Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Phát triển khu công nghiệp ở Việt Nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 127 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ
*****



NGUYỄN KIM HOÀNG




PHÁT TRIỂN KHU CÔNG NGHIỆP
Ở VIỆT NAM
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP




LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ







HÀ NỘI - 2005























ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ
*****

NGUYỄN KIM HOÀNG

PHÁT TRIỂN KHU CÔNG NGHIỆP
Ở VIỆT NAM
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ


Chuyên ngành: Kinh tế Chính trị
Mã số: 5.02.01



Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN NGỪNG






HÀ NỘI - 2005





MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN KHU CÔNG NGHIỆP
1.1
Một số vấn đề lý luận về phát triển Khu công nghiệp
6
1.1.1
Khái niệm, cách phân loại, đặc điểm Khu công nghiệp
6

1.1.2
Điều kiện đảm bảo cho sự hình thành và phát triển các Khu công
nghiệp

13
1.1.3.
Vai trò của Khu công nghiệp đối với quá trình phát triển kinh tế
18
1.2
Kinh nghiệm của một số quốc gia châu Á trong việc phát
triển Khu công nghiệp

21
1.2.1
Kinh nghiệm của nhóm nước thành công
22
1.2.2
Kinh nghiệm của nhóm nước không thành công
28
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG
NGHIỆP Ở VIỆT NAM
2.1
Sự hình thành các Khu công nghiệp ở Việt Nam
35
2.1.1
Chính sách của chính phủ trong việc phát triển các Khu công
nghiệp

35
2.1.2

Tiến trình phát triển các Khu công nghiệp
39
2.2
Thực trạng hoạt động của các Khu công nghiệp ở Việt Nam
42
2.2.1
Về sự phân bố của các Khu công nghiệp
42
2.2.2
Về thu hút đầu tư
45
2.2.3
Về cơ sở hạ tầng
50
2.2.4
Về sản xuất và kinh doanh của các doanh nghiệp trong Khu công
nghiệp

52
2.2.5
Về quản lý các Khu công nghiệp
55
2.3
Đánh giá hoạt động của các Khu công nghiệp ở Việt Nam
57
2.3.1
Những thành tựu đã đạt được trong quá trình hoạt động của các
Khu công nghiệp ở Việt Nam

57

2.3.2
Những vấn đề đặt ra đối với Khu công nghiệp trong quá trình
phát triển kinh tế ở Việt Nam

66
CHƢƠNG 3: QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT
TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM
3.1
Bối cảnh quốc tế và quan điểm định hƣớng phát triển các
Khu công nghiệp ở Việt Nam

79
3.1.1
Bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
79
3.1.2
Quan điểm định hướng phát triển các Khu công nghiệp ở Việt
Nam
86
3.2
Một số biện pháp thúc đẩy sự phát triển của các Khu công
nghiệp

92
3.2.1
Điều chỉnh các văn bản pháp quy, cơ chế quản lý cho phù hợp
92
3.2.2
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu để đánh giá hoạt động và quản lý các
Khu công nghiệp


97
3.2.3
Bố trí khu vực thành lập Khu công nghiệp một cách hợp lý
104
3.2.4
Giải pháp về tiếp thị đầu tư
108
3.2.5
Đào tạo cán bộ quản lý Khu công nghiệp cũng như nguồn nhân
lực cho các doanh nghiệp hoạt động trong các Khu công nghiệp

109
3.2.6
Hiện đại hoá cơ sở hạ tầng, góp phần giảm chi phí sản xuất.
111
KẾT LUẬN 113
TÀI LIỆU THAM KHẢO 115



- 1 -
MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Nhằm phục vụ cho đường lối mở cửa và phát triển kinh tế, thực hiện
chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, kể từ Quy chế khu chế xuất
ngày 18 tháng 10 năm 1991 và sau Nghị định 192/CP về Quy chế khu công
nghiệp, cho đến nay ở Việt Nam đã hình thành và phát triển 106 khu công
nghiệp, phân bố rải rác ở hầu khắp các địa phương trên cả nước.

Sự phát triển của các khu công nghiệp ở Việt Nam trong thời gian qua đã
đem lại nhiều kết quả đáng khích lệ về thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nư-
ớc, khuyến khích xuất khẩu phục vụ chiến lược công nghiệp hoá - hiện đại
hoá đất nước, tạo việc làm cho người lao động, thúc đẩy sự phát triển của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam
hội nhập tốt hơn vào nền kinh tế thế giới. Cho đến hết năm 2003, các khu
công nghiệp ở Việt Nam đã thu hút được 2864 dự án đầu tư trong và ngoài
nước, với tổng số vốn đầu tư lên tới 16,01 tỷ USD, trong đó các dự án đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt 11,39 tỷ USD và các dự án đầu tư trong nước
đạt 4,62 tỷ USD. Các khu công nghiệp đã tạo ra việc làm cho 600.000 lao
động và đạt doanh thu xuất khẩu là 3 tỷ USD.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển các khu công nghiệp ở Việt Nam
hiện nay còn gặp rất nhiều khó khăn trong việc phát triển. Thực tiễn cho thấy
khả năng “lấp đầy” vốn đầu tư ở các khu công nghiệp còn rất ít. Hiệu quả sử
dụng đất trong các khu công nghiệp hiện nay đạt khoảng 1,84 triệu USD/ha
trong khi năm 1997 đạt 4 triệu USD/ha. Nếu như năm 1997 vốn bình quân
một dự án đầu tư vào khu công nghiệp là 23 triệu USD thì năm 2003 con số
này chỉ đạt 3,4 triệu USD. Thực tế trên xuất phát từ rất nhiều nguyên nhân,
song tựu chung là do hiệu quả quản lý các khu công nghiệp kém, dẫn đến
- 2 -
những văn bản chính sách về khu công nghiệp còn chồng chéo, không minh
bạch, thủ tục hành chính rườm rà, phân cấp quản lý chưa rõ ràng, lao động lúc
thừa lúc thiếu và trình độ tay nghề không ổn định, cơ sở hạ tầng yếu kém lạc
hậu, cạnh tranh không lành mạnh ảnh hưởng xấu tới sự phát triển kinh tế xã
hội… Những khó khăn này nếu không kịp thời tháo gỡ sẽ là một lực cản rất
lớn đối với hoạt động của các khu công nghiệp, dẫn đến không đạt mục tiêu
kế hoạch ban đầu mà chính phủ đề ra. Xuất phát từ những thực tế trên và với
kiến thức đã được học, em chọn vấn đề "Phát triển khu công nghiệp ở Việt
Nam: thực trạng và giải pháp.” làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu

