiều năm trở lại đây, toàn cầu hoá đã trở thành một xu hướng phổ
biến của của xã hội loài người. Cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học
kỹ thuật và công nghệ, toàn cầu hoá đang được nhìn nhận như là một chỉnh thể
của sự tương tác giữa các khía cạnh kinh tế, văn hoá, an ninh cũng như môi
trường. Có thế nói rằng cũng như sự đa dạng của đời sống xã hội loài người,
toàn cầu hoá trở thành một khái niệm phổ biến, “một khái niệm nhiều mặt vì nó
bao quát cả lĩnh vực kinh tế, xã hội và chính trị” hay là quá trình tăng lên mạnh
mẽ những mối liên hệ, sự ảnh hưởng, sự tác động lẫn nhau của tất cả các khu
vực của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của các quốc gia, dân tộc trên thế
giới.
Trong sự đa dạng, nhiều khía cạnh của toàn cầu hoá, thì toàn cầu hoá
kinh tế và HNKTQT trở thành một khái niệm phổ biến của thế giới bởi tầm
quan trọng và tính quyết định của sản xuất kinh tế đến tất thảy các khía cạnh
khác của xã hội loài người. Từ góc độ sản xuất, toàn cầu hoá kinh tế được hiểu
như là “khuynh hướng gia tăng các sản phẩm có các bộ phận cấu thành được
chế tạo ở một loạt nước”22, 117 hoặc từ góc độ liên kết sản xuất và thị
trường, nhiều học giả đã quan niệm: “toàn cầu hoá kinh tế là sự liên kết các yếu
tố sản xuất giữa các nước với nhau dưới sự bảo trợ hoặc sở hữu của các công ty
xuyên quốc gia và sự liên kết các thị trường hàng hoá và tài chính được thuận
lợi bởi quá trình tự do hoá” 6, hoặc theo góc độ phát triển, chương trình phát
triển liên hợp quốc UNDP quan niệm: “toàn cầu hoá bao hàm sự làm sâu sắc
quá trình quá trình quốc tế hoá, tăng cường khía cạnh chức năng phát triển và
làm yếu đi khía cạnh lãnh thổ của sự phát triển đó”. Hoặc từ góc độ phạm vi và
cấu trúc, các nhà kinh tế UNCTAD lại cho rằng “toàn cầu hoá kinh tế và hội
nhập quốc tế liên quan đến các luồng giao lưu không ngừng tăng lên của hàng

7
hoá và nguồn lực vượt qua biên giới giữa các quốc gia cùng với sự hình thành

các cấu trúc tổ chức trên phạm vi toàn cầu nhằm quản lý các hoạt động và giao
dịch kinh tế quốc tế không ngừng tăng lên đó”15, tr.9-11. Theo cách tiếp cận
chuyên môn của mình, các chuyên gia cao cấp của IMF và WB đều có chung
nhận định: Toàn cầu hoá kinh tế là sự gia tăng của quy mô và hình thức giao
dịch hàng hoá, dịch vụ xuyên quốc gia, sự lưu thông vốn quốc tế cùng với sự
truyền bá nhanh chóng của kỹ thuật, làm gia tăng phụ thuộc lẫn nhau của các
nền kinh tế trên thế giới.
Có thế nói, toàn cầu hoá dù được định nghĩa và hiểu theo các khái niệm
khác nhau tuỳ mục đích nghiên cứu và từng giai đoạn lịch sử nhất định, song
theo bản chất và nội dung của nó, “Toàn cầu hoá kinh tế là một xu hướng bao
trùm của sự phát triển kinh tế thế giới ngày nay, trong đó các hoạt động kinh tế
và sản xuất kinh doanh của mỗi nước và vùng lãnh thổ, do tác động của công
nghệ, truyền thông và đặc biệt là tiền vốn, đã gia tăng mạnh mẽ, vượt ra khỏi
biên giới quốc gia liên kết trên một chỉnh thế thị trường toàn cầu và đồng thời
với quá trình đó là sự gia tăng mạnh mẽ làn sóng hình thành và hoàn thiện các
định chế, tổ chức quốc tế (WTO, AFTA, APEC…) tương thích nhằm quản lý
và điều hành các hoạt động kinh tế đã ngày càng lệ thuộc chặt chẽ vào nhau
giữa các nước và khu vực”15.
Từ những quan niệm trên, các nhà kinh tế đã thừa nhận tính tất yếu
khách quan của toàn cầu hoá và HNKTQT. Đặc biệt làn sóng toàn cầu hoá kinh
tế hiện đang nay được bắt đầu từ những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ trước
hiện nay đang diễn ra hết sức mạnh mẽ nhờ sự tác động của cuộc cách mạng
khoa học kỹ thuật và đặc biệt là sự tham gia ngày càng rộng rãi hơn của các
quốc gia trong đó có cả các nước thuộc Thế giới Thứ ba vào tiến trình
HNKTQT, thâm nhập vào thị trường thương mại toàn cầu. Bên cạnh đó, xu
hướng hiện nay cũng cho thấy những nước nỗ lực gia nhập tiến trình toàn cầu
hoá và HNKTQT thì tăng trưởng kinh tế nhanh, giảm được đói nghèo và ngược
lại, những nước ít tham gia vào tiến trình HNKTQT thì tăng trưởng chậm, thậm
chí đói nghèo. Cũng cần phải nói thêm một đặc điểm phổ biến trong xu thế


