Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (39.36 MB, 91 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA IIÀ NỘI
KHOA KINH TẾ
PHẠM T H Ị TH Ơ I
KHẢ NÃNG CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
THỰC TRẠNG VÀ GlẢl PHÁP
Chuyên ngành : Kinh tè chính trị
Mã sô : 603101
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Người hướng dản khoa học : TS. Hoàng Thị Bích Loan
ĐAI HỌC QUỐC GIA HẢ NỘI
TRUNG TÂM THÔNG TIN THƯ VIỆN
\ • V ' y .
Hà nội - 2006
MỤC LỤC
Mờ đ ầu 3
Chương l: Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp - những vấn đề lý
chung và kinh nghiệm quốc tế 6
1.1 Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường 6
1.1.1 Khái niệm cạnh tranh 6
1.1.2 Phân loại cạnh tranh 8
1.1.3 Công cụ cạnh tranh 12
1.1.4 Vai trò cửa cạnh tranh 15
1.2 Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp 16
1.2.1 Khái niệm về kha năng cạnh tranh 16
1.2.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến khá năng cạnh tranh của doanh nshiệp

18
1.2.3 Các chí tiêu đánh giá khá năns cạnh tranh của doanh nghiệp

25
1.3 Kinh nghiêm quốc tế trong việc nàng cao khả năng cạnh tranh của


doanh nghiệp 27
Chương 2: Thực trạng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam.
2.1 Tổng quan về hệ thống các doanh nghiệp Việt Natn

32.
2.1.1 Số lượng và cơ cấu các doanh nshiệp 32
2.1.2 Vị trí vai trò của doanh nghiệp trong nền kinh tế
35
2.2 Tình hình cạnh tranh của doanh nghiệp Việt N a m

38
2.2.1 Mỏi trường kinh doanh 38
2.2.2 Các yếu tố đầu vào 44
2.2.3 Chiến lược sản phẩm 55
2.3 Đánh giá c hun g 59
2.3.1 Khả năng cạnh tranh của doanh nghiêp Việt nam còn y ế u

59
2.3.2 Nguyên nhân 61
1
Chương 3 : Nhũng giài pháp cơ bàn nhăm nàn" cao klià năng cạnli tranh của doanh
nghiệp Việt Nam 66
3.1 Bối cảnh m ó i 66
3.2 iXhữỉỉg chính sách cùa Đấng và Nhà nước tác động tói khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp 68
3.2.1 Chính sách về phát triển các loại hình doanh nehiệp 68
3.2.2 Chính sách cạnh tranh 69
3.2.3 Chính sách hội nhập kinh tế quốc tê'
70
3.3 Một sô'giãi pháp CO' ban nhầm nâng cao kììả năng cạnh tranh của doanh

nghiệp 71
3.3.1 Vé phía Nhà nước 72
3.3.2 Về phía Doanh nghiệp 77
* Kết luận 84
* Tài liệu tham khao 85
* Phụ lục
3
MỞ ĐẦU
ỉ. Tính cần thiết của đề tài
Ngày nay, toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế đang là xu thế
khách quan đối với mọi quốc gia. Xu thế này vừa đem lại những cơ hội, vừa
chứa đựng những thách thức gay gắt dối với mỏi quốc gia dân tộc (trons đó trực
tiếp là các doanh nghiệp). Việt Nam để hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quá thì
vấn đề có ý nghĩa sống còn hiện nay là phai nhanh chóng nâng cao khá năng
cạnh tranh của nền kinh tế, của các doanh nghiệp và của các sản phẩm trong
điều kiện cạnh tranh quốc tế ngày càng khốc liệt. Nghị quyết 07- ND/TW của
Bộ Chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế đã xác định: “ Các cấp, các địa phương,
các doanh nghiệp khẩn trương sáp xếp lại và nâng cao hiệu quả sức cạnh tranh,
đảm bảo hội nhập có hiệu qua”.
Theo lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, vào năm 2006 Việt Nam sẽ gia nhập
Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và cũng năm 2006 hiệp định AFTA sẽ có
hiệu lực đầy đủ đối với Việt Nam. Như vậy, nếu chúng ta không có sự chuẩn bị
đầy đủ về điều kiện, chính sách, cơ chế để nâng cao khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp Việt Nam thi sẽ phải gánh chịu những hậu quả khó lường.
Việt Nam đã trải qua gán 20 năm đổi mới, mở của và hội nhập kinh tế,
bước đầu đã thu được những thành tựu to lớn trên một số phương diện. Tuy
nhiên, nền kinh tế nước ta còn nhiều yếu kém. Theo Tổ chức diễn đàn kinh tế
thế giới (WEF) thì khả năng cạnh tranh quốc gia của Việt Nam đứng thứ 60/102
nưóc có số liệu thống kê. Đủy thực sự là một thách thức lớn, không dễ vượt qua
đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Do vậy, nâng cao khả năng cạnh tranh của

doanh nghiệp Việt Nam có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn đối với
quá trinh hội nhập của nền kinh tế nước ta. Vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài :
“Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam : Thực trạng và giải pháp’
làm luận văn cao học.
4
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến đề tài đã có một số côn2 trình nshiên cứu như:
- GS.TS Chu Văn Cấp: Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong
quá trình hội nhập quốc tế. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà nội, 2003.
- Vũ Khoan: Nâng cao khả năng cạnh tranh để hội nhập thành công. Tạp chí
Thông tin công tác tư tưởng, số 5/2002.
- Nguyễn Quốc Dũng: Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam,
Luận án Tiến sỹ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- TS Nguyễn Vĩnh Thanh : Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay", Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 327.
- TS Đặng Thị Hiếu Lá : Nàng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, Số
- ì c
335.
Nhìn chung, các cổng trình nêu trên đã lập trung phân tích các vấn đề về:
Lý luận chung về cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế
quốc tế, chiến lược cạnh tranh quốc gia, các quan điểm và giải pháp để nâng cao
sức cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp vừa
và nhỏ Tuy nhiên, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu chuyên sâu về
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam dưới góc độ kinh tế chính trị.
3. M ục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những lý luận chung về khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp và thực trạng khá năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam thời gian
qua, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao khá năng cạnh tranh của
doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian tới.