Trong số những tác phẩm viết về các khu công nghiệp, khu chế xuất trên
thế giới và Việt Nam có tác phẩm “ Các khu công nghiệp, khu chế xuất trên
thế giới và Việt Nam” của TS. Mai Ngọc Cường, xuất bản năm 1993, tác
phẩm này đã đưa ra một hệ thống lý thuyết chung về khu chế xuất trên thế
giới, thực tiễn hoạt động của các khu chế xuất, khu công nghiệp ở một số n-
ước Châu Á và kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam. Đánh giá thực trạng phát
triển khu công nghiệp, khu chế xuất của Việt Nam, những khó khăn và giải
pháp phát triển khu công nghiệp trong thời gian tới có các bài nghiên cứu
chuyên sâu như “Thực trạng của các khu công nghiệp, khu chế xuất hiện nay”
(Nguyễn Sinh Cúc); “Thực trạng các khu công nghiệp và khu chế xuất ở nước
ta” (Lan Hương)’ “Khu chế xuất, khu công nghiệp ở Việt Nam: thực trạng và
giải pháp” (Bạch Minh Huyền); “Phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất ở
Việt Nam” (Đỗ Thị Thuỷ)… đăng trên các tạp chí chuyên ngành. Trong số
những bài viết nói về mô hình quản lý khu công nghiệp của Việt Nam, phải
kể tới “Mô hình nào cho xây dựng và phát triển khu công nghiệp” của tác giả
Đan Đức Hiệp. Bài viết này cho thấy thực trạng và những nguyên nhân khác
nhau dẫn đến việc diện tích đất cho thuê trong các khu công nghiệp còn ít ỏi,
các mô hình khu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay, những nhược điểm của
- 3 -
các mô hình này. Ngoài ra, trong bài “Mấy vấn đề về khu chế xuất và khu
công nghiệp Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Huy Thám cũng nêu lên
những điều kiện cần thiết để hình thành một khu công nghiệp, thực trạng hoạt
động của các khu công nghiệp Việt Nam và những vấn đề cần quan tâm trong
thời gian tới.
Ngoài những tác phẩm và bài viết mang tính chất chuyên sâu, có rất
nhiều các bài báo, bài thông tin đăng trên Thời báo kinh tế Việt Nam, Báo
Đầu tư, Thời báo kinh tế Sài Gòn nói về thực trạng hoạt động của các khu
công nghiệp, khả năng lấp đầy các khu công nghiệp, những khó khăn mà các
doanh nghiệp trong khu công nghiệp đang vấp phải, những mâu thuẫn chính
sách của chính phủ, những yếu kém của cơ chế quản lý các khu công nghiệp,

hiệu quả và những tồn tại của từng khu công nghiệp tại các tỉnh thành trên
mọi miền đất nước như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đồng
Nai, Bình Dương, Hà Tây, Đà Nẵng, Quảng Nam
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu chuyên sâu và những bài báo đều
đi vào một hoặc một số những khía cạnh của hiệu quả hoạt động các khu công
nghiệp, những khó khăn trong công tác quản lý, những vấn đề chưa thực hiện
được trong các khu công nghiệp. Cũng có nhiều những nghiên cứu tổng quan
về thực trạng và giải pháp phát triển các khu công nghiệp ở Việt Nam, nhưng
nhìn chung những bài viết từ trước đến nay đều đi vào những nghiên cứu cụ
thể: một khu công nghiệp, một địa phương, một lĩnh vực đóng góp, một vấn
đề khó khăn…còn việc nghiên cứu một cách toàn diện những vấn đề của khu
công nghiệp thì chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập. Chính vì lý do đó,
đề tài “Phát triển khu công nghiệp ở Việt Nam: thực trạng và giải pháp” hy
vọng sẽ có những đánh giá đầy đủ, toàn diện và cập nhật nhất về thực trạng
hoạt động, những tồn tại và khó khăn trong các khu công nghiệp và những
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu công nghiệp ở Việt
Nam.
- 4 -
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu tình hình hoạt động của các khu công
nghiệp ở Việt Nam kể từ năm 1991 đến nay, nhằm đánh giá những thành tựu,
những mặt hạn chế, những vấn đề tồn tại của khu công nghiệp đối với quá
trình phát triển kinh tế, qua đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động của các khu công nghiệp ở Việt Nam trong thời gian tới.
Với mục đích nghiên cứu trên, luận văn tập trung vào việc thực hiện
những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Xem xét quá trình hình thành và vai trò của các khu công nghiệp trong
quá trình đổi mới và phát triển kinh tế ở Việt Nam.
- Đánh giá những đóng góp và nêu lên những tồn tại, khó khăn và

nguyên nhân dẫn đến những khó khăn đó của các khu công nghiệp đối với
chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế của
Việt Nam trong thời gian qua.
- Một số biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu công
nghiệp ở Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các Khu công nghiệp của Việt
Nam
Luận văn tập trung nghiên cứu tổng quan những vấn đề cơ bản về khu
công nghiệp bao gồm các khía cạnh cơ bản như khái niệm, cách phân loại,
đặc trưng của mỗi loại hình khu công nghiệp, cơ chế hoạt động , tác động của
khu công nghiệp đối với phát triển kinh tế. Từ những vấn đề trên, luận văn sẽ
đi sâu vào phân tích những bất cập của khu công nghiệp trong quá trình phát
triển kinh tế hiện nay ở Việt Nam và đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt
động trong thời gian tới.
- 5 -
Về thời gian, luận văn tập trung vào thời kỳ thực hiện chính sách “đổi
mới” kinh tế sau Đại Hội Đảng lần thứ VI, đặc biệt là kể từ năm 1991 và sau
khi hình thành Quy chế khu công nghiệp và khu chế xuất ở Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử đồng thời sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích
kết hợp với các biểu bảng, số liệu thống kê. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng
phương pháp phân kỳ kết hợp với phương pháp đồng quy, phương pháp so
sánh để làm sáng tỏ nội dung và mục đích của luận văn.
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn
Luận văn hy vọng có những đóng góp cơ bản sau:
- Đánh giá một cách toàn diện nhất những vấn đề tồn tại trong các khu
công nghiệp liên quan đến việc hình thành các văn bản chính sách về khu
công nghiệp, quá trình hoạt động của các khu công nghiệp hiện nay.