8
HNKTQT, bên cạnh những dòng di dân, hàng hoá dịch vụ thì sự dịch chuyển
của dòng vốn-tài chính là hết sức mạnh mẽ, dòng vốn di chuyển được thể hiện
rất nhiều dạng mà điển hình là FDI đã xoá nhoà một cách tương đối biên giới
của các quốc gia và khu vực.
Tóm lại, tác động của toàn cầu hoá kinh tế đang trở nên phổ biến rộng
khắp trên khắp thế giới, thể hiện trên nhiều cấp độ, mọi quốc gia, khu vực. Bên
cạnh đó, sự tác động của nó cũng không giống nhau đối với các nhóm nước
khác nhau trong đó những tác động của toàn cầu hoá kinh tế và HNKTQT đến
hệ thống ngân hàng tài chính của các quốc gia, nhất là những đang phát triển,
đã và đang là một trong nhưng vấn đề nổi cộm đang nhận được quan tâm của
hầu hết các quốc gia trong tiến trình HNKTQT.
1.1.2. Vai trò của hệ thống ngân hàng trong quá trình HNKTQT
Trong quá trình toàn cầu hoá và HNKTQT, hệ thống ngân hàng vừa là
đối tượng vừa là tác nhân thúc đẩy. Vai trò của hệ thống ngân hàng trong quá
trình này đã có những thay đổi quan trọng mặc dù nó vẫn đảm nhiệm các chức
năng cơ bản như trước đây.
1.1.2.1. Vai trò trung gian tài chính.
NHTM trước hết là những doanh nghiệp kinh doanh một loại hàng hoá
và dịch vụ đặc biệt: tiền tệ. NHTM thực hiện các nghiệp vụ chủ yếu là chuyển
tiết kiệm thành đầu tư, gắn kết hai chủ thể trong nền kinh tế: (1) các cá nhân và
tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu (tức là chi tiêu vượt quá thu nhập) và vì thế
là những người cần bổ sung vốn, họ có cơ hội tạo ra lợi nhuận nhưng thiếu
vốn; và (2) các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu (tức là thu nhập hiện
tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hoá, dịch vụ). Họ có tiền để tiết
kiệm và tìm kiếm cơ hội để khoản tiết kiệm đó sinh lời nhiều hơn. NHTM sẽ
đứng giữa làm chức năng trung chuyển các khoản tiền giữa hai loại chủ thể
này. Qua hệ thống các NHTM, sự không đồng bộ về khối lượng và thời hạn sử
dụng đồng vốn giữa hai chủ thể sẽ được khắc phục, chi phí giao dịch sẽ giảm đi
do lợi thế kinh tế nhờ quy mô. Kết quả là cả người tiết kiệm và người cần huy

động vốn đều có lợi. Động lực của quá trình này cũng chính là lợi nhuận. Các

9
NHTM trong qúa trình theo đuổi mục tiêu lợi nhuận sẽ phải cạnh tranh để thu
hút khách hàng, sử dụng các kỹ thuận nghiệp vụ để hạn chế, phân tán rủi ro và
giảm chi phí giao dịch. Chính cơ chế hoạt động này của các NHTM đã thực sự
tạo ra một sự phân bổ và sử dụng hợp lý nguồn lực của các quốc gia trong quá
trình phát huy các lợi thế sánh. Đây là điều đặc biệt quan trọng đối với các quốc
gia trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới
Trong xu hướng toàn cầu hoá và HNKTQT, chức năng “trung gian tài
chính” của NHTM vẫn đặc biệt quan trọng thể hiện ở những điểm sau đây:
- Trong tiến trình HNKTQT, hoạt động thương mại và đầu tư sẽ dần
được tự do hoá. Các doanh nghiệp trong nền kinh tế phải kịp thời và nhanh
nhạy nắm bắt các cơ hội kinh doanh trên thương trường nếu không sẽ bị các đối
thủ khác chiếm mất. Một trong những điều kiện để có thể nắm bắt được cơ hội
là phải có vốn đủ và kịp thời. Do vậy, các NHTM sẽ chỗ dựa tốt nhất về vốn
cho các doanh nghiệp. Thông qua các NHTM, doanh nghiệp có thể huy động
được một khoản vốn lớn, thời gian cấp vốn nhanh mà khó có thể có kênh dẫn
vốn nào có được. Ngay cả với những nước đang phát triển với kênh dẫn vốn
trực tiếp qua thị trường tài chính đã hình thành lâu năm, hệ thống NHTM vẫn là
chỗ dựa chủ yếu của các doanh nghiệp trong việc tài trợ vốn cho sản xuất kinh
doanh do những ưu điểm rất quan trọng của nó. Còn ở các nước đang phát triển
như Việt Nam thì vai trò của các NHTM càng có ý nghĩa quyết định trong bối
cảnh HNKTQT bởi hệ thống NHTM thường đóng vai trò chủ chốt trong hệ
thống tài chính của các quốc gia này.
- Với tư cách là Trung gian tài chính, các NHTM đóng vai trò là nhân tố
hỗ trỡ doanh nghiệp khai thác nguồn lực một cách hiệu quả nhất. Nguồn lực ở
đây là nguồn lực xã hội. Vốn luôn là nguồn lực khan hiếm. Để có thể cạnh
tranh trong quá trình HNKTQT một cách có hiệu quả, cần phải có cơ chế phân
bổ và sử dụng nguồn lực một các hợp lý và hiệu quả nhất. NHTM sẽ phát huy