- Phân tích cơ sở lý luận, thực tiễn về cạnh tranh, khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp.
- Phản tích đánh giá thực trạng khả năn» cạnh tranh của doanh nghiệp Việt
Nam thời gian qua.
5
- Đề xuất một số giải pháp cơ hán nâng cao khá năng cạnh tranh của doanh
nshiệp Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Vấn đề nghiên cứu: Doanh nghiệp Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế.
- Đối tượng nghiên cứu: kha năn2 cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam dưới
góc độ kinh tế chính trị.
- Phạm vi nghiên cứu: Từ năm 2000 đến nay. Luận văn hướng vào phân tích
những chủ trương, chính sách, định hướng ỉớn và những giai pháp ớ tầm vĩ mô.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử,
phương pháp trừu tượng hóa khoa học, logic và lịch sử, phương pháp thống kê,
so sánh, phân tích kinh tế, đổng thời có kế thừa các kết qua nghiên cứu của các
công trình khoa học đã được công bố có liên quan đến đề tài.
6. Những đóng góp mói của luận văn
- Hệ thống hóa lý luận về cạnh tranh, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Phân tích thực trạng, khả năng cạnh trạnh của doanh nghiệp Việt Nam.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp Việt Nam trong thời gian tới.
7. Bô cục của luận vãn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liêu tham khảo, luận văn gồm 3
chương:
Chương ỉ: Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp những vấn đề lý luận chung
và kinh nghiệm quốc tế
Chương 2: Thực trạng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam
Chương 3: Những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của

doanh nghiệp Việt Nam
6
CHƯƠNG 1 : KHẢ NÀNG CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
NHỮNG VẤN ĐỂ LÝ LUẬN CHUNG VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TÊ
1.1 Cạnh tranh của (loanh nghiệp trong nền kinh té thị trường
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường,
trong nền kinh tế này sản xuất cái gì ? sản xuất như thế nào ? sản xuất cho ai ?
do thị trường quyết định. Kiểu tổ chức kinh tế nay lổn tại ở các nước tư bản từ
cuối thế kỷ 15 và nay là hình thức kinh tế chung của hầu hết các nước trên thế
giới. Như vậy, nói tới kinh tế thị trường, về thực chất là nói tới cư chế thị trường.
Cơ chế thị trường là một cơ chế mà trong đó tổng thể các nhân tố, các
quan hệ cơ bản của nền kinh tế vận động dưới sự chi phối của quy luật thị
trường.
Nhìn vào bất kỳ một nền kinh tế nào, dù là kinh tế thị trường phát triển
như Mỹ, Tày Âu, Nhật Ban hay kinh tế thị trường sơ khai như ở Việt Nam hiện
nay, chúnơ ta đều thấy có những nhân tố cơ bản là cung cáu và giá cả.
Kinh tế thị trường vận động dưới sự chi phối của các quy luật khách quan,
mà trước tiên phải kế đến là quy luật cung cầu. Sự vận động của quy luật cung
cầu đã chi phối sự hoạt dộng của những thành viên tham gia thị trường. Cạnh
tranh là một nguyên tắc cơ bản, tồn tại khách quan và trở thành cơ chế nổi bật
của kinh tế thị trường - cơ chế cạnh tranh.
1.1.1 Khái niệm cạnh tranh
Kinh tế thị trường dược xem là một trong những thành tựu vĩ đại nhất
trong lịch sử phát triển của văn minh nhân loại. Nó luôn hùm chứa trong mình
nhữnẹ thách thức đối với sự nhạy bén và sáng tạo của con người trong môi
trường cạnh tranh.
Dưới sự tác độns của quy luật cung cẩu, quy luật giá trị, các chủ thể kinh
doanh đã cạnh tranh với nhau để cùng với bên kia của thị trường (người tiêu
7
dùng) xác định giá cả của hùng hoá. Dưới tác động cùa cạnh tranh, thị trường tự

thân nó luôn phải giải quyết sự mâu thuần không ngừng vận độn2 giữa sở thích
của người tiêu dùng và hạn chế kỹ thuật (giới hạn klìá năng sán xuàĩ).
Do vậy, cạnh tranh là một hiện tượng gắn liền với kinh tế thị trườns. Nó
chỉ xuất hiện trong điều kiện của kinh tế thị trường, nơi mà cung cầu là cốt vật
chất, giá cả là diện mạo và cạnh tranh là linh hồn sống của thị trường.
Ngày nay, hấu hết tất cả các quốc gia trên thế giới đều thừa nhận cạnh
tranh không những là môi trườns và động lực của sự phút triển nói chung, thúc
đẩy sán xuất, kinh doanh phát triển và tăng năn2 suất lao động, hiệu quả của các
doanh nghiệp nói riêng mà còn lù nhân tố quan trọng làm lành mạnh hoá các
quan hệ xã hội.
Thực tế cho thấy cạnh tranh là một hiện tượns xã hội rất phức tạp và đòi
hỏi được làm sáng tỏ ở nhiều tầng tiếp cận khác nhau về cạnh tranh.
Theo Mác, “ Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà
tư bản để giành giật những diều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng
hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch”[ 24, tr. 27]. Thông qua cạnh tranh mà
kích thích cải tiến kỹ thuật, lợp lv hoá sản xuất, phát minh ra kỹ thuật mới.
Trong từ điển thuật ngữ kinh tế học (Nxb Từ điển bách khoa - Hà Nội,
2001) thì cạnh tranh “là sự đấu tranh đối lập giữa các cá nhân, các tập đoàn hay
quốc gia. Cạnh tranh nảy sinh khi hai bên hay nhiều bên cố gắng giành lấy thứ
mà không phải ai cũng có thể giành được”[ 26, tr. 22].
Trong từ điển kinh doanh (xuất bản tai Anh năm 1992): “Canh tranh ià sự
ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm giành cùng
một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình”[ 26,
tr .22].
Uỷ ban cạnh tranh công nshiệp của tổng thống Mỹ cho rằng : “Cạnh
tranh đối với một quốc gia là mức độ mà ờ đó, dưới các điều kiện tự do và công
bằng, có thể sản xuất các hàn£ hoá và dịch vụ đáp ứng được các đòi hỏi của thị
8
trường quốc tế, đồng thời duy trì và mở rộng thu nhập thực tế của nhân dân nước
đó” [ ll.tr. 5].