- Đề ra các giải pháp kịp thời , toàn diện nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động của khu công nghiệp ở Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế.
7. Bố cục của luận văn: gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc phát triển khu
công nghiệp
Chương 2: Thực trạng phát triển các khu công nghiệp ở Việt Nam.
Chương 3: Quan điểm, định hướng và giải pháp phát triển các khu công
nghiệp ở Việt Nam.








- 6 -








CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG
VIỆC PHÁT TRIỂN KHU CÔNG NGHIỆP

1.1.Một số vấn đề lý luận về phát triển Khu công nghiệp

1.1.1.Khái niệm, cách phân loại, đặc điểm Khu công nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm:
Thuật ngữ khu công nghiệp (KCN), khu chế xuất (KCX) trên thế giới
được hiểu theo rất nhiều quan điểm khác nhau. Theo quan điểm của Tổ chức
công nghiệp Liên Hợp Quốc (UNIDO) trong tài liệu “KCX tại các nước đang
phát triển” (Export Processing Zone in Developing Countries) công bố năm
1990 thì “KCX là khu vực tương đối nhỏ phân cách về mặt địa lý trong một
quốc gia nhằm mục tiêu thu hút đầu tư vào các ngành công nghiệp hướng về
xuất khẩu bằng cách cung cấp cho các ngành công nghiệp này những điều
kiện về đầu tư và mậu dịch thuận lợi đặc biệt so với phần lãnh thổ còn lại của
nước chủ nhà. Trong đó đặc biệt là KCX cho phép nhập khẩu hàng hoá dùng
cho sản xuất để xuất khẩu miễn thuế”[2].
Theo quan điểm của Hiệp hội KCX thế giới (World Export Processing
Zone Association – WEPZA) “KCX không chỉ bao gồm khu vực công nghiệp
chuyên môn hoá sản xuất xuất khẩu như trên mà còn bao gồm cả những khu
- 7 -
vực được chính phủ cho phép như khu cảng tự do, khu tự do thuế quan, khu
mậu dịch tự do, khu quá cảng ”[2]. Như vậy theo khái niệm này, KCX đã
được hiểu theo nghĩa rộng hơn bao gồm tất cả các khu vực được chính phủ
cho phép như cảng tự do, khu mậu dịch tự do, khu phi thuế quan, KCN tự do,
khu ngoại thương tự do Cũng từ quan điểm này, do nhu cầu phát triển của
các mối quan hệ thương mại và đầu tư quốc tế ngày càng được mở rộng cũng
như xuất phát từ yêu cầu bức thiết của quá trình công nghiệp hoá hướng về
xuất khẩu của các nước đang phát triển, khái niệm này đã được bổ sung bằng
những quan niệm mới và những đặc điểm mới như khu kinh tế mở, thành phố
mở, đặc khu kinh tế Những quan điểm trên mặc dù có những điểm khác
nhau về KCX, KCN, nhưng về cơ bản chúng thống nhất ở những đặc trưng
sau đây:
+ Là bộ phận không thể tách rời của một quốc gia, thường là những khu
vực địa lý riêng biệt thích hợp, với hàng rào giới hạn với các vùng lãnh thổ

còn lại của nước sở tại và được chính phủ nước đó cho phép hoặc rút phép
xây dựng và phát triển.
+ Là nợi hội tụ và thích ứng lẫn nhau về lợi ích và một số mục tiêu xác
định giữa các chủ đầu tư và nước chủ nhà. Vì thế, chúng là nơi có môi trường
kinh doanh đặc biệt phù hợp, được hưởng những quy chế tự do và các chính
sách ưu đãi kinh tế (đặc biệt là thuế quan) so với các vùng khác ở nội địa.
Chúng thường có vị trí thuận lợi cho phát triển sản xuất, thương mại, dịch vụ,
đầu tư trên cơ sở các chính sách ưu đãi về cơ sở hạ tầng, cơ chế pháp lý, thủ
tục hải quan, chính sách tài chính, tiền tệ, đơn giản hoá thủ tục hành chính
+ Là nơi hội tụ mục tiêu hàng đầu về ưu tiên chính sách hướng ngoại,
thu hút chủ yếu vốn đầu tư nước ngoài để phát triển các loại hình kinh doanh
phục vụ xuất khẩu. Đây là một địa bàn tự do thu nhỏ về chính sách kinh tế –
xã hội mở cửa của nước chủ nhà.
- 8 -
Căn cứ vào những khái niệm chung của thế giới và những đặc trưng
chung nhất của các KCN, KCX như trên, phát triển các KCN ở Việt Nam
được đánh giá là nhằm mục đích đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo
ra tiền đề vững chắc cho sự phát triển của lực lượng sản xuất trong xu thế hội
nhập kinh tế quốc tế. Theo Nghị định 192/CP ngày 25 tháng 12 năm 1994 của
chính phủ về Quy chế KCN, các KCN được định nghĩa là “các khu vực công
nghiệp tập trung, được thành lập do quyết định của Chính phủ với các ranh
giới được xác định, cung ứng các dịch vụ hỗ trợ sản xuất và không có dân cư”
. Còn trong Điều 2 Nghị định 36/CP ngày 24 tháng 4 năm 1997 của chính phủ
ban hành về Quy chế KCN, KCX, khu công nghệ cao có đưa ra khái niệm đầy
đủ hơn về KCN và có giải thích một số thuật ngữ sau đây:
- KCN là khu tập trung các doanh nghiệp KCN chuyên sản xuất hàng
công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới
địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do Chính phủ hoặc Thủ tướng
Chính phủ quyết định thành lập. Trong KCN có thể có doanh nghiệp chế xuất.
- KCX là KCN tập trung các doanh nghiệp chế xuất chuyên sản xuất

hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt
động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do
Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập.
- Khu công nghệ cao là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp kỹ
thuật cao và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao gồm
nghiên cứu – triển khai khoa học công nghệ, đào tạo và các dịch vụ liên quan,
có ranh giới xác định, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định
thành lập. Trong khu công nghệ cao có thể có doanh nghiệp chế xuất.
- Doanh nghiệp chế xuất là doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất
khẩu, thực hiện các dịch vụ chuyên cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động
xuất khẩu được thành lập và hoạt động theo Quy chế này.
- 9 -
- Doanh nghiệp KCN là doanh nghiệp được thành lập và hoạt động trong
KCN, gồm doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp dịch vụ.
- Doanh nghiệp sản xuất KCN là doanh nghiệp sản xuất hàng công
nghiệp được thành lập và hoạt động trong KCN.
- Doanh nghiệp dịch vụ KCN là doanh nghiệp được thành lập và hoạt
động trong KCN, thực hiện dịch vụ các công trình kết cấu hạ tầng KCN, dịch
vụ sản xuất công nghiệp.
Từ những thuật ngữ trên đây, có thể đi đến một khái niệm chung nhất và
mang tính toàn diện nhất là: KCN ở Việt Nam là nơi tập trung các doanh
nghiệp sản xuất hàng hoá công nghiệp, có thể dùng để phục vụ cho thị trường
trong nước hoặc có thể phục vụ cả mục tiêu xuất khẩu. Khu công nghiệp là
nơi có ranh giới địa lý riêng biệt, không có dân cư sinh sống, do Chính phủ
hoặc thủ tướng Chính phủ thành lập và được hướng những ưu đãi đặc biệt về
sản xuất, xuất khẩu hàng hoá, cơ sở hạ tầng, huy động lực lượng lao động ở
Việt Nam, KCN thường được gọi theo một tên gọi khác, đó là: KCN tập trung,
nó hàm ý bao gồm cả các KCN, KCX và Khu công nghệ cao.
1.1.1.2. Cách phân loại
Theo khái niệm trên, có thể thấy tính đặc thù cũng như đa dạng trong

cách phân loại KCN. Nói một cách tổng quát, có thể chia KCN thành hai loại:
KCN tổng hợp và KCX.
KCX thường mang đặc tính: được tự do và không hạn chế số lượng nhập
khẩu nguyên liệu, vật liệu. Các công ty thuộc KCX không phải nộp thuế
doanh thu, thuế xuất nhập khẩu. Mặt khác, các công ty này sẽ được hưởng các
ưu đãi khác khi nhập khẩu nguyên liệu, vật liệu từ thị trường nội địa. Tuy
nhiên, sản phẩm của KCX chỉ bán ở thị trường nước ngoài, trừ trường hợp đối
tác nước ngoài từ chối mới được bán ở thị trường nội địa. Các công ty trong
KCX thường được miễn thuế thu nhập, thuế lãi cổ phần trong thời hạn từ 3-10
năm; được hưởng các chế độ hải quan ưu đãi trong các thủ tục giấy phép xuất
- 10 -
nhập khẩu, được tự do chuyển lợi nhuận về nước, được quyền quyết định
nhận sự từ kiểm soát, quản lý đến điều hành công ty. Tuy nhiên, KCX cũng
tồn tại một số hạn chế do vị trí của chúng là một khu đất tự nhiên đặc biệt,
gặp nhiều khó khăn trong điều hành khuyến mại, phát triển dịch vụ có đủ sức
hấp dẫn các nhà đầu tư. Hơn nữa, nếu sai lầm trong khi chọn vị trí thì việc
phát triển KCX khó có thể thành công. Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới
(WB), tỷ lệ thành công của các KCX trên thế giới chiếm khoảng 40%, 30%
khác thành công ở từng mặt, còn lại là thất bại.
KCN khác KCX ở những khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, KCX xây dựng để thu hút các đơn vị sản xuất xuất khẩu, còn
KCN mở ra cho tất cả các ngành công nghiệp, kể cả phục vụ thị trường xuất
khẩu lẫn phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong thị trường nội địa.
Thứ hai, KCN không chỉ cho phép các công ty có vốn đầu tư nước ngoài
mà còn cho phép các công ty 100% vốn đầu tư trong nước được hoạt động
sản xuất kinh doanh. Trái lại, KCX chỉ cho phép các công ty có vốn đầu tư
nước ngoài hoạt động.
Thứ ba, các công ty sản xuất kinh doanh trong KCN sẽ được hưởng một
số ưu đãi nhất định như vừa được hưởng các quy chế ưu đãi của KCX vừa
được hưởng các chế độ ưu đãi đối với doanh nghiệp trong nước.

Thứ tư, xét về lợi thế, KCN vừa gắn với mục tiêu xuất khẩu, vừa thực
hiện nâng cao khả năng sản xuất của thị trường nội địa, do vậy nó mang tính
hiệu quả cao hơn KCX. Các lợi thế này thể hiện ở chỗ:
- Tăng khả năng cung cấp nguyên liệu từ thị trường trong nước.
- Tăng khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm ra cả nước ngoài
và thị trường trong nước.
- Tiết kiệm tối đa đất nông nghiệp, đặc biệt là trồng trọt trong việc sử
dụng đất để xây dựng KCN.
- 11 -
- Tăng khả năng sử dụng nguồn lao động có chi phí và tiền lương thấp
hơn trong KCX.
- Gắn liền phát triển công nghiệp với quy hoạch đô thị và phân bố dân
cư.
- Gắn liền phát triển công nghiệp với bảo đảm an ninh quốc phòng
Theo quan điểm của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tại Văn bản số 904/BKH-
ĐT ngày 8 tháng 12 năm 1997 về điều kiện thành lập KCN theo thứ tự ưu
tiên, thì các KCN sẽ được thành lập trên cơ sở sau đây:
1) Các KCN thành lập trên cơ sở các xí nghiệp công nghiệp hiện có
nhằm cải thiện cơ sở hạ tầng, trong đó có việc bảo vệ môi trường;
2) Các KCN thành lập để giải toả các xí nghiệp công nghiệp đơn lẻ trong
nội thành nhằm chỉnh trang lại các đô thị lớn, chống ô nhiễm môi trường;
3) Các KCN được hình thành nhằm thu hút các doanh nghiệp công
nghiệp quy mô nhỏ và vừa gắn liền với chế biến nguồn nguyên liệu nông lâm
thuỷ sản phục vụ cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế;
4) Việc đề nghị thành lập các KCN mới quy mô lớn hiện đại cần được
cân nhắc kỹ, ngoài việc đáp ứng được các điều kiện nói trên, các tỉnh đã có
nhiều KCN loại này cần làm rõ việc thực hiện thu hút đầu tư, khi đã cho thuê
được ít nhất 50% diện tích KCN cũ thì mới thành lập KCN mới.
Như vậy là theo quy định trên, việc phân loại các KCN được tiếp cận
dưới những góc độ rất khác nhau:

+ Căn cứ vào trình độ chuyên môn hoá: có một số KCN được hình thành
trên cơ sở các doanh nghiệp chuyên môn hoá, sử dụng một loại nguyên, nhiên
liệu cơ bản để sản xuất một số loại sản phẩm (than, điện, thép ). Có KCN
được hình thành trên cơ sở liên hợp sản xuất để đạt hiệu quả cao hơn. Ví dụ
như khu luyện kim kết hợp với khai thác, cơ khí, hoá chất
+ Căn cứ về mặt địa lý: sự hình thành và phát triển các KCN ở Việt Nam
nằm trên những khu vực địa lý nhất định phù hợp với đặc điểm tự nhiên kinh
- 12 -
tế, xã hội và an ninh quốc phòng. Thông thường đây là những khu vực rất
thuận lợi về kết cấu hạ tầng, sân bay, bến cảng và hệ thống đường bộ.
+ Căn cứ vào quy mô: tuỳ thuộc vào thị trường, khả năng về đất đai, vị
trí, sự hấp dẫn của các nhà đầu tư trong và ngoài nước mà xây dựng các KCN
có quy mô khác nhau, có KCN dành cho các doanh nghiệp lớn hiện đại, có
KCN dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Có những KCN việc xây dựng
và kinh doanh cơ sở hạ tầng là do doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài,
nhưng cũng có KCN doanh nghiệp nhà nước đầu tư kinh doanh, hoặc doanh
nghiệp cổ phần đầu tư hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn đầu tư
+ Căn cứ về mặt công nghệ: có KCN được tập trung phần lớn các doanh
nghiệp có trình độ công nghệ cao tạo ra sản phẩm xuất khẩu, có KCN trình độ
trung bình có sản phẩm xuất khẩu, có sản phẩm tiêu dùng trong nước.
+ Căn cứ vào tính độc lập hay phụ thuộc: phần lớn các KCN gắn với địa
bàn trọng điểm, vùng kinh tế và cả nước, song cũng có KCN độc lập tách biệt
vì lý do an ninh quốc phòng.

1.1.1.3. Đặc điểm
Thông thường, các KCN có những đặc điểm sau đây:
- Là khu vực tập trung các doanh nghiệp công nghiệp trong một khu vực
có ranh giới xác định, sử dụng chung kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã
hội. Thông thường, cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội là do chính quyền địa
phương hoặc các công ty phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật KCN đầu tư xây

dựng thông qua nguồn vốn ngân sách nhà nước, vốn đầu tư doanh nghiệp tư
nhân trong nước, vốn đầu tư nước ngoài Vì vậy các doanh nghiệp trong
KCN có điều kiện tiết kiệm tối đa chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm.
- Các doanh nghiệp trong KCN được hưởng một số quy chế riêng của
nhà nước và của địa phương sở tại. Quy chế này được chính phủ mỗi nước đề
ra sao cho phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nước đó.
- 13 -
Thông thường, nhà nước chỉ quy định những ngành và doanh nghiệp loại nào
được khuyến khích phát triển và loại nào không được đặt trong KCN do yêu
cầu bảo vệ môi trường và an ninh quốc phòng. Ở nhiều địa phương, tuỳ theo
mục đích phát triển KCN (chẳng hạn như mục đích phát triển khu công
nghiệp sản xuất hàng dệt may, ô tô, khu công nghiệp để di dời các nhà máy
gây ô nhiễm trong nội thị ), các quy chế riêng cũng được đặt ra, nhằm
khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư phát triển các ngành ưu tiên đó và hạn
chế, thậm chí ngăn cấm những lĩnh vực sản xuất kinh doanh mà chính phủ
hoặc chính quyền địa phương đó ngăn cấm.
- Khả năng hợp tác sản xuất giữa các doanh nghiệp trong KCN rất thuận
lợi vì nằm trên cùng một tiểu vùng. Các tiểu vùng này thường có điều kiện
thuận lợi về đường xá, cầu cống, điện nước, thông tin liên lạc, sân bay,cầu
cảng, nguồn nguyên liệu, các nhà máy sản xuất linh kiện và nguyên vật liệu,
thậm chí cả ngân hàng, tổ chức tài chính tín dụng Sự phát triển KCN đi theo
thứ tự liên hoàn sản xuất và tiêu thụ trong một tiểu vùng khiến cho các doanh
nghiệp hoạt động trong KCN có đầy đủ những điều kiện thuận lợi để sản xuất
kinh doanh và hợp tác với nhau cùng phát triển.
- KCN có Ban quản lý chung thống nhất, thực hiện quy chế quản lý thích
hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả. Theo
Quy chế KCN năm 1997, Ban quản lý KCN cấp tỉnh (trừ trường hợp có quy
định riêng cho từng loại Ban quản lý) là cơ quan quản lý trực tiếp các KCN,
KCX trong phạm vi địa lý hành chính của một tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương hoặc Ban quản lý KCN trên địa bàn liên tỉnh hoặc Ban quản lý