vai trò này thông qua việc: (i) Lựa chọn và thẩm định các dự án vay vốn, đặt
giá cho các dự án vay theo mức độ rủi ro của từng dự án; (ii) giám sát việc sử
dụng đồng vốn để ngăn chặn các hành vi rủi ro đạo đức và có biện pháp xử lý

10
hợp lý kịp thời khi các khoản vay có dấu hiệu xấu; (iii) thu hút tiền gửi của
khách hàng với mức lãi suất phù hợp với độ rủi ro của từng NHTM. Điều này
tạo động lực giữ cho mức rủi ro của mình thấp để tránh bị rút tiền ra hoặc bị đòi
lãi suất tiền gửi ở mức cao. Cơ chế này tự động tạo ra sự phân bổ nguồn lực
vốn khan hiếm có hiệu quả.
- NHTM sẽ nơi cung cấp nguồn cho vay chủ yếu đối với tiêu dùng cá
nhân. Khi nền kinh tế mở cửa và phát triển, không chỉ các doanh nghiệp có nhu
cầu vốn lớn, nhu cầu vay vốn để phục vụ các mục đích tiêu dùng cá nhân của
người dân như: mua nhà, mua ôtô, trả học phí du học nước ngoài, vay vốn để
kinh doanh cá thể…cũng tăng lên. Thông qua các NHTM, các cá nhân một mặt
được gửi tiền tiết kiệm an toàn và sinh lợi mặc khác được vay vốn theo hình
thức trả góp để thực hiện các mục đích. Các khoản tín dụng tiêu dùng cá nhân
vay từ NHTM có tác dụng điều hoà chất lượng cuộc sống qua các giai đoạn
khác nhau, theo đó năng lực thu nhập của mỗi cá nhân cũng khác nhau. Các cá
nhân có thể cải thiện cuộc sống, nâng cao phúc lợi cũng sẽ là nhân tố thúc đẩy
sự phát triển của xã hội. Đặc biệt đối với các nước đang phát triển, vai trò trung
gian tài chính phục vụ cá nhân trong giai đoạn hiện nay đã biến chuyển theo
hướng mở rộng, không những là nơi thực hiện việc nhận gửi tiết kiệm như
trước đây mà còn là một tổ chức cung cấp các khoản vay tiêu dùng lớn cho
người dân.
- Bên cạnh đó, thông qua hệ thống các NHTM, chính phủ của các quốc
gia có thể sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ, góp phần ổn định lành
mạnh nền kinh tế. Thông qua việc thực hiện các chính sách tiền tệ, chính phủ
thực hiện điều chỉnh việc phân bổ nguồn lực một cách hợp lý, phát huy thế
mạnh của các ngành sản xuất, hạn chế những yếu kém, nâng cao khả năng cạnh

tranh của những ngành có lợi thế trong tiến trình hội kinh tế khu vực và thế
giới. Thông qua các NHTM, chính phủ có thể hỗ trỡ ngành này phát triển hoặc
hạn chế những ngành không có lợi thế thông qua những chính sách tín dụng có
mục tiêu trong từng thời kỳ.

11
- Theo đánh giá của các học giả kinh tế trên thế giới, cùng với xu thế
toàn cầu hoá kinh tế, hoạt động của các NHTM đã có nhiều thay đổi khá cơ bản
trong những năm gần đây. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng trong một thời
gian dài, hệ thống NHTM vẫn sẽ là kênh cung cấp các sản phẩm và dịch vụ tài
chính chủ yếu cho các nền kinh tế. Bên cạnh đó, NHTM sẽ vẫn là nhân tố quyết
định cùng với TTCKvà các định chế tài chính khác góp phần quyết định hiệu
quả sử dụng vốn, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và khả năng tăng
trưởng bền vững của nền kinh tế.
Tóm lại, tiến trình HNKTQT tạo ra áp lực loại bỏ các cơ chế bao cấp,
bảo hộ, các doanh nghiệp phải đối mặt với cơ chế cạnh tranh, vai trò trung
gian tài chính của NHTM càng có tầm quan trọng hơn, đặc biệt là trong môi
trường mà thị trường tài chính còn quá sơ khai.
1.1.2.2. Vai trò cung cấp phương tiện thanh toán hiện đại và nhiều
tiện ích.
Quá trình HNKTQT buộc các hoạt động kinh tế phải theo thông lệ quốc
tế, trong đó có vấn đề thanh toán không dùng tiền mặt. Việc duy trì thói quen
thanh toán bằng tiền mặt không chỉ là một sự lãng phí các nguồn lực trong nền
kinh tế trong nước mà còn là một trở ngại lớn cho sự thiết lập các quan hệ kinh
doanh với các đối tác nước ngoài. Việc từng bước xoá bỏ thói quen dùng tiền
mặt để thanh toán và áp dụng các phương thức thanh toán hiện đại của các
NHTM càng khẳng định thêm tầm quan trọng của các NHTM trong việc giúp
cho nền kinh tế hội nhập thành công. Những trở ngại của các doanh nghiệp và
cá nhân trong các nền kinh tế sử dụng tiền mặt chỉ được hạn chế dần khi có sự
phát triển và cung cấp các phương tiện thanh toán của các NHTM, vai trò này