Báo cáo về cạnh tranh toàn cầu nhấn mạnh cạnh tranh là : “Khả năng
nước đó đạt được những thành quả nhanh và bền vững về mức sống, nghĩa là đạt
được các tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao được xác định bằng thay đổi của GDP
trên đầu người theo thời gian” [ 11, tr. 5],
Diễn đàn cấp cao về cạnh tranh công nghiệp của tổ chức hợp tác và phát
triển kinh tế (OECD) có định nghĩa chung về cạnh tranh cho cả doanh nghiệp,
ngành, quốc gia : “Khả năng của các doanh nghiệp, ngành, quốc gia và vùng
trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc
tế” [ ll.tr .5].
Như vậy, khái niệm cạnh tranh được hiểu từ rất nhiều góc độ, song dưới
góc độ kinh tế chính trị, ta có thể hiểu một cách chung nhất như sau : "Cạnh
tranh ỉ à quan hệ kinh tế mà ỏ đó các chủ thể kinh tể ganh đua nhau tìm mọi
biện pháp, cả nghệ thuật lẩn thủ đoạn để đạt mục tiêu kinh tế của mình thông
thường là chiếm lĩnh thị trưởng, qiành lấy khách hàng cũng như các điểu kiện
sán xuất, thị trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của các chủ thể kình tế
trotìỸỊ quá trình cạnh tranh là tối đa ìioá lợi ích. Đấi với người sản xuất kinh
doanh là lợi nhuận, đối với ììiịKỜi tiêu dùng là lợi ích tiêu dừng và sự tiện lợi” [
4, tr. 9]
1.1.2 Phân loại cạnh tranh
* Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường, có ba loại cạnh tranh :
- Một là: Cạnh tranh ỵiữa những người bán và những người mua : là cuộc
cạnh Iranh diễn ra theo luật “mua rẻ, bán đắt”. Những người bán muốn bán sản
phẩm của minh với giá cao nhất, nsược lại những người mua lại có tham vọng
mua được hàng hoá với aiá rẻ. Hai lực lượng này hình thành nên hai phía cung
cầu trên thị trườns. Giá cả cuối cùna là giá thống nhất giữa người mua và người
bán sau một quá trình mặc cá, mà theo đó hoạt động mua bán dược thực hiện.
9
- Hai là : Cạnh tranli giữa những người mua với nhau : là cuộc cạnh tranh
dựa trên sự tranh đua trên cơ sở của luật cung cầu. Khi lượng cung một loại
hàng hoá, dịch vụ nào đó mà quá thấp so với nhu cầu tiêu dùng thì cuộc cạnh

tranh giữa những người mua sẽ trở nên quyết liệt. Lúc đó, giá cả hàng hoá, dịch
vụ sẽ tăng vọt, nhưng do hàng hoá khan hiếm nên người mua vẫn sẵn sàng chấp
nhận giá cao để mua được thứ mà mình cần. Kết quả của cuộc cạnh tranh này là
giả cả của hàng hoá đem bán tăng lên.
- Ba là : Cạnh tranh giữa những người bán với nhan : Đây là cuộc cạnh
tranh mang tính gay go khốc liệt nhất và có ý nghĩa sống còn đối với người bán.
Các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau, thủ tiêu nhau để giành khách hàng và thị
trường, làm cho giá cả của hàng hoá không ngừng giảm xuống và người mua sẽ
được lợi.
* Căn cứ vào mức độ, tính chất cạnh tranh trên thị trường, thì có :
- Một là : Cạnh tranli hoàn hảo là tình trạng cạnh tranh trong đó giá cá của
một hàng hoá là không đổi trôna toàn bộ các nơi của thị trường, bởi vì có nhiều
người mua và nhiều người bán, họ có sự thông tin đầy đủ về các điều kiện của
thị trường. Vì vậy, một hãng cạnh tranh trên thị trường cạnh tranh hoàn hảo
không có iý do gì để bán sản phẩm với mức giá rẻ hơn mức giá trên thị trường,
hơn nữa nó cũng không thể tăng giá của mình lên cao hơn mức giá thị trường vì
nếu thế, doanh nghiệp sẽ không bán được gì và người tiêu dùng sẽ đi mua hàng
hoá với mức giá rẻ hơn từ phía các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp. Doanh
nghiệp chỉ còn cách thích ứng với giá trên thị trường và tìm mọi biện pháp giảm
chi phí, sản xuất ra một lượng sản phẩm ở mức giới hạn mà ở đó chi phí bằng
doanh thu cận biên để tối đa hoá lợi nhuận của mình. Đối với thị trường cạnh
tranh hoàn hảo sỗ không có những hiện tượng cung cáu giả tạo, không bị hạn
chế bởi các biện pháp hành chính của doanh nghiệp. Vì vậy trong thị trường
này, siá thị trường sẽ dẩn tới chi phí sản xuất [ 12, tr. 145-147],
10
- Hai là : Cạnh tranh không hoàn hảo : là hình thức cạnh tranh trên thị
trường mà ở đó các cá nhân bán hàng hoặc các nhà sản xuất có đủ sức mạnh và
thế lực để chi phối giá cả sản phẩm của mình trên thị trường tuỳ theo các mức
độ cạnh tranh khác nhau. Cạnh tranh không hoàn hảo bao gồm:
+ Cạnh tranh có tính độc quyền : Mỗi hãng đứng trước đường cầu dốc

xuống. Nó mô tả một ngành trong đó mỗi hãng có thể ảnh hưởng đến phần thị
trường của mình ở một mức nào đó bằng cách thay đổi giá cả của mình so với
đối thủ cạnh tranh khác. Đường cẩu đối với nó không phải nằm ngang vì sản
phẩm của các hãng khác nhau chỉ có thể thay thế cho nhau một cách có giới
hạn. Những ngành cạnh tranh có tính độc quyền có sự khác biệt ở cùng một loại
sản phẩm. Mỗi loại sản phẩm có thể có nhiều loại nhãn hiệu khác nhau, mặc dù
sự khác biệt giữa các sản phẩm là không đáng kể ; mỗi loại nhãn hiệu lại có uy
tín, sự độc đáo khác nhau đối với người mua do nhiều lý do khác nhau như :
khách hàng quen, gây được lòng tin từ Irước, sản phẩm có tên tuổi lâu đời trên
thị trường. Trong thị trường này, người bán lôi kéo khách hàng về phía mình
bằng nhiều cách như : quảng cáo, khuyên mại, phương thức thanh toán, phương
thức bán hàng
+ Độc quyền nhóm : là cạnh tranh trên thị trường mà ở đó có một số
người bán một số sản phẩm thuần nhất hoặc nhiều người bán một loại sản phẩm
không thuần nhất. Họ có thể kiểm soát gần như toàn bộ số lượng sản phẩm hay
hàng hoá bán ra trên thị trường, ở đây xảy ra cạnh tranh giữa các nhà độc quyền
; điều kiện gia nhập hoặc rút lui khỏi thị trường này có nhiều trở ngại đo vốn
dầu tư lớn hoặc do độc quyền về bí quyết công nghệ. Thị trường độc quyền
nhóm không có cạnh tranh về giá cả mà một số người bán toàn quyền quyêt
định giá cả. Họ có thể định giá cao hơn hay thấp hơn giá của thị trường tuỳ
thuộc vào đặc điểm và tác đụng của từng loại sản phẩm, cốt sao cho cuối cùng
họ thu được lợi nhuận tối đa. Những doanh nshiệp nhỏ tham gia thị trường này
phải chấp nhận bán hàng theo giá của các nhà độc quyền.
11
+ Độc quyền thuần tuý : là hình thái đối lập hoàn loàn với cạnh tranh.
Một nhà độc quyền là người cung ứng duy nhất hoặc phần lớn sản phẩm của
ngành. Một hãng độc quyền thuần tuý cũng giống như các hãng khác, nó sẽ sản
xuất sản lượng đem lại hiệu quả cao nhất (MC = MR)
Sở dĩ có sự hình thành của các hình thái cạnh tranh không hoàn hảo là do
trong quá trình làm tối đa hoá lợi nhuận của các doanh nghiệp, cạnh tranh đã

thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung tư bản diễn ra không đều ở các ngành, các
lĩnh vực kinh tế khác nhau.
Trong thực tế có thể có tình trạng độc quyền xảy ra nếu không có sản
phẩm nào thay thế sản phẩm độc quyền hoặc các nhà độc quyền liên kết với
nhau. Độc quyền gây trở ngại cho việc phát triển sản xuất và làm phương hại
đến người tiêu dùng. Vì vậy mà ở một số nước có luật chống độc quyền nhằm
chống lại sự liên minh giữa các nhà kinh doanh.
* Căn cứ vào phạm vi ngành, thì có :
- Một lả : Cạnh tranh trong nội bộ ngành : là sự cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp trong cùng một ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hoá nhằm mục
đích tiêu thụ hàng hoá có lợi hơn để thu được lợi nhuận siêu ngạch. Biện pháp
cạnh tranh trong nội bộ ngành: là các doanh nghiệp thường xuyên cải tiến kỹ
thuật, giảm chi phí sản xuất, nâng cao năng suất lao động nhằm làm cho giá trị
cá biệt của hàng hoá doanh nghiệp sản xuất ra thấp hơn giá trị xã hội để thu
được lợi nhuận siêu ngạch. Kết quả cạnh tranh trong nội bộ ngành là hình thành
nên giá trị xã hội (giá trị thị trường ) của từng loại hàng hoá.
- Hai là : Cạnh tranh giữa các ngành : là sự cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp kinh doanh trong các ngành sản xuất khác nhau, nhằm mục đích tìm cơ
hội đầu tư có lợi hơn. Biện pháp cạnh tranh : vốn kinh doanh tự do di chuyển từ
ngành này sang ngành khác, tức là tự phát phân phối vốn kinh doanh vào các
ngành sản xuất khác nhau. Kết quả của cuộc cạnh tranh này là hình thành tỷ
suất lợi nhuận bình quân, và giá trị hàng hoá chuyển thành giá cả sản xuất.
12
Trong thực tế, khi tiến hành cạnh tranh trên thị trường, các doanh nghiệp
có thể sử dụng công cụ cạnh tranh khác nhau để nhằm đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ
sản phẩm, tăng thị phần và đảm bảo mức thu nhập ngày càng cao, các công cụ
đó thường là chất lượng sản phẩm, giá bán, hình thức tiêu thụ và các hoạt động
dịch vụ .
* Cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm là một trong những vũ khí lợi hại nhất để doanh

níihiệp chiến thắng đối thủ cạnh tranh trong cuộc đua chiếm lĩnh và xâm nhập
thị trường. Theo quan niệm của Tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hoá ( ISO) thì
"Chất lượng sản phẩm ỉà một tập hợp các thuộc tính của sản phẩm, tạo ra cho
sản phẩm đó khả năng thoả mãn yêu cầu đã nêu ra hoặc tiềm ẩn"[32, tr.22].
Chất lượng sản phẩm nhấn mạnh vai trò thoả mãn được các yêu cầu của khách
hàng. Theo quan niệm xuất phát từ thị trường về việc tạo ra khả năng cho rằng:
"Chất lượng sản phẩm là cung cấp những đặc điểm mà đối thủ cạnh tranh không
có được". Sự khác biệt về cùng một loại sản phẩm của các hãng khác nhau
không chỉ là vấn đề chất lượng sản phẩm mà còn là các dịch vụ đi kèm trợ giúp
sau khi bán, về kiểu dáng, mẫu mã, bao bì cũng giữ vị trí quan trọng trong việc
thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Nhiệm vụ của các doanh nghiệp luôn tìm
mọi cách để nâng cao chất lượng sản phẩm của mình, phải tạo ra sản phẩm có
nhiều thuộc tính ít nhất là bằng hoặc là vượt trội hơn các đối thủ cạnh tranh, nếu
bất cứ một yếu tố nào khiếm khuyết thì được đánh giá là chưa hoàn hảo. Chất
lượng sản phẩm là một công cụ cạnh tranh quan trọng của doanh nghiệp trên thị
trường, bởi nó thể hiện sự thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Khi chất lượng sản
phẩm của doanh nghiệp càng cao thì sản lượne hàng hoá được tiêu thụ tăng lên,
dặc biệt khi trình độ phát triển của xã hội nsày càng cao, thị hiếu người tiêu
dùng đòi hỏi các sản phẩm có chất lượn» cao về nội dung và hình thức.
* Cạnh tranh bằng giá bán sản phẩm.
1.1.3 Công cụ cạnh tranh
13
Giá bán sản phẩm (giá cả) làm một trong những công cụ quan trọng trong
cạnh tranh, thường được sử dụng trong giai đoạn đầu của doanh nghiệp khi xâm
nhập vào thị trường mới. Giá bán hàng hoá được hình thành thông qua quan hệ
cung - cầu hàng hoá trên thị trường, thông qua sự thoả thuận giữa người mua và
người bán để quyết định giá bán, giá mua cuối cùng mà cả hai bên có lợi. Để giá
bán hàng hoá là một công cụ cạnh tranh quan trọng thì giá bán phải bằng hoặc
nhỏ hơn giá bán sản phẩm cùng loại trên thị trường và đảm bảo đôi bên cùng có
lợi. Trong quá trình hình thành và xác định giá bán sản phẩm của mình, các