một KCN (trường hợp cá biệt) hoặc Ban quản lý khu công nghệ cao; do Thủ
tướng Chính phủ quyết định thành lập.
Với những đặc điểm trên đây có thể thấy về thực chất “KCN là một khu
vực kinh tế đặc biệt được thành lập với mục đích để thu hút vốn đầu tư trong
và ngoài nước, áp dụng công nghệ mới, nâng cao khả năng cạnh tranh của
- 14 -
sản phẩm, thúc đẩy sự trao đổi hàng hoá trên thị trường nội địa và nước
ngoài, sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư vào các ngành và những vùng
trọng điểm.”
1.1.2. Điều kiện đảm bảo cho sự hình thành và phát triển các Khu
công nghiệp.
Để đảm bảo cho sự thành công của các KCN, các chính phủ nước sở tại
cần phải tuân thủ các điều kiện cơ bản sau đây:
Thứ nhất là phải có kế hoạch phát triển các KCN tốt. Kế hoạch phát
triển KCN bao gồm từ kế hoạch mục tiêu đến kế hoạch khuyếch trương xây
dựng, vận động, quảng cáo thu hút đối tác đầu tư. Các KCN cần phải đặc biệt
chú ý đến những công ty trong nước hoặc ngoài nước có điều kiện thuận lợi
về vốn, đặc biệt cần phải thường xuyên xem xét lại những mục tiêu và chức
năng của KCN trong mối tương quan với những biến động của thị trường
trong nước và quốc tế để có những đối sách thích ứng kịp thời. Những mục
tiêu của các KCN phải được lựa chọn thận trọng, có giới hạn và nâng cao đầu
tư theo thời gian. Trong kế hoạch xây dựng KCN cũng cần phải xác định
đúng địa điểm, thời gian khai trương nhằm không chỉ giảm chi phí xây dựng
cơ sở hạ tầng mà còn nhằm chớp lấy những cơ hội phát triển trong bối cảnh
phức tạp của thị trường trong và ngoài nước. Hơn nữa việc thực hiện các
KCN cũng cần tuân thủ nguyên tắc xây dựng theo từng giai đoạn, tránh lãng
phí, chậm trễ. Các nhà xưởng cho thuê cũng như các điều kiện kèm theo phải
phù hợp với nhu cầu và mục tiêu phát triển KCN.
- Những yêu cầu khắt khe về mục tiêu khi hình thành và thu hút các
doanh nghiệp hoạt động trong KCN xuất phát từ lý do mục tiêu phát triển của

các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp nước ngoài thường rất khác
nhau. Đối với các doanh nghiệp nước ngoài, mục tiêu ngắn hạn của họ khi
hoạt động trong các KCN là: tận dụng lao động rẻ và nguồn tài nguyên thiên
nhiên tại chỗ; thông qua KCN để nâng cao khả năng cạnh tranh quốc tế; tận
- 15 -
dụng các ưu đãi thuế quan của nước chủ nhà; tận dụng những khuyến khích
đầu tư đối với nước chủ nhà; Mục tiêu dài hạn của họ là: nhằm chiếm lĩnh thị
trường trong và ngoài nước. Mục tiêu của các doanh nghiệp trong nước khi
hoạt động trong KCN là: Mục tiêu ngắn hạn là nhằm sản xuất nhiều hàng hoá
với những ưu đãi dành riêng cho doanh nghiệp KCN để mở rộng xuất khẩu và
tiêu thụ sản phẩm trên thị trường nội địa; thu hút vốn đầu tư nước ngoài; tạo
công ăn việc làm Mục tiêu dài hạn gồm: tiếp thu và áp dụng công nghệ tiên
tiến và hiện đại; tạo mối liên kết ảnh hưởng giữa nền kinh tế trong nước với
khu vực và quốc tế.
- Những yêu cầu về việc khuyếch trương và lựa chọn đối tác đầu tư trong
KCN cần tuân thủ theo các biện pháp sau đây:
+ Cần tìm kiếm nguồn vốn đầu tư xây dựng KCN (vốn đầu tư cơ bản ban
đầu) một cách hiệu quả. Thông thường các nguồn vốn này chủ yếu dựa vào
ngân sách nhà nước và các khoản vay dài hạn của các tổ chức ngân hàng
quốc tế. Bên cạnh đó, nguồn vốn đầu tư cho việc xây dựng KCN có thể được
khai thác thông qua các biện pháp như bán, cho thuê, phí quản lý hành chính,
phí sử dụng mặt bằng, phí kinh doanh và tiêu dùng trong các KCN.
+ Chuẩn bị các tài liệu, thông tin đầy đủ, chính xác về KCN. Các tài liệu
này cần được công bố thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, thông
qua hội thảo, triển lãm hội chợ nhằm giới thiệu cho các đối tác tham gia đầu
tư vào KCN để họ có thể nắm rõ cơ cấu tổ chức, mục tiêu và triển vọng đầu
tư.
+ Tổ chức đi khảo sát thực tế trong và ngoài nước để học hỏi kinh
nghiệm, tìm kiếm cơ hội, khả năng đầu tư của các đối tác có tiềm năng.
+ Cần thực hiện các biện pháp phân loại, lựa chọn đúng các đối tác đầu

tư có tiềm năng và khả năng thích ứng trước khi tham gia kinh doanh ở các
KCN, nhằm tránh nguy cơ rủi ro trong quá trình đầu tư cũng như tăng cường
khả năng thu hồi vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
- 16 -
- Việc lựa chọn địa điểm và quy mô hoạt động của KCN phải tuân theo
những yêu cầu sau đây:
+ Nguyên tắc tối ưu để xây dựng KCN là phải ở gần sân bay, bến cảng,
các trục lộ giao thông chính. Trong các yếu tố này, vị trí của các cảng biển là
quan trọng nhất nhằm giảm mạnh giá thành của các hàng hoá nguyên liệu
xuất nhập khẩu, tạo ra lợi thế cạnh tranh. Ngoài ra, các cầu cảng, sân bay, trục
giao thông phải nằm trên địa điểm thuận lợi nối liền đến các trung tâm dân cư
và kinh tế quan trọng của đất nước nhằm dễ dàng thu hút lao động tới làm
việc và giảm được chi phí vận chuyển, ăn ở của công nhân.
Ngoài ra, việc lựa chọn địa điểm xây dựng KCN còn do tính đặc thù
riêng của mỗi KCN quyết định. Có những KCN thành lập là do có điều kiện
thuận lợi về địa lý như gần cửa khẩu, gần các trung tâm thương mại lớn của
khu vực; nhưng cũng có những KCN thành lập nên chỉ vì mục tiêu an ninh
quốc phòng
Xét về quy mô, có thể linh hoạt tuỳ theo từng vùng lãnh thổ và mục tiêu
phát triển của KCN đó. Những KCN thường có diện tích tương đối lớn từ 10
ha đến 500 ha.
Thứ hai, tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, dịch vụ. Để đảm
bảo sự thành công cho các KCN, một mặt phải mạnh dạn đầu tư cơ sở hạ
tầng, dịch vụ cho việc triển khai các hoạt động kinh doanh và sinh hoạt của
khu, mặt khác phải giữ sao cho những chi phí xây dựng đầu tiên thật cần thiết
và ít tốn kém nhất. Điều này một phần còn tuỳ thuộc vào địa điểm xây dựng
các KCN. Các chi phí xây dựng KCN thông thường bao gồm ba loại: chi phí
triển khai, chi phí tác nghiệp và chi phí giao tiếp.
Chi phí triển khai là các khoản chi phí xây dựng mặt bằng và xây dựng
kết cấu hạ tầng. Các khoản chi phí này bao gồm chi phí đất đai, kết cấu hạ