đang ngày càng lớn dần lên cùng với sự hội nhập sâu hơn của các quốc gia vào
nền kinh tế thế giới.
Ngày nay, để việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi
phí, ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như thanh
toán bằng séc, uỷ nhiệm chi, thanh toán nhờ thu, thu chi hộ, quản lý tiền mặt,
các loại thẻ, cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và thanh

12
toán tiền giấy khi khách hàng cần. Các ngân hàng còn thực hiện việc thanh toán
bù trừ cho nhau thông qua ngân hàng trung ương hoặc các trung tâm thanh
toán. Công nghệ thanh toán qua NHTM càng đạt hiệu quả cao khi quy mô sử
dụng công nghệ đó càng được mở rộng. Vì vậy, công nghệ thanh toán hiện đại
qua ngân hàng thường được các nhà quản lý doanh nghiệp áp dụng rộng rãi.
Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hoá góp phần tạo tính thống nhất trong
thanh toán không chỉ giữa các ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa các
ngân hàng trên toàn thế giới. Các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập đã
làm tăng hiệu quả thanh toán qua ngân hàng, biến ngân hàng trở thành trung
tâm thanh toán quan trọng và có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn
cầu.
Sẽ là thiếu sót nếu không nói đến vai trò của các NHTM nội địa trong
hoạt động thanh toán quốc tế. Thông qua hệ thống thanh toán quan hệ thống
SWIT toàn cầu, các hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp nội địa với
các doanh nghiệp nước ngoài đều được thực hiện thanh toán qua các NHTM.
Thông lệ chung của quốc tế là vậy, các hoạt động xuất nhập khẩu, đầu tư…đều
phải thực hiện qua hệ thống ngân hàng theo các phương thức và các nghiệp vụ
L/C, T-T, nhờ thu v.v chứ không bao giờ thực hiện bằng cách trao đổi hiện vật
như những thế kỷ trước. Với những vai trò là những trung gian thanh toán quốc
tế, hoạt động này của các NHTM chính là “cầu nối ” giữa các doanh nghiệp
trong nước với thế giới bên ngoài trong tiến trình hội nhập.
1.1.2.3. Vai trò giám sát kỷ luật và đảm bảo an ninh tài chính.

Bên cạnh những mặt tích cực, những tác động gây ra bởi những mặt trái
của HNKTQT mang lại cũng không hề nhỏ. Thực tế đã cho thấy, trong tiến
trình toàn cầu hoá và HNKTQT, không ít nước đã giảm được khá nhanh
khoảng cách, thậm chí đuổi kịp các nước tiên tiến về trình độ phát triển, trong
khi nhiều nước đang phát triển vẫn chưa thể thoát ra khỏi ngưỡng đói nghèo,
thậm chí lâm vào tình trạng khủng hoảng và giật lùi. Một trong những nguyên
nhân của tình trạng đó chính là sự yếu kém của hệ thống NHTM dẫn đến sự
thiếu an toàn, ổn định của thị trường tài chính quốc gia.

13
Trong quá trình mở cửa hội nhập, an ninh tài chính luôn là vấn đề nhạy
cảm trong quan hệ kinh tế quốc tế. Mở cửa hội nhập thông thường đi liền với
nguy cơ lây nhiễm và mất an ninh tài chính từ các quốc gia này sang quốc gia
khác. Đi kèm với sự thâm nhập của các doanh nghiệp nước ngoài, tệ nạn đầu
cơ, rửa tiền, lũng đoạn tài chính…sẽ tăng lên. Thậm chí tình trạng này có thể
đẩy hệ thống NHTM nội địa đến nguy cơ khủng hoảng do việc phải “nhập
khẩu” các nhân tố khủng hoảng xuất phát từ các nước khác.
Thực tế kinh tế thế giới cho thấy, cùng với sự gia tăng mức độ toàn cầu
hoá và HNKTQT, tần suất của các cuộc khủng hoảng, đặc biệt là khủng hoảng
tài chính-tiền tệ cũng tăng theo. Trước khi nổ ra khủng hoảng tài chính, tiền tệ
ở các nước ASEAN, Kaminsky và Reinhart đã nghiên cứu chuyên sâu 71
khủng hoảng cán cân thanh toán và 25 khủng hoảng hệ thống ngân hàng, tiền tệ
với mức độ trầm trọng khác nhau trong giai đoạn 1970-1995. Kết quả nghiên
cứu cho thấy rằng, trong giai đoạn 1970-1979 có 3 cuộc khủng hoảng ngân
hàng có liên quan trực tiếp đến khủng hoảng cán cân thanh toán quốc tế, còn từ
năm 1979 đến 1995 mức độ liên hệ tăng lên: 22 khủng hoảng ngân hàng bắt
nguồn từ 46 khủng hoảng cán cân thanh toán. Thực trạng trên có thể được khái
quát bởi các nguyên nhân chủ yếu: (i) thiết kế một lộ trình mở cửa, tự do hoá
tài chính không hợp lý; (ii) hệ thống NHTM đã có những yếu kém nội tại, chậm
được khắc phục yếu kém nên không đủ sức chống đỡ trược những áp lực của tự