doanh nghiệp có thể tham khảo một số chính sách định giá sau:
- Chính sách định giá thấp
Theo chính sách này, doanh nghiệp đưa ra mức giá thấp hơn giá thị
trường. Định giá thấp có thể chia làm 2 loại:
+ Định giá thấp hơn giá thị trường nhưng vẫn cao hơn giá thành sản
phẩm. Doanh nghiệp sử dụng chính sách này khi sản phẩm mới xâm nhập thị
trường, doanh nghiệp cần bán hàng nhanh, khối lượng lớn để cạnh tranh với đối
thủ cạnh tranh. Trong trường hợp này doanh nghiệp vẫn thu được lợi nhuận
nhưng thấp.
+ Định giá thấp hơn giá thị trường và thấp hơn cả giá thành sản phẩm.
Trường hợp này doanh nghiệp không có lợi nhuận nhưng bảo đảm đẩy nhanh
tốc độ tiêu thụ sản phẩm, tăng nhanh vòng quay của vốn, làm cơ sở cho chính
sách giá cao.
Chính sách giá cao
Doanh nghiệp áp dụng mức giá bán sản phẩm cao hơn giá bán trên thị
Irườns, và cao hơn giá thành sản phẩm. Chính sách này áp dụng cho sản phẩm
mới tung ra trên thị trường, chưa có đối thủ cạnh tranh, người tiêu dùng chưa
biết rõ chất lượng của nó, chưa có cơ hội so sánh về giá, sau đó doanh nghiệp sẽ
hạ dẩn đến mức bằng hoặc thấp hơn giá thị trường nhưng vẫn thu được lợi
nhuận.
14
Chính sách ổn định giá
Khi áp dụng chính sách này, doanh nghiệp đã bỏ qua quan hệ cung cầu
hàng hoá, chính sách này giúp cho doanh nghiệp tạo ra những nét độc đáo khác
với đối thủ cạnh tranh, nó giúp doanh nghiệp thâm nhập, giữ vững và mở rộng
thị trường.
- Chính sách bán phá giá
Chính sách này rất nguy hiểm, ít được các doanh nghiệp sử dụng. Nếu
doanh nghiệp định sử dụng chính sách này thì phải phân tích rất kỹ những lợi,
hại mà doanh nghiệp phải đối mặt. Chỉ nên áp dụng khi sản phẩm bị tồn đọng

quá nhiều không có khả năng bán được và một số loại sản phẩm có đặc tính lý,
hoá không để lâu được, sau khi bán xong phải nghĩ đến việc cải tiến hoặc đổi
mới mặt hàng.
Tóm lại, việc nghiên cứu và vận dụng chính sách định giá là một vấn đề
rất phức tạp trong cơ chế thị trường, đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải có tính chủ
động, sáng tạo cao mới có thể nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
* Cạnh tranh bằng hình thức tiêu thụ hàng hoá
Sau khi hàng hoá đảm bảo chất lượng, giá cả phù hợp với yêu cầu của thị
trường thì vấn đề xác định đúng hình thức tiêu thụ cũng là vấn đề quan trọng,
góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Xét về mặt hình
thức, hàng hoá tiêu thụ trên thị trường đang có rất nhiều hình thức khác nhau
như bán buôn, bán lẻ, trực tiếp, gián tiếp, mua bán qua điện thoại hoặc trên
mạng Internet về hình thức thanh toán cũng rất đa dạng và phong phú như
tiền mặt, séc, trả góp, thậm chí khi cẩn thiết vẫn phải thanh toán bằng hiện vật
miễn sao là tim điều kiện thuận lợi nhất cho khách hàng. Không để cho khách
hàng phải chờ đợi và lo không đủ tiền, doanh nghiệp và các cơ sở kinh doanh
phải luôn coi trọns khách hàng. Song song với các hình thức bán hàng, phương
thức thanh toán, các dịch vụ kèm theo như: đón khách, giao hàng, đổi hàng, dịch
vụ vận chuyển và bảo hành, luôn luôn phải làm cho khách hàng hài lòng, không
15
VI lợi ích cá nhân của nhân viên mà làm mất lòng tin của khách hàng. Làm tốt
các yếu tố trên, chắc chắn sẽ góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp.
1.1.4 Vai trò của cạnh tranh
Thế kỷ XVIII, Adam Smith, nhà kinh tế học cổ điển vĩ đại Anh, đã
thuyết minh vai trò quan trọng của cạnh tranh tự do trong bối cảnh nền kinh tế
thị trường tư bản chủ nghĩa đang ở giai đoạn hình thành. Ông cho rằng, cạnh
tranh có thể phối hợp kinh tế một cách nhịp nhàng, có lợi cho xã hội. Nếu tự do
cạnh tranh, các cá nhân chèn ép nhau, thì cạnh tranh buộc mỗi cá nhân phải cố
gắng làm công việc của mình một cách chính xác, cạnh tranh thường tạo ra sự

cố gắng lớn nhất. Như vậy, cạnh tranh có thể khơi dậy sự nỗ lực chủ quan của
con người, thúc đẩy lòng hăng say lao động và điều tiết việc phân phối yếu tố tư
bản một cách hợp lý, từ đó làm tăng của cải của xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể khác nhau cùng sản xuất một
loại hàng hoá như nhau thì có những mức hao phí lao động cá biệt khác nhau.
Tuy nhiên, giá cả đối với những hàng hoá đó là thống nhất vì cạnh tranh đã san
bằng các hao phí lao động cá biệt đó thành giá trị thị trường ở mức tương đương
với thời gian lao động xã hội cần thiết. Đồng thời cạnh tranh san bằng tỷ suất lợi
nhuận của các ngành sản xuất khác nhau thành tỷ suất lợi nhuận binh quân,
chuyển hoá giá trị hàng hoá thành giá cả sản xuất. Cho nên, cạnh tranh làm cho
trong cùng một lĩnh vực sản xuất những người sản xuất bán hàng hoá của họ
theo cùng những giá cả như rihau và trong những ngành sản xuất khác nhau, họ
bán hàng hoá của họ theo những giá cả đảm bảo cho họ thu được một lợi nhuận
như nhau. Như vậy, cạnh tranh có vai trò là phương thức giải quyết mâu thuẫn
kinh tế giữa các chủ thể sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ dựa trên cơ sỏ'
hoạt động của quy luật giá trị và quy luật cung cầu.
Cho tới nay, cạnh tranh vẫn được coi là một yếu lố trung tâm và không
thể thiếu được Irons hệ thống kinh tế xã hội, nhất là khi quá trình hội nhập kinh
16
tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ. Không có nó thì không có nền kinh lế thị
trường. Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh có những vai trò sau đây :
Một là: Cạnh tranh kích thích nhiệt tinh lao động, kích thích người lao
động nắm vững kỹ thuật công nghệ, thành thạo kỹ xảo, nâng cao khả năng sản
xuất.
Hai là: Thông qua quy luật cung cầu, cạnh tranh tạo ra khả năng nhanh
nhạy trong việc đáp ứng mọi nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng. Bên cạnh
đó, bằng phương thức cạnh tranh kinh điển là cạnh tranh qua giá mà nhờ đó giá
cả của sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ đựơc cải thiện theo hướng có lợi cho
người tiêu dùng.
Ba là: Khuyến khích áp dụng cống nghệ mới. Công nghệ mới có ý nghĩa