tầng, các công trình phụ trợ, mua sắm thiết bị máy móc, vận tải và các khoản
chi phí tạm ứng sản xuất Nhìn chung các khoản chi phí triển khai ban đầu
- 17 -
thường là rất lớn nên phần lớn nó được huy động qua ngân sách nhà nước
hoặc qua vay nợ nước ngoài.
Chi phí tác nghiệp bao gồm các khoản chi như tiền lương, phụ cấp lương
cho nhân viên, công nhân trong các KCN, chi phí sửa chữa, chi phí các
phương tiện công cộng Phần lớn các chi phí này được áp dụng theo nhiều
cách khác nhau. Có thể nhà nước cho vay tạm ứng, có thể buộc công ty phải
trả trước trong thời hạn nào đó, hoặc buộc công ty phải trích tỷ lệ thu được từ
doanh số bán hàng.
Chi phí gián tiếp là các khoản chi liên quan đến thuế, bao gồm trợ cấp
thuế ưu đãi, trợ cấp khấu hao vận chuyển, sử dụng nguyên vật liệu trong
nước.
Các khoản chi phí trên cần phải tính toán kỹ lưỡng, có khoa học nhằm
đem lại hiệu quả cao nhất cho KCN ngay từ giai đoạn đầu mới đi vào hoạt
động.
Thứ ba, xây dựng môi trường đầu tư tốt. Một môi trường đầu tư có sức
hấp dẫn mạnh các nhà đầu tư là một nhân tố hết sức quan trọng để làm sống
động một KCN vừa xây dựng. Tuy nhiên, mục tiêu đặt ra cho KCN như thế
nào thì chính sách và biện pháp ưu đãi phải giới hạn vào các mục tiêu đó.
Mục tiêu có giới hạn thì chính sách và biện pháp ưu đãi đầu tư cũng mới được
giới hạn. Ngược lại, mục tiêu có nhiều tham vọng thì đòi hỏi các ưu đãi càng
rộng hơn. Những ưu đãi thường có trong các KCN là: khuyến khích tài chính
và thuế thu nhập công ty; trợ cấp xuất khẩu; trợ cấp khấu hao nhanh tư liệu
sản xuất; trợ cấp lãi suất vay vốn tín dụng; trợ cấp một phần chi phí tài sản cố
định và đào tạo công nhân; trợ cấp thuế giá trị gia tăng (VAT)
Vấn đề cần quan tâm đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước hiện
nay là sức hấp dẫn của KCN không chỉ là giá nhân công rẻ, tài nguyên tại
chỗ, mức thuế ưu đãi, mà họ ngày càng tập trung vào những khía cạnh chất

lượng khác như:
- 18 -
- Môi trường kinh tế vĩ mô ổn định trong đó hệ thống pháp luật, cơ sở tài
chính, chế độ tỷ giá hối đoái lành mạnh.
- Cơ sở hạ tầng hiện đại.
- Giảm bớt những khác biệt về phong tục tập quán, điều kiện xã hội.
- Trình độ giáo dục, chất lượng nguồn lao động và luật lệ lao động phải
đáp ứng yêu cầu đặt ra.
- Bộ máy quản lý nhà nước phải đơn giản, hiệu quả, trong sạch.
- Khả năng thu hồi vốn và lợi nhuận cao.
Thứ tư, về cơ chế vận hành trong các KCN . Các KCN phải được vận
hành như một tổ chức kinh doanh gọn nhẹ, đủ năng lực và quyền lực để có thể
đưa ra được các quyết sách kịp thời. Điều này là rất cần thiết, bởi trong cơ chế
thị trường hiện nay ở Việt Nam, KCN được coi như một mô hình thí điểm của
chương trình cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa” nhằm đơn giản hoá
các thủ tục hành chính, tiết kiệm được thời gian, tránh lãng phí tiền bạc cho cả
nhà nước và doanh nghiệp trong KCN, từ đó nhân rộng ra các vùng ngoại vi
KCN. Một cơ chế quản lý gọn nhẹ, linh hoạt sẽ đem lại hiệu quả lao động cao
hơn, góp phần làm tăng năng suất cho các doanh nghiệp. Hơn nữa, cải cách
cơ chế quản lý trong KCN phải đi đôi với việc trao quyền lực lớn hơn cho các
KCN, cụ thể là cho Ban quản lý các KCN, nhằm phát huy hết khả năng, thế
mạnh của từng KCN. Mô hình KCN Bình Dương, Đồng Nai là một ví dụ điển
hình. Với phương châm hãy trao cho tôi một cơ chế, tôi sẽ tự quyết định, các
KCN này đang được đánh giá hoạt động có hiệu quả nhất ở Việt Nam, thu hút
được nhiều vốn đầu tư và có những đóng góp rất lớn trong việc tạo việc làm,
thúc đẩy xuất khẩu, đóng góp ngân sách, cải thiện đời sống kinh tế xã hội cho
người dân trong tỉnh Bên cạnh đó, để có thể đưa cơ chế quản lý gọn nhẹ,
thẩm quyền quyết định của Ban quản lý KCN đi đến hiệu quả, chính quyền
tỉnh hoặc địa phương cũng cần phải thiết lập được một cơ chế kiểm tra tình
- 19 -