do hoá tài chính. Hậu quả của những nguyên nhân này sẽ là sự đổ vỡ hệ thống
ngân hàng, gây ra những thiệt hại trong nền kinh tế. ”12
Việc xây dựng được một NHTM nội địa vững mạnh sẽ là nhân tố chủ
chốt trong việc đảm bảo an ninh tài chính. Đặc biệt đối với các nước đang phát
triển, hệ thống NHTM nếu có sức cạnh tranh tốt, tình hình tài chính vững mạnh
sẽ là chỗ dựa quan trọng trong việc đảm bảo an ninh tài chính cho nền kinh tế
đất nước. Các NHTM hoạt động minh bạch sẽ giảm thiểu hiện tượng lũng đoạn
tài chính, hạn chế tình trạng đầu cơ rửa tiền trong nền kinh tế. Thông qua vai
trò trung gian tài chính của NHTM, các cơ quan pháp quyền có thể thực hiện
kiểm soát tài chính đảm bảo hoạt động lành mạnh, giảm thiểu tình trạng hoạt

14
động của nền kinh tế ngầm vốn là hiện tượng khá phổ biến trong nền kinh tế
các nước đang phát triển.
Cũng cần thêm nói rằng, trong tiến trình HNKTQT, NHTM sẽ vẫn là
nhân tố quan trọng góp phần giám sát kỷ luật tài chính, giữ gìn kỷ cương phép
nước trong toàn xã hội. Đặc biệt các chính sách kinh tế vĩ mô và kích cầu của
chính phủ cũng được thực hiện thông qua các công cụ lãi suất, dữ trữ bắt
buộc…sẽ được thực hiện điều chỉnh thông qua các NHTM từ đó tác động lên
các doanh nghiệp và nền kinh tế.
1.1.2.4. Tạo ra môi trường cho việc thực hiện chính sách tiền tệ của
NHTW.
Trong HNKTQT, với việc được hoạt động trên nguyên tắc của cơ chế
kinh tế thị trường và phù hợp với thông lệ quốc tế, hệ thống NHTM sẽ hoạt
động ngày càng lành mạnh và hiệu quả hơn, những NHTM có chính sách kinh
doanh và lộ trình hội nhập phù hợp sẽ phát triển, còn những NHTM khác làm
ăn kém hiệu quả sẽ bị sát nhập hoặc giải thể theo đúng quy luật thị trường.
Chính điều này là nhân tố quan trọng tạo điều kiện cho việc HNKTQT của nền
kinh tế nhanh chóng. Hơn nữa khi đã hoạt động theo quy luật của thị trường,
thông qua các công cụ của chính thị trường, NHTM chính là cầu nối cho việc

thực thi các chính sách tiền tệ của NHTW. Để thực thi chính sách tiền tệ phải
sử dụng các công cụ như lãi suất, dữ trữ bắt buộc, thị trường mở vv chính
các NHTM là chủ thể chịu sự tác động trực tiếp của những công cụ này và
đồng thời đóng vai trò cầu nối trong việc chuyển tiếp các tác động của chính
sách tiền tệ đến nền kinh tế. Bởi vì hoạt động kinh doanh của NHTM gắn chặt
với các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, các tổ chức và các chủ thể
kinh tế.
Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra lượng tiền gửi mà hệ thống ngân hàng tạo
ra chịu tác động trực tiếp từ các chính sách của NHTW như tỷ lệ dự trữ bắt
buộc, tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt qua ngân hàng, tỷ lệ tiền gửi không phải là
tiền gửi thanh toán, lãi suất chiết khấu từ đó sẽ tác động đến nền kinh tế. Mặt
khác cũng qua NHTM và các định chế tài chính trung gian khác, tình hình sản

15
lượng, giá cả, công ăn việc làm, nhu cầu tiền mặt, lãi suất, tỷ giá vv của nền
kinh tế được phản hồi về cho NHTW, từ đó cơ quan này sẽ có tránh nhiệm
tham mưu cho chính phủ nhằm có những chính sách điều tiết thích hợp với
từng tình hình cụ thể.
Tóm lại: Trong tiến trình HNKTQT, hệ thống NHTM đóng vai trò quan
trọng, khó có thể nói đến khái niệm hội nhập thành công nếu không có một hệ
thống NHTM hoạt hoạt động lành mạnh và hiệu quả. Vai trò này của hệ thống
NHTM càng quan trọng hơn đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt
Nam .
1.2. CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG TỚI KHẢ NĂNG CẠNH TRANH
CỦA NHTM TRONG BỐI CẢNH HNKTQT
1.2.1. Lý luận cơ bản cạnh tranh và cạnh tranh ngân hàng
1.2.1.1. Khái niệm cạnh tranh
Nói một cách khái quát nhất cạnh tranh là sự ganh đua giữa một (hoặc
một nhóm) người với nhau nhằm nâng cao vị thế của mình và làm giảm vị thế
của (các) đối thủ. Trong kinh tế, khái niệm cạnh tranh kinh tế (economic