là giảm chi phí sản xuất và các hãng áp dụng công nghệ mới có khả năng chiếm
được phần lớn thị trường do bán rẻ hơn so với các đối thủ cạnh tranh của họ.
Bốn là: Môi trường cạnh tranh là môi trường tạo sức ép buộc phải sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực (lao động, vốn, kinh nghiệm quản lý ) để tăng
hiệu quả kinh tế. Đồng thời cũng là môi trường nuôi dưỡng và đào tạo các nhà
kinh doanh giỏi.
Năm là: Tạo sự đổi mói nói chung, thường xuyên và liên tục để chống lại
trì trệ, khắc phục suy thoái và vì vậy mang lại sức tăng trưởng kinh tế cao.
1.2 Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
1.2.1 Khái niệm
Cho tới nay, vẫn chưa có một sự nhất trí cao trong các học giả và giới
chuyên môn về khái niệm khả năng cạnh tranh ở cả cấp quốc gia lẫn ở cấp
ngành/doanh nghiệp. Lý do cơ bán ở đây là ở chỗ có nhiều cách hiểu khác nhau
về khả năng cạnh tranh. Đối với một số người, chỉ có ý nghĩa rất hẹp, được thể
hiện qua các chỉ số về tỷ giá thực và trong mối quan hệ thương mại. Trong khi
đó, đối với nhữnơ người khác, khái niệm khả năng cạnh tranh lại bao gồm khả
năng sản xuất hàng hoá và dịch vụ đủ sức đáp ứng đòi hỏi của cạnh tranh quốc
tế và yêu cầu bảo đảm mức sống cao cho các công dán trong nước.
Kruman (1994) cho rằng khái niệm về khả năng cạnh tranh chỉ phù hợp
với cấp độ công ty, đơn giản là vì nếu một công ty nào đó không đủ khả năng bù
đắp chi phí của mình thì chắc chắn phải từ bỏ kinh doanh hoặc phá sản [11].
Còn như M. Porter, trong cuốn sách nổi tiếng “Lợi thế cạnh tranh của các
quốc gia” (1990) của mình đã cho rằng chỉ có năng suất là chỉ số có ý nghĩa khi
nói về khả năng cạnh tranh quốc gia. Bởi vì đây là yếu tố xác định cơ bản cho
việc nâng cao sức sống của một đất nước xét về dài hạn [ 27].
Fafchamps cho rằng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng
doanh nshiệp đó có thể sản xuất sản phẩm với chi phí biến đổi trung bình thấp
hơn giá của nó trên thị trườne. Theo cách hiểu này, doanh nghiệp nào có khả
năng sản xuất ra sản phẩm có chất lượng tương tự sản phẩm của doanh nghiệp
khác nhưng với chi phí thấp hơn thì được coi là có khả năng cạnh tranh cao hơn.

Randall lại cho rằng, khả năng cạnh tranh là khả năng dành được và duy
trì thị phần Irên thị trường với lợi nhuận nhất định.
Dunning lập luận rằng, khả năng cạnh tranh là khả năng cung cấp sản
phẩm của chính doanh nghiệp trên các thị trường khác nhau mà không phân biệt
nơi bố trí sản xuất của doanh nghiệp đó.
Một quan niệm khác cho rằng, khả năng cạnh tranh là trình độ của doanh
nghiệp có thể sản xuất sản phẩm theo đúng yêu cầu của thị trường, đồng thời
duy trì được mức thu nhập thực tế của mình.
Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) khi tiếp cận cạnh tranh với tính cách
năng lực của một quốc gia đã cho rằng, khả năng cạnh tranh của một quốc gia là
khả năng đạt và duy trì được mức tăng trưởns cao trên cơ sở các chính sách, thể
chế vững bền tương đối và các đặc trưng kinh tế khác [11],
Có thể thấy rằng, các quan niệm đều xuất phát từ nhiều góc độ khác nhau,
nhưng đều có liên quan đến hai khía cạnh : chiếm lĩnh thị trường và lợi nhuận.




7 1
0 AI HOC w 'JüC ÇlA HA Nv*
ĨRUNG TAM THÒNG TIN THU VIÊN
18
Vì vậy khả năng cạnh tranh có thể hiểu là: khả năng nắm giữ thị phần nhất định
với mức độ hiệu quả chấp nhận được. Quan niệm này có thể áp dụng cho từng
doanh nghiệp cũng như một quốc gia trong cuộc cạnh tranh trên thị trường thế
giới và khu vực.
1.2.2 Các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
ì .2.2.1 Các yếu tố về môi trường vĩ mô
* Các yếu tố về mặt kinh tế
- Chính sách tài khoá : việc Chính phủ sử dụng thuế khoá và chi tiêu công cộng

để điều tiết mức chi tiêu chung của nền kinh tế.
- Chính sách tiền tệ : việc ngân hàng trung ương điều chỉnh mức cung tiền và
các tỷ lệ lãi suất bằng nhiều công cụ khác nhau nhằm tác động vào lượng tiền cơ
sở và số nhân tiền.
ở đây khi xem xét cả hai chính sách ta thấy : Khi nền kinh tế đang lâm
vào tình trạng suy thoái và thất nghiệp, các doanh nghiệp không muốn đầu tư
thêm, còn người tiêu dùng không muốn chi tiêu thêm cho tiêu dùng. Tổng cầu ử
mức rất thấp. Tinh trạng này cho thấy các doanh nghiệp dang có khả năng cạnh
tranh rất thấp. Để tăng tổng cầu và tạo ra sự cạnh tranh sôi động trở lại cho các
doanh nghiệp, Chính phủ có thể tăng chi tiêu (G), giảm thuế (T), hoặc Chính
phủ có thể dùng chính sách mở rộng tài chính và nới lỏng tiền tệ. Khi đó tổng
cầu và sản lượng sẽ tăng mạnh. Quá trình này cũng biểu hiện sự tăng khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp. (Ví dụ : khi Chính phủ tăng cung tiền (M), làm
cho lãi suất (i) giảm, dẫn đến doanh nghiệp có nhiều cơ hội để đầu tư, do đó sẽ
có nhiều doanh nghiệp xuất hiện trên thị trường. Lúc này các doanh nghiệp phải
cạnh, tranh ác liệt hơn và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp được nâng lên)
[ 1].
- Chính sách thương mại : Việc theo đuổi một chính sách thương mại “mở
cửa” (hay “đóng cửa”) cho phép doanh nshiệp có thể nâng cao khả năng cạnh
19
tranh (hay hạ thấp khả năng cạnh tranh) của mình. Bởi vì, đi kèm với một chiến
lược chính sách cụ thể là cả một hệ thống những điều kiện (có thể là thuận lợi
hay bất lợi) cho doanh nghiệp. Để thực hiện chính sách thương mại “mở cửa”
Chính phủ sẽ xây dựng một cơ chế tỷ giá thuận lợi cho xuất khẩu, hay ký các
hiệp định thương mại song phương và đa phương. Qua đó, các doanh nghiệp
xuất khẩu trong nước có cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá và nâng cao khả
năng cạnh tranh.
- Tốc độ tăng trưởng GDP mà cao điều đó có nghĩa là thu nhập của người dân
được nang cao, sức mua tăng lên và doanh nghiệp nào nắm bắt được điều này
mà tăng khả năng cung ứng của mình lên ( số lượng, chất lượng, mẫu mã) sẽ có