hình thực hiện thường xuyên của các KCN để có những biện pháp, chính sách
điều chỉnh thích ứng.
Thứ năm, có sự liên kết kinh tế giữa các KCN với nền kinh tế. Cần phải
đẩy mạnh liên kết kinh tế giữa KCN với nền kinh tế trong nước thông qua chế
độ gia công, cung cấp hàng hoá, dịch vụ có chất lượng và giả cả có thể cạnh
tranh được từ phía các doanh nghiệp ngoài KCN cho các doanh nghiệp trong
KCN. Đồng thời phải có những chính sách khuyến khích linh hoạt giữa việc
cho phép các doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm của mình trên thị trường nội địa
hay xuất khẩu hàng hoá. Để làm được điều đó, cần phải có sự phối hợp hiệu
quả và có lợi nhất giữa chính sách khuyến khích xuất khẩu và thu hút đầu tư
nước ngoài với chính sách phát triển thị trường nội địa và khuyến khích đầu
tư trong nước, để tránh tình trạng xa rời mục tiêu phát triển ban đầu của KCN
nói riêng và nền kinh tế nói chung.
1.1.3. Vai trò của Khu công nghiệp đối với quá trình phát triển kinh tế
Việc hình thành và phát triển các KCN là tất yếu kinh tế của nhiều quốc
gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam, nhằm đẩy nhanh quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong
quá trình hội nhập khu vực và thế giới. Trong quá trình thực hiện công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, vai trò quan trọng của KCN thể hiện ở những khía
cạnh cụ thể sau:
Thứ nhất, thu hút đầu tư trong và ngoài nước. KCN là một giải pháp
quan trọng mang tính đột phá nhằm tạo điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư, tiết
kiệm nguồn lực xây dựng cơ sở hạ tầng, cho phép tiếp nhận các thành tựu
khoa học và công nghệ hiện đại của thế giới để vận dụng vào sản xuất, cung
ứng cho nền kinh tế những sản phẩm thay thế nhập khẩu hoặc để xuất khẩu.
Đối với các nước đang phát triển, thực hiện quá trình phân công lao động
quốc tế luôn gặp khó khăn do thiếu vốn, thiếu công nghệ và sử dụng các
nguồn lực sẵn có một cách không hiệu quả. Trong bối cảnh đó, việc thành lập
- 20 -
các KCN chính là thực hiện việc tập trung hoá sản xuất để thực hiện công

nghiệp hóa và hiện đại hoá. Việc phát triển KCN là một giải pháp giúp khắc
phục tình trạng lạc hậu cả về cơ cấu sản xuất và công nghệ, tình trạng đầu tư
dàn trải vốn là điểm yếu của hầu hết các nước đang phát triển. KCN cũng
giúp gom tụ lại các nguồn lực sản xuất, khắc phục được sự không đồng bộ
giữa sản xuất và cơ sở hạ tầng để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế,
từng bước mở rộng mức độ hội nhập khu vực và thế giới.
Việc tiếp nhận những thành tựu khoa học và công nghệ trong các KCN
có một thuận lợi hơn hẳn so với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh phân
tán rải rác, bởi vì trong các KCN nhà đầu tư được hưởng một số quy chế ưu
đãi nhất định, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài sẽ biết rõ được việc họ
cần sản xuất mặt hàng nào, bán ở đâu, sản xuất chúng ra sao trên cơ sở đó
mà có những quyết sách ứng dụng hoặc liên kết ứng dụng những thành tựu
khoa học công nghệ một cách tối ưu. Thực tiễn cho thấy, bằng cách này các
KCN đang tạo ra cho đất nước nhiều sản phẩm xuất khẩu, sản phẩm chất
lượng cao thay thế hàng nhập khẩu, chủ yếu từ nguồn nhân lực và nguyên liệu
tại chỗ, tạo ra thế đứng mới cho nền kinh tế.
Thứ hai, tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. KCN là môi trường tốt để đào tạo nguồn nhân lực phục vụ lâu
dài cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Do áp lực phải sản xuất ra
các mặt hàng đủ tiêu chuẩn xuất khẩu, các nhà đầu tư buộc phải quan tâm đến
việc nâng cao chất lượng đội ngũ những người lao động, nâng cao trình độ
chuyên môn và năng lực thực hành cho những người trực tiếp sản xuất và
quản lý. Vì vậy, các KCN đang là nơi mà ở đó người lao động có cơ hội để
tiếp thu tốt nhất công nghệ sản xuất hiện đại, công nghệ quản trị tiên tiến. ở
đó, họ biết cần phải tự giác tham gia vào quá trình đào tạo và tự đào tạo lại để
luôn luôn thích ứng với yêu cầu phát triển của mỗi doanh nghiệp. Nguồn nhân
- 21 -
lực có trình độ quản lý và tay nghề cao trong các KCN sẽ là động lực góp
phần thực hiện thành công chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thứ ba, khuyến khích xuất khẩu và tạo việc làm. Trong chiến lược công

nghiệp hoá hướng về xuất khẩu mà Việt Nam và các nước trong khu vực đang
theo đuổi, khuyến khích xuất khẩu là một trong những ưu tiên hàng đầu. Với
chức năng chính là sản xuất hàng hoá công nghiệp và một phần phục vụ xuất
khẩu (có một số KCN, chức năng chủ yếu là dành toàn bộ hàng hoá sản xuất
được để xuất khẩu), KCN đang tạo ra một lượng hàng hoá xuất khẩu và tiêu
dùng có giá trị kinh tế cao. Hơn nữa, KCN còn góp phần giải quyết công ăn
việc làm cho một bộ phận không nhỏ những người lao động ở khắp mọi miền
đất nước, đặc biệt là lao động phổ thông ở các vùng nông thôn, vùng sâu,
vùng xa; nâng cao kim ngạch xuất khẩu và thu nhập quốc dân, ổn định đời
sống kinh tế – xã hội. Với mục tiêu tạo công ăn việc làm, KCN thường được
đặt ở những vùng có tiềm năng về lao động để thu hút lực lượng lao động của
địa phương, lao động từ các vùng lân cận, giải quyết hiệu quả nạn thất nghiệp,
nâng cao thu nhập cho người dân, từ đó tạo hiệu ứng lan toả tốt đến đời sống
kinh tế xã hội của khu vực đó và trên toàn đất nước.
Thứ tư, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. KCN góp phần tạo ra
động lực cho quá trình tiếp thu công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phân
công lại lao động trên phạm vi toàn xã hội, phù hợp với xu thế hội nhập và
cạnh tranh quốc tế; tận dụng và khai thác có hiệu quả tiềm năng đất đai,
nguyên liệu và con người, tạo ra thế và lực mới cho nền kinh tế. Việc hình
thành các KCN chính là thực hiện ý tưởng “đi tắt, đón đầu” , tiếp thu nền
khoa học và công nghệ của nhân loại một cách hiệu quả nhất, cũng như tổ
chức chuyên môn hoá sản xuất và phân công lao động thuận lợi nhất. Phân
công lại lao động chính là thực hiện cơ cấu lại nền sản xuất của đất nước,
nhằm khai thác các lợi thế của nền kinh tế để thực hiện trao đổi sản phẩm với
các nước khác. Nó tạo nên một bước nhảy vọt về sản xuất những sản phẩm

×