competition) được hiểu, định nghĩa khác nhau qua những trường phái kinh tế
khác nhau.
Đầu tiên, những người theo trường phái Trọng nông đã phát hiện ý nghĩa
của cạnh tranh thông qua sự biến động giá cả. Theo quan điểm của họ thì “giá
tự nhiên” bao hàm lao động chứa trong sản phẩm và địa tô. Một khi trên thị
trường xuất hiện một đột biến nào đó thì giá cả trên thị trường có thể chênh
lệch với “giá tự nhiên” ít nhất là trong ngắn hạn. Khi đó, cạnh tranh sẽ đóng vai
trò tích cực trong việc điều chỉnh lượng/bên cung và làm cho giá thị trường trở
lại mức của “giá tự nhiên”.
Các nhà kinh tế thuộc trường phái Cổ điển cho rằng: cạnh tranh là một
quá trình bao gồm các hành vi phản ứng. Quá trình này tạo ra trong mỗi thành
viên trong thị trường một dư địa hoạt động nhất định và mang lại cho mỗi
thành viên một phần xứng đáng so với khả năng của mình. Quan niệm này thực
chất là vũ khí của trường phái Cổ điển nhằm hạ bệ trường phái Trọng thương,

16
có mục đích đả phá "bàn tay hữu hình - nhà nước", nâng cao vai trò, vị thế của
"bàn tay vô hình- những quy luật thị trường trong đó có cạnh tranh". Theo quan
điểm thời đó, cạnh tranh chủ yếu là cạnh tranh về giá, do vậy học thuyết về giá
được gắn chặt với học thuyết về cạnh tranh. Mô hình cạnh tranh của trường
phái Cổ điển mà dại diện là Adam Smith có thể được hiểu như một quá trình
điều phối không có hay ít có sự điều khiển của Nhà nước. Tuy nhiên, mô hình
cạnh tranh này đòi hỏi Nhà nước phải tạo ra và đảm bảo một trật tự pháp lý
làm khung khổ, nhằm điều tiết quá trình cạnh tranh hoặc có thể cung cấp hàng
hóa công cộng ”21.
Trong thập niên 1920, một số nhà kinh tế như Chamberlin và Robinson
đã nhận thấy ràng, trên thực tế không thể tồn tại tình trạng cạnh tranh hoàn hảo,
vì vậy phải tìm ra mô hình cạnh tranh gần sát với thực tế hơn. Trong hoàn cảnh
đó, mô hình cạnh tranh không hoàn hảo hoặc cạnh tranh mang tính độc quyền
đã ra đời. Nội dung của khái niệm cạnh tranh này được đề cập rộng hơn, bao

gồm hàng hoá hỗn tạp (heterogen), vấn đề tập quyền (oligopoly) và bổ sung
thêm những hình thức cạnh tranh không bằng giá (ví dụ qua kênh phân phối,
qua quảng cáo ).
Đầu những năm 1940, lý thuyết cạnh tranh hiệu quả trên cơ sở luận
điểm của nhà kinh tế Mỹ John M. Clack là: những nhân tố không hoàn hảo
trên thị trường có thể được sửa chữa bằng những nhân tố không hoàn hảo
khác. Chẳng hạn, tính không hoàn hảo của thị trường do có ít người cung ứng
(thị trường tập quyền - oligopoly) sẽ được cải thiện phần nào nhờ nhân tố
không hoàn hảo khác như sự thiếu tường minh của thị trường và tính tạp chủng
của hàng hoá, bởi vì chính tính không hoàn hảo này sẽ làm giảm sự phụ thuộc
lẫn nhau trong chính sách giá giữa các hãng ở thị trường tập quyền, tạo điều
kiện cho các hoạt động cạnh tranh mang lại kết quả. Ngoài ra, ông còn cho rằng
lợi nhuận thu được do đi tiên phong và có ưu thế trong một lĩnh vực nào đó vừa
là hệ quả vừa là tiền đề cho cạnh tranh; tính hiệu quả của cạnh tranh được đo
bằng sự giảm giá, tăng chất lượng hàng hoá cũng như hợp lý hoá trong quy
trình sản xuất sản xuất.