thể thu được một khoản lợi nhuận lớn. Từ đó, doanh nghiệp có thể nâng cao khả
năng cạnh tranh của mình trên thi trường
* Các yếu tố về chính trị, luật pháp
Các yếu tố này bao gồm các quy định về chống độc quyền, các luật thuế
xuất nhập khẩu dồng thời cũng liên quan đến việc cải thiện các điều kiện
thương mại và đầu tư.
Yếu tố chính trị ổn định, luật pháp rõ ràng có tính chất quyết định đến
khả năng tiến hành đầu tư dài hạn cũng như ngắn hạn, bình đẳng cho các doanh
nshiệp tham gia cạnh tranh có hiệu quả.
* Các yếu tố về văn hoá xã hội
Mỗi tổ chức kinh tế đều hoạt động trong một môi trường văn hoá - xã hội
nhất định và giữa doanh nghiệp với môi trường xã hội có những mối liên hệ chặt
chẽ, tác động qua lại lẫn nhau. Xã hội cung cấp những nguồn lực mà doanh
nahiộp cấn và tiêu thụ những hàng hoá, dịch vụ do doanh nghiệp sản xuất ra. Tất
cả các giá trị chung của xã hội, các tập tục truyền thống, quan điểm sống, phong
cách sống, tính tích cực tiêu dùns, tỷ lệ tăng dân số đều là các yếu tố ảnh
hưởng tới nhu cầu của thị trường và do đó ảnh hưởng đến điều kiện sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Những khu vực khác nhau mà ở đó thị hiếu tiêu
20
dùng và nhu cầu khác nhau đòi hỏi doanh nghiệp phải có chính sách sản phẩm
và chính sách tiêu thụ khác nhau.
* Môi trường công nghệ
Ngày nay, có lẽ công nghệ là nhân tố có sự thay đổi năng động nhất trong
các yếu tố môi trường kinh doanh. Sự thay đổi này đem lại những thách thức và
nguy cơ đối với các doanh nghiệp. Những thay đổi này thể hiện trên một số
phương diện sau : Chu kỳ đổi mới công nghệ ngày càng ngắn hơn; vòng đời sản
phẩm ngày càng ngắn hơn ; cuộc cách mạng công nghiệp mới; ảnh hưởng của
công nghệ cao đối với doanh nghiệp.
* Các nhân tố tự nhiên
Các yếu tố tự nhiên như vị trí địa lý, khí hậu, tài nguyên thiên nhiên

Đây là những yếu tố đem lại lợi thế so sánh trước tiên của các doanh nghiệp
trong nước, điều kiện vị trí địa lý thuận lợi sẽ làm giảm được chi phí vận chuyển
hàng hoá, địch vụ của doanh nghiệp đồng thời có điều kiện khuyếch trương
được sản phẩm hàng hoá của mình với nhiều quốc gia khác Irên thế giới. Tài
nguyên thiên nhiên phong phú tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động cung ứng
nguyên liệu tốt, đây là điều kiện quan trọng ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp. Ngược lại, điều kiện tự nhiên không thuận lợi sẽ tạo khó khăn
ban đẩu cho doanh nghiệp và khả năng cạnh tranh của nó sẽ bị giảm.
* Các yếu tố thuộc về hệ thống cơ sở hạ tầng
Hệ thống cơ sở hạ tầng bao gồm :
- Mạng lưới çiao thông - vận tải, đường xá, cầu cống, phương tiện vận chuyển
- Mạng lưới thông tin - bưu chính - viễn thông
- Hệ thống cung cấp điện, nước
- Các dịch vụ ngân hàng, tài chính
Mặc dù khôna trực tiếp tác động đến các hoạt độns kinh doanh của doanh
nghiệp, nhưns mỗi khi có sự biến độns về nhân khẩu học, về thu nhập của dân
cư, về cơ sở hạ tẩnạ hay sự ra dời của một công nghệ mới đểu có những tác
21
động dây chuyền đến các doanh nghiệp. Cũng tương tự, sự khan hiếm hay dồi
dào tài nguyên thiên nhiên, sự cởi mở hay bảo thủ của luật pháp đều là những
yếu tố mà các nhà quản trị phải quan tâm khi đưa ra các quyết định quản lý.
1.2.2.2 Nhóm nhân tố thuộc môi trường ngành
* Sức ép của đối thủ cạnh tranh hiện tại trong ngành
Trong một ngành nào đó mà tồn tại một hoặc một số doanh nghiệp thống
lĩnh thì cường độ cạnh tranh ít hơn và doanh nghiệp thống lĩnh đóng vai trò chỉ
đạo giá. Trong trường hợp này nếu doanh nghiệp không đóng vai irò thống lĩnh
thì khả năng cạnh tranh cực kém.
Nhưng trong một ngành mà nó chỉ có một số doanh nghiệp nhưng quy mô
và thế lực tươns đương nhau thì có thể nói mức độ cạnh tranh ở đây sẽ diễn ra
rất gay gắt, các doanh nghiệp phải coi trọng các lợi thế so sánh của minh để

biến thành lợi thế cạnh tranh. Doanh nghiệp nào có lợi thế cạnh tranh hơn thì
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp đó lớn hơn.
* Các đối thủ cạnh tranh mới
Việc gia nhập thị trường của các doanh nghiệp mới trực tiếp làm giảm
tính chất, quy mô cạnh tranh do tăng năng lực sản xuất và khối lượng trong
ngành. Sự xuất hiện của các đối thủ mới có khả năng gây ra những cú sốc mạnh
cho các doanh nghiệp hiện tại vì thông thường những người đi sau thường có
nhiều căn cứ cho việc ra quyết định hơn và những chiêu bài của họ thường mang
tính bất naờ.
Để chốns lại các đối thủ tiềm ẩn, các doanh nghiệp thường thực hiện các
chiến lược như phân biệt sản phẩm, nâng cao chất lượng, bổ xung các đặc điểm
mới cho sản phẩm, không ngừng cải tiến, hoàn thiện sản phẩm nhằm làm cho
sản phẩm của mình có những đặc điểm khác biệt hoặc nổi bật trên thị trường,
hoặc phấn đấu giảm chi phí sản xuất tiêu thụ.
* Với sức ép của người cung ứng các yếu tố đầu vào
22
Với vai trò của người cung ứng các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất,
quyền lực của nhà cung ứng được khẳng định thông qua sức ép về giá các yếu tố
đầu vào. Nếu trên thị trường có nhiều nhà cung ứng thì doanh nghiệp có thể lựa
chọn nhà cung ứng, điều này tạo ra sự cạnh tranh trên thị trường yếu tố đầu vào,
nó có tác dụng làm giảm chi phí đầu vào cho các nhà sản xuất. Nếu trên thị
trường chỉ có duy nhất hoặc một số nhà cung ứng sẽ làm giảm khả năng cạnh
tranh bằng giá của doanh nghiệp.
Nếu nhà cung ứng đồng thời là một đơn vị sản xuất kinh doanh trong
cùng một tổ chức với nhà sản xuất thì tính liên kết nội bộ được phát huy tạo cho
các nhà sản xuất có điều kiện cạnh tranh bằng giá.
Để giảm bớt ảnh hưởng xấu từ phía nhà cung ứng các doanh nghiệp cần
có mối quan hệ tốt với họ, hoặc mua của nhiều người trong đó chọn ra nhà cung
cấp chính, đồng thời tích cực nghiên cứu tìm nguồn đầu vào thay thế.
* Sức ép của người mua