17
Như vậy, lý thuyết cạnh tranh hiệu quả đã nghiên cứu cạnh tranh với nội
hàm "động" hơn, được đặt trong một quan hệ rộng và chặt chẽ hơn nhiều.
Thời gian gần đây, khái niệm cạnh tranh được diễn giải theo những cách
khác nhau. Theo từ điển kinh doanh của Anh ( năm 1992) thì cạnh tranh được
xem là sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường
nhằm tranh giành cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách
hàng về phía mình. Hoạt động tranh đua giữa những người sản xuất hàng hoá,
giữa các thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường chi phối
bởi quan hệ cung cầu nhằm giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ và thị trường
có lợi nhất.
Các nhà kinh tế Việt Nam cũng đã đưa ra khái niệm cạnh tranh, chẳng
hạn theo Phạm Nam (1996) cho rằng:"thực chất của vấn đề cạnh tranh là vấn

đề giành lợi thế về giá cả hàng hoá- dịch vụ (mua và bán), và đó là con đường,
phương thức để giành lấy lợi nhuận cao cho các chủ thể kinh tế". Nhà nghiên
cứu Nguyễn Tiến Triển (1996) cho rằng: " mục đích trực tiếp của các hoạt
động cạnh tranh trên thị truờng của các chủ thể kinh tế là giành những lợi thế
để hạ thấp giá cả các yếu tố "đầu vào" của các chu trình sản xuất- kinh doanh
và nâng cao giá cả "đầu ra" sao cho mức chi phí thấp nhất nhưng có thể giành
được mức lợi nhuận cao nhất"”21.
Ba khái niệm cạnh tranh kế trên chưa thực sự đầy đủ đặc biệt là các khái
niệm của 2 học giả Việt Nam. Bởi vì như trên đã đề cập, có một số hình thức
cạnh tranh không chỉ bằng giá mà còn các nhân tố khác nữa.
Tóm lại, ở mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau thì quan niệm và nhận thức về
vấn đề cạnh tranh là không giống nhau, ở phạm vi và các cấp độ áp dụng khác
nhau. Tuy nhiên, xét theo quan điểm tổng hợp, theo chúng tôi thì cạnh tranh là
quá trình kinh tế mà trong đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau, tìm mọi biện
pháp (cả nghệ thuật kinh doanh lẫn thủ đoạn) để đạt mục tiêu kinh tế chủ yếu
của mình như chiếm lĩnh, thị trường, giành lấy khách hàng cũng như đảm bảo
tiêu thụ có lợi nhất nhằm nâng cao vị thế của mình. Mục đích cuối cùng của

18
các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hoá lợi ích: đối với
người kinh doanh là lợi nhuận, còn đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng.
1.2.1.2. Cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng.
- Khái niệm cạnh tranh ngân hàng
Hoạt động ngân hàng về bản chất là một hoạt động dịch vụ vì thế cạnh
canh ngân hàng chính là cạnh tranh kinh tế.
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về cạnh tranh ngân hàng. Theo từ
điển kinh doanh của Anh ( năm 1992) thì cạnh tranh ngân hàng tài chính
được xem là sự ganh đua, sự kình địch giữa các NHTM trên thị trường tiền tệ
nhằm phát huy tối đa lợi thế tranh giành thị phần và mở rộng khách hàng về
phía mình. Hoạt động tranh đua giữa các ngân hàng với nhau, giữa các ngân

hàng với các định chế tài chính phi ngân hàng trong nền kinh tế thị trường bị
chi phối bởi quan hệ cung cầu về vốn, sản phẩm dịch vụ của nền kinh tế nhằm
giành lợi thế cao nhất trong thị trường.
Các nhà kinh tế thuộc Học viện tài chính Bắc Kinh –Trung Quốc lại cho
rằng: " mục đích trực tiếp của cạnh tranh ngân hàng là các chủ thể ganh đua
nhằm giành những lợi thế để hạ thấp chi phí các yếu tố "đầu vào" của các chu
trình kinh doanh và tận dung nâng cao giá cả "đầu ra" sao cho mức chi phí sản
phẩm dịch vụ thấp nhất nhưng mức lợi nhuận đạt được là cao nhất”.
Còn theo các nhà kinh tế thuộc trường đại học Havard (Mỹ): cạnh tranh
ngân hàng là những nỗ lực ganh đua của các ngân hàng nhằm thu hút được
nhiều khách hàng sử dụng sản phẩm dịch vụ của mình, tạo ra một sự đáp ứng
tốt nhất nhu cầu của khách hàng nhằm đạt mục tiêu lợi nhuận tối đa.
Mặc dù cách diễn đạt cụ thể có khác nhau tuy theo góc nhìn và phương
thức nghiên cứu, các nhà kinh tế đều thống nhất chung một cách hiểu về cạnh
tranh trong hoạt động của các NHTM cụ thể là: cạnh tranh ngân hàng là một
quá trình của hoạt động kinh doanh trong đó các chủ thể của thị trường tài
chính-ngân hàng ganh đua nhau, tìm mọi biện pháp (cả nghệ thuật kinh doanh
lẫn thủ đoạn) để đạt mục tiêu kinh tế chủ yếu của mình như chiếm lĩnh thị
trường, giành lấy khách hàng cũng như đảm bảo cung cấp sản phẩm dịch vụ