Người mua luôn có xu hướng tối đa hoá lợi ích của mình với chi phí thấp
nhất do đó họ luôn luôn bằng mọi cách ép doanh nghiệp giảm giá hàng hoá
xuống, mặc cả để có chất lượng tốt hơn và dược phục vụ nhiều hơn đồng thời
còn ĩàm các đối thủ cạnh tranh chống lại nhau.
Để chống lại những điều này thì việc lựa chọn các nhóm khách hàng của
doanh nshiệp phải được xem xét như là một quyết định tối quan trọng.
* Sự xuất hiện của sản phẩm thay thế
Sự ra đời của sản phẩm thay thế đã làm giảm khả năng cạnh tranh của sản
phẩm bị thay thế. Do sản phẩm thay thế được sản xuất ra trên dây truyền sản
xuất tiên tiến hơn nhờ áp dụns các thành quả của khoa học kỹ thuật, nên sản
phẩm thay thế sẽ dần dần chiếm lĩnh dược thị trường của sản phẩm bị thay thế.
Nếu doanh nshiệp không tiến hành đầu tư nghiên cứu đổi mới khoa học công
nshệ để hướng tới sản xuất các sán phẩm mới hay hướng khách hàng tìm kiếm
độ thoả dụng mới.
23
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, doanh nghiệp muốn tồn tại và
phát triển phải xây dựng cho minh một tổ hợp chiến lược kinh doanh thích hợp,
các chiến lược này phải phù hợp với chiến lược tổng thể về cạnh tranh hội nhập
của nền kinh tế.
*Nguồn nhân lực : Thể hiện ở số lượng và chất lượng lao động
Ban giám đốc doanh nghiệp : là bộ phận quản lý cao cấp nhất của doanh
nghiệp, là những người vạch ra chiến lược trực tiếp điều hành, tổ chức thực hiện
cống việc kinh doanh của doanh nghiệp. Các thành viên của ban giám đốc ảnh
hưởns rất lớn đến kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu những
thành viên này có trình độ và kinh nghiệm thì không những vạch ra chiến lược
kinh doanh đúng dắn đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp mà còn tạo ra uy tín,
lợi ích lâu dài của doanh nghiệp và đây là yếu tố quan trọng làm tăng khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp.
Đội ngũ cán bộ quản lý ở cấp doanh nghiệp : những người quản lý chủ
chốt có kinh nghiệm công tác, phong cách quản lý, khả năng ra quyết định, khả

năng xây đựng ê kíp quản lý và hiểu biết sâu rộng lĩnh vực kinh doanh sẽ là một
lợi thế quan trọng cho doanh nghiệp. Trình độ hiểu biết sẽ giúp nảy sinh ý tưởng
mới, sáng tạo phù hợp với sự phát triển và trưởng thành của doanh nghiệp.
Các cán bộ quản lý ở cấp phân xưởng, đốc công và công nhân : trình độ
tay nghề của người công nhân và lòng hăng say nhiệt tình làm việc của họ là
yếu tố tác động rất lớn đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Bởi vì khi tay
nghề cao lai kết hợp với lòng nhiệt tình hăns, say lao động thì nhất định năng
suất lao độns sẽ tăng trong khi chất lượng sản phẩm được đảm bảo. Đây là tiền
đề để doanh nghiệp có thể tham gia và đứng vững trong cạnh tranh.
Đội nsũ nhân viên marketting : họ là những người có khả năng nghiên
cứu và khai thác thị trườns, tìm hiểu thị hiếu khách hàng để thay đổi mẫu mã
cho phù hợp nhằm mở rộng thị trườnơ. Ngoài ra, họ có khả năng nắm bắt thông
Ị .2.2.3 Các nhản tố bên trong doanh nghiệp
24
tin một cách nhanh chóng. Trong nền kinh tế thị trường, việc nhanĩì nhạy với
thông tin là một trong những yếu tố có ảnh hưởng đến sự tồn tại, thành bại của
doanh nghiệp. Điều đó cũng là cơ sở cho việc xây dựng các chiến lược về thị
trường, về sản phẩm của doanh nghiệp và nó quyết định đến khả năng cạnh
tranh.
* Nguồn vốn
Khả năng tài chính của doanh nghiệp : có thể thấy rằng, nguồn lực về vốn
luôn là một trong những nhân tố có tác động quyết định đến sức cạnh tranh. Rõ
ràng là ờ đây không chỉ hiểu nguồn lực này là số lượng vốn có được, mà còn và
trước hết là khả năng sử dụng hiệu quả nguồn vốn của các doanh nghiệp. Nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp tăng cường sức
mạnh tài chính. Doanh nghiệp có tiềm lực về tài chính sẽ có nhiều điều kiện
thuận lợi trong việc đổi mới công nghệ, đầu tư trang thiết bị, bảo đảm nâng cao
chất lượng, hạ giá thành nhằm duy trì sức cạnh tranh, củng cố vị trí của mình
trên thị trường.
Máy móc thiết bị và công nghệ : tình trạng máy móc thiết bị và công

nghệ có ảnh hưởng một cách sâu sắc tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Nó là yếu tố vật chất quan trọng bậc nhất thể hiện khả năng sản xuất của mỗi
doanh nghiệp và tác động trực tiếp đến chất lượng sản phẩm, đến giá thành và
2Ĩá bán sản phẩm. Chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp được quyết dịnh
bởi chất lượng của nguyên vật liệu sử dụng để chế tạo sản phẩm, công nghệ sản
xuất và trình độ tav nghề của người lao động. Do đó, có thể khẳng định rằng
một doanh nehiệp với một hệ thống máy móc thiết bị và công nghệ tiên tiến
cộns với khả năng quản lý tốt sẽ tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, giá thành
hạ, khả năng cạnh tranh cao. Neược lại, khống có một doanh nghiệp nào có thể
nói là có khả năng cạnh tranh cao khi trong tay họ là cả một hệ thống máy móc
thiết bị cũ kỹ với công nghệ san xuất lạc hậu.
* Chiến lược đầu ra cho sản phẩm

×