19
một cách hiệu quả nhất và đảm mục tiêu nâng cao vị thế của mình với mục đích
cuối cùng là tối đa hoá lợi nhuận.
- Vai trò của cạnh tranh NHTM trong nền kinh tế
Mục đích cuối cùng của các chủ thể ngân hàng cũng giống với mục tiêu
của các chủ thể kinh tế khác trong quá trình cạnh tranh là tối đa hoá lợi
nhuận.Trong quá trình cạnh tranh vì mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, các NHTM
thường xuyên phải vươn lên, cải tiến công nghệ, quy trình nghiệp vụ, phương
pháp cung ứng sản phẩm- dịch vụ Xét toàn cục lợi ích xã hội và nhất là hệ
thống ngân hàng, cạnh tranh có tác động tích cực do thiệt hại hay suy giảm của

một hoặc một vài ngân hàng này sẽ đưa lại lợi ích và sự lớn mạnh cho các ngân
hàng khác trong cùng hệ thống. Tuy đặc thù của NHTM những ảnh hưởng của
cạnh tranh có thể tác động tới sự ổn định của hệ thống, nhưng nếu cơ chế cạnh
tranh lành mạnh cùng với sự quản lý hợp lý từ phía nhà nước, cạnh tranh sẽ là
có lợi cho hệ thống. Nói cách khác, cạnh tranh lành mạnh là có tính huỷ diệt
sáng tạo, với một nghĩa nào đó cũng như quy luật tiến hoá trong tự nhiên, là
thải loại những thành viên yếu kém trên thị trường, duy trì và phát triển những
thành viên tốt nhất, và qua đó hỗ trợ đắc lực cho quá trình phát triển toàn xã
hội. Với ý nghĩa ban đầu, cạnh tranh là động lực của phát triển kinh tế và sự
lớn mạnh của ngành Ngân hàng, thể hiện trên các phương diện, khía cạnh
khác nhau:
+ Canh tranh giúp nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngân hàng với
mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận: Với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, các ngân
hàng sẽ “chạy đua” để phấn đấu nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ phục vụ
khách hàng. Quy luật cạnh tranh buộc các ngân hàng phải luôn cải tiến quy
trình nghiệp vụ, hiện đại hoá công nghệ, cải tiến phương thức phục vụ khách
hàng nâng cao chất lượng dịch vụ. Trên bình diện từng ngân hàng, cạnh tranh
cũng tạo ra một sức ép buộc đội ngũ lao động phải luôn nâng cao chuyên môn
nghiệp vụ, kỹ năng lao động và quản lý, mặt khác đào thải các lao động không
thích ứng, theo kịp với các yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế thị trường.

20
+ Cạnh tranh giữa các ngân hàng sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của
toàn bộ hệ thống trong việc phân bổ nguồn lực tài chính thông qua việc kích
thích các NHTM sử dụng các nguồn lực tối ưu nhất cũng như hạn chế được các
méo mó của thị trường. Quy luật cạnh tranh cũng sẽ buộc các NHTM phải
giám sát quá trình sử dụng vốn của khách hàng tạo ra sự an toàn trong hoạt
động cho vay, giảm thiểu tình trạng nợ xấu, nâng cao chất lượng tín dụng từ đó
tăng cường khả năng cạnh tranh của hệ thống NHTM nội địa trước sức ép cạnh
tranh của các Ngân hàng nước ngoài và của các định chế tài chính phi ngân

hàng khác. Sự ganh đua cạnh tranh lẫn nhau giữa các NHTM cũng là nhân tố
quan trọng giúp đào thải tình trạng hoạt động thiếu lành mạnh, thiếu minh bạch
từ đó lành mạnh hoá hoạt động của hệ thống giảm thiếu những nguy cơ lây lan
mất ổn định có tính chất dây chuyền vốn thường xảy ra trong những hệ thống
NHTM thiếu sự cạnh tranh hoặc cạnh tranh thiếu lành mạnh.
+ Cạnh tranh ngân hàng sẽ cải thiện chất lượng phục vụ khách hàng:
cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng tạo ra áp lực liên tục đổi mới để đáp ứng
nhu cầu xã hội. Cạnh tranh càng mạnh mẽ, thị trường ngân hàng sẽ có ngày
càng nhiều hơn các sản phẩm dịch vụ được cung cấp với chi phí thấp, sản phẩm
dịch vụ ngày càng đa dạng và nhiều sự lựa chọn. Ở khía cạnh này, cạnh tranh
ngân hàng sẽ đóng vai trò như là yếu tố điều tiết thị trường, hỗ trợ, tăng hiệu
quả của doanh nghiệp, cá nhân, góp phần hạn chế những méo mó giá cả và lành
mạnh hoá các quan hệ tài chính tiền tệ.
+ Cạnh tranh ngân hàng góp phần hỗ trợ HNKTQT, chính cạnh tranh sẽ
thúc ép các Ngân hàng mở rộng hoạt động, tìm kiếm khách hàng và thị trường
nhằm cung cấp sản phẩm dịch vụ cho cá nhân và các doanh nghiệp trong và
ngoài nước. Thông qua cạnh tranh trong HNKTQT, các ngân hàng có thể hỗ trợ
các doanh nghiệp nghiệp thấy được lợi thế so sánh, cạnh tranh cũng như các
điểm yếu kém của mình để hoàn thiện, xây dựng các chiến lược kinh doanh,
cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Tóm lại, tuy mặt trái của cơ chế cạnh tranh sẽ xuất hiện tình trạng “cá
lớn nuốt cá bé” và thậm chí cả những hành vi vượt qua giới hạn cho phép của